Những điểm
khác biệt giữa
Tăng và Ni
giữa Nam
giới và Nữ
giới
Tăng chi Bộ kinh phẩm 1ghi rằng:
Sự kiện này không xảy ra một phụ nữ có thể một A La Hán chánh đẳng giác (Phật),
một phụ nữ có thể là một chuyển luân Thánh Vương- Một Đế Thích- một Phạm Thiên
Vương hay một Ma Vương. Sự kiện này có xảy ra: Một đàn ông có thể là một La Hán
chánh đẳng giác, một chuyển luân Thánh Vương, một Phạm Thiên Vương hay một Ma
Vương (đại độc ác)
Các pháp như thế (pháp nhũ như thị) không thể
hỏi tại sao? Vì như không thể hỏi tại sao mặt trời mọc ở phương đông?
Sự khác
biệt về giới bổn:
Giới
bổn Tăng Ni đều có 7 tụ giới. Về số lượng giới điều đều có sai biệt, nên giới
bổn của Tăng có 250 giới trong khi đó giới của Ni gồm 348 giới. Giới bổn được
thiết lập nhằm đem lại lợi ích giải thoát cho người giữ giới, cho Tăng già, và
cho quần chúng để chánh pháp trụ thế lâu
dài. Vì thế, giới điều càng đi vào chi tiết, càng nhiều thì thuận lợi thêm cho
việc giải thoát, cho Ni giới mà không hề có ý nghĩa ràng buộc thêm cho Ni giới
Sự kiện Ni giới nhận lĩnh thêm Bát kỉnh pháp
Bát kỉnh pháp là 8 điều mà Ni giới phải tôn
trọng giữ gìn như là giữ vòng hoa trang điểm cho lịch nhã hơn cho người phụ nữ
Ấn Độ ngày xưa. Đó là:
a. Dù cho Thọ Đại giới 100 năm, một Tỳ kheo ni
đối vơi Tỳ Kheo thọ giới trong một ngày cũng phải đảnh lễ đứng dậy, chắp tay xử
sự đúng pháp.
b. Tỳ kheo ni không thể an cư tại
chỗ nếu không có Tỳ Kheo.
c. Nửa tháng một lần, Tỳ kheo ni
cần phải thỉnh chúng Tỳ Kheo Tăng đến thuyết giới.
d.Sau khi an cư mùa mưa xong, Tỳ
Kheo ni cần phải làm lễ Tự Tứ trước hai Tăng chúng.
e. Tỳ Kheo ni phạm trọng tội phải
làm pháp ý hỷ đến 1/2 tháng
f. Sau thời gian hành các pháp Sa
di ni 2 năm phải xin thọ cục túc giới
trước hai Tăng chúng.
g. Không vì bất cứ lý do gì, Tỳ kheo ni có thể chỉ trích Tỳ Kheo
Tăng.
h. Chỉ có sự giáo giới phê bình giữa các Tỳ
kheo về các Tỳ KheoNi, mà không có sự giáo giới phê bình giữa các Tỳ kheo ni về
các Tỳ Kheo.
Các
điều ở trên chỉ nhằm xác định sự bày tỏ kính trọng chư Tăng của chư Ni, để tạo
một khoảng cách thân mật về tình cảm đễ đưa đến các ngộ nhận nghi ngờ bất lợi
cho giá trị phạm hạnh của Tăng già, tổn hại đến sứ mệnh của Tăng Bảo.
(Điều1,7,8) nhằm chỉ có một giáo hội Tăng già
Thống nhất, mà không phải có một giáo hội Ni độc lập với giáo hội Tăng.
“Bát kỉnh pháp” như thế được thành lập để mở ra hướng xuất
thế cho nữ giới và nhằm bảo vệ giá trị phạm hạnh của đoàn thể
Tăng già vì sự an trụ lâu dài của Chánh
pháp, mà không thể có một ý nghĩa phân
biệt, kỳ thị nào ở đây.
Đức Thế Tôn đã dạy cho Tôn giả
A-Nan rõ lý do tại sao Thế Tôn ràng buộc “Bát kỉnh Pháp” cho Ni giới rằng:
“Này A- Nan, ví như một người vì nghĩ đến
tương lai, xây dựng bờ đê cho một hồ nước lớn để nước không thể chảy qua, cũng
vậy A- Nan vì nghĩ đến tương lai, Ta ban hành “Bát kỉnh pháp” này cho các Tỳ
Kheo Ni, cho đến trọn đời không được vượt qua”.
“Tăng Chi III phẩm 8 pháp”:
Hồ nước ấy là hồ nước phạm hạnh
của Tăng già. Đức Thế Tôn dạy tiếp: “Nếu Tăng già không có mặt Ni chúng thì
phạm hạnh sẽ tồn tại lâu dài, diệu pháp sẽ tồn tại đến 1000 năm, vì có mặt Ni
chúng nên diệu pháp bị rút ngắn 500 năm.
“Tăng chi III phẩm 8 pháp”:
Về ý nghĩa diệu pháp bị rút ngắn đã được Thế
Tôn dạy rằng: Ví như một gia đình có
nhiều phụ nữ và ít đàn ông thì sẽ
bị đạo tặc đánh trộm, cũng thế về trường hợp Tăng già có mặt Ni chúng”.
Tài sản của Tăng già bị đánh trộm
là tài sản phạm hạnh, là tài sản xây dựng tín tâm cho quần chúng đối với Chánh
pháp. Đây là ý nghĩa mà mỗi chúng ta có thể tự hình dung ra, rất dễ nhận diện.
Những nhà nghiên cứu Phật học và quần chúng Phật tử không có lý do gì để nghi
ngờ về “Bát kỉnh pháp” rằng đấy là sự áp đặt lên Ni giới.
Hãy nghĩ rằng: Đức Thế Tôn là đấng Đại Giác đã tận trừ hết
thảy các lậu hoặc thì không có sự thiên vị Tăng giới hay kỳ thị Ni giới xảy ra.
Tôn giả A- Nan và Tôn giả Ưu Ba Ly là các Đệ tử của Thê Tôn đã tận trừ sạch lậu
hoặc trước thời gian kiết tập, không có sự kiện thêm hay bớt, hay tuyên thuyết
sai Phật ý có thể xảy ra.
Nếu nêu lên nghi vấn khác
rằng có
một sự thêm bớt về sau thời kiết tập kinh điển lần thứ ba dưới triều vua
A- Dục, thì điều này cũng không thể xảy ra, bởi vì kiết tập này cũng được chủ trì bởi các đại A- La- Hán những vị đã
tận tường pháp và luật do Đức Phật thuyết.Vấn đề còn lại là do nghi ngờ của
chúng ta khởi lên từ vọng niệm từ các tư duy sai lầm bị chế ngự bởi các ngã ái,
ngã mạn, ngã chấp.
Có
nhiều lý do tương tự đối với Ni giới để chúng ta đi đến một sự ổn định về nhận
thức rằng: Để chấp nhân sự hiện diện của Ni giới trong hàng xuất gia, phạm
hạnh, thì điều kiện tối thiểu cần có là duy trì tôn kính “Bát kỉnh pháp”. Thế
Tôn không thuyết lập “Bát kỉnh pháp” cho đoàn thể nữ cư sĩ với nam cư sĩ.
Đến đây nếu còn chút nghi ngờ nào
về “Bát kỉnh pháp” như là một sự áp đặt, thì chúng ta hãy tiếp tục nghĩ rằng:
Là một Tăng sĩ Phật giáo có học pháp, hiểu pháp và hành pháp thì ý thức rằng
công phu của tự thân là chế ngự ngã si, ngã mạn, ngã ái nên tuyệt nhiên không
hưởng một quyền lợi giải thoát nào qua “Bát kỉnh pháp” và sẽ không bao giờ có
một tự hảnh nào về sự kính trọng mà Ni giới dành cho vị Tăng sĩ ấy cả.
Là một Ni sư có học pháp, hiểu
pháp, hành pháp và cả Tăng hay Phật tử cũng thế, thì ý thức rằng, mình phải
biết ơn cuộc đời này, thiên nhiên cỏ cây này, phải tỏ sự kính trọng đối với tất
cả, huống nữa là đối với Tăng già, đối với Tăng sĩ trẻ. Đây là điều tốt đẹp cần
làm như là một phụ nữ cần trang điểm cho vẻ đẹp của văn hoá phạm hạnh và của cả
văn hoá phương đông.
Nghi ngờ “Bát kỉnh pháp”chỉ là sự
rối loạn của tư duy sẽ dẫn đến sự rối loạn của thái độ sống. Điều này hẳn sẽ
không đem lại an lạc, hạnh phúc cho đám
đông.
** ** **
NSGN
số 15
Nữ
giới và những lời dạy của Đức Phật
Thích
Chơn Thiện (15-10-1997)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét