Lúc bấy
giờ, Bồ Tát Vô Tận Ý lễ Phật bạch rằng: '' Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà Bồ Tát Quán Thế Âm có
tên là Quán Thế Âm?
Phật
bảo: ''vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng
sanh đang bị khổ não mà nghe (nói đến) Bồ Tát Quán Thế Âm rồi ''nhất tâm''
xưng niệm danh hiệu của Bồ Tát, thì Bồ Tát xem thấy tiếng xưng niệm và
tất cả chúng sanh ấy đều được giải thoát khổ não''.
Người
nắm giữ danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế
Âm, thì nhờ oai thần của Bồ Tát mà:
1. Vào
lửa, lửa chẳng cháy.
2. Trôi
dưới nước, đặng vào chỗ cạn
3. Đi
thuyền tìm châu báu trong biển lớn, bị giông trôi tấp vào nước quỷ la sát,
thoát đặng nạn quỷ la sát.
4. Sắp
bị người dùng dao gậy chém đánh thời đao gậy bị gãy từng khúc.
5. Khỏi
bị Dạ Xoa và La Sát làm hại, vì chúng không dám ngó người xưng hiệu Bồ Tát Quán
Thế Âm.
6. Bị
xiềng xích gông cùm, dầu có tội dầu không tội, thời xiềng xích gông cùm ấy thảy
đều đứt rả.
7. Gặp
đường hiểm trở, đặng thoát khỏi và không lòng sợ sệt.
Lại
nữa, chúng sanh nào nhiều dâm dục, nhiều giận hờn, nhiều ngu si, mà thường cung
kính niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thời liền đặng lìa dục, lìa sân, lìa si.
Này
Vô Tận Ý ! Bồ Tát Quán Thế Âm oai thần
mạnh lớn như thế, cho nên chúng sanh
phải một lòng tưởng nhớ.
Người
nữ nào lễ bái, cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm để cầu con trai thời đặng con trai
phước đức trí tuệ, còn muốn cầu con gái thời đặng con gái hình tướng xinh đẹp,
tâm nhiều cội phước, mọi người kính mến.
Phước
đức cung kính lễ bái Quán Thế Âm không bao giờ mất và nhiều như phước đức của
người niệm danh hiệu và cúng dường sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ Tát.
Vô Tận
Ý bạch: '' Thế Tôn! Bồ Tát Quán Thế Âm làm thế nào mà dạo khắp Ta Bà? Sức mạnh phương tiện của Bồ Tát như thế nào?
''
Phật
bảo: '' nếu có chúng sanh quốc độ nào mà
cần phải dùng một thân Phật mới độ thoát họ được, thời Bồ Tát Quán Thế Âm liền
hiện thân Phật mà thuyết pháp cho họ nghe. Nếu phải cần thân Duyên Giác, thân
Thanh văn, thân Phạm Vương, thân Đế Thích, thân Tự Tại Thiên, thân Đại Tự Tại
thiên, thân Thiên Đại Tướng Quân, thân Tỳ Sa Môn, thân Tiểu Vương, thân Trưởng
giả, thân Cư sĩ, thân Tể Quan, thân Bà La Môn, thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu Bà
Tắc, Ưu Bà Di, thân của vợ Trưởng giả, Cư sĩ, Tể Quan, Bà la Môn, thân con
trai, con gái, thậm chí đến thân Trời Rồng, Dạ xoa, Càn Thát bà, A Tu La, Ca
Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, thân loài người cùng không phải loài người để
độ thoát chúng sanh của một quốc độ nào đó thì Quán Thế Âm, tuỳ trường hợp mà
hiện thân ấy. Cho đến thân Chấp Kim Cang thần mà vì đó....thuyết pháp.
Vô Tận
Ý, Bồ Tát Quán Thế Âm thành tựu công đức như thế, dùng các thứ thân hình, dạo cùng các nước mà độ thoát
chúng sanh. Vì vậy cho nên các ngươi
phải một lòng ''nhất tâm'' cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát. Đức Quán Thế Âm Bồ
Tát còn được cõi Ta Bà gọi là '' vị bố thí vô uý''. Vì trong hoàn cảnh sợ hãi
tai nạn nguy cấp, Bồ Tát hay ban cho sự vô uý.
Vô Tận
Ý bạch Phật: ''Thế Tôn! con xin cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm'', nói xong liền
mở xâu chuổi ngọc đang đeo nơi cổ, giá trị trăm ngàn lượng vàng, đem dưng cho
Bồ Tát Quán Thế Âm mà nói rằng: ''xin Ngài nhận chuổi trân bảo pháp thí này''.
Bồ Tát Quán Thế Âm không chịu nhận. Vô Tận Ý lại thưa: '' xin Ngài thương xót
chúng tôi mà nhận cho''.
Bấy giờ
Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: '' Ông nên thương xót Vô Tận Ý và hàng tứ chúng
cùng Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la
Dà, loài người và không phải loài người v.v.. mà nhận chuổi ngọc''.
Tức
thời Bồ Tát Quán Thế Âm thương xót hàng tứ chúng, trời, rồng v.v... mà nhận xâu
chuổi ngọc và chia làm hai phần, một phần dâng Đức Phật Thích Ca, một phần dâng
cúng tháp Phật Đa Bảo.
Vô Tận
Ý đọc bài kệ hỏi Phật:
Bạch
Thế Tôn, con xin hỏi lại, vì nhân duyên nào mà phật tử có tên là Quán Thế Âm?
Đức
Phật cũng dùng kệ đáp lại:
Ngươi
đã nghe những hạnh của Quan Âm và sự ứng
hiện ở các nơi của Bồ Tát, ấy là vì Quan Âm đã phát thệ lớn sâu như biển cả và không thể nghĩ bàn được dầu có
trải qua nhiều kiếp, lời thệ ấy là hầu hạ nhiều ngàn ức Đức Phật và đạt đến sự
thanh tịnh tuyệt đối. Hãy nghe đây ta sẽ vì ngươi mà nói sơ lược cho nghe danh hiệu và thấy
thân Quan Âm.
Ai
không phạm cái lỗi trong tâm trống rỗng (Nghĩa là không tưởng nhớ đến Bồ
Tát) thời có khả năng trừ diệt các thứ
khổ não.
Giả sử
có người sinh lòng làm hại xô rớt vào hầm lửa, nhờ sức mạnh của sự tưởng nhớ Quan Âm mà hầm lửa biến thành ao,
hoặc trôi dạt biển cả bị nạn quỷ cá
rồng, nhờ sức tưởng nhớ Quan Âm mà không bị sóng nhận chìm. Hoặc từ chót núi Tu
Di bị người xô rớt xuống, nếu tưởng niệm Quan Âm thời như mặt trời treo giữa hư
không, hoặc bị người dữ rượt đuổi rơi khỏi núi Kim Cang, nhờ sức niệm Quan Âm
mà chẳng mất một mảy lông, hoặc gặp kẻ
thù bao vây, tay cầm dao quyết hại, nhờ sức niệm Quan Âm mà những kẻ thù kia
liền sanh lòng lành. Hoặc gặp nạn phạm phép vua, khi sắp bị hành hình, nhờ sức
niệm Quán Âm, đao chém gãy từng đoạn, hoặc bị xiềng trong tù, tay chân mang
gông cùm, nhờ sức niệm Quan Âm, đương nhiên được giải thoát, hoặc bị trù ếm hay
thuốc độc, nhờ sức niệm Quan Âm mà bùa chú, thuốc độc kia trở lại làm hại người
muốn hại. Hoặc gặp các loài quỷ, nhờ sức niệm Quan Âm, các quỷ không dám hại,
hoặc bị thú dữ bao vây nanh vuốt nhọn
đáng sợ, nhờ sức niệm Quán Âm mà chúng vội vàng bỏ chạy. Khí độc của rắn, bò
cạp dầu có bốc lên như khói lửa, nhờ sức niệm Quan Âm mà theo tiếng niệm bỏ đi,
hoặc cơn sấm sét, mưa to, mưa đá nhờ sức niệm Quán Âm mà tất cả đều tiêu tán.
Chúng
sanh thời bị vô lượng khổ não bức bách thân thể, còn Quán Âm thời trí huệ diệu
huyền cho nên hay cứu thế gian, lại thêm đầy đủ sức thần thông và rộng tu trí
phương tiện, cho nên khắp cõi nước mười phương không nước nào chẳng hiện,và lần
hồi làm cho dứt hết những khổ não sanh, già, bệnh, chết của chúng sanh trong ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ và súc
sanh.
Quan Âm
xem xét đúng với chân thực (chơn
quán) Quan Âm xem xét với lòng trong
sạch (thanh tịnh quán)
Quan Âm xem xét với trí huệ rộng lớn (quảng
đại trí huệ quán) Quan
Âm xem xét với lòng từ bi (bi quán cập từ quán). Vì vậy cần phải hết sức chiêm ngưỡng,
Quan Âm là ánh sáng trong sạch không nhơ, là mặt trời huệ có khả năng phá trừ
mọi hắc ám, hàng phục mọi tai nạn khói lửa và khắp soi sáng thế gian.
Quan
Âm là lòng đại bi ngăn cấm sự sấm sét.
Quan Âm
là đám mây lành che chở do ý đại bi kết thành. Quan Âm rưới mưa pháp cam lồ làm
dứt trừ lửa phiền não. Dầu kiện thưa đến chỗ công đường hay giữa trận chiến dễ
làm sợ sệt, sự tưởng niệm Quan Âm làm cừu oán đều lui tan.
Tiếng
xét thấy khắp thế gian là tiếng diệu huyền, là tiếng của vua cõi trời (phạm âm)
là tiếng của sóng biển, không tiếng thế gian nào bằng, vì vậy phải thường tưởng
nhớ.
Trong
mỗi niệm chớ sanh nghi, Quan Âm là Thánh của thanh tịnh, là nơi nương tựa của
đời khổ não, chết chóc. Đầy đủ mọi công đức, trông chúng sanh với đôi mắt lành,
Quan Thế Âm là biển phước lớn không lường, vì vậy phải nên quỳ lạy.
Bấy giờ
Bồ Tát Trì Địa đứng dậy lễ Phật bạch: ''Thế Tôn! Chúng sanh nào mà nghe được
phẩm Quán Thế Âm này là phẩm nói về đạo nghiệp tự tại và sức thần thông ứng
hiện khắp cõi, thời nên biết công đức của người ấy chẳng phải ít.''
Lúc
Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong đại chúng có tám muôn bốn ngàn chúng sanh đều
phát tâm cầu vô thượng giác.
—]–
Thất nạn, nhị cầu, tam thập nhị
ứng
- Thất nạn là 7 nạn của thế gian: 1/
Lửa 2/ nước 3/ sát hại 4/ đánh chém 5/ vô minh (ma quỷ) 6/ mất tự tại
7/ thù cướp.
- Nhị
cầu: hai sự mong cầu: cầu sinh con trai và cầu
sinh con gái
-Tam thập nhị ứng: là 32 lối ứng hiện thân để độ thoát chúng
sanh.
DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH
Diệu
pháp
là Pháp, Liên Hoa là dụ. Pháp là gì? Tức sơn hà đại địa, y báo chánh báo, thế gian pháp, xuất thế gian pháp, sắc pháp, tâm
pháp v.v... tóm lại không ngoài 3 món là: Phật pháp, Tâm pháp và chúng
sanh pháp. Ba pháp này vốn không sai khác nên gọi là Diệu pháp.
Trong
mỗi người ai cũng có diệu pháp cả, khéo điều phục tâm thì diệu pháp hiển bày,
còn nếu không thì diệu pháp trở thành thô pháp. Vượt tình thức lìa kiến chấp
tức là diệu pháp. Nêú mà chấp có chấp không là rơi vào phàm tình vọng duyên tức
diệu biến thành thô. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Phật tánh tức là Diệu
pháp. Vậy nên mọi người đều có diệu pháp, mọi người đều có thể thành Phật. Sự
tu chứng của ba đời chư Phật là chứng Diệu pháp không sai khác này mà thành
Phật. Chúng sanh mê lầm dùng Diệu pháp không sai khác này rồi quấy khởi phân
biệt tư lương tức diệu mà thành thô, thành khổ não chúng sanh.
Hoặc
gây ba nghiệp- do nghiệp sanh tử như tâm phàm phu chấp trước các tướng nhơn ngã
bởi đó khiến pháp Diệu này thành bất diệu.
Chúng
sanh sẵn đủ Diệu pháp nhưng chẳng tương ưng như vàng còn ở trong mỏ. Vàng ở tại
mỏ và vàng đem ra khỏi mỏ tuy có khác nhau nhưng bản thể nó chẳng hai. Nên kinh
nói càng hết vọng duyên tức như chư Phật, một niệm xoay tâm quang, liền đồng
bản giác sẵn có.
Chúng
sanh chỉ cần buông thả phàm tình, riêng không thánh giải. Nơi các Phật chẳng
thêm, nơi phàm chẳng bớt, ở chúng sanh chẳng dơ, ở các Phật chẳng sạch, tại các
Phật chẳng sanh, tại chúng sanh chẳng diệt, chỉ cần một niệm quay ánh sáng trở
lại thời đương thể bèn là.
Nhưng
hiện tiền vọng tưởng chấp trước đắm nhiễm nên chưa chứng được, chỉ có Diệu pháp
Phật tánh đủ sẵn mà thôi, nên gọi là lý tức Phật. Nếu ta hiểu rõ được tâm tức
Phật trọn đủ diệu pháp thời gọi là danh tự tức Phật.
Nhưng
tuy biết mình sẵn đủ diệu pháp nếu chẳng chơn thật tu hành thời chẳng có thể
thành Phật được, như vàng chẳng gạn lọc tức chưa thành vàng ròng thuần tuý
được. Vậy chúng ta ngay từ bây giờ buông
thả muôn duyên, một mảy tơ chẳng dính nơi lòng, già giặng niệm Phật, yên lặng
nghe kinh, lãnh hội rõ ràng tâm cảnh đều vong, nhất tâm dụng công tu hành như
thế, thôi chưa chứng đến diệu pháp mà đã có thể hàng phục được phiền não gọi là
quán
hạnh tức Phật.
Nếu
niệm Phật, niệm Quán Âm, sáu căn đều nhiếp, tịnh niệm nối luôn, bên trong quên
cả sáu căn, bên ngoài vong hết 6 trần. Trong quên cả thân, ngoài quên cả cảnh.
Xa thoát căn trần, chỉ còn một điểm linh quang sáng rực rỡ. Đây tức là Tự tánh
Quán Âm tương tự xuất hiện. Đấy tức thường gọi là Diệu pháp. Lúc này xem chẳng thấy, ngóng mà chẳng nghe đến
nỗi ăn vẫn không biết mùi vị nữa. Vì đã được vô nhân tướng, vô ngã tướng, tâm
và cảnh đều tiêu vong. Dụng công tu hành đến bực này, 6 căn mới thanh tịnh,
những phiền não do thấy nghe đều rơi rụng hết gọi là tương tự tức Phật.
Tiến lên bực nữa, phá vỡ căn bản
vô minh đích thân chứng Diệu pháp, bên thiền tông gọi là đích thân thấy được bộ
mặt thật bị bỏ quên từ xưa nay. bên tịnh độ tông gọi là lý nhất tâm bất loạn,
bất động tự tánh, chuyển thức thành trí thì đích thân thấy được bổn lai diện
mục chẳng diệu mà diệu, đích thân thấy được tự tánh Quán Âm và còn thấy được
cha mẹ của nhiều đời trước nữa là khác tức chứng được Diệu pháp vậy. Đến địa vị
này có thể phân thân ra trăm cõi để thành Phật độ chúng sanh nên gọi là phần chứng tức Phật.
Tuy đã xác chứng đến diệu pháp Phật tánh
nhưng chưa rốt ráo, cần phải dứt rốt ráo 5 chỗ phiền não an trụ và dứt hai món
sanh tử, kiến tư, trần sa và vô minh. Phiền não này đều dứt rốt ráo thanh tịnh.
Tác nghiệp đã hết, tình thức trống không, mới thật chứng được chơn giải thoát.
Như Đức Thích Ca đã chứng rốt ráo diệu pháp này nên mới gọi là cứu cách tức
Phật.
Gia
đình ông Bàng Long Uẩn gồm có hai vợ chồng một cô con gái và người con trai,
tất cả đều tu hành cả nhưng có ba quan niệm về sự tu như sau:
Ông
Bàng Long Uẩn cho rằng: Dụng công tu hành không phải dễ, chứng được Diệu Pháp
là khó. Cho nên ông nói: Khó, khó, khó. Mười hộc hột mè rãi ngọn cây, không một
hột dính ở lại. Trái lại bà Long Uẩn thì nói: Dễ, dễ, dễ. Trăm đầu ngọn cỏ ý Tổ
sư”ngắt một cộng mà nêu lên đều là Đạo.
Tre
xanh, nước biếc mai vàng đã có người nhân đấy mà ngộ đạo thì việc gì phải than
khó. Tô Đông Pha bảo:
“Tiếng khe róc rách lưỡi rộng dài
Sắc núi xanh biếc thân thanh tịnh
Địa thuỷ hoả phong, căn trần thức giới
Đều là diệu pháp.
Phàm
tình vọng duyên, tánh đó vốn không, tức nói thô là diệu. Không một quyền mưu
nào mà chẳng phải chơn thiệt. Diệu tánh thiên nhiên xưa nay vẫn là vậy. Cho nên
bà nói là dễ.
Cô
con gái Linh Chiếu thì dung hoà cả hai tư tưởng trên cô nói: Cũng chẳng khó,
cũng chẳng dễ. Hễ đói thời ăn mệt ngủ liền”Đi đứng nằm ngồi đều là Diệu Pháp
Ăn
chê ngon dở đấy tức Diệu pháp thành thô pháp, phân biệt như thế phiền não dấy
khởi. Nếu như thể nhất tâm bất loạn bình đẳng mà ăn, chẳng khởi phân biệt
thường gọi trọn ngày ăn cơm mà chẳng có nhai trúng hột gạo nào cả. Vì vô ý thức
tác dụng vậy, cho nên ăn như vậy gọi là ứng cúng gọi là Diệu Pháp Phật sự. Ăn
cơm đã như thế, thời ngủ thức cũng như thế.
Ngủ
và ăn đã như vậy thời tất cả các pháp đều đâu chẳng phải như thế ư! Nên nói
pháp này chẳng phải dùng tâm suy lường phân biệt mà có thể hiểu thấu. Nên gọi
đó là Diệu Pháp. Cho nên ngày xưa Phật Thích Ca phải mất thời gian 8 năm mới
giảng xong hai chữ Diệu pháp. Tổ Thiên Thai Trí giả cũng phải ba tháng tròn mới
đàm luận xong 2 chữ Diệu Đạo. Nếu mở rộng ra để luận bàn thời thuyết ngang,
thuyết dọc, thuyết cho đến cùng kiếp khó mà hết được. Chỉ cần một điều do đích
thân chúng ta chứng kiến may ra mới xong việc.
Hoa sen ví dụ Diệu Pháp
Hoa
trong có hột, ngoài có hoa. Hột là quả, hoa là nhân. Hoa quả cùng sanh ví dụ nhân qủa đồng thời, nghĩa là chẳng lìa bản giác
diệu Tâm. Hoa sen vươn ra khỏi bùn và nước dụ cho không chấp hữu và chấp vô.
Vượt lên trên hữu và vô mà hiển lộ chân lý trung đạo, nghiã là chẳng phải không
chẳng phải hữu.
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN PHẨM
Quán Thế Âm Bồ Tát là nhân, phổ
môn phẩm là pháp. Bởi vì Quán Thế Âm đã chứng được Diệu Pháp môn của Phổ môn.
Quán Thế Âm là người năng chứng, mà Phổ môn là pháp bị người chứng. Đức Quán Âm
không khổ nào không cứu vớt, không cõi nước nào chẳng hiện thân. Trí năng quán
của Bồ tát cùng với cảnh sở quán thế giới chúng sanh duy thị là nhất tâm, nên
gọi Quán Thế Âm. Phải biết Quán Thế Âm Bồ tát có Bổn môn và Tích môn. Kinh
Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi nói: Vị Bồ tát này có sức oai thần bất khả tư nghị,
ở vô lượng kiếp về trước và thành Phật rồi hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Đấy
là Bổn môn, Ngài đã thành Phật mà sao lại thị hiện Bồ Tát? Vì Đại bi nguyện lực
để cứu độ chúng sanh vậy. Đấy là Tích môn. Kinh Quán Âm Tam muội nói: Xưa đã
thành Phật hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai, Phật Thích Ca đã từng ở dưới pháp Toà
sung vào trong đám đệ tử khổ hạnh để mà gần gũi. Ngày nay Đức Thích Ca thị hiện
thành Phật thời Quán Thế Âm Bồ tát trở lại làm đệ tử mà gần gũi lại. Sở dĩ một
Phật ra đời, ngàn Phật phò trì là vậy.
Âm
là âm thanh: Trong 10 pháp giới thế gian có hàng bao nhiêu âm thanh, tiếng tăm,
như tiếng ác, tiếng thiện, hữu lậu, vô lậu, tiếng nhị biên, tiếng trung đạo
v.v... đều là tiếng tăm bị quán. Quán là trí nămg quán, thế gian tức cảnh sở
quán. Như trong phẩm này nói: Nhất tâm xưng niệm danh Quán Thế Âm Bồ Tát tức
thời quán sát tiếng tăm kia đều được giải thoát. Nghĩa là Đức Quán Thế Âm quán
sát tất cả tiếng tăm bị khổ não cầu cứu của 10 cõi thế gian, liền lúc đó khiến
cho lìa khổ não mà được vui, và tiêu tai miễn nạn, nên có danh hiệu là Quán Thế
Âm.
Nhưng
tiếng tăm phải dùng tai mà nghe chứ sao gọi là Quán? Bởi vì 6 căn của Bồ Tát là
viên thông nên có thể dùng thay đổi nhau được, mà bộn phàm phu chúng ta không
phải thế được. Tai ta chỉ nghe tiếng mà không thể xem xét được... nên kinh nói
thấy chẳng vượt khỏi sắc, tai chẳng vượt khỏi tiếng.
Quán
Thế Âm Bồ Tát quán tiếng tăm của 10 pháp giới rồi đến giáo hoá cứu vớt chúng
sanh, không khổ nào chẳng vớt, không nạn nào chẳng cứu nên gọi là Quán Thế Âm.
Thế
gian có 3 khổ, 8 khổ, vô lượng khổ, Bồ Tát quán tiếng tăm trì danh cầu cứu khổ
kia liền được giải thoát. Ngoài ra chúng sanh ở cõi Đồng cư có khổ phân đoạn
sanh tử, Thanh văn, Duyên Giác là nhị thừa, chúng sanh có những khổ trần sa
phiền não và khổ biến dịch sanh tử ở cõi phương tiện hữu dư Bồ Tát cũng cứu
khỏi. Bồ Tát là Đại đạo tâm chúng sanh có những khổ vô minh phiền não và khổ
biến dịch ở cõi thật báo trang nghiêm
một phen xưng danh hiệu của Bồ Tát thời
những khổ phiền não sanh tử của chúng sanh đang ở trong 9 giới 3 cõi đều khiến
thoát ly, đều được thành Phật. Sở dĩ danh hiệu Quán Thế Âm chẳng những phàm phu
nên niệm mà La Hán Bồ Tát cũng cần niệm.
Kinh
Bi Hoa nói: Ngày xưa vô lượng kiếp về trước khi còn là phàm phu, có Đức Phật
Bảo Tạng ra đời. Bấy giờ đệ nhất Thái tử của vua chuyển luân thánh vương thành
tâm cúng dường Phật và tăng thời gian 3 tháng. Rồi Thái Tử bèn ở trước đức Phật
Bảo Tạng phát Bồ Đề Tâm và lập đại thệ nguyện rằng: Nếu có thế giới chúng sanh
bị khổ mà xưng danh hiệu Ta và được thiên nhãn của Ta xem tháy và thiên nhĩ
nghe thấy, nếu kẻ ấy chẳng được cứu thoát. Ta thề chẳng thành Phật. Ngay khi đó
Phật Bảo Tạng khen ngợi lời thệ nguyện cứu khổ và cho vui chúng sanh, và Phật
liền đặt cho pháp danh là Quan Thế Âm. Trong kinh Lăng Nghiêm Bồ Tát nói rằng: “Tôi
tự nhớ lại được, Tôi ở vô lượng kiếp về trước đã từng gần gủi Đức Cổ Phật Quán
Thế Âm và tôi làm đệ tử Phật. Rồi được
đức Phật ấy dạy cho rằng ngươi nên từ nơi nhĩ căn mà bắt đầu tu, rồi do nghe,
suy nghĩ và tu thời ngươi sẽ vào được chánh định. Ban đầu tôi ở trong tánh
nghe, rồi mới vào giòng mà quên nơi chỗ.
Thông
thường nhĩ căn chúng ta hướng ngoại dông rỗi tìm cầu, theo tiếng mà trôi lăn.
Nay chỗ dùng công phu của Quán Âm tức dùng nhĩ căn quay ngược văn cơ trở lại mà
nghe tự tánh. Cho nên mới có thể bên ngoài vong lục trần, bên trong vong lục
căn. Năng sở đều vong. Đã vong được sở, tức vào dòng pháp giới, bèn chứng quả
viên thông, bổng nhiên siêu vượt, được 2 món thù thắng cho nên mới có 32 ứng
thân, 14 vô uý, 4 bất tư nghị, vô tác diệu đức. Đức Phật kia nhân vì tôi mà thọ
ký cho và đặt tên là Quan Thế Âm. Do đấy mà biết Đức Quán Thế Âm thuần do tự
mình quay lại quán tánh nghe tức chiếu cố tánh sẵn có. Sau khi rổng phá ngũ uẩn
là liền chứng được viên thông.
Nếu
chuyên nghe bên ngoài, chẳng hay quay
lại nghe tự tánh, tức là ngoài tâm cầu pháp, cho nên Đức Quán Thế Âm nhờ chẳng
tự quán tiếng chỉ dùng quán trí để quán tánh nghe liền được
giải thoát. Đấy là y theo kinh Lăng Nghiêm ước về tự lợi mà giải thích Quán Âm.
Nếu y theo kinh Pháp Hoa ước phần lợi tha
để giải thích Quan Âm thì lợi tha là Bi mà tự lợi là trí. Cho
nên danh hiệu Quán Âm có đức tự lợi,
lợi tha và công bi trí song vận vậy.
Sao
gọi là Bồ tát? Bồ tát là lược xưng. Tiếng Phạn là Bồ Đề Tát Đoả. Bồ đề dịch là
Giác, Tát Đoả dịch là hữu tình. Giác tức trên cầu giác ngộ thành Phật là tự
lợi. Tát Đoả dịch là Hữu tình, tức chúng sanh, là dưới hoá độ chúng sanh hữu
tình, là lợi tha. Cho nên có câu: Thượng cầu Phật đạo hạ hoá chúng sanh hạnh tự
lợi lợi tha. Đấy là danh xưng của những người tu hành theo Đại thừa giáo. Bồ
tát ở đây khác xa với các vị Thành Hoàng Thổ địa, Tài Thần.v v.. có nhiều người
xưng là Bồ tát thật là sai lầm rất lớn. Vì những vị thần đó thuộc về Đa Tài
Quỷ, trong loại quỷ thần gọi đó là thần Đạo. Mà Bồ tát là ngôi vị trên trời,
người, La Hán và ở dưới Phật Đà. Còn thần Đạo thời ở dưới trời, người đâu được
lạm xưng là Bồ tát.
Hễ
ai chưa thành Phật mà trước phát tâm độ người ấy đấy là cảnh giới Bồ tát như
lội qua sông vậy. Người lội từ bờ bên này đến bờ bên kia mà chiếc thuyền thời ở
giữa dòng. Bờ bên này dụ cho sanh tử luân
hồi, bờ bên lia dụ cho Niết Bàn Thánh địa. Bồ tát tự mình đã xong sanh
tử mà chẳng trụ ở sanh tử như chẳng trụ ở bờ bên này. Tuy đã chứng Niết Bàn bất
sanh bất diệt mà chẳng trụ Niết Bàn, như chẳng trụ bờ bên kia tức cảnh giới Bồ
tát,và cũng là chơn diện mục của Phật giáo tích cực cứu thế. Những kẻ tiểu thừa
chỉ biết tự độ mà chẳng cần lợi tha thật khác xa chẳng đồng.
Phải
biết Bồ Tát chúng ta ai cũng có thể làm được cả. Chúng sanh ai cũng có bổn
phận, như từ bi, ích vật lợi sanh, như thế mà làm, tức nhục thân Bồ tát. Nếu vì
chúng sanh nghe pháp, sau khi nghe đi chuyển hoá lại người khác nghe, hoặc thân bằng quyến thuộc, mọi người
đều hiểu được, đều tu trì. Tâm ấy tức Bồ tát. Như sáng lập hội học Phật, mà mỗi
cá nhân mưu đồ quyền lợi mong cầu danh vọng. Bề ngoài tuy là sự nghiệp công
chúng nhưng kỳ thật vẫn là tâm trạng cảnh giới tiểu thừa. Nếu tất cả mọi người
đều mong cầu hạnh phúc chung, khiến mọi người đều nghe pháp, hiểu pháp có chỗ
nương về. Dụng tâm như thế thời mọi chức viên trong hội đều là Bồ Tát cả.
Bồ
Tát trọng tại xả kỷ lợi nhân là tích cực cứu đời như tu hạnh phóng sanh, bố
thí, phần hương, lễ bái, tụng kinh, niệm Phật. Rồi đem công đức ấy đều hồi
hướng cho pháp giới chúng sanh và phổ cập đến đại chúng đều được lợi ích, hy
vọng thế giới hoà bình, mọi người lìa khổ được vui. Đấy tức là pháp môn của Bồ
Tát vậy.
Như
tu niệm Phật, vì muốn độ thoát chúng sanh mà niệm Phật cầu sanh Tây phương.
Niệm được nhất tâm bất loạn, lâm chung được vãng sanh gần gũi Đức Phật A Di Đà
rồi mới trở lại Ta Bà độ sanh. Bề ngoài là cá nhân niệm Phật in tuồng tự lợi,
nhưng kỳ thiệt Tâm vì chúng sanh mà niệm Phật sanh Tây phương là tâm địa Bồ
Tát, tức là một mặt niệm Phật, một mặt khuyến hoá chúng sanh đây cũng là đạo Bồ
tát vậy. Tuy siêng năng khổ hạnh, hiểu biết mọi chuyện mọi sự. Nếu tu khổ hạnh
mà không vì lợi tha thì gọi là vô ích khổ hạnh, mặc dầu họ có thông minh trí
tuệ đi chăng nữa. Vì đấy là thế trí biện thông, so với đạo Phật còn xa xôi lắm.
Đấy chính là không trí tuệ chẳng đạo tâm vậy. Người đời thường đối với trí tuệ
và thông minh lầm lẫn, họ chẳng phân biệt được, thực thì sai khác như trời vực.
Bởi thông minh chẳng hay liễu sanh thoát tử được, kể cả những nhà khoa học,
triết học, vật lý học, thanh quang, hóa học, điện học v.v... đều là bác học
thông đạt, đấy là thế gian thông minh do lòng tham đắm mê muội nhận cho có thật
trời dài đất lâu, nên đối với muôn pháp phá không nổi, đấy chính là thông minh
mà không trí tuệ.
Phổ
môn:
Phổ là khắp cả, môn là cửa, là nghĩa năng thông. 10 cõi không có cửa duy người
tự tạo như thập ác, ngũ nghịch v.v...Phổ môn là cửa khắp. Vậy phổ môn đây là
một môn tất cả đều môn, một phổ tất cả đều phổ, một trung tất cả đều trung, đấy
là trung đạo diệu môn. Y theo nhất thiệt tướng trung, đấy là trung đạo diệu
môn. Y theo nhất thiệt tướng trung đạo để khai ra có 10 phổ môn sau đây, tất cả
các pháp đều lấy đây mà bình đẳng quán vào.
1.
Từ Bi Phổ Môn 2. Hoằng thệ Phổ Môn,
3.Tu hành Phổ Môn,
4. Đoạn hoặc Phổ Môn, 5.Nhập pháp môn Phổ
Môn, 6.Thần thông Phổ Môn 7. Phương tiện
Phổ Môn, 8. Thuyết pháp Phổ Môn, 9.
Cúng dường Chư Phật Phổ Môn,10. Thành tựu chúng sanh Phổ Môn
1/.
Từ Bi Phổ Môn: Từ hay cho vui, Bi
hay cứu khổ, người đời có từ bi nhưng chênh lệch nơi ái kiến từ bi... sở dĩ ái
kiến của phàm phu có hạn lượng nên chẳng phải là phổ môn.
- Pháp duyên từ bi: Muôn pháp từ duyên
sanh, đương thể tức trống không. Đem lý duyên sanh chơn không này mà khai đạo
cho chúng sanh, khiến nó được vui chơn không mới giải thoát được khổ đau. Vì
chấp hữu đấy là pháp duyên từ. Nhưng chỉ biết có không mà chẳng biết bất không,
cho nên chẳng phải từ bi phổ môn. Từ bi phổ môn là thế nào? Là phải vô
duyên đại từ, đồng thể đại bi mới nhằm. Bởi chúng sanh là chúng sanh
trong tâm ta, Ta là ta trong tâm chúng sanh, người tức là ta- ta tức là người.
Người ta tự tha nguyên là đồng thể. Người được giải thoát tức ta được giải
thoát, người khổ tức ta khổ, người vui tức ta vui, vui cái vui của người, buồn
cái buồn của người. Việc người tức việc mình không chia rẽ tự tha, và tướng
nhân ngã. Đến đây đã tiêu vong ngã tướng cũng không còn nhân tướng, thời đâu có
ngã năng duyên, nhân sở duyên. Được như thế tức thành vô duyên đại từ, đồng thể
đại bi vậy.
Nếu
như còn có ta là hay duyên, người kia bị ta duyên, ta hay cứu, người được ta
cứu, ta hay độ người là được ta độ, thời chẳng phải từ vô duyên, cho nên cần
phải thể đạt chúng sanh với ta chẳng hai chẳng khác, mà giữ giới không sát sanh
hại vật, trở lại phóng sanh tức là đồng thể đại bi, vô duyên đại từ vậy.
Đồng thể đại bi thông suốt thượng tánh
hạ phàm tứ thánh lục đạo, chín giống mười loài. Được như vậy mới thật là Đại từ
Đại bi thương chúng sanh, Đại hỷ đại xả cứu muôn loài. Điều này rất quan trọng
cần phải chú tâm lắm vậy.
2/
Hoằng thệ phổ môn: Đã đầy đủ vô duyên đại từ, đồng thể đại bi, tất
nhiên phải có mục tiêu thật hành. Gì là mục tiêu? Là 4 hoằng thệ nguyện, chúng
sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng
thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Bốn đại nguyện này tức là
phổ môn đại nguyện. Đã biết chúng sanh ở trong tự tánh ta, cho nên phải
thệ nguyện độ tự tánh chúng sanh, thệ nguyện dứt tự tánh phiền não, thệ nguyện
học tự tánh pháp môn và thệ nguyện thành tự tánh Phật đạo.
Như
vậy nay ta hiểu kinh, tin Phật khuyên lại người khác giữ giới ăn chay tụng kinh
niệm phật, tức là độ sanh. Nếu chúng ta không tin lời khuyên thời nên niệm
Phật, niệm danh hiệu Quan Âm cho chúng nghe, khiến tiếng niệm chun vào tai, rồi
xuống tận đám ruộng 8 thức của chúng làm nhân đắc đạo đời sau. Tâm độ sanh cần
phải rộng lớn, không luận 4 loài, không xứ nào chẳng độ, không thời nào chẳng
đến. Đây là phổ môn độ sanh đại
nguyện phiền não vô tận vô biên. Tóm lại có 8 muôn 4 ngàn thứ như tham, sân,
si, ác độc xà tâm, mặt người tâm thú, bất trung, bất tín, bất nghĩa, bất hiếu
v.v... chúng ta muốn lìa khổ được vui quyết phải dứt phiền não. Và cũng cần
khuyên mọi người đều dứt nó. Đây là phổ môn dứt phiền não đại nguyện.
Pháp
môn như GIỚI, ĐỊNH, HUỆ. 8 muôn 4 ngàn pháp, ba tạng 12 bộ kinh, 5 thời 8 giáo
đều nên học. Nhưng nếu ta căn cùn huệ cạn không thể học khắp cả thì tuỳ chọn
một môn nào đó học sâu vào. Cứ đi thẳng vào một, đừng rẻ hai, sâu và lâu mãi,
rổng vậy thông suốt. Một môn đầy đủ thì tất cả các môn đầy đủ. Một môn thông
suốt tất cả các môn đều thông. Trái lại nay học tánh môn, mai học tướng môn,
triêu tam mộ tứ, rốt cuộc không thành quả một môn nào cả, mà tự phí công phu
một đời. Cổ đức dạy: “một câu Di Đà dọc suốt 5 thời ngang trùm 8 giáo, ai năng
già niệm Phật tức đã học tất cả các pháp môn”. Đấy là phổ môn học pháp
môn đại nguyện.
Phàm
phu có phân đoạn sanh tử, La Hán, Bồ Tát có biến dịch sanh tử. Duy khi thành
Phật mới rốt ráo diệt tận 2 thứ sanh tử trên. Sở dĩ Phật đạo tuy là cao siêu vô thượng nhưng phải thệ
nguyện cho thành đạt mới xong. Đấy tức là đại nguyện phổ môn thành Phật đạo
vậy.
Đức
Quan Thế Âm khi ban sơ hưng khởi phổ môn đại bi, rồi sau mới phát hiện phổ môn
hoằng thệ. Mục đích Phật giáo không chuộng nói suông mà cốt quý ở thực hành. Có
hiểu có làm, hiểu là con mắt, làm là đôi chân. Có hiểu không làm như có mắt
không chân. Có mắt không chân thì không đi được. Có chân không mắt ắt sẽ sa
xuống hầm hố.
(Một nhà có 10 người - một người đui, một người què, 8 người khoẻ
mạnh đi làm. Còn lại 2 người ở nhà, nhà cháy người đui cõng người què chạy ra
khỏi nhà lửa).Nhà cháy dụ cho 3 cõi không yên, 8 khổ giao đốt, 5 trược lồng
lộn, chỉ biết mà không đi cố nhiên chẳng ra khỏi 3 cõi. Cũng như đi mà chẳng
biết tức dễ chạy lầm đường. Rời nhau đôi
bên đều bị hại, hợp tác lại hai đứa an toàn. Nghe kinh mở trí tuệ là
hiểu, niệm Phật niệm Quan Âm là tu. Hiểu và tu đều song tiến, như mắt và chân
đôi bên giúp lẫn nhau, mới có thể chứng được diệu pháp, chứng được tự tánh Quan
Âm.
3/ Tu hành phổ môn: Một khi đã hiểu rõ
kinh pháp rồi thực hành tu. Giữ giới niệm Phật ăn chay khuyên người làm lành
lánh dữ cũng là phổ biến phổ môn vậy. Trong khi tu hành cần phải nhẫn nại các
hoàn cảnh thuận nghịch, có như thế chính là tinh thần nghị lực tinh tiến dũng
mãnh vậy. Đó là những điều mà người học Phật pháp nên phải có đầy đủ vậy.
Phải
tinh cần cầu khẩn như thần Quang cầu pháp với Ngài Đạt Ma Tổ Sư vậy. Ngài thần
Quang đứng hầu 2 tháng Tổ Sư mới hỏi một câu: “Ngươi cầu việc gì?”. Thần Quang
trả lời: “ Tổ Sư phát lòng Đại bi khai thị cho phương pháp dụng công và Phật
pháp diệu đạo”. Tổ Sư đáp: “Ngươi nên biết. Diệu đạo của Đức Phật nhiều kiếp
tinh cần, phải làm được việc khó làm, phải nhẫn điều khó nhẫn, thậm chí có khi
vì pháp mà hy sinh đến tính mạng. Dễ đâu mà nói cho ngươi”. Sau khi nghe trọn
lời dạy ấy. Thần Quang chạy xuống nhà trù lấy dao tự mình chặt đứt một cánh tay
của mình, mới trở lại quỳ trước Tổ Sư cầu ngài khai thị. Đạt Ma thấy sư vì say
sưa cầu pháp mà chặt dứt trọn mất một cánh tay, đấy thật là vì pháp vong thân, là kẻ có trí tuệ
khá lớn vậy, nhân đây Tổ đặt tên là Huệ Khả.
Lúc
này tuyết xuống ngập ngang lưng, máu chảy thấm vào tuyết, tuyết lại biến thành
màu hồng.Vậy mà Huệ Khả vẫn cố sức khẩn cầu lòng từ bi của Tổ Sư ban cho mình
pháp an tâm. Đạt Ma hỏi: “Tâm của ngươi ở đâu, lấy đem đây, ta sẽ thay ngươi mà
an nó cho? Huệ Khả suy đi nghĩ lại hồi lâu... chính lúc đó Huệ Khả trong vong
thân tâm, ngoài quên thế giới, căn thoát xa trần vong thân vong thể, thân tâm
cũng không có thời đau nhức có ở đâu? nên Huệ Khả đáp: “Tôi tìm tâm tôi trọn
bất khả đắc”. Đạt Ma nói: “Ngươi đã nói tâm ngươi tìm trọn bất khả đắc, thời ta
cũng đã ban cấp cho ngươi pháp an tâm rồi vậy”.
Cứ
theo ý nghĩa trên đây là tâm trọn bất khả đắc, nó không ngằn không mé, đầy khắp
cả pháp giới không có phân chia chừng ngằn được. Đấy là phổ môn tự tánh vậy.
Cho nên người tu hành phải nếm khổ chịu nhọc, khẩn thiết tâm thành, nhất tâm
nhất ý, còn nếu có tâm phân liệt suy lường sanh diệt thì chẳng có thể nghe và
lãnh thọ phổ biến pháp môn được. Giờ này mà chẳng phải chơn thật thì đợi lúc
nào? Đời này không tu đợi đến kiếp bao giờ? Cho nên đức Quán Thế Âm Bồ Tát ước
về phần tự hành và lợi tha đều dùng nhất tâm mà tu công hạnh vậy, nên không một
công hạnh nào chẳng phổ biến cho nên gọi là tu hành phổ môn.
4/
Đoạn hoặc phổ môn: Tinh tấn tu khổ
hạnh mới có thể dứt các thứ phiền não được, dễ như cầm dao chẻ măng tre, một
dứt tất cả đều dứt. Những người có đại trí tuệ, nhất tâm dụng công tu khổ hạnh
thời các thứ phiền não hoặc nghiệp tự nhiên đoạn tuyệt. Quan Thế Âm Bồ Tát dùng
trí viên thông phổ biến pháp giới, đoạn hoặc căn bản vô minh,căn bản đã đoạn
thời nhánh nhóc cũng phải tiêu luôn. Chính là hiển trí phổ biến đoạn hoặc, nhất
đoạn tất cả đều đoạn không một hoặc nào chẳng bị đoạn. Nên gọi là đoạn hoặc phổ
môn.
5/ Nhập
pháp môn phổ môn: Chứng được đến trung đạo vương tam muội thời tất
cả pháp môn tam muội không một pháp nào chẳng viên chứng. Đức Quan Thế Âm đã
thân chứng đến nhĩ căn viên thông, rồi do nghe huân tập, do tu huân tập nơi
pháp môn Kim Cang tam muội và có bao nhiêu trăm ngàn tam muội, hằng sa công đức
mỗi mỗi đều phổ biến chứng nhập. Nên gọi là nhập pháp môn phổ môn.
6/ Thần
thông phổ môn: Sau khi chứng được pháp môn, 6 căn thanh tịnh, tức
có 6 pháp thần thông, 6 pháp thần thông là: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông,
túc mạng thông, tha tâm thông, thần túc thông và vô lậu thông. Phàm mắt người
chỉ thấy trước mà chẳng thấy sau, thấy sáng chẳng thấy tối... tai chỉ nghe gần
mà chẳng nghe xa, chỉ nghe tiếng nói nhân loại mà chẳng hiểu tiếng nói phi nhân
loại... gặp gì cũng đều bị chướng ngại cho sự xem nghe. Nếu đủ thiên nhãn thông
thời xem trên trời dưới đất, 6 đạo quần sanh, tam thiên đại thiên thế giới và
tất cả sắc pháp trong 10 pháp giới như xem trái xoài nằm trong lòng bàn tay,
không chỗ nào chẳng thấy biết, không chỗ nào chẳng thấy hiểu. Nếu có thiên nhĩ
thông nghe được tất cả tiêng tăm 10 pháp giới như ở một nhà chẳng cách xa
gần.Chúng ta thường cho gió thuận tai thì nghe, mắt thấy được một nghìn dặm cho
là thần thông. Nhưng so với thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, thời sai khác
nhau một trời một vực, mà là gấp bội trăm ngàn vạn ức cũng chẳng kịp một phần.
Người đời chẳng thể dụng công tu hành được, đều là vì không có túc mạng thông,
nên chẳng biết duyên do đời trước của mình. Nếu ai có đủ 6 phép thần thông này,
mới có thể hiểu được mạng sống của tuổi đời quá khứ, đời nào sanh ở đâu và sanh
vào trong đạo nào là trời hay người, hoặc súc sanh chẳng hạn đều biết hết. Hơn
nữa, còn hiểu được túc mạng của các chúng sanh khác nữa là khác. Những người
nào biết được túc mạng tức đã hiểu rõ tiền nhân hậu quả nhất định họ nghĩ đến
việc tu hành ngay.
Nói
về tha tâm thông, tức là đối với tâm lý của trăm ngàn vạn ức chúng sanh đều có
thể hiểu biết, nên gọi là chưa bói mà biết trước, chẳng đi đâu mà cũng hiểu
hết.
Thần
túc thông, tức nhẹ bay đi xa, chẳng cần thuyền xe, có thể bay đi cả thiên hạ,
lên tận trời xuống sát đất, xoi thủng núi, lội qua nước, được thần thông tự
nhiên, biến hoá vô cùng tận vậy. Năm phép thần thông trên đây, trời người quỷ
thần đều có thể có được nhưng hãy chưa chứng được vô lậu thông. Chúng ta là kẻ
phàm phu, có bao nhiêu phiền não hoặc nghiệp tức là hạt giống sanh tử. Sau khi
dứt được kiến tư phiền hoặc mới chúng quả A La Hán mà chỉ xong được phân đoạn
sanh tử thôi, sanh tử lậu, phiền não lậu, giống như cái bình bị nứt chẳng đựng
nước được. Nay đã liễu được sanh tử phiền não, như chiếc bình hoàn hảo, có thể
đựng nước cam lồ cũng vẫn tốt.
Nói
cho đúng phải chứng đến quả vị bất sanh bất diệt mới có được vô lậu thông.
Chúng ta ai ai cũng sẵn có đủ 6 pháp thần thông này. Nhưng ngặt vì còn bị phiền
não vọng tưởng chấp trước nên chưa chứng được đấy thôi. Nếu ai có thể buông thả
muôn việc dứt xong phiền não, chí thành dụng công, thần thông tự nhiên đầy đủ
mà chẳng cần cầu mong bên ngoài làm chi vô ích. Nhưng phải biết, Phật pháp
chẳng cho thần thông là quý mà trọng yếu tại nơi giải thoát. Nếu chuyên dùng
thần thông làm việc chính thời dễ sa vào tà ma ngoại đạo mà chẳng phải là kẻ
chơn thật hành trì đúng hướng vậy. Thần thông của Bồ Tát khác hơn thần thông của
La Hán. La Hán đối với trong lục đạo chỉ có thể thấy biết những sự vật trong
phạm vi 8 vạn kiếp mà thôi. Bồ Tát thời suốt thấy biết được tất cả trong phạm
vi tam thiên đại thiên thế giới và thời gian cũng thấy biết vô tận. Quan Thế Âm
là sau khi chứng Phật quả thị hiện lại tu nhân đại Bồ Tát do hoá thiên vô ký
hoá mà khởi hoá thông vô ký hoá, cho nên thần thông của Quan Thế Âm đương nhiên
là rộng lớn vô biên, sở dĩ gọi là thần thông phổ môn.
7/
Phương tiện phổ môn: phương là phương pháp, tiện là nghi, tức
là dùng các thứ phương pháp, nhân cơ nghi tạo ra tiện hành mà làm lợi lạc để độ
thoát tất cả chúng sanh vậy. Là phương pháp gì? Tức là hoặc hiện thân nam, nữ,
tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ tể quan v.v...
các thứ thân tuỳ cơ duyên mà thị hiện bất nhất định không lúc nào chẳng
dùng phương pháp đó, không chỗ nào chẳng dung cơ nghi ấy vì là mong muốn phổ
biến để giáo hoá, cho nên gọi là phương tiện phổ môn. Nếu chẳng vậy thời như
muốn độ thoát cho hạn người nào đó mà hiện ra thân người chẳng thích hợp với họ
là bị trở ngại ngay, tức là chẳng phải phương tiện vậy.
8/
Thuyết pháp phổ môn: Giáo pháp có Đại Tiểu, Quyền Thiệt, mà
quý hồ thay là tuỳ theo căn cơ cho tiện lợi mới nói ra, vì nói pháp đâu chẳng
phải độ chúng sanh, khai trí tuệ mà thành Phật đạo. Nên chỉ nói Đại pháp Thiệt
Pháp, mà chẳng hay nói Tiểu pháp Quyền pháp hoặc chỉ nói Tiểu Quyền, mà chẳng
nói Đại,Thiệt thôi. Chẳng phải phổ biến vậy. Đức Quan Thế Âm Bồ Tát đủ đại Thần
Thông không luận Đại Tiểu Quyền Thật, không một pháp môn nào chẳng không thuyết
như một trận mưa thấm nhuần đều được nhờ lợi ích. Cho nên gọi là thuyết pháp
phổ môn.
9/ Cúng
dường chư Phật phổ môn: Quan Thế Âm Bồ Tát tự mình sớm thành
Phật, nhưng lại đáo xứ cúng dường chư Phật. Như tại Ta Bà thế giới, tức cúng
dường đức Thích Ca. Đến Tây phương Cực Lạc Thế Giới là cúng dường Đức Phật A Di
Đà và đến Đông phương thế giới lại cúng dường Phật A Sơ Bệ. Mười phương ba đời
các đức Phật không một vị nào mà chẳng tận tâm cúng dường. Nên gọi là cúng Phật
Phổ môn.
10/
Thành tựu chúng sanh phổ môn: Quan Thế Âm Bồ Tát, vì độ chúng sanh,
nên sau khi thành Phật hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai lại thị hiện Quan Thế Âm Bồ
Tát, cho nên đáo xứ đều thành tựu chúng sanh, tức là mong muốn chúng sanh đều
dụng công tinh tấn. Ở trong nhân đạo hiện tướng người, ở trong súc sanh đạo
hiện tướng súc sanh, ở trên chư thiên hiện tướng chư thiên, sở dĩ 32 loại ứng
hoá thân đều là để thành tựu chúng sanh. Không phân biệt kẻ dỡ người giỏi, kẻ
ngu người trí, kẻ hiền đứa bất hiếu gì cả thảy đều hiện độ, tức như ta thấy thường
lập đàn chẩn tế là nguyên do Quan Thế Âm Bồ Tát hoá hiện loài quỷ đói tên là
Diện Nhiên Đại Sĩ Diệm Khẩu Quỷ Vương. Trong miệng ác quỷ này lửa thường cháy
rực, chút nước cũng chẳng uống được vào, đói khát đau khổ phi thường. Khiến
Ngài A Nan thấy vậy động lòng thương xót và thưa với Phật. Phật liền dạy cho
chú pháp cúng thí ngạ quỷ Diệm Khẩu. Cho biết rằng Quan Thế Âm Bồ Tát là nơi
nào cũng thành tựu, nơi nào cũng giáo hoá, cho nên gọi là Thành tựu chúng sanh
phổ môn.
Mười
điều tóm lại là: Từ Bi, Hoằng Thệ, Tu hành, Đoạn hoặc là nhân Quan Thế Âm tự
hành.Nhập pháp môn là quả tự hành. Năm điều phổ môn này là thuộc tự hành. Thần
thông, phương tiện, thuyết pháp. Ba điều
phổ môn này thuộc về lợi tha. Cuối cùng cúng Phật là tự lợi mà thành tựu chúng sanh là lợi tha. Tuy có
chia ra 10 điều, nhưng tổng thị phổ môn bao la vạn tượng quảng đại vô cùng. Sở
dĩ Quan Thế Âm Bồ Tát lại có hiệu là phổ môn Đại sĩ là vậy.
Phẩm
Quan Thế Âm Bồ Tát phổ môn thị hiện nhóm nơi một phẩm từ đầu dến cuối không
ngoài hai đoạn vấn đáp gồm có 10 nghĩa.
1/ Nhân
pháp:
đoạn trước vấn đáp là nói Quan Thế Âm Bồ Tát hay quan sát tiếng tăm thế gian để
cứu 7 nạn, giải 3 độc. Đấy là ước về Người
bất tư nghị. Đoạn sau vấn đáp là nói thị hiện 32 ứng hoá thân, tức là Pháp phổ môn thị hiện bất tư nghị cho
nên gọi rằng nhân pháp nhân duyên mà là Quan Thế Âm phổ môn.
2/ Từ
bi:
Quan Thế Âm Bồ Tát tìm tiếng tăm cứu nạn, vớt khổ cho chúng sanh là Đại bi. Phổ
môn thị hiện lợi lạc cho chúng sanh là Đại từ. Cho nên gọi rằng Từ bi nhân
duyên là Quan Thế Âm phổ môn.
3/
Phước huệ:
Quan Thế Âm Bồ Tát đủ đại trí tuệ mà thuyết pháp đủ đại phước đức mà thị hiện. Huệ chỉ cho Quan
Âm phước chỉ cho phổ môn. Cho nên gọi rằng phước huệ nhân duyên mà là Quan Thế
Âm phổ môn.
4/ Chơn
ứng:
Cứu bảy nạn, giải ba độc, ứng 2 cầu đều chơn thân diệu lực Quan Thế Âm bất khả
tư nghị. Mà phổ môn thị hiện 32 hoá thân là ứng thân bất khả tư nghị. Cho nên
gọi rằng chơn ứng nhơn duyên mà là Quan Thế Âm phổ môn.
5/ Dược
châu:
Quan Thế Âm cứu khổ cứu nạn như cây thuốc thọ vương là Dược. Phổ môn thị hiện
tuỳ theo cơ cảm mà ứng với sự mong cầu như ngọc như ý bảo châu là châu. Cho nên
gọi rằng Dược châu nhân duyên là Quan Thế Âm Phổ môn. (Câu chuyện tiều phu bán
củi, thầy thuốc tên Kỳ Vức xem bó củi phát ánh sáng cho là lạ, rồi mua củi đem
về. Về nhà ông tìm trong bó củi được nhánh Dược Thọ Vương. Nhờ nhánh Thọ Vương
này ông chữa được bá bệnh cho mọi người nên gọi là Dược Thọ Vương. Ngọc như ý
bảo châu là thứ ngọc có thể tuỳ theo ý mình muốn gì chỉ cần móng hiện trong tâm
niệm là ngọc kia tức khắc hoá ra cho người dùng nên gọi là như ý bảo châu.
6/ Minh
hiển:
Minh là thầm. Thầm ứng là mắt ta tuy chẳng thấy được, nhưng chỉ cần nhất tâm
bất loạn tinh tiến niệm Phật, thời trong chỗ âm thầm tự có sự lợi ích lớn lao,
nên gọi là hiển cảm mà thầm ứng. Nếu ta thân thấy được thời đó là hiển cảm ứng
hiện lại như có người trọn đời chẳng biết niệm kinh lễ Phật là gì nhưng đến khi
gặp tai nạn gấp rút lại được cảm ứng đến Bồ Tát cứu hộ, là vì đời trước họ đã
có vun trồng căn lành cho nên nay được vậy, gọi là minh cảm mà hiển ứng vậy.
Lại còn có trường hợp minh cảm minh ứng, cứ lệ đây là biết. Đoạn trước giải
thích Quan Thế Âm cứu khổ là nói lợi ích trong chỗ âm thầm, đoạn sau giải thích
phổ môn là thị hiện là nói sự lợi ích rõ ràng cho nên gọi rằng: Minh hiển nhân
duyên mà là Quan Thế Âm phổ môn.
7/
Quyền thiệt:
Quan Thế Âm Bồ Tát pháp thân minh ích là thiệt tế. Phương tiện phổ môn thị hiện
là quyền mưu, cho nên gọi là quyền thiệt nhân duyên mà là Quan Thế Âm phổ môn.
8/ Bổn
tích:
Quan Thế Âm Bồ Tát đáo xứ ứng hiện giáo hoá các loại chúng sanh rõ ràng như
trăng trên trời ánh hiện dưới nước ngàn sông mà thành mặt trăng 1000 sông vậy.
Trăng trên trời như bổn môn pháp thân. Trăng dưới nước như tích môn ứng hoá.
Cho nên Quan Âm là bổn, phổ môn thị hiện là tích. Cho nên gọi rằng Bổn tích
nhân duyên là Quan Thế Âm phổ môn.
9/
Duyên liễu:
Chúng ta nghe giảng kinh khai trí tuệ nhất tâm niệm Quan Thế Âm là hạt giống
liễu nhân. Phổ môn bố thí là công đức Duyên nhân, cho nên gọi rằng Duyên liễu
nhân duyên mà là Quan Âm phổ môn.
10/ Trí
đoạn:
Quan Thế Âm cứu khổ là trí đức trang nghiêm, phổ môn là đoạn đức tức là phước
đức trang nghiêm cho nên gọi là trí đoạn nhân duyên là Quan Thế Âm phổ môn.
(3 tai
là: nước, lửa, gió. Lửa lấy nóng làm thể, lấy đốt làm dụng. Lửa sân, nước ái
dục, gió: chỉ tham cầu, tài lợi, tham dục).
|||
DAO TẦN TAM TẠNG PHÁP SƯ CƯU MA LA THẬP DỊCH
Phẩm này nguyên văn là Phạm ngữ
do ngài Cưu Ma La thập dịch ra chữ Tàu. Cưu Ma La Thập Tàu dịch là Đồng thọ.
Đồng là họ và Thọ là tên. Thân phụ của ngài là Cưu Ma La Diêm. Nguyên người xứ
Trung Ấn ông Diêm đi du lịch Đông Ấn đến nước Quy Tư, tức nay là biên địa của
tỉnh Vân Nam. Quốc vương Quy Tư mến mộ đạo cao học rộng của ông, mới đem con
gái gã cho. Rồi sanh con tức là Ngài La Thập. Pháp sư là người phiên dịch phẩm
kinh này. Pháp sư khi còn nhỏ đã thông tuệ hơn mọi người. Tuổi còn đồng ấu mà
đã có tác phong thái độ như người kỳ lão nên gọi là Đồng thọ. Khi Ngài lên 7
tuổi theo thân mẫu đi chùa. Vào chùa thấy một cái bát bằng đồng to nặng. Thấy
vậy rồi liền lấy đội trên đầu rất là nhẹ nhàng và dễ dàng. Kế đó Ngài nghĩ bát
này rất to nặng mà ta thời nhỏ nhít vì sao mà cử cất lên là được ngay? Tức thì
cái bát rơi xuống đất, La Thập cất lên lần thứ 2 chẳng nổi. Liền lúc ấy Ngài
giác ngộ rằng vạn pháp là duy tâm. Đối với tất cả pháp vốn chẳng nên đem tâm tư
lường phân biệt. Nặng chẳng tự nó biết là nặng, nhẹ cũng như thế đó vậy. Kìa sở
dĩ biết nặng nên cất lên lần thứ 2 nữa chẳng nổi là vì La Thập đã trót khởi một
điềm tư lường nơi tâm. Đã có tư lường phân biệt tức là vọng tưởng nổi dậy. Vọng
tưởng mà máy động một tý tức là biết nặng cất lên không nổi. Cho nên phải biết tất cả cảnh giới đều do
vọng tưởng mới có sai biệt. Tâm sanh thời các pháp sanh, tâm diệt là các pháp
diệt. Nên gọi là nhất thiết duy tâm tạo,
vạn pháp duy thức biến là vậy. Giả như tâm pháp chẳng hai không có sai
biệt tức chẳng sa vào trong hang thẳm của tâm ý thức thời đâu có phân nam nữ,
chia tự tha là thành nhất thể. Nên gọi là bất nhị pháp môn. Bất nhị tức là Diệu
pháp.
La
Thập khi lên 7 tuổi có một vị La Hán bảo với thân mẫu ngài rằng: La Thập này
nếu được 35 tuổi hơn mà chẳng phá giới thì chắc làm nhân thiên đạo sư, giáo hóa
vô lượng chúng sanh. Về sau Ngài lên hơn 10 tuổi, muốn đi xuất gia, mẫu thân
mới dem lời của vị La Hán bảo cho Ngài nghe. La Thập nói: cần nên hoằng dương
phật pháp và phải hy sinh tất cả, đấy là chí nguyện của con rất muốn như vậy.
Tức thì năm 11 tuổi ngài xuất gia tu học, Ngài là người hoằng dương Phật pháp ở
nước Quy Tư được quốc vương kính trọng,
và danh tiếng của Ngài ngày một vẻ vang.
Khi La Thập đã trưởng thành đi đến đâu giảng kinh thuyết pháp là nổi danh cả
toàn xứ đó.
Lúc
bấy giờ ở Trung Quốc gặp thời đại ngũ hồ, ông Phù Kiên tiếm đoạt ngôi vua tự
xưng là Tần Vương, đóng đô ở Trường An thuộc tỉnh Thiểm Tây, quốc hiệu là Phù
Tần. Có quan Thái Sử Công, đoán biết nước Thiên Trúc sắp có một vị đại đức sẽ
đến Trung Quốc hoằng dương Phật pháp, ông liên minh tấu lên Tần Vương. Mà trong
lòng Tần Vương cũng biết được ở Đông Ấn Độ có Ngài Cưu Ma La Thập pháp sư người
có đạo đức và học vấn rất thâm thuý. Tần Vương sai sứ thần mang lễ vật sang Quy
Tư xin phụng thỉnh La Thập. Nhưng quốc vương Quy Tư cất giấu La Thập để làm
quốc bảo, nhất định không làm thoả mãn cho sứ thần Trung Quốc. Thế là sự việc
bất thành, buộc lòng Phù Kiên sai tướng Lữ Quang đem theo 7 vạn đại quân tiến
thẳng sang Quy Tư vây thành công hảm kịch liệt. Mục đích của Phù Kiên là chẳng
phải tham vọng đất đai hay tài vật mà chủ yếu nghinh thỉnh cho kỳ được pháp
sư La Thập mà thôi. Thế rồi nước Quy Tư
thất thủ, Lữ Quang đem được La Thập về. Đang trên đường về Trường An thì nghe
tin Phù Kiên chết. Dao Trành kế vị gọi là Dao Tần. Lại xưng Hậu Tần mà Phù Tần
là Tiền Tần. Sau khi Dao Trành chết, con là Dao Hưng tức vị, Hưng rất tin Phật
pháp nên mới cung nghinh La Thập về Trường An cung phụng như thần thánh. La
Thập sang Tàu năm 420 Tây Lịch.
La
Thập pháp sư đem ba tạng giáo pháp hoằng hoá độ chúng sanh. Và cũng tự mình
dùng Tam Tạng Đại pháp làm thầy, tự lợi, tự tha nên gọi là Tam tạng pháp sư.
Kinh điển do ngài dịch rất hay và đẹp đẽ không ai bì kịp. Trước khi Ngài thị
tịch bảo đệ tử rằng: Những kinh tôi dịch nếu không sai lầm thì thân tôi tuy hoá
mà cuốn lưỡi tôi chẳng hư hoại. Sau khi Ngài viên tịch, đem hoả táng thời cuốn
lưỡi vẫn y nguyên chẳng hư hao chút nào.
Lúc bấy
giờ Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chắp
tay hướng Phật mà bạch rằng: '' Thế Tôn ! Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát do nhơn duyên
gì mà tên là Quan Thế Âm? ''
Vô
Tận Ý Bồ Tát là danh hiệu một vị Bồ Tát, vị Bồ Tát này ngài có thần lực xem
thấy vô cùng tận thế giới và vô cùng tận chúng sanh ở những thế giới... cảm
chịu vô cùng tận sự khổ, rồi mới phát nguyện độ chúng sanh tức là có rõ ràng
tâm ý vô cùng tận cho nên gọi là Vô Tận Ý. Vị Bồ Tát này đã có 4 câu kệ:
Thế giới vô biên trần nhiễu nhiễu
Chúng sanh vô số nghiệp mang mang
Ái hà vô để lãng thao thao
Thị cố hiệu vi Vô Tận Ý.
Nghĩa
là thế giới không ngằn bụi lăng xăng, chúng sanh không số nghiệp rộn ràng, ái
hà không đáy sông cuồn cuộn, vậy nên hiệu là Vô Tận Ý. Thế giới vô lượng vô
biên chúng sanh vô cùng tận. Biển nghiệp mênh mang lộn quanh lộn quẩn không khi
nào ra khỏi. Bồ Tát Vô Tận Ý chẳng nở ngồi mà chứng kiến những bao vô lượng vô
biên chúng sanh chịu các khổ não kia. Cho nên Ngài quả quyết rằng: phải độ cho
hết chúng sanh, rồi mới chứng lấy quả Bồ đề. Chính đấy là bộ mặt thật của Đại
thừa Phật pháp vậy. Nên hiệu là Vô Tận Ý.
Phát
thệ của vị Bồ Tát này và Bồ Tát Quan Thế Âm tương đồng. Vô Tận tức cảnh sở
quán, một cảnh mà ba đế quán tức là tiếng đời của Quan Thế Âm. Ý là ý năng quán
giác, tức một tâm ba quán đế, cũng tức quán của Quan Thế Âm vậy. Năng với sở
không hai cảnh với trí nhất như, cho nên gọi là Vô Tận Ý Bồ Tát.
Phật
gọi là Giác, Giác mà chẳng mê gọi là Phật. Mê mà chẳng giác gọi là chúng sanh.
Kỳ thật Tâm - Phật - chúng sanh là 3 không sai khác, mà nếu có sai khác là giác
với mê đấy thôi. Giác có 3, tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Phật Thích
Ca 19 tuổi xuất gia, 30 tuổi thành đạo. Tức là Đại giác ngộ trọn chứng Phật
quả. Bởi vì Phật đã thấu suốt rõ ràng tất cả muôn pháp trong thế gian không một
pháp nào chẳng hư dối, còn bao nhiêu chúng sanh đều là mê muội mờ mịt bất tri
bất giác.
Tại
sao chúng sanh gọi là mê, vì chúng sanh nếu có biết thì biết những việc trước
mặt, nhưng không biết việc sau lưng, những cái biết của chúng sanh gọi là vọng
tri vọng giác đấy thôi.
Giả
như thử hỏi thân ta từ đâu đến, trước khi cha mẹ chưa sanh mặt mày của người
lúc đó ra làm sao, hoặc sau khi chết nó đi về đâu? Không có ai có thể biết được
điều này nên gọi chúng sanh mê muội là vậy. Chúng sanh sống trên cõi đời này
chỉ biết miệt mài lo toan rộn ràng những việc con trai con gái, mưu danh đạt
lợi, cho nên những cái biết này đều gọi là vọng giác, là phiền não vô minh. Đến
khi chết rồi cũng chẳng biết đi về đâu? Chính đấy là mê muội bất giác, sống say
chết ngủ. Cho nên gọi khi đến mù mờ, lúc đi mê, luống uổng đường đời chạy mệt
mề. Sống như thây đi thịt chạy, chết cùng cỏ cây đồng hư tiêu tan. Chúng sanh
đối với sự vật cứ mãi say sưa đắm nhiễm, nào tài nào lộc nào vợ nào con, không
một điều gì chẳng tồn tại, bởi ngã kiến mà ra, kỳ thiệt nhân sự như chiêm bao,
tất cả cảnh như huyễn hoá thảy đều trống không.
Giống
như điện ảnh một màng qua rồi, một màng lại đến. Sau khi chiếu xong, y nhiên là
một bức vải trắng.
Người
đời không biết, chẳng may gặp chút nhịch cảnh xảy ra, thời tranh giành quyết
liệt mà chẳng chịu nhân nhượng chút nào. Một mai thở ra không hít vào, thế rồi
thân xác liệm kỷ trong hòm, đem tán kín trong lòng đất. Từ lúc này trở đi mặc
cho ai làm chúa tể hay làm gì tha hồ. Sở dĩ nói cái xác này sống là cái thây cụ
cựa, chết là cái thây cứng đờ. Đó là cái ta có chơn thật gì đâu nào? Suy rộng
ra cho đến núi sông biển cả trăng sao cũng thế đến lúc cũng huỷ diệt không còn.
Thế nhưng người đời mê mà không giác cho nên mới tranh đấu để rồi gây hoạ cho
nhau. Phải biết tứ đại đều không, ngũ uẩn không có, sơn hà đại địa như trò
huyển thuật. Khi thì quân thần phụ tử, lúc thì lai khứ hữu vô, đều là những
việc quấy rối nhau tạm thời. Một khi huyển cảnh hạ màn rốt cuộc không có gì cả.
Vạn pháp duy tâm là vậy.
Chúng
sanh nơi tai thì nghe, nơi mắt thì thấy, biết nóng biết lạnh, đấy là vọng tri
vọng giác, vọng kiến vọng văn. Nhưng bản tâm lương tri sẵn có chơn kiến chơn
văn, chơn tri chơn giác. Vọng như sóng, chơn như nước. Nhờ biết toàn nước thành
sóng, toàn chơn tác vọng, cho nên thành chúng sanh. Nếu ai buông bỏ muôn duyên.
Sóng mòi dứt lặng, toàn sóng tức nước, tức nơi vọng về chơn là rốt ráo thành
Phật đạo.
Vô
Tận ý Bồ Tát xưng Quan Thế Âm rồi liền hỏi Quan thế Âm Bồ Tát vì nhân duyên gì
mà gọi là Quan Thế Âm. Nhân là hạt giống, duyên là trợ duyên. Như người sanh ra
do cha mẹ mà có. Nghiệp thức là nhân, cha mẹ là duyên. Có nghiệp thức không cha
mẹ thì cũng không sanh ra được, có cha mẹ không có nghiệp thức cũng không sanh
ra người được. Nên nói có duyên không nhân, một nhân bất thành, một duyên khó
sanh. Duyên- nhân hoà hợp mới được.
Vậy
3 chữ Quan Thế Âm cũng phải có nhân duyên. Chúng sanh bị khổ cầu cứu là nhân.
Bồ Tát năng quán tiếng kêu cứu khổ phát lòng từ bi là duyên. Do đấy nhân duyên
nhóm họp cảm ứng đạo giao cho nên hiệu Ngài Quan Thế Âm,
Phật
bảo Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát “Thiện nam tử
! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức
chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quan Thế Âm
Bồ Tát này một lòng xưng danh. Quan Thế Âm Bồ Tát tức thời xem xét tiếng
tăm kia, đều đặng giải thoát ".
Khổ
não của chúng sanh tuy nhiều nhưng đều bao gồm trong 3 khổ, 8 khổ và 7 nạn. Bảy
nạn như nước, lửa, hắc phong, dao gậy, La sát, gông cùm, oán giặc. Thế gian
nhiều nạn lắm nhưng không ngoài 7 thứ này.
Nếu có
người trì danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng
cháy đặng, vì do sức oai thần của Bồ Tát này vậy. (1-
Lửa)
Lửa: lửa
Quỷ, lửa La sát, lửa sấm sét và lửa cây gỗ
v.v...
Nếu
chúng sanh cang cường khó giáo hoá Bồ Tát bèn dùng lối dương oai để khiến nó
khiếp sợ. Đấy là chiếc phục pháp môn,
nên tỏ oai lực. Nếu chúng sanh chơn thành thủ phận, bèn đem đức đến cảm hoá và
gia hộ cho nó. Đấy là nhiếp thọ pháp môn nên tỏ từ bi. Quan Thế Âm có đủ oai và
đức có đủ vô lượng thần thông biến hoá, cho nên mới có thể khiến người trì danh
hiệu được khỏi nạn. Ví như trăm ngàn sông có nước, trăm ngàn sông trăng hiện,
hữu cầu tất ứng, vô cảm bất thông. Từ xưa đến nay được sự cảm ứng của Bồ Tát
rất nhiều.
Có
3 loại lửa: Lửa quả báo- Lửa ác nghiệp,
lửa 5 dục lửa 8 khổ, lửa 5 trược tất cả đều là lửa ác nghiệp lửa này thông cả 3
cõi. Lửa quả báo: Thông suốt đến cõi trời sơ thiền - y báo chánh báo của
người đời hiện nay đều bị lửa đốt tức bởi quả báo của nghiệp báo đời trước cảm
đến. Lửa này ở cõi lục dục thiên cũng đều bị cháy, cháy đến cõi sơ thiền mới
tắt. Trời sơ thiền tại sao cũng bị cháy? Nhân vì người cõi trời này còn có tâm
giác quán, tâm này thuộc về hoả nên vẫn bị cháy. Lửa phiền não: thông suốt chín giới đều có. Lửa vô minh là lửa sân,
nó phựt một chút là có thể đủ cháy sạch rừng công đức. Sân tâm chính là lửa
phiền não. Lửa sân một khi phát, Huệ mạng có tổn hại ngay. Tham sắc dục là lửa
dục, lửa dữ sắc dục nó phát khởi như chạm phải điện chắc chắn là cháy thân. Tóm
lại phàm phu có lửa kiến tư phiền não, La Hán có lửa trần sa phiền não. Bồ Tát
có lửa vô minh phiền não, Phật tánh chơn không hoả tánh. Hoả tánh chơn không
thanh tịnh, bản nhiên khắp cả thế giới.
Hiện
nay xưng niệm danh hiệu Quan Âm chẳng diệt lửa quả báo mà còn năng trừ lửa ác
nghiệp và lửa phiền não nữa, tức nhờ oai thần của Bồ Tát vậy.
Nếu bị
nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát này liền đặng chỗ cạn. (2 - Nước.)
Ác
nghiệp thuỷ thông cả 3 cõi dụ khổ khổ, cõi sắc hoại khổ và cõi vô sắc hành khổ.
Cho nên gọi là bể khổ mênh mang. Phiền não thuỷ thông cả 9 pháp giới, tham dục
cũng là nước. Cho nên nói rằng sóng khổ ái hà cao vút 1000 vạn trượng. Thế nhân
mê muội trọn ngày suốt tháng quanh năm lận đận nơi bể khổ mênh mông. Nếu ai sực
tỉnh hồi đầu nhất tâm xưng danh niệm hiệu thì gọi là hồi đầu tức thị bỉ ngạn
nghĩa là liền đến bờ kia.
Giống
như cậu mù con của một trưởng giả giàu có. Vàng bạc châu báu của quý ngập nhà.
Vì mù nên mỗi khi lần đi phải đụng đến đồ đạt trong nhà, làm cho sự chướng ngại
đi lại của anh. Cho nên chàng sanh tâm chán ghét những đồ vật làm chướng ngại
cho việc đi lại cũng như chúng sanh mê muội bản tánh thời bị nước lửa làm tai
hại mà sanh phiền não. Nếu như quả báo hết trả lại nhãn quang cho cậu mù thời
những trân bảo đầy nhà tha hồ cậu thọ dụng. Thì cũng như chúng ta nhờ trì niệm
Quan Âm mà được quang minh rực rỡ, cho nên những nước lửa không thứ nào chẳng
phải Diệu pháp. Rồi nhân đây mà đem giáo hoá chúng sanh làm Phật sự vậy.
Nếu có
muôn nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô,
hổ phách chơn châu các thứ báu, nên vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe
thuyền của kia trôi tấp nơi nước quỷ la sát,
trong đó nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát
thời các người đó đều đặng thoát khỏi nạn quỷ la sát. Do nhân duyên đó mà tên
là Quán Thế Âm (3 -
nạn quỷ la sát)
3-
Hắc phong La sát quỷ: Hắc phong là quái phong. La sát quỷ thường ở những hòn
đảo bìa biển, nó chuyên bắt những người ở gần bìa biển ăn thịt. Thứ quỷ này miệng thường đỏ như chậu máu, mắt như
cái đồng linh. Tay như cái chỉa ba bằng sắt, mắt xanh, răng nhọn, rất nên kinh
sợ. Quỷ này mỗi khi đi khoái trá lắm. Lại có tên Tốc tật quỷ, là quỷ đi nhanh.
Những người đi biển tìm của báu chẳng mau gặp gió hắc phong thổi đến thuyền
trôi vào nước quỷ La Sát thời tính mạng của những người ấy khó bảo tồn được.
Nhưng nếu trong bọn có một người vì tính mạng của đại chúng sắp nguy khốn nhân
dấy mà phát tâm niệm danh hiệu Quán Thế
Âm Bồ Tát thời cả bọn nhờ đấy mà đồng thời được thoát đại nạn.
Tại
sao được thế? Bởi vì một người niệm Quán
Thế Âm, mà cả đám người kia đều nghe đến, trong tâm bọn họ đều có danh
hiệu đức Quán Thế Âm, sở dĩ vô hình
trung trong bọn họ đều được lợi ích thoát nạn.
Vô
minh hoả tức là hắc phong. Tức sự tức giận, sự thịnh nộ là hắc phong. Sự thịnh
nộ dẫn đến sự đánh đập, hình phạt v.v.. là Quỷ La Sát. Gió đen chỉ cho sự vô
minh mờ ám tâm trí của con người. Quỷ là dụ cho sự ám hại, dụ cho những sự bất
minh chánh đại là Quỷ. Ai có tâm sát hại, là quỷ La sát. Ác niệm là hắc phong.
Nếu quả thực là người quang minh chánh đại là quỷ chẳng dám đến gần.
Mỗi
khi khởi tâm động niệm là bị quỷ dòm thấy, thời bao nhiêu công phu
bị tan mất hết. Do đó, nên chúng ta tu tập đến khi nào nhất niệm bất sanh, thời
chẳng những quỷ chẳng đến gần mà thiên nhãn thấy cũng chẳng đến, tức là vô
thường, quỷ nó chẳng do đâu đến bắt ta được vậy.
Tất
cả chúnh sanh trong tâm đều có quỷ. Quỷ rình làm hại là hắc phong. Cho nên gặp
phải hắc phong bèn trôi vào trong nước Quỷ La Sát. Quỷ có ba thứ: Quỷ quả báo,
quỷ ác nghiệp, và quỷ phiền não. Thông suốt cả chín cõi đều có. Nhất tâm xưng
niệm danh hiệu có thể giải thoát được tất cả quỷ nạn. Nhất tâm bất loạn, tâm
thảy thanh tịnh thời Quán Thế Âm nơi tự tánh hiện tiền.
Nếu lại
có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế
Âm Bồ Tát, thời dao gậy của người kia cầm liền gảy từng khúc mà đặng
thoát khỏi (4-
nạn đao binh)
Chúng
sanh gây nghiệp thiên sai vạn biệt, rồi lại bị tai nạn nghiệp báo không đồng.
Nếu có người chính lúc đang bị phải đao binh gia hại, hoặc quốc pháp hành hình,
hoặc bị giặc cưỡng bức v.v.. chính bởi đã trót gây nghiệp ác đời trước, nên nay
bị phải người làm hại lại. Bỗng nhiên khởi niệm đầu mạnh mẽ, hồi tâm hướng
thiện, nhất tâm xưng niệm hồng danh Quán Âm để cầu cứu độ. Đương lâm bị hại là
ác cơ. Năng xưng danh hiệu là thiện cơ. Dùng thiện ác hai nghiệp làm động cơ
năng cảm. Chính khi tâm xưng danh, kẻ kia đang cầm dao gậy gia hại liền bị gảy
từng đoạn, nên khỏi bị nó sát hại tức được giải thoát.
(Nam Cung Tử Ngao bị đày đi đến tỉnh Vân Nam.
Vừa gặp lúc Trường Lạc Công làm loạn, thành bị vây. Nam Cung bị loạn quân bắt
chém. Lúc chém lưỡi dao cong gảy, Nam Cung không chết. Sau Trường Lạc Công tự
chém Cung nhưng không được).
(Lại có người bị vu khống là trộm cắp. Tội bị
tử hình. Người ấy trên đầu búi tóc có tượng Quán Âm. Khi đem ra tử hình, chém
ba dao không đứt. Giải ông về nhà mở búi tóc ra xem thấy tượng Quán Âm trên cổ
có ba lằn dao rõ ràng).
(Lại có một mệnh phụ rất tin Đức Quán Âm. Có
người chồng hay khoe khang với bạn bè mình vợ mình tốt đẹp mọi bề. Nhân đó có
người bạn muốn trêu chọc anh ta, bèn thừa lúc chồng của bạn đi vắng nhà, anh ta
đến chơi và nhìn trộm thấy được nốt ruồi kín trong nách. Vin cớ ấy bèn dèm pha
vợ bạn. Người bạn cả tin, sanh tâm hại vợ mình. Nhân đêm hôm dùng dao về nhà kêu
cửa chém vợ rồi bỏ đi. Xong việc ông ta
nghĩ lại ân hận bằng vài hôm quay trở về. Âm thầm lắng nghe tin tức,
nhưng không có chuyện gì bèn về nhà thì thấy vợ đang tụng kinh niệm Phật. Hỏi
cớ sự thì hôm ấy vợ anh không có ra mở cửa, và không nghe ai kêu, câu chuyện
quái lạ, bèn thấy trên đầu tượng Quán Âm có một lằn dao rõ ràng, mới biết Quán
Âm đi mở của cưú nạn vậy.)
Dao
có dao quả báo, dao ác nghiệp và dao phiền não. Thông cả chín cõi đều có.
Nếu quỷ
Dạ Xoa cùng La Sát đầy trong cõi Tam Thiên, Đại Thiên muốn đến hại người, nghe
người xưng hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời các Quỷ dữ còn không có thể dùng mắt
dữ mà nhìn người, huống lại làm hại đặng
(5. Dạ
Xoa- La Sát)
Nạn
quỷ Dạ Xoa, La Sát, quỷ Dạ xoa năng bay đi. Có thứ đi trên mặt đất, có thứ bay
trên không, sức lực của Dạ xoa cùng La Sát rất mạnh. Lực lượng của quỷ rất dữ
tợn, đồ chúng nó rất đông. Những thứ quỷ
này khi muốn đến làm hại, phá rối người thời khó mà chống cự nó được. Chỉ cần
nhất tâm xưng danh hiệu Đức Quán Thế Âm Bồ Tát là quỷ ấy trọn chẳng dùng ác
nhãn xem người, huống nữa đến làm hại ư?
Tính
của quỷ là ưa ở chỗ tối tăm, mà chỗ sáng láng trọn không có quỷ quái gì hết.
Trong tự tâm chúng ta, có ác niệm khởi lên vọng tưởng mê
mờ. Mưu kế của quỷ thì đa đoan, tối tăm không sáng suốt, cho nên mới có ác quỷ bên ngoài nó làm tai làm
nạn. Nếu như trì danh được nhất tâm bất loạn hết nghiệp chướng, trống mê tình,
một niệm không sanh thời tâm quang sáng rực rỡ ở tự tánh tự nhiên hiển lộ sáng
suốt tuyệt vời. Đến bây gìơ chẳng những quỷ ở ngoài chẳng thể đến làm hại người
được mà nó muốn thấy người bằng cách nào đi nữa vẫn chẳng thể thấy được.
(Thuở xưa có một nước ở gần biên giới một nước
quỷ La Sát. Muốn được yên ổn cuộc sống nước mình. Quốc Vương phải nộp cho La
Sát mỗi ngày một đứa con nít. Có một nhà chỉ có một đứa con duy nhất đến lúc
phải nộp mạng, với tình hình eo hẹp như thế, cha mẹ đứa bé tấu trình van xin
nhà vua xin tha mạng, nhưng với phép vua khó đổi nên đành phải hy sinh con
mình. Nhưng cha mẹ đứa bé là người có tin Quán Âm và thờ Quán Âm nên trước khi
đứa con ra nơi giao cho quỷ, cha mẹ phải dặn con phải niệm Quán Âm. Đứa bé vâng
lời niệm Quán Âm. Nhờ dấy quỷ không dám làm hại. Nhân chuyện này được cha
mẹ đứa bé trình lên vua. Vua truyền lệnh
cho mọi người trên toàn quốc phải niệm Quán Âm và trì kinh Phổ môn. Nhân đấy về
sau cả nước khỏi nạn quỷ La Sát.
Dầu lại có người có tội hoặc không có tội,
gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thảy
đều đứt rã, liền đặng thoát khỏi.
Nạn
gông cùm xiềng xích và nạn lao ngục. Nếu có phạm quốc pháp nên mới có tội lỗi,
hoặc không tội mà bị người vu khống oan uổng. Khi đã trót gặp bị gông cùm xiềng
xích, là hình phạt trói buộc nơi thân. Nếu năng trì niệm danh hiệu Quan Âm cũng
có thể khỏi tai nạn nầy. Có tội là do đời trước hoặc đời nay mà cảm đến, mà bị
oan ức, tuy đời nay không có ác nghiệp nhưng cũng bởi ác nhân đời trước đã tạo
ra, thế nên chẳng oán trời trách người.
Lại
xiềng xích, gông cùm bởi bị oan, hoặc phạm pháp nên bị trói buộc nơi thân thể
là thứ hữu hình, lại còn có thứ gông cùm xiềng xích vô hình nữa khác, tức là
những mối dây tình cảm liên hệ trong gia đình vợ, con, danh lợi... muốn thoát
khỏi hai loại xiềng xích nầy thì phải nhất tâm xưng niệm hồng danh Quan Thế
Âm, may ra được mãn nguyện phần nào.
Nhưng cũng chẳng cần phải xuất gia
hoặc phải li khai gia đình mới là thoát
tục. Mà chỉ nên tâm thường nêu duyên nơi Phật pháp vẫn quý lắm rồi.Cho nên có
câu chẳng lìa trần lao mà làm Phật sự
Nếu kẻ
oán tặc đầy trong cõi Tam thiên Đại thiên có một vị thương chủ dắt các
người buôn đem theo nhiều của báu trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó
có một người xướng rằng: '' Các thiện nam tử ! chớ nên sợ sệt, các ông nên phải
một lòng xưng hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát đó hay đem pháp vô uý thí cho chúng sanh,
các ông nếu xưng danh hiệu thời sẽ đặng thoát khỏi oán tặc này ''. Các người
buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát ! Vì xưng
danh hiệu Bồ Tát nên liền đặng thoát khỏi.
Những
khổ nạn ở cõi chúng sanh nhiều không thể kể xiết đâu chỉ có 7 nạn. Mà phẩm kinh
nầy ước chia có 7 nạn, là vì 7 nạn này thường hay xảy ra, chúng ta thường thấy
thường nghe. Cho nên 7 nạn này nó có thể bao quát hết tất cả mọi nạn khác vậy.
Hại mạng là oán, đoạt của là tặc. Đã giết thân mạng mà lại đoạt của, gọi là oán
tặc. Nếu chỉ hại mạng mà không đoạt của thì là oán chứ không phải tặc. Trái lại
gọi là tặc chứ không phải oán.
Ở
Dương Châu có gia đình cư sĩ 17 người.
Đương khi tặc Phỉ làm loạn cả gia đình đều niệm Quan Thế Âm Bồ tát. Quan Âm
mách mộng cho cư sĩ biết. Trong 17 người chỉ có một người vì định nghiệp đời
trước mà đến, ác báo khó tránh, chẳng phải dễ dàng gì mà cứu vãng. Sáng mai
giặc sẽ đến bọn chúng có tên là Vương Mã Tư, đời trước nó đã từng bị ngươi giết
16 đao. Hiện nay nhân duyên đã hội đủ, ngày mai sẽ gặp nhau, chắc ngươi phải bị
Vương Mã Tư giết lại 16 đao mà chết. Nhưng may chăng là do ngươi chân thành cảm
cách, hoặc có thể cứu nhau được. Sáng ngày mai lại cư sĩ bảo mọi người đi
tránh, chỉ một mình cư sĩ ngồi ở giữa nhà chờ và chuẩn bị một mâm cơm chay tử
tế. Quả nhiên đúng giờ ngọ bè lũ của Vương Mã Tư kéo đến. Tức thì cư sĩ hỏi
Vương Mã tư trước rằng: Anh có phải là Vương Mã Tư không? Đời trước tôi mắt nợ
anh 16 lát dao, ngày nay tôi chắc phải chết vì bàn tay anh. Mã Tư ngạc nhiên
hỏi: Tại sao anh lại biết tên họ tôi? Cư sĩ liền đem mộng Quan Âm thuật lại, Mã
Tư nghe xong và nói: Đời trước đã có quả báo với nhau như thế thì đời sau oan
oan tương báo trọn không khi nào rồi xong được. Mà oan nghiệp thì phải giải chứ
không nên buộc dính chùm lại nhau. Mã Tư bèn lấy con dao trở sống lại bằm vào
thân cư sĩ 16 dao để làm phép gọi là đòi lại 16 dao nợ mà y đã mắc nợ mình đời
trước thôi, chứ không giết làm chi. Sau việc giải oan xong cùng nhau đến bàn
cơm chay vui vẻ và giải thoát
Thế
nên biết rằng oán tặc là bởi ác nghiệp từ đời trước theo dõi đòi hỏi đến đời
nay. Lại nhờ nhất tâm xưng niệm nên định nghiệp ấy mới có thể cứu vãng được
giải thoát. Chúng ta từ vô thỉ đến nay oan gia đối đầu nhiều lắm, cần phổ biến
phương pháp siêu độ cho họ, làm được thời tất cả oan gia từ vô thỉ đến nay có
thể chuyển thành ân nhân.
Vô Tận
Ý - Quán Thế Âm Đại Bồ Tát sức oai thần cao lớn như thế !
Đoạn
này tổng kết văn 7 nạn trước. Đức Phật gọi Ngài Vô Tận ý Bồ Tát nói một lần nữa.
Chúng sanh bị khổ 7 nạn, nhất tâm xưng danh liền được giải thoát, là nhờ Quan
Âm có sức oai thần bất khả tư nghị vậy.
Đại
tức Đại tâm, Quan Thế Âm đã xả kỷ lợi tha, đủ đại đạo tâm, đại hành môn, 32 ứng
hoá thân, 14 vô uý thí, cho nên nghìn xứ cầu nghìn xứ ứng. Rộng lớn vô ngại
chẳng đồng với bình thường phàm phu, cho nên gọi là Đại Tâm Bồ Tát. Quan Thế
Âm Bồ Tát cứu 7 nạn là đem cho cảm ứng
tự nhiên, như trăng trên trời chiếu xuống nước mà thành bóng trăng dưới nước.
Nước không hề bay lên trăng, trăng chưa hề giáng xuống nước. Thế mà có cảm ứng
tự nhiên. Trăm ngàn vạn ức chúng sanh niệm
Quan Âm tức có trăm ngàn vạn ức cảm ứng. Quan Âm chưa hề đến chúng sanh,
mà chúng sanh chưa hề đến Quan Âm. Có cầu tất có ứng là duyên cớ oai lực bất
khả tư nghị vậy. Như vô tuyến điện vậy, đây phát kia nghe.
Nếu có
chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục thường cung kính niệm Quan Thế Âm Bồ Tát,
liền đặng ly dục.
Đoạn
này giải khổ 3 độc, trước đã cứu 7 nạn, chúng sanh có tham sân si nơi ý nghiệp
là phiền não trong tự tâm, cho nên cần phải giải trừ ba món độc đó nữa. Ba thứ
độc này chuyên làm hại pháp thân, dứt huệ mạng và đoạ vào địa ngục vĩnh viễn
không ra khỏi. Thật là thứ độc đáng sợ đến mức. Đối trị ba độc này y theo giáo
lý mà giảng nói: Nhiều dâm dục phải tu theo phép quán bất tịnh, nhiều giận dữ
phải tu theo phép quán từ bi, nhiều ngu si cần tu phép quán nhân duyên. Chúng
sanh nào cũng có ba độc này cả, nhưng kẻ có ít người lại có nhiều. Có người
nhiều tham dục, có người nhiều sân nhuế, có người chẳng tin nhân quả tức nhiều
ngu si, ai ai cũng có thói quen ba độc hoặc nhiều, hoặc ít, hoặc dày, hoặc
mỏng. Ba món tâm bịnh này phải công nhận là y dược của thế gian điều trị hoàn
toàn bất lực. Vì chúng sanh dâm dục mù mờ thầm kín, thói quen nặng nề khó rời
bỏ, khó buông thả xuống được. Chính tự mình vẫn biết nó là bất hảo, thế mà cũng
khó lấy lý lẽ để ngăn dứt nó. Nên biết ái căn của chúng sanh thật sâu sắc bền
chắc rất đổi nguy hiểm. Dâm dục là cội gốc của sanh tử.
Thử
xem từ xưa cho đến nay những hạn quân vương tể tướng anh hùng hào kiệt, đa phần
tránh chẳng khỏi cái lồng rọ ái tình, khiến đến nỗi thân hoại danh hư, nước mất
nhà tan, thật đáng tiếc hơn gì hết và đáng sợ hơn gì hết. Đại phàm chúng ta là
những người học Phật, tuy ai vẫn có thói quen ái dục, biết nó là xấu, nhưng mà
nhất thời buông nó chẳng phải dễ, rảy rứt nó khó rớt đi, cho nên phải dần dần
dứt hẳn nó mới thành công. Phương pháp đoạn dục theo giáo lý tu phép bất tịnh
quán để đối trị thì khả dĩ phá được lòng dâm dục. Nhưng phép quán thì tế nhị mà
tâm niệm con người thì thô phù, nên kẻ căn trí đần độn chẳng dễ dàng tu được.
Quán Thế Âm Bồ Tát là bậc đại y vương, tức nương lời dạy trong phẩm phổ môn,
thường niệm Quán Thế Âm Bồ Tát liền được ly dục, tuyệt dục. Dâm dục là một tên
đầu sỏ đứng đầu trong mọi tội ác và cũng là gốc của các điều khổ, ai chẳng run
sợ nên thường phải phát tâm dũng mảnh chuyên niệm Thánh hiệu vậy
Nếu
người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền đặng lìa
lòng giận
Giận là tỳ khí bạo phát, phát lửa
vô minh chẳng hay dung thọ nghịch cảnh được. Hờn là não loạn sanh nộ. Như có
người phẩm hạnh đoan chánh, không phải hạn người ngu si, người ấy thường nghe
kinh niệm Phật, trì giới, cúng dường, bố thí, phóng sanh làm mọi công đức.
Nhưng chẳng may lúc nào đó bị giận hờn nổi lên tức lửa vô minh phát hoả đốt
cháy hết công đức tức khắc, cho nên gọi sân hoả hừng hừng đốt cháy hết rừng
công đức, tức là năng diệt hạt giống rồi vậy. Lại nữa, khởi một niệm sân tâm,
mở tám vạn cửa chướng, cho nên đối với tất cả đều cần quan niệm cho là không,
chẳng nên vọng lự buồn phiền. Cần phải biết, sanh một sân tâm giết người đốt
nhà đánh đập, tranh đấu, kiện cáo mọi thứ, không một ác nào chẳng làm được.
Thường nhật sống với sân tâm, đến khi mạng chung, tâm ấy dẫn dắt đoạ làm loài
rắn độc, hổ mang, bò cạp, rắn rít v.v..
trong loài súc sanh. Giận hờn có 3 thứ
1. Thuận
lý: Nhân bị mắng chửi, phỉ báng, phá hoại nên phát lên tỳ khí. Tỳ khí này
sở dĩ phát ra với lý lẽ gần nhau, hợp với đạo lý, thuận với lý mà sanh. Gọi là
giận thuận lý.
2. Phi
lý: Không có đạo lý gì đáng kể, vô cớ mà phát lửa vô minh. Đấy gọi là độc
đầu vô minh. Thứ giận hờn này toàn vô lý do, gọi là phi lý giận. Ví dụ như một
người quen thói giận hờn gặp một việc nhỏ không vừa lòng mà phát ý xung thiên
cao hơn cái việc xảy ra, hoặc vô cớ giận không không., giận trời, giận đất, gió
mây mưa v.v..Đại khí như thế gọi là phi lý giận.
3. Tranh
luận giận: Lệ như khi đàm thuyết, thảo luận một điều gì, ban sơ ý đầu tâm
hợp dần dần kế đến anh phải, tôi trái. Rồi hai bên tự bảo thủ ý kiến của mình
là phải, đối phương là trái, nhân đó xảy ra tranh luận, rồi dẫn đến đánh đập
nhau, đấu nhau chẳng coi ai ra gì nữa. Tình trạng này hay xảy ra. Đấy gọi là
tranh luận sân.
Cho
nên tất cả giận hờn không ngoài ba thứ trên. Từ ngàn xưa đến nay, chiến tranh
luôn xảy ra cũng đều phát sanh từ sân tâm, khiến cho địa phương tan nát, nhân
dân thống khổ. Muốn trừ sân tâm phải tu phép Từ bi quán.Từ năng cho vui, bi
năng cứu khổ. Xét cho kỹ, chúng sanh từ vô thuỷ kiếp đến nay đã từng làm cha,
làm mẹ, bà con quyến thuộc của nhau. Nhưng ngày nay, đổi mặt thay da, nên cả
đám người chúng ta, chẳng ai biết ai trước đã từng tương quan với nhau như thế
nào. Sở dĩ, có người chọc tức ta, phản đối ta làm cho ta không vừa ý, thời nên
xem họ là phụ mẫu huynh đệ của ta từ thời quá khứ, tự nhiên sanh tâm hiếu thuận
cung kính khiến sân tâm dần dần uốn dẹp và dứt hẳn, thời nên dùng đức Từ bi
quán mà bồi dưỡng nó. Nhưng e người căn tánh đần độn, tu Từ bi quán không nổi,
tốt hơn dùng phương pháp thường thường nhất tâm cung kính niệm danh hiệu Đức Bồ
Tát Quán Thế Âm liền được lìa giận hờn, như một cơn gió thổi ngang đống lửa
nóng hừng chắc chắc bị tắt ngay tức thì.
Nếu
người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền đặng lìa ngu
si.
Có
một hạng chúng sanh tuy chẳng tham dục, cũng chẳng giận hờn. Hoặc tuy có học
vấn nhưng khốn nỗi bất tín nhân quả thiện ác. Họ cho rằng người chết là xong,
trở về cát bụi. Đấy là đoạn kiến, lại có hạng người cho rằng không có thiện,
không có ác. Đấy gọi là không kiến, đều là ngu si. Ngựơc lại, tuy không học
thức, nhưng thấu rõ được lý nhân quả, lòng chịu niệm Phật tu hành. Đấy là người
có trí tuệ. Người đời hể những thứ gì mắt chưa thấy đến tức là chẳng tin, cũng
là ngu si. Sở dĩ phạm vi ngu si rất rộng. Nếu người có nhiều ngu si nên tu nhân
duyên quán, tức có thể minh đạt được lý nhân quả, nhân duyên 3 đời. Phải biết
hiện nay chúng ta hưởng quả an vui là quả do đời trước đã tu hành thiện nhân
mới được thế. Đời nay làm ác là nhân đời
sau rước lấy ác báo là quả.
Lại
như có người nay làm ác, lấy sức người của người làm giàu cho mình mà vẫn bình
an vô sự, ngược lại có người vui tu bố thí ưa làm lành mà gia nghiệp lại suy
đồi. Người đời thấy thế sanh lòng nghi hoặc, cho rằng làm lành không có phước,
làm ác chẳng mang hoạ. Sở dĩ như vậy người đời không thấu hiểu được nhân quả ba
đời. Muốn biết được điều này như kinh nhân quả nói: Muốn biết nhân đời trước
thì hãy xem nay hưởng quả gì, muốn biết
quả đời sau thì hãy xem hành động đời nay. Cho nên nhân quả có ba thứ: Hiện
báo, sanh báo và hậu báo.
Cho
nên ta thấy người làm ác mà hưởng quả lành, là họ đang hưởng quả lành mà đời
trước lưu lại, còn việc ác đời nay nhân duyên chưa đủ nên ác quả chưa đến phải
đợi kiếp sau. Ngược lại người làm thiện
cũng thế, làm lành mà vẫn chịu quả ác nó đến, là do đang chịu quả báo ác đời
trước gây ra, còn nhân lành đời nay chưa đến. Người đời thường chẳng rõ đạo lý
này nên oán trời trách người, họ cho Phật Thánh không linh, đều do vì ngu si
che lấp. Xét cội gốc ngu si chẳng ngoài
hai thứ kiến chấp là Đoạn và Thường. Đây đều là Tà kiến. Sở dĩ như vậy, chúng
ta cần phải bình tĩnh sáng suốt chiêm nghiệm kỷ đạo lý nhân quả 3 đời, mới tin
nỗi chắc chắn và chẳng nghi gì nữa. Được như thế là đã phá được ngu si, trở
thành con người có trí tuệ. Nhưng pháp nhân duyên quán này không dễ dàng gì
thực hành cho mau có kết quả, chẳng bằng như thường cung kính xưng danh hiệu
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Niệm cho chí thành, năng phá được ngu si, khai trí tuệ.
Nhân vì Quán Thế Âm Bồ Tát là đấng Đại từ, Đại bi, tuỳ mãn chổ sở cầu của chúng
ta vậy.
Vô
Tận Ý Bồ Tát, Quán Thế Âm có những sức oai thần lớn nhiều lợi ích như thế, cho
nên chúng sanh thường phải một lòng tưởng nhớ.
Văn này
là câu kết, phải biết niệm Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng những phá sự tam độc của
lục độ phàm phu, mà lại còn có thể phá được lý
tam độc của A La Hán và Bồ Tát nữa. Người nhị thừa một bề say đắm nơi không. Đấy là dục ái.
Chán nản thế gian coi như hầm lửa, một bề ôm thái độ tiêu cực, khinh thị thế
gian là đáng nhàm, đáng ghét. Đấy là sân nhuế, họ chẳng biết Phật Pháp không mà
chẳng không, tức trung đạo diệu hữu. Say đắm nơi không, ngưng trệ nơi tịch, cho
là rốt ráo. Đấy là ngu si, đấy tức là lý tam độc của Thanh văn Duyên giác nhị
thừa.
Bồ Tát
ưa thích thần thông, dạo chơi thế giới, yêu đời xem ngắm thế gian, chấp tướng
độ sanh, cho đến trung đạo pháp ái. Đấy là dục ái. Nhàm chán tiêu cực chấp
không của nhị thừa, cho đến nới bỏ hai bên chán ghét không hữu. Đấy là sân
nhuế. Chẳng thấu rõ trung đạo cũng không cũng hữu, phi không phi hữu. Không mà
chẳng không là diệu hữu, hữu mà chẳng
hữu là chơn không. Chẳng hiểu rõ chơn không bất
không, diệu hữu phi hữu tức là diệu nghĩa trung đạo viên dung tuyệt đãi.
Đấy là ngu si. Đấy tức là lý tam độc của Bồ Tát. Nếu xưng niệm danh hiệu Quan
Âm, niệm đến chân đế sự nhất tâm bất loạn, có thể phá sự tam độc kiến tư hoặc
của phàm phu, thấy được chơn không Quan Thế Âm Bồ Tát. Niệm đến tục đế sự nhất
tâm bất loạn phá được sự tam độc trần sa phiền não của nhị thừa, thấy được diệu
hữu Quan Thế Âm. Niệm đến trung đạo lý nhất tâm bất loạn phá lý tam độc căn bản
vô minh thấy đến trung đạo Quan Thế Âm. Đến đấy tức có thể thành Phật xong.
Nhưng
đã dạy người niệm Quan Thế Âm được thành Phật, mà sao Quan Âm tự mình lại là Bồ
Tát? Bởi vì muốn độ chúng sanh mà thị hiện tướng Bồ Tát vậy thôi, Tam độc đã bị
phá tức thành tựu pháp thân, Bát Nhã, giải thoát ba đức mật tạng. Sở dĩ Phật
Thích Ca mới gọi Vô Tận Ý Bồ Tát rằng ngươi xem Quan Thế Âm Bồ Tát có sức Đại
oai đức thần thông như thế mới ban cấp cho chúng sanh các món lợi lạc. Đấy là
nguyên do, cho nên sở dĩ chúng sanh cần phải thường tâm niệm, chứ chẳng nên chỉ
có miệng niệm suông, cho nên gọi là thường phải tâm niệm. Đại đa số những người
niệm Phật niệm Quan Âm chỉ có lỗ miệng mà tâm chẳng niệm, nghĩa là chẳng nhớ
mình đang niệm Quan Âm hay niệm Đức Phật nào đây, mà phải quyết định phải như
vầy ; Tâm nghĩ nhớ, miệng ra tiếng, và
tai lắng nghe cho rõ ràng, chẳng nên tư lường phân biệt. Được sức lực vĩ đại
như thế thời cảm ứng đạo giao vẫn dễ dàng mãn nguyện. Chữ niệm (
), trên chữ kim là nay, dưới chữ tâm là lòng. Tấm lòng hiện nay, ý nói:
Khi người niệm Quan Âm chẳng nên dùng tâm quá khứ mà niệm, không nên dùng tâm
vị lai mà niệm, chỉ nên dùng nhất tâm hiện tại không lệch về khứ lai mà niệm,
mới gọi là chánh niệm. Kinh nói tâm quá khứ đã diệt, Tâm vị lai chưa sanh,
chính đương lúc đó chẳng tiến mà đi, mới được sự lợi ích lớn lao vậy.
Nếu
có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quan Thế Âm Bồ Tát
liền sanh con trai phước đức trí tuệ, giả sử muốn cầu con gái bèn sanh con gái
có tướng xinh đẹp, trước đã trồng cội phước, mọi người đều kính mến.
Vô
Tận Ý ! Quan Thế Âm Bồ Tát có sức oai thần như thế, nếu có chúng sanh cung kính
lễ lạy Quan Thế Âm Bồ Tát thời phước đức chẳng luống mất, cho nên chúng sanh
đều phải thọ trì danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát.
Đoạn
nầy nói cầu nam được nam, cầu nữ được nữ, thoả mãn hai nhu cầu. Tại sao phải
cầu. Vì người nữ tâm trạng không con nối dõi sẽ bị người đời hoặc giòng họ chỉ
trích khinh khi cũng là nổi khổ không con, hoặc thiếu con, cho nên Bồ Tát lòng
từ bi tuỳ theo sở nguyện mà ban cho. Y theo Phật pháp con trai con gái đều là
thêm dây phiền não. Đối với thế
gian, con là sự nối tiếp của dòng dõi, cho nên cũng chẳng ngại gì, vì lòng từ
bi của Bồ Tát nên thị hiện để thoả mãn cho hai nguyện vọng khẩn cầu kia.
Người
Nam tiêu biểu cho trí tuệ, người nữ tiêu biểu cho đức hạnh. Trí tuệ và đức hạnh
là hai lãnh vực giúp cho người tu thẳng tiến đến mục tiêu giải thoát. Trí tuệ
và công hạnh còn tiêu biểu cho sự và lý, tức là sự học hỏi và thực hành.
Vô
Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh tự 62 ức hằng hà sa Bồ Tát, lại trọn đời cúng
dường đồ ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang, ý ông nghĩ sao? Công đức của
người thiện nam tử, thiện nữ nhơn đó có nhiều chăng?
Vô
Tận Ý thưa: Bạch Thế Tôn ! Rất nhiều.
Phật
nói: Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát nhẫn đến một thời lễ
lạy cúng dường thời phước của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm
nghìn muôn ức kiếp không thể cùng tận.
Vô
Tận Ý ! Thọ trì danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát đặng vô lượng vô biên phước đức
lợi ích như thế.
Đoạn
văn này là so lường công đức niệm danh hiệu Quan Âm. Cúng dường có bốn thứ:
thuốc men, thức ăn uống, áo mặc, và đồ nằm gọi là tứ sự cúng dường. Cúng dường
cho người xuất gia không ngoài bốn thứ này. Nhưng vị Bồ Tát tài bảo đầy đủ, vốn
chẳng cần ăn uống, áo mặc, thuốc men của thế gian nữa. Nhưng chẳng qua người có
thể phát tâm cúng dường khả dĩ để cầu phước mà thôi. Bởi vì hằng tu tâm bố thí
quyết cảm thọ được phước báo phong phú giàu có dư dã vậy. Cúng dường chia làm
hai phần: Tứ cúng ngũ cúng v.v.. đều là ngoại cúng dường, còn nội cúng là cung
kính lễ bái, khẩu tụng tâm suy, đây gọi là thân khẩu ý ba nghiệp cúng dường.
Nếu có
người trọn đời trì danh hiệu của 62 ức hằng hà sa Bồ Tát và do thân nầy chuyên
môn cúng dường như thế đấy là đại công đức. Đức Phật nói công đức của người nầy
cố nhiên nhiều lắm. Nhưng lại đem so với một người chỉ đơn thuần trì danh hiệu
Quan Thế Âm Bồ Tát mà không trì danh hiệu 62 ức hằng hà sa Bồ Tát kia và cũng
chẳng tứ sự cúng dường trọn cả một đời người mà chẳng lễ bái cúng dường nhất
thời mà thôi. Thì người nầy công đức không hơn không kém người kia.
Vì sao
thế, vì Bồ Tát là Bồ Tát ở trong tâm chúng sanh, tức là lễ bái Bồ Tát nơi tự
tánh, chúng sanh là chúng sanh ở trong tâm Bồ Tát. Đem chúng sanh ở trong tâm
Bồ Tát mà đảnh lễ Bồ Tát ở trong chúng sanh. Nên phải quan sát năng lễ sở lễ
tánh đều vắng lặng trọn chẳng khá được. Được như thế mới là đem chân tâm lễ
bái, chân thật cúng dường Bồ Tát, tự có cảm ứng bất khả tư nghì. Đấy là điều mà
những người học Phật chẳng khá chẳng biết vậy.
Cho nên
nói người này ở trong một ngày 24 giờ, dành riêng một giờ lễ bái, thời gian
không lâu như trọn cả đời sống đấy là thời gian ít. Chỉ hướng về một Đức Quan
Thế Âm mà không trì nhiều danh hiệu 62 ức hằng hà sa Bồ Tát, cũng không tứ sự
cúng dường đầy đủ, đấy là cúng dường ít. Thói quen của người đời, căn cứ theo
mặt nổi ở bên ngoài mà đem so sánh, cho kẻ trước phước đức hơn kẻ sau, nhưng kỳ
thực, phước của hai người kia ngang nhau không ai hơn kém.
Nhân vì
Quan Thế Âm từ vô lượng kiếp đến nay đã sớm thành Phật. Mà hiện tại thị hiện Bồ
tát mục đích để độ người, cho nên công đức cao cả bất khả tư nghì. Cho nên ai
thường hay kễ bái cúng dường cũng chính như lễ bái cúng dường 10 phương chư
Phật. Cho nên trì danh hiệu Quan Thế Âm có phước đức lợi ích vô lượng vô biên
như thế.
Cũng ví
như một lượng vàng quý hơn 100 kg bông vải. Lại như ngọc Ma Ni bảo châu một
viên giá trị hơn ngàn vạn thứ ngọc khác. Lại như bố thí hàng vạn người ác không
bằng bố thí cho một người hiền. Cúng dường cho 1000 tăng phàm phu không bằng
cúng dường cho một vị A La Hán. Cúng dường cho 1000 vị A La Hán không bằng cúng
một vị Bồ Tát. Bởi vì phàm phu chưa xong sanh tử, La Hán không chịu độ sanh. (Thuở xưa có một vị La Hán ra đi cùng một đệ tử,
khi đi trao khăn gói cho đệ tử mang theo sau cùng đi, đệ tử giữa đường xem thấy
người nông phu trong đám ruộng làm lụng khổ nhọc, bèn phát tâm Bồ Tát, muốn
rộng độ người ấy. Thầy biết tâm niệm của người đệ tử bèn lấy khen gói tự mang,
đến lúc sau đường xa khó khổ, đệ tử bèn nghĩ hạnh tu Bồ Tát khó khổ nên thối
tâm. Rồi một lúc khác lại nghĩ tuy hạnh Bồ Tát khó khổ nhưng thành Phật, nên
phát tâm trở lại, lúc này thầy biết bèn lấy khăn gói trở lại. Cuối cùng đệ tử
nghi hỏi thầy sao lúc thầy đưa con lúc thầy lấy trở lại... .)
Đức
phật A Di Đà lúc đầu phát 48 lời nguyện người đời cho là điên khùng, cuối cùng
vẫn nhờ phát nguyện không lui mà được thành Phật đạo. Cho nên người phát nguyện
nghe kinh đấy cũng là phát Bồ đề tâm.
Cho nên
công đức của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cũng chính là công đức của mười phương chư
Phật. Sở dĩ lễ lạy Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cũng là lễ lạy 10 phương 62 ức hằng
sa Bồ Tát.
Công
phu tu hành của chúng ta nhiều niệm đầu tức nhiều vọng tưởng, ta thường cho
niệm càng nhiều càng hay, nhưng kỳ thật chẳng phải vậy. Phật pháp duy giản
chuyên duy hằng cần Tâm chẳng hai, tức là cùng khắp pháp giới cho nên bất tất
phải tham nhiều, khi thì tụng kinh kia, lúc sám, lúc trì chú, rộn ràng lăng
xăng không lúc nào rảnh, tuy không phải không có công đức nhưng có thể làm cho tâm
dễ tán loạn. Lại có người mai 3, chiều 4, ưa mới chán cũ, tự mình chẳng có bản
lãnh gì cả, chẳng bằng chí thành khất thiết, chuyên một không hai trì tụng phẩm
Phổ Môn, hoặc chuyên niệm Quan Thế Âm Bồ Tát thời chắc được lợi ích nhiều đến
vô lượng vô biên.
Câu
chuyện kẻ sĩ Cao Phiền, lấy mgười vợ họ Phàn, tự là Giang Thành. Người vợ này
có sắc đẹp nhưng tánh tình hung bạo, do đây Cao Phiền buồn khổ, nhưng có bà
nhạc mẫu là người hiền lành biết được sự đối đãi con mình với chồng không tử
tế, nên bà lo âu. Rồi bà thiết lễ cầu nguyện Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, xin gia
hộ. Đêm bà mộng thấy rằng: Con gái của bà kiếp trước là một con chuột trường
sanh đã sống trong một ngôi chùa lâu năm, do vị Hoà thượng chùa nuôi dưỡng.
Kiếp trước Cao Phiền là tên học trò đã từng ở nhờ trong chùa ấy đọc sách, y đã
làm chết con chuột kia. Với hiện tại tạo một quả báo trả lại ngày xưa, cho đến
khi nào chết mới xong. Nhưng nếu niệm Phổ Môn, có thể cứu được. Bà nhạc mẩu kể
lại và khuyên con rễ và cả nhà trì niệm trên vài tháng nhưng chưa thấy hiệu
nghiệm gì. Họ mới bảo anh tú Cao Phiền cùng nhau phát tâm hằng thường đồng trì niệm. Bổng nhiên có một vị
tăng đến, lão tăng này rất giỏi tướng thuật rất tinh tường và minh đạt lẽ nhân
quả, bấy giờ dân làng tranh nhau hỏi việc cát hung, Phàn Thị vợ anh Tú cũng đến
thầy lão coi như mọi người. Khi lão thấy cô, Ngài liền trực thị lên mặt cô và
đọc bài kệ 6 câu, rồi dùng một chén nước ngậm trong miệng rồi phun lên mặt cô.
Lúc ấy mọi người ngạc nhiên sẽ cho rằng cô ta thế nào cũng hành hung thầy lão,
nhưng trái lại ai ngờ cô Tú vẫn điềm nhiên mặc cho lão phun nước làm phép. Sáu
câu của thầy lão nói: '' Này đừng nên giận, đừng nên giận nữa, kiếp trước chẳng
giả, việc nay cũng chẳng thiệt, khốn nạn chuột mi cắm đầu chạy, đừng cho mèo
đuổi bắt. '' Cô Tú nghe xong, tức liền
tỉnh ngộ, và cũng từ đấy về sau cô ta cải đổi tánh tình
Ngài
Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật rằng; '' Thế Tôn ! Quan Thế Âm Bồ Tát dạo đi trong
cõi Ta Bà như thế nào? Nói pháp cho chúng sanh như thế nào? sức phương tiện
việc đó như thế nào?
Phẩm
nầy có hai phen vấn đáp. Từ trước đến đây là phen vấn đáp thứ I, là giải thích
nguyên do lập tên Quan Thế Âm. Đoạn này vấn đáp II, là hỏi vì lý do gì mà có
Phổ Môn thị hiện. Ngài Vô Tận ý lại một lần nữa xin hỏi Phật Thích Ca rằng:
Quan Thế Âm Bồ Tát ở Tây phương Cực Lạc thế giới, sau Phật A Di Đà sẽ thành
Phật hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật. Vậy hiện nay Ngài là vị Bồ Tát
ở Tây phương, mà tại sao đến dạo khắp trong cõi Ta Bà thế giới này? Ta bà là
tiếng Phạn, Tàu dịch là kham nhẫn, là chúng sanh năng nhẫn chịu 5 trược ác thế,
3 khổ, 8 khổ, lại sống say, chết mộng, lấy khổ làm vui, chẳng tự giác, tự ngộ
rồi cuối cùng bị sanh tử, cho nên gọi là Ta bà thế giới.
Phật
pháp cốt muốn làm cho chúng sanh thấu rõ các khổ sanh, lão, bệnh, tử, mà phá cái
vô minh cho con người, Quan Thế Âm Bồ Tát đến dạo đi trong Ta bà rốt ráo nói
những pháp gì? dùng phương tiện và việc giáo hoá chúng sanh như thế nào? Quan
Thế Âm Bồ Tát đến Ta bà thế giới là chẳng đến mà đến. Vì Quan Thế Âm ở cõi Cực
Lạc thế giới thật chưa từng động, như ánh sáng mặt trăng trên trời. Quan Thế Âm
ở Ta bà thế giới như trăng ở dưới nước 1000 sông, có thần thông biến hoá trăm
nghìn vạn ức hoá thân, mà bất động bổn tế, vẫn đến dạo đi trong cõi Ta bà gọi
là thân luân giáo hoá bất khả tư nghị. Quán Thế Âm vì chúng sanh vô thuyết mà
thuyết. Đại, tiểu, quyền, thiệt, thiên, viên, các phương pháp, các pháp môn,
gọi là khẩu luân giáo hoá bất tư nghị. Tuỳ căn cơ ứng biến gặp cơ duyên hoá
hiện. Bởi tài năng thi thiết giáo hoá, nên dùng phương pháp nào mới được tiện
nghi, tức dùng ngay phương pháp ấy, mà hiện thân thuyết pháp, gọi là ý luân
giáo hoá bất khả tư nghì.
Đức
Quán Thế Âm dùng ba luân giáo hoá chúng sanh bất khả tư nghì. Luân nghĩa là
bánh xe có công năng lăn chạy làm lợi ích cho người và vật. Ở tại chúng sanh
gọi là ba nghiệp mà ở Quán Thế Âm thời gọi là ba luân cũng gọi là ba mật. Hoặc
hiện Phật, hoặc hiện Bồ Tát, Tỳ kheo, Nam, nữ v. v.. do tam luân thân khẩu ý
đến giáo hoá chúng sanh có thiên sai vạn biệt. Như một tấm gương lớn trong sáng
dựng đứng trước, bản thể nó thanh tịnh, vì không có một vật gì cả, nhưng tuỳ sở
ngộ mà hiện vậy thôi. (ở Quý Châu huyện
Tu văn, nơi động Bạch Sơn dân làng lập ấp sinh sống dưới chân núi, Quan Thế Âm
biết núi sẽ sụp, núi lỡ đá sẽ đè cả làng, nhưng nhờ Quan Thế Âm thị hiện cứu cả
làng không ai bị chết, vì nhân đi xem một cô gái trẻ đẹp tắm trong khe suối
nước mát trong. Do đấy ở nhà núi sập nên không có ai bị chết.)
Phật
bảo Vô Tận Ý Bồ Tát ; '' Thiện Nam tử ! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào
đáng dùng thân Phật đặng độ thoát, thời Quan Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật
mà vì đó nói pháp.
Từ
đây trở xuống chính giảng 32 ứng hoá thân của Quan Thế Âm Bồ Tát. Thân thể
chúng ta có tri có giác là hữu tình, gọi là chánh báo. Sơn hà đại địa thế giới
quốc độ, áo mặc đồ dùng là vô tình gọi là y báo. Chánh báo nương quốc độ và các
thứ y báo mà tồn tại, y báo cũng nương chánh báo mà có. Chánh báo có phước thời
y báo được phong phú đầy đủ. Ngược lại, chánh báo chẳng có phước, đương nhiên y
báo cũng xấu xa hèn kém. Chánh báo của chúng sanh có phân biệt ra 10 cõi. Y báo
quốc độ bởi đây nên cũng có chia riêng
nhiều vô lượng, Tựu trung có 4 thứ:
1- Phàm thánh đồng cư. Tức chổ nương ở của
6 phàm hữu lậu ngũ ấm chúng sanh. Như chúng ta ở cõi Ta bà thế giới tuy là chổ
ở 6 đạo chúng sanh. Nhưng như núi Phổ Đà là chốn đạo tràng của Đức Quan Thế Âm
Bồ Tát, núi Nga Mi là đạo tràng của Đức Phổ Hiền Bồ Tát. núi Ngũ Đài là đạo
tràng của Ngài Văn Thù Bồ Tát, núi Cửu Hoa là thánh địa của Đức Địa Tạng Bồ
Tát. Tuy là địa phương của phàm phu nương ở, nhưng đồng thời cũng là chổ ứng
hoá của 4 vị Đại Bồ Tát cho nên gọi là phàm thánh đồng cư.
2- Cõi phương tiện hữu dư: là chổ ở của
nhị thừa thánh nhân La Hán, Duyên Giác, gọi là nhị thừa chúng sanh. Lại xưng là
vô lậu ngũ ấm chúng sanh. La Hán lấy Tứ đế làm cổ xe chuyển đi. Duyên giác lấy
12 nhân duyên làm cổ xe chở đi. Nhị thừa đã dứt được kiến tư phiền não, và ra
khỏi tam giới là cõi đồng cư phân đoạn sanh tử, cho nên thế giới Nhị thừa trang
nghiêm thanh tịnh. Nhưng lại phương tiện đạo, tức con đường phương tiện. Kinh
gọi là thành đô biến hoá vậy. Nhân vì chỉ liễu được nữa phiền não sanh tử mà
thôi, chứ chưa rốt ráo, lại còn dư thừa nên họi là cõi phương tiện hữu dư.
3- Cõi thật báo trang nghiêm là chổ nương
tựa của các Bồ Tát đang phá vô minh. Dùng nhân chân thật cảm quả chân thật, đem
nhân chân thật cảm báo chân thật. Sắc pháp, Tâm pháp, y báo, chánh báo, đều
trang nghiêm diệu hảo phi thường. Bởi vì Bồ Tát là đại đạo tâm chúng sanh, phát
tâm quảng đại độ thoát chúng sanh, chứa công nhóm đức và trồng hột giống Đại
phước nghiệp. Sở dĩ được tự tại vô ngại, nhỏ năng hoá lớn, ít năng hoá nhiều,
chánh báo có thể làm y báo, ngược lại cũng vẫn được, cho nên trong kinh nói:
Đầu một mảy lông năng hiện Bảo Vương Sát Hải, trong nột hạt trần khả năng
chuyển đại pháp luân. Sợi lông nuốt chứa hết nước cả biển. Hạt cải đựng cả quả
núi Tu di. Sắc tâm viên dung, y chánh vô ngại. Đấy đều là nhờ trong nhân Bồ Tát
tu đủ lục độ vạn hạnh các nón công đức mà được trang nghiêm, cho nên gọi là cõi
thật báo trang nghiêm. Trước đấy là 9 pháp giới của lục phàm tam thừa vậy.
4- Cõi thường tịch quang: là chổ Phật nương
ở. Phật là vô thượng chúng sanh, bởi vì Phật đã rốt ráo hết sạch sanh tử, không
ai trên hơn được, nên gọi vô thượng Tịch
là đại tịch diệt hải bất sanh bất diệt yên lặng thường hằng, tức là giải thoát
đức. Quang là Đại quang minh tạng thiêng liêng sáng suốt soi thông, tức là Bát
nhã đức. Thường tức là Tịch với Quang chẳng 2, suốt xưa suốt nay, tức là pháp
thân đức. Mà gọi tên cõi Thường tịch quang, tức là Mật tạng của ba đức ấy vậy.
Đến đấy mới thật là cõi rốt ráo, Ba cõi đồng cư phương tiện thật báo là sự. Duy
cõi Thường tịch quang là lý. Ba thân Phật lấy trăng làm dụ để hiểu: Bản thể
trăng là pháp thân Phật. ánh sáng của trăng là Báo thân Phật. Trăng dưới nước
là ứng hoá thân Phật.
Người
đáng dùng thân Duyên giác đặng độ thoát, liền hiện thân Duyên giác mà vì đó nói
pháp.
Đây
là hiện thân Duyên giác thứ 2. Dưới Phật vốn có Bồ Tát mà vị Quan Thế Âm là đã
hiện thân tướng Bồ Tát rồi nên không có hiện thân Bồ Tát nữa. Duyên giác là
người sinh ra đời gặp Phật, lãnh thọ giáo pháp 12 nhân duyên mà chứng ngộ. Còn
có vị độc giác ra đời không gặp Phật mà tự mình chiêm nghiệm tu rồi đắc đạo gọi
là độc giác. Vị nầy tỉnh tu đạo nghiệp ở núi sâu rừng vắng, xuân xem trăm hoa
nở, thu thấy lá vàng rơi. Rồi cũng nhân đấy mà biết tự tánh không sanh không
diệt. Không Thầy tự khai ngộ gọi là Độc giác. Còn đương thời Phật nói 12 nhân
duyên, do duyên sanh diệt, mà ngộ được lý bất sanh diệt chơn không, nên gọi là
Duyên giác.
Người
đáng dùng thân Thanh văn đặng độ thoát liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói
pháp.
Đây
là hiện thân Thanh văn thứ 3. Thanh văn tức là La Hán. Do nghe âm thanh pháp Tứ
đế mà được ngộ đạo, gọi là Thanh văn. Tứ đế là gì? Tức biết khổ, Dứt tập, mộ Diệt,
và Đạo. Biết khổ mới dứt Tập được, cho nên biết khổ là cửa trước để tiến vào
Đạo vậy.
Chúng
sanh hiện đang nhung nhúc lặn hụp nổi chìm trong biển khổ mênh mông không bờ
bến, trọn đời mãn kiếp chịu khổ mà không hề hay biết khổ. Trái lại đem khổ làm
vui. Đấy tức là có khổ mà không có đế vậy. Chữ Đế có nghĩa là chơn thật chẳng
hư dối. Nếu ai biết chân thật là khổ, mới quyết định cần tìm xét căn nguyên của
khổ mà dứt cái tập nhân. Nếu chẳng như thế, chẳng bao giờ dứt được phiền não
tập nhân là khổ quả trọn chẳng mất được. Mà muốn dứt tập nhân phiền não, quyết
phải thực hành Đạo đế, là chân nhân xuất thế vậy. Đạo là gì? là Giới, Định, Huệ
vậy. Như nhất tâm niệm Phật, ba nghiệp thanh tịnh, chẳng trì giới mà giới tự
trì. Niệm đến nhất tâm bất loạn, yên yên lặng lặng vậy, tức là Định. Niệm được
huệ chiếu hiện tiền rõ ràng vậy, tức là Huệ. Tu hành Giới, Định, Huệ này tức là
Đạo vậy. Mục đích đối trị tham, sân, si là tập nhân phiền não. Khổ nhân đã
tiêu, thời khổ quả tự diệt, tức chứng được Diệt đế là chân quả xuất thế. Sở dĩ
mộ Diệt thời phải Tu Đạo. y theo Tứ đế như thế, tu trọn là đoạn hoặc chứng
chơn, gọi là La Hán Thanh văn.
Người
đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói
pháp.
Cung
trời sắc giới có vị Đại Phạm Thiên Vương quản lảnh Đại Thiên thế giới, không
còn ái dục, sắc thân thanh tịnh nên gọi là Phạm Thiên. Mà xưng Phạm Vương là
chẳng những đoạn dục lìa ái, tu ngũ giới, thập thiện đầy đủ, được định lực sơ
thiền mà còn Từ Bi Hỷ Xả 4 món vô lượng tâm nữa. Như thế là tu 4 vô lượng tâm,
đủ đại phước huệ mới được làm Đại Phạm Thiên Vương. Nếu chỉ dứt dục tu sơ thiền
là Phạm Thiên Tử, mà gồm tu từ, bi, hỷ, xả, tự lợi, lợi tha là mới đến địa vị
Phạm Vương.
Người
đáng dùng thân Đế Thích đặng độ thoát liền hiện thân Đế Thích mà vì đó nói
pháp.
Đế
Thích lại xưng Thích Đề Hoàn Nhân, thế tục gọi là Ngọc Hoàng. Gia Tô giáo gọi
là Thượng Đế tức là Đao Lợi Thiên Vương. Đề Thích Tàu dịch là Năng tác chủ, tức
vị Thiên chủ thứ 33 cung trời, như ta thường nghe Ngọc Hoàng Thượng đế (tích truyện
cổ PG cô gái nghèo thấy tượng Phật Ca Diếp, phát tâm tu phết, thuê 32 người thợ
làm tượng Phật. Sau đó, phước ấy cô sanh làm Thiên chủ, còn 32 vị thợ làm 32 vị
thiên tử ở 32 cung trời).
Trời
Thiên Đế lấy 1000 năm làm một tuổi thọ, nhân gian 1000 năm ở cung trời ấy là
một ngày một đêm. Quán Thế Âm Bồ Tát nhân vì nguyên do chúng sanh có tin Đế
Thích nên chẳng ngại gì hiện thân Đế Thích cho hợp với sở thích của nó. Nhiên
hậu mới dắt dần vào Phật đạo. Cũng là làm phương tiện nhiếp thu dẫn dụ khiến nó
được giải thoát.
Người
đáng dùng thân Tự Tại Thiên đặng độ thoát liền hiện thân Tự Tại Thiên mà vì đó
nói pháp.
Nói
Tự Tại Thiên tức Tha Hoá Tự Tại Thiên vậy. Trời này hay bắt các cung trời bàng
cận chung quanh đến hoá hiện làm nhạc sĩ đánh nhạc cho vui để tự mình hưởng thú
vui thích, thu nhiếp họ làm của riêng mình, tự do vô ngại, nên mới gọi là Tha
hoá Tự Tại Thiên. Cũng tức cung trời Ma Vương- Quán Thế Âm Bồ Tát vì muốn giáo
hoá loại thiên ma này, tức hiện thân Tự Tại Thiên mà vì nói pháp khiến nó được
giải thoát.
Người
đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên- thân Thiên Đại Tướng Quân- thân Tỳ Sa Môn
Thiên đặng độ thoát liền hiện thân Tỳ Sa Môn mà vì đó nói pháp.
Trên
chót đỉnh Tứ Thiền thiên là cung trời Ma Hê Thủ La, tức Đại Ma Vương Thiên,
trời này có tám tay ba con mắt. Ma này lực lượng rất dữ tợn, Thiên Đại Tướng
quân như ngài Vi Đà Thiên Tướng, nguyên là một vị Đại Bồ Tát hoá hiện đến để
làm thần hộ pháp. Tỳ Sa Môn là Bắc phương thiên vương, một trong tứ thiên vương
thiên. Đông phương gọi là Trì Quốc Thiên Vương,
Nam phương gọi là Tăng Trưởng Thiên Vương, Tây phương gọi là Quảng Mục
Thiên Vương, Bắc phương gọi là Đa Văn Thiên Vương, Tỳ Sa Môn tức Đa Văn Thiên
vương là thủ lĩnh của tứ thiên vương. Nói một gồn cả 3 kia là đủ 4 vậy. Quán
Thế Âm Bồ Tát hoặc hiện Đại Tự Tại Thiên, hoặc hiện Thiên Đại Tướng Quân hoặc
hiện Tứ Thiên Vương. Hiện các thứ thân
không một thứ nào chẳng phải tuỳ loại thị hiện mà giáo hoá chúng sanh. Thường
gọi là hiện thân đồng loại, dạy chỉ pháp tương đương với căn cơ mà giáo hoá
vậy. Xét cho rốt ráo, đều quy về mục đích duy nhất khiến cho chúng sanh được
thành Phật. Từ trước đến đây đã giảng xong 6 thứ thị hiện hoá thân của Thiên
Đạo.
Người
đáng dùng thân Tiểu Vương- thân Trưởng Giả- thân Cư Sĩ- thân Tể Quan- thân Bà
La Môn- thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni- Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di liền hiện thân đó mà vì
họ nói pháp.
Đoạn
này nói thị hiện thân ở nhơn đạo, người nhân gian có Quốc Vương, Trưởng giả, Tể
Quan bách tánh, Tiểu vương là quốc vương thế gian. Chuyển luân thánh vương xưng
là Đại Vương. Thời đại xưa vua gọi là Quốc
Vương, nay gọi là Tổng thống, Chủ tịch đều là những người nắm quyền hành
thế lực trong một quốc gia. Nếu trong nước vị vua hay chủ tịch tin mến Phật
pháp tu học theo Phật pháp thì từ trên quan xuống thứ dân ai ai cũng bắt chước
làm theo tu học. Vả lại, không có những nạn chống phá đạo pháp, nhờ thế mà Phật
pháp được lưu thông một cách dễ dàng. Như ở Trung Quốc thời nhà Đường có Đường
Thái Tông, nhà Nguyên có Nguyên Thế Tổ, nhà Lương có Lương Võ Đế đều là những
vị vua tin Phật làm cho Phật giáo Trung Quốc lớn mạnh. Nước ta như vua đời nhà
Lý, nhà Trần đều tin Phật, không những làm cho Phật pháp phát triển mạnh mà còn
làm cho văn hoá- chính trị- kinh tế thời đó phồn vinh thịnh vượng.
Trưởng
giả là người đạo cao đức trọng thấy nhiều hiểu rộng
được mọi người láng giềng kính nể, của cải sung mãn. Vừa giàu tâm đức, vừa lớn
vật chất nên lời nói của vị Trưởng giả ai cũng tin yêu. Vì thế Quán Thế Âm Bồ
Tát hiện thân trưởng giả để độ chúng sanh.
Cư sĩ là
người tại gia học Phật phàm những ai không tham danh lợi chẳng màng phú quý,
đạm bạc giữ đời, liêm khiết an ẩn cư xử, sáng suốt hiểu biết lẽ đời nhân cách
cao thượng hoặc thọ Tam quy, ngũ giới, thanh tịnh tự tu không bị phiền não trói
buộc, kham nhẫn mọi việc lấy tự thân làm gương cho mọi người đều gọi là cư sĩ.
Tể tức
quan lại,
là loại bá quan đại thần như quận trưởng, huyện trưởng, uỷ viên, chủ tịch
chuyên viên, quan toà, thanh triều, tướng quốc gọi là Tể tướng. Bá quan đại
thần đều xưng là Quan, là những kẻ có quyền thế trong tay, chưởng quản tất cả
dân chúng, nếu những người này thượng hành Phật pháp thì hạ sự bắt chước làm
theo, cứ như thế mà khuyến hoá được hiệu lực rất lớn lao. Không những dùng thân
tể quan để giáo hoá mọi người ở dưới mà còn dùng thân tể quan để giáo hoá tể
quan.
Bà La
Môn
là quý tộc ở ấn Độ, Tàu có bách tánh, Ấn Độ có tứ chủng tánh.1/Chủng tánh vua
2/ Bà La Môn 3/ Bọn buôn bán 4/ Hạng nông phu, tôi tớ. Ấn Độ có hai dòng cao
quý là vua chúa và đạo sĩ, còn hai hạng kia bị coi thường.
Tỳ
Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di 4 chúng đệ tử của Phật. Tỳ Kheo
nghĩa là khất sĩ, phá ác, bố ma. Tuy là hiện tướng 4 chúng nhưng thật sự Quan
Âm vốn chẳng phải 4 tướng tăng ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Vì giáo hoá chúng sanh
mà thị hiện ra các thân ấy. Cho nên kinh nói "chẳng động chân đế, diệu ứng
không phương, khắp hiện pháp giới bản tánh vắng lặng".
Người
đáng dùng thân Phụ Nữ của Trưởng Giả, Cư Sĩ, Tể Quan, Bà La Môn đặng độ thoát
liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp.
Đoạn
này nói Quan Âm thị hiện tướng nữ nhân, hoặc làm bà phu nhân của ông Trưởng giả
hoặc hiện người phụ nữ của ông Cư Sĩ hoặc phu nhân của Tể Quan, hoặc vợ của ông
Bà La Môn. Sở dĩ hiện như vậy vì chúng sanh thế giới ta bà nặng tình ái dục,
cho nên Quan Âm dùng thân người nữ để giáo hoá rất dễ lãnh thọ dễ thành công và
lợi ích rất lớn. Quan Thế Âm Bồ Tát từ bi phương tiện chứ vốn không phải thân
phụ nữ, mà chỉ là phương tiện thị hiện để giáo hoá chúng sanh khiến cho được
giải thoát.
Người
đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ đặng độ thoát liền hiện thân đồng nam đồng nữ
mà vì đó nói pháp.
Đồng
nam là người con trai, ưa chủ nghĩa độc thân, ưa thanh tịnh, nguyện không lấy
vợ không gần người nữ gọi là đồng nam.
Đồng
nữ hạng người này họ nguyện không lấy chồng, do việc lấy chồng nuôi con là việc
khổ sở, nên nguyện thủ trinh tiết trọn đời. Hạng người này gọi là khuê nữ trinh
bạch tiết tháo ở vậy gọn gàn, gọi là đồng nữ. Trong kinh Pháp Hoa có Long nữ,
kinh Hoa Nghiêm có Thiện Tài Đồng tử. Từ trên đến đây hiện thân nhân đạo đã
xong.
Người
đáng dùng thân Trời Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La,
Ma Hầu La Già, Nhơn cùng Phi Nhơn đặng độ thoát liền đều hiện ra mà vì đó nói
pháp.
Bồ
Tát giáo hoá chúng sanh có pháp tứ nhiếp. 1/Bố thí nhiếp 2/ Đồng sự nhiếp 3/ Ái
ngữ nhiếp 4/ Lợi hành nhiếp. Quan Thế Âm Bồ Tát đối với Trời Rồng 8 bộ chúng,
với dị loại quỷ thần, súc sanh cũng tuỳ theo từng loại mà thị hiện, tức đồng sự
nhiếp.
Rồng chủng
loại có nhiều, có thứ ở biển, có thứ ở trên trời, rồng làm mây làm mưa. Rồng
giữ kho báu, phước báo cũng rất lớn, nhưng nghiệp chướng cũng rất nặng, nên
loài rồng không qua mắt được loài chim Đại Bàng. Chim Đại Bàng bắt rồng ăn thịt
như ăn bánh bột. Dạ Xoa hình thù rất
dễ sợ, mỗi khi đi chạy rất nhanh và khoái.
Càn
Thát Bà
là Khứu Hương thần. Vua trời Đao Lợi mỗi khi nghe nhạc thì đốt hương lên tức
Càn Thát Bà liền đến đánh nhạc, là nhạc thần của trời Đao Lợi. A Tu La dịch là không đoan chánh, tướng
mạo rất xấu xí, mà loại gái diện mạo rất đẹp. Theo thứ tự loại này ở dưới nhân
đạo, nương ở núi sâu, bìa biển cả. Họ có thiên phước nhưng họ không có thiên
đức. Thường cùng với trời Đao Lợi giao chiến nhau. Vua trời thua cầu cứu Phật,
Phật chỉ rõ nguyên do ngu si, tham dục, nghi ngờ, ghen tuông, sân hận mà đưa
đến đánh đập lẫn nhau. Ngài dạy kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa cho Ngọc Đế thọ trì.
Ngọc Đế đem kinh ấy về thời A Tu La liền đại bại chạy trốn trong ngó sen. Kinh
ấy nghĩa là Đại Trí Tuệ rốt ráo ngu si chỉ có trí tuệ trừ mới thôi. Với sự việc
như trên cho ta thấy người tu tuy làm công đức, phước thiện nhưng phần nhiều
hay nghi ngờ, ưa tranh giành, ưa háo thắng, ưa hơn người cho nên chỉ có phước
mà không có đức. Do đó sau khi chết đoạ làm A Tu La.
Ca Lầu
La
tức chim Đại Bàng, một phen bay xa 8 vạn dặm, tánh ưa ăn rồng. Khẩn Na La đầu có một cái sừng, giống
như người mà không phải người tên là nghi thần, cũng là nhạc thần của trời Đao
Lợi. Ma Hầu La Già là rắn thần, Đại
Mãng Xà từ đầu đến bụng dài mà thô lắm.
Người là chỉ cho loài người. Phi
nhân là chẳng phải người chỉ cho các
loài súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục thảy. Quan Thế Âm Bồ Tát vì muốn cứu độ Trời,
Rồng,Quỷ, Súc sanh thảy tám bộ chúng sanh nên thị hiện các thứ thân ấy để vì họ
mà thuyết pháp khiến họ đều được giải thoát. Chính rõ là Bồ Tát từ bi phổ độ chẳng phân biệt giai cấp chủng loại gì
cả.
Người đáng dùng thân Chấp Kim Cang Thần đặng
độ thoát liền hiện thân Chấp Kim Cang Thần mà vì đó nói pháp.
Chấp
Kim Cang Thần là thần hộ pháp của Phật giáo. Phật giáo lấy từ bi làm bản hoài,
nhưng những người ác ở thế gian thường nghĩ muốn phá Phật giáo, thần Kim Cang
tay cầm dùi chày bằng chất báu, chuyên môn đánh những đứa ác mà bẻ gãy ác tâm
nó để nhờ giúp việc ủng hộ Phật pháp. Sở dĩ Phật giáo với chỗ dùng từ bi thì
dùng từ bi nhiếp thọ. Chỗ nên dùng oai mãnh để bẻ gãy nó thì dùng oai mãnh đối
với nó. Có oai có đức, 2 mặc đầy đủ mới làm xong việc. Đời quá khứ vô lượng
kiếp, Quốc vương có hai phu nhân, một người sanh 1000 con, người thứ hai sanh 2
con. 1000 người phát nguyện thành Phật. Phật Thích Ca thành Phật thứ 4. Hai
người con, người trưởng nguyện làm Phạm vương để cầu thỉnh Phật thuyết pháp, người
thứ hai nguyện làm lực sĩ hộ pháp tức thần Kim Cương.
Vô Tận
ý! Quan Thế Âm Bồ Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình dạo đi
trong các cõi nước để độ thoát chúng sanh, cho nên các ông phải một lòng cúng
dường Quan Thế Âm Bồ Tát. Quan Thế Âm Bồ Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay
ban sự vô uý cho nên cõi Ta bà này đều gọi Ngài là vị Thí Vô Uý.
Đây là đoạn văn tổng kết, Quan Thế Âm Bồ Tát
đem 32 ứng hoá thân thị hiện ở khắp mười phương, tất cả các quốc độ mà độ thoát
chúng sanh. Do đó nên Đức Phật mới bảo Vô Tận Ý rằng Quan Thế Âm Bồ Tát đã trọn
nên những công đức dường ấy, sở dĩ các người cần nhất tâm nhất ý cúng dường vị
Bồ Tát này. Với những khi gặp nạn cấp lo sợ, Bồ Tát Quan Thế Âm năng đem sức vô
uý để giải cứu tai nạn kia. Quan Thế Âm Bồ Tát đủ đại oai thần, có đại thế lực,
thời chúng sanh có 7 nạn 3 độc và bao nhiêu những lo sợ kinh hãi, khổ não mà
năng trì niệm thánh hiệu để cảm với Bồ Tát thời chắc được Bồ Tát đem cho oai
mảnh vô uý, khiến được giải thoát. Ngàn chỗ khẩn cầu ứng ngàn chỗ, không cảm mà
chẳng thông, cho nên đức Quan Thế Âm Bồ Tát còn có biệt hiệu Thí Vô Uý Giả nữa
vậy.
Vô Tận
ý Bồ Tát bạch Phật: “Thế Tôn! Con nay phải cúng dường Quan Thế Âm Bồ Tát”liền
mở chuỗi ngọc bằng các thứ châu báu nơi cổ giá trị trăm nghìn lượng vàng đem
trao Ngài Quan Thế Âm mà nói rằng "xin Ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí
này". Khi ấy Quan Thế Âm Bồ Tát chẳng chịu nhận chuỗi.
Đoạn
văn này nói Vô Tận Ý Bồ Tát phát tâm cúng dường Quan Thế Âm Bồ Tát. Vô Tận Ý
liền thưa Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, con nay xin tuân tôn mệnh, nhất tâm
cúng dường. Rồi tức thì tháo gỡ tràng chuỗi ngọc Anh lạc báu quý đang đeo nơi
cổ xuống dâng cúng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Tràng chuỗi anh lạc này gồm nhiều
các viên bảo châu xâu lại mà thành, thật là quý báu và trang nghiêm lạ thường,
giá trị nó đáng hơn 10 vạn lượng vàng, tức nhiều đến 100 cái, 1000 lượng vàng
ròng vậy. La Hán chỉ biết tự lợi chẳng chịu đi làm việc cầu phước, sở sĩ thân
thể ốm o tiểu tuỵ không có oai đức, không có chuỗi anh lạc trang nghiêm tức không
thị hiện oai đức. Bồ Tát tích cực cứu thế, nơi nào cũng làm lợi cho mọi người,
sở dĩ có phước báo lớn đầy đủ công đức pháp tài và có đại trang nghiêm. Vô Tận
Ý Bồ Tát là một vị Bồ Tát phước báo cũng rất lớn lao. Cúng dường bảo châu anh
lạc là sự nhưng trong ấy có hàm ẩn ý nghĩa rất sâu xa.
Nơi
trước sau cổ Vô Tận Ý là tiêu biểu Diệu thể trung đạo thật tướng, tức trung đạo
chân không Diệu hữu. Bảo châu anh lạc dụ cho Giới- Định -Huệ- Đà La Ni và các
pháp môn khác, để trang nghiêm cho trung đạo thật tướng ấy, chúng ta vẫn có thể
có thật tướng ấy, nhưng chưa có Giới Định Huệ, các Đà La Ni để trang nghiêm.
Cho nên chúng ta cần phải trì giới, tập định, học huệ và tu các pháp môn Đà La
Ni để thị hiện trang nghiêm lấy pháp thân của mình. Cởi tràng chuỗi bảo châu anh
lạc nơi cổ là tiêu biểu đã chứng được trung đạo pháp môn mà chẳng trụ tất cả
pháp môn để tỏ ra tu hạnh thường xả vậy. Đấy là tiêu biểu cho pháp.
Cúng
dường bảo châu anh lạc, nguyên thuộc về tài bố thí, mà sao gọi là pháp bố thí?
Phải biết tràng chuổi ấy là tràng chuổi bảo châu anh lạc ở trong tự tâm. Vì
ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp cũng không tâm. Bảo châu anh lạc tức tâm,
tâm tức bảo châu anh lạc.Tâm tức pháp, pháp tức tâm. Mắt thấy tai nghe tất cả
muôn vật không một vật nào chẳng thuộc tự tâm. Toàn vật tức tâm, toàn sự tức
lý. Cho nên tài thí chuyển làm pháp thí vậy. Nhưng đối với phàm phu chúng ta
chưa có thể như thế được. Cho nên tâm
với pháp cách ngại nhau, Tài với Pháp đều cách hẵn.
Ví
dụ có người đem của ra bố thí cứu nạn, tận lực thi hành. Rồi nhân đó tự cho
công đức mà mình đã làm được là to lớn lắm. Thế rồi gặp một vụ bị huỷ báng,
liền sanh lòng buồn rầu, tức khắc hiện sắc mặt không vui. Đấy là chấp tướng bố
thí. Và đấy cũng là nhân hữu hậu của người và trời. Nhân vì chẳng thấu rõ Phật
pháp, chẳng biết chúng sanh là ở trong tự tâm - cứu người tức cứu ta, cho nên
không công đức khả cư, thời đâu có lời huỷ báng nữa. Được như thế thì trọn ngày
làm công đức, mà chẳng ở nơi công đức. Vả lại làm việc ta và người là bổn phận
vậy, thời tuy tài thí cũng tức là pháp thí vậy. Nếu bố thí mà không quên, ba
luân chẳng không tức là có ý thức tác dụng, thời đối với Phật pháp chẳng thích
hợp chút nào cả. Khi xưa Đức Đạt Ma Tổ Sư mới đến Trung Quốc, Lương Võ Đế hỏi
Tổ: Trẫm làm công đức, làm chùa đúc chuông, độ tăng chúng. Những công đức ấy
như thế nào? Đạt Ma trả lời: Không có công đức gì hết! Bởi vì người chấp tướng
bố thí, bất quá hưởng được phước báo người trời mà thôi. Một khi phước báo ấy
hết, cũng y nhiên phải đoạ lạc. Vì hữu lậu bố thí là hữu lậu công đức vậy. Võ
Đế hỏi: chân công đức là thế nào? Tổ đáp:'' Tịnh trí diệu viên, thể tự trống
lặng'', phải nương theo thể ấy mà bố thí, và tất cả những hạnh nghiệp khác nữa
cũng đều nương nơi đó, mới gọi là vô lậu công đức. Tức pháp bố thí, tức gọi
chân công đức vậy. Tịnh trí là bố thí một cách thanh tịnh không nhiễm ô. Bố thí
như thế không có tâm phân biệt năng thí và sở thí, không có tâm tư lường trọn
đầy khắp, thanh tịnh bản nhiên châu biến cả pháp giới. Do đó mới gọi là diệu
viên. Vô Sở trụ mà sanh tâm bố thí, chẳng rơi vào Tâm - Ý - Thức mà tu bố thí,
năng thí sở thí đều vong, trọn chẳng khá được. Vì thể nó không tịch tức trống
lặng vậy. Vô trụ mà sanh tâm gọi là Tịnh trí Diệu viên. Được như thế gọi là
pháp cúng dường và pháp bố thí. Tóm lại chẳng chấp tướng bố thí phước bằng hư
không, lượng khắp pháp giới. Trái lại chấp tướng phân biệt thì có hạn lượng tức
thành hữu lậu công đức vậy.
Ngài Vô
Tận Ý lại thưa cùng Quan Thế Âm Bồ Tát rằng:”Xin Ngài vì thương chúng tôi mà
nhận chuỗi ngọc này". Bấy giờ Phật bảo Quan Thế Âm Bồ Tát:”Ông nên thương
Vô Tận Ý Bồ Tát này và hàng tứ chúng cùng trời rồng, Doạ xoa, Càn thát bà, A tu
la, Ca lầu La, Khẩn na la, Ma hầu la già, Nhơn và Phi nhơn v.v.. mà nhận chuỗi
ngọc đó.
Ngài
Vô Tận Ý thấy Ngài Quan Thế Âm Bồ tát không chịu nhận chuỗi ngọc cúng dường nên
lại mời thêm một lần nữa. Ngài Vô Tận Ý phát tâm cúng dường anh lạc và sự lợi
ích của chúng sanh nhân vì thấy chúng sanh chịu bao khổ nạn, thật chẳng thể nói
ra cho hết được, nên xin Ngài Quan Âm đem lòng từ bi thương xót bọn chúng sanh
này mà nhận chuỗi anh lạc cúng dường này cho. Vô Tận Ý vì tất cả chúng sanh mà
phát tâm cúng dường, vì quần chúng mưu cầu phúc lợi. Đấy mới thật là chân tâm
cúng dường. Và chính lúc ấy Đức Phật bảo Quan Thế Âm Bồ Tát rằng: ngươi nên đem
lòng từ bi mà nghĩ đến sự hảo tâm của Vô Tận Ý và 4 bộ chúng Thiên, Long, Nhân,
Phi nhân thảy mà nhận chuỗi anh lạc này đi.
Tức
thời Quán Thế Âm Bồ Tát thương hàng tứ chúng và trời rồng nhơn, phi nhơn v.v..
mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: Một phần dâng Đức Thích Ca Mâu Ni
Phật, một phần dâng tháp của Phật Đa Bảo.
Vô Tận
Ý ! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta Bà.
Đức
Quán Thế Âm Bồ Tát vì lòng thương xót bốn chúng và 8 bộ, sở dĩ chẳng nhận mà
phải nhận. Nhận xong lại đem chia làm 2 phần: một phần dâng cúng Đức Phật Thích
Ca- một phần cúng tháp Phật Đa Bảo. Khi Đức Thích Ca Mâu Ni giảng kinh Pháp
Hoa, ở ngay trước giảng đường, bổng hiện từ dưới đất vọt lên một ngôi tháp báu,
trong tháp báu có Đức Phật Đa Bảo. Đức Đa Bảo Phật là vị cổ Phật đã thành Phật
đạo từ vô lượng kiếp về trước và đã nhập diệt từ lâu rồi. Nay Phật Thích Ca
thuyết kinh Pháp Hoa là việc khó có khó gặp. Sở dĩ từ lòng đất vọt lên ngôi
tháp báu là để làm chứng minh công đức.
Đức
Phật lại nói với Vô Tận Ý rằng Quán Thế Âm Bồ Tát này có oai đức thần thông như
thế ấy, mới đến Ta Bà thế giới này có công đức rất lớn thật không thể nghĩ bàn.
Giảng phẩm Phổ Môn Quán Thế Âm Bồ Tát do bổn môn và tích môn thị hiện 32 ứng
thân dạo khắp cõi Ta bà đến đây đã xong.
Lúc đó
Ngài Vô Tận ý Bồ Tát nói kệ hỏi Phật rằng:
Thể
của kệ và thi giống nhau. Là lối văn thuật lại những ý tứ sâu sắc nơi văn
trường hàng trước hoặc bổ thêm những nghĩa mà văn trường hàng chưa đề cập đến.
Thế Tôn
đủ tướng tốt! Con nay lại hỏi kia
Phật tử nhơn duyên gì. Tên là Quán Thế Âm.
Bốn
câu này là lời hỏi của Vô Tận Ý. Đức Phật có 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp, đầy đủ
tướng hảo nên gọi là Diệu Tướng Cụ. Trước lời hỏi về Ngài Quán Thế Âm, Vô Tận Ý
khen ngợi Diệu Tướng của Đức Phật. Phật tử là chỉ chung cho 4 chúng. Đức Phật
lấy hoằng pháp làm sự nghiệp, lấy độ sanh làm công việc thường trực gọi là gia
vụ.Vậy chơn Phật tử là người lấy hoằng pháp độ sanh là sự nghiệp chứ không phải
chùa chiền, điền sản, vàng của tài vật, lo việc ứng đáp thù tạc là gia vụ của người
Phật tử thì không phải. Bởi vậy Đức Phật suốt 49 năm hoàn toàn lấy hoằng pháp
độ sanh làm sự nghiệp. Nay chúng ta là đệ tử của Phật cần phải noi gương Đức
Phật mà giáo hoá chúng sanh, giống như đạo của làm con, có trách nhiệm kế thừa
bảo trì gia nghiệp của cha ông để lại. Chẳng phải vậy, thời là những đồ bất
trung bất hiếu, không có gì trường cửu vĩnh viễn cả đâu phải đấy là chân Phật
tử ư?
Nhị
thừa La Hán chỉ biết tự lợi chẳng chịu làm lợi tha, nên không phải chân Phật
tử. Bồ Tát năng tự lợi, lợi tha, hoằng dương Phật pháp hoá độ chúng sanh, gánh
vác gia nghiệp của Như Lai, nối thịnh giòng Phật hoá, mới đáng gọi là chân Phật
tử. Cũng gọi là Pháp Vương tử. Ngặt nỗi có người muốn hoằng pháp độ sanh để làm
chân Phật tử, nhưng tự mình không thông hiểu Phật pháp thời làm thế nào đây?
Này đây, chỉ nên cứ một lòng xưng niệm A Di Đà Phật rồi khuyên mọi người niệm A
Di Đà Phật rồi bảo họ tu thêm giới bất sát, phóng sanh bố thí v.v... Đấy là tâm
địa của Bồ Tát rồi, mà cũng là hoằng pháp độ sanh và chân Phật tử nữa vậy. Cho
nên kinh nói: Nhất xưng Nam Mô Phật giai cộng thành Phật đạo.
Đấng đầy đủ tướng tốt. Kệ đáp Vô Tận Ý
Lời của Vô Tận Ý hỏi bằng bài kệ. Đức Phật
cũng dùng kệ đáp lại nên gọi là “kệ đáp Vô Tận Ý".
Ông
nghe hạnh Quan Âm Khéo ứng các nơi chổ
Thệ rộng sâu như biển Nhiều kiếp chẳng nghỉ bàn
Hầu
nhiều nghìn Đức Phật Phát nguyện
thanh tịnh lớn
Ta vì
ông lược nói Nghe tên
cùng thấy thân
Tâm
niệm chẳng luống qua Hay diệt khổ các
cõi.
Đức QuanThế Âm Bồ Tát dùng 32 ứng thân để ứng
hiện suốt khắp ngang dọc 10 phương thế giới, chẳng một thế giới nào không hiện,
suốt tột 3 thời quá khứ, hiện tại, vị lai, không một thời gian nào chẳng hiện.
Do đó nên xưng là Phổ Môn Đại Sĩ.
Hoằng
thệ là lời thệ nguyện rộng lớn và thiết yếu. Quan Thế Âm Bồ Tát khi xưa làm kẻ
phàm phu, đã từng phát 12 đại hoằng thệ nguyện rộng lớn vô biên, thẳm sâu vô
cùng như đại dương biển cả vậy.Vã lại từ vô luợng kiếp đến nay đã từng tu đạo
Bồ Tát, đều là bất khả tư nghì. Như đã hầu hạ phụng sự, gần gũi cúng dường các
Đức Phật quá khứ nhiều ngàn ngàn vạn vạn, để vun trồng cội phước huệ, thường
phát thanh tịnh đại nguyện chẳng chấp đắm ''không và hửu''. Nguyện đại hạnh,
cúng Phật đà: Nguồn dài, dòng xa, rể sâu cội vững cho nên mới có đủ ứng hóa thân Phổ Môn thị hiện như thế ấy. Ban thí đại vô
uý là Diệu lực bất khả tư nghì. Phật khen Diệu lực bất khả tư nghì của QuanThế Âm Bồ Tát chẳng phải một lời mà
nói hết được. Nên nay chỉ lược nói thôi cho nên gọi là ''ta vì ông lược nói''.
Chúng sanh hoặc nghe danh hiệu QuanThế Âm Bồ Tát hoặc xem thánh tượng Quan Thế
Âm Bồ Tát. Cung kính lể bái xưng niệm, quyết định chẳng luống công. Nghe danh
là ý nghiệp, xưng danh là khẩu nghiệp, lể bái là thân nhgiệp. Ba nghiệp cung
kính, nhất tâm bất loạn, năng diệt được tất cả khổ nạn.
Các
cõi: 3 cõi nói hẹp, 9 cõi nói trung, 25 cõi nói rộng. Chúng sanh 25 cõi đồng
đang ở trong sanh tử phiền não khổ hải,
nếu có thể nhiếp thọ Tam nghiệp, nhất
tâm xưng niệm danh hiệu thời tiêu trừ
tất cả khổ và những ách nạn trong 25 cõi. Nhưng chẳng những tiêu trừ 7 nạn 3
độc trong cõi Đồng cư mà chúng sanh ở trong 2 cõi phương tiện và thật báo cũng
đều như thế cả.
Giả sử sanh lòng hại Xô rớt hầm lửa lớn
Do sức niệm Quan Âm Hầm lửa biến thành ao
Hoặc trôi giạt biển lớn Các nạn quỷ, cá, rồng
Do sức niệm Quan Âm Sóng mòi chẳng chìm đặng
Người
đang lúc gặp phải đại nạn nước và lửa, năng đem lòng chân thành xưng danh, nhờ
sức oai thần Đức Quan Âm, thời hầm lửa biến thành ao nước mát mẻ, ngàn vạn sóng
mòi trong biển kia cũng chẳng làm chìm người đó được.
Hoặc ở chót Tu di Bị người xô rớt xuống
Do sức niệm Quan Âm Như mặt nhựt treo không
Hoặc bị người dữ rượt Rướt xuống núi Kim cang
Do sức niệm Quan Âm Chẳng tổn đến mảy lông
Hoặc gặp oán tặc vây Đều cầm dao làm hại
Do sức niệm Quan Âm Đều liền sanh lòng lành.
Các
nạn bị người xô rớt xuống, nạn bị người dữ rượt, nạn bị oán tặc vây, đều là nạn
có tính cách nguy hại đến tánh mạng không sao xoay xở được, chỉ nhất tâm xưng
niệm Quan Thế Âm thì mọi việc đều bình an.
Hoặc bị khổ nạn vua Khi hành hình sắp chết
Do sức niệm Quan Âm Dao liền gảy từng đoạn
Hoặc tù cấm xiềng xích Tay chân bị gông cùm
Do sức niệm Quan Âm Tháo rã đặng giải thoát
Người gặp phải
quốc pháp vương nạn, đến nổi phải bị chém đầu hành hình. Hoặc bị bọn giặc cướp
nhốt tù, tay chân bị trói còng không phương trốn thoát, thì nhất tâm năng trì
Quan Thế Âm, tức nhờ oai thần Bồ Tát có thể trong vô hình được giải thoát. Xưa
có một vị Tăng vào rừng tìm cây thuốc, bị gống người mọi Màn bắt trói nhốt tù.
Khi chúng trói buộc cả tay lẫn chân sắp đem làm thịt ăn, vị Tăng nhất tâm kiền
thành niệm Quan Thế Thế Âm Bồ Tát, bổng nhiên có con cọp chạy đến phá tan rọ,
chúng ngó nhìn Ngài, Ngài được cứu thoát.
Nguyền rủa các thuốc độc Muốn hại đến thân đó
Do sức niệm Quan Âm Trở lại nơi bổn nhơn
Hoặc
giả gặp kẻ ác, dùng ác chú nguyền rủa,
hoặc nó dùng thuốc độc làm hại người cho chết. Nếu người niệm Quan Âm thì chú
nguyền rủa kia, và thuốc độc không hại được người niệm Quan Âm mà trở lại hại
người làm hại. Thuở xưa có thầy bói tên là Lại Tỉnh Cán, lối dụng Tâm ông bất
chính: Trong nhà có thờ một yêu quái vật để khiến nghề bói được thần linh ứng
quẻ, cứ mỗi năm đi đánh cắp một đứa đồng nam hay đồng nữ, về để cúng tế cho yêu
quái. Một lần, có một em bé bị ông dụ dỗ dẫn về nhốt kín nhà riêng. Sau mấy hôm
ông khiến em bé tắm rửa sạch sẻ, thay quần áo để đợi yêu quái đến ăn. Nguyên em
bé này, bình thường hay niệm Quan Âm, lúc ấy em nhất tâm niệm danh hiệu Quan
Thế Âm Bồ Tát. Đến nữa đêm, cánh cửa song bổng mở trống, đôi mắt của yêu quái
từ ngoài song cửa chiếu vào sáng như điện soi. Em bé tuy sợ nhưng vẫn nhất tâm
niệm Quan Âm, thời từ trong miệng em bé bổng nhiên bay ra một tía sáng bắn đến
thân con yêu quái. Thình lình từ trên cửa rơi xuống một vật, em bé hô cứu. Cứu
tôi chết. Vừa lúc đó bên ngoài vách nhà có mấy viên lính tuần đang đi qua, họ
nghe tiếng vào nhà, đem đèn soi thấy bên em bé là một con rắn độc rất lớn, đã
chết nằm đó. Sau mấy lời gạn hỏi em bé, lính liền bắt thầy bói đem về nạp Quan
Nha, để biện phán về tội trạng của y. Đấy tức hại người mà phản lại hại mình,
trở lại hại nơi bản nhân là vậy.
Hoặc gặp La Sát dữ Rồng độc các loài quỷ
Do sức niệm Quan Âm Liền đều không dám hại
Nếu
người gặp quỷ La Sát hung ác và rồng độc long cùng tất cả các thứ quỷ làm tai
hại muốn đến làm hại người. Thì người ấy nên nhất tâm niệm Quan Thế Âm Bồ Tát
tức liền bọn La Sát, Rồng, Quỷ thảy, chính lúc đó đều chẳng dám hại người. Loài
quỷ sợ ánh sáng, mà ưa thích bóng tối. Nếu người xưng niệm thánh hiệu Quán Thế
Âm thời thiên tánh sáng láng, tức hiển hiện Đại Quang Minh. Vì vậy La sát, ác
quỷ chẳng dám làm hại (loài rắn độc chỉ nhìn thấy ban đêm, ban ngày chúng không
thấy). Trong tâm chúng ta vọng tưởng bất tuyệt tức nhiều lớp màng đen, sở dĩ
quỷ thường đến làm hại. Nếu được chánh đại quang minh, nhất niệm bất tà, thời
chẳng La sát, quỷ quái nào, làm gì hại được.
Hoặc thú dữ vây quanh Nanh vút nhọn đáng sợ
Do sức niệm Quan Âm Vội vàng bỏ chạy thẳng
Rắn độc cùng bò cạp Hơi độc khói lửa đốt
Do sức niệm Quan Âm Theo tiếng tự bỏ đi.
Trên
rừng núi ngoài đồng trống là nơi trú ở các loài ác thú như cọp, sói, beo, nó
nhe ranh múa vút hùng mạnh đáng sợ, ở trung châu bình địa chẳng dễ gì thấy nó.
Nếu khi người gặp phải, năng nhất tâm niệm Quan Thế Âm thì dù bốn bề đều có ác
thú vây quanh đi nữa, tức liền chúng vội vàng bỏ đi. Xưa có ông Lôi Pháp Chấn,
sanh sống bằng nghề đốt than. Một hôm ông vào núi sâu để làm nghề, chẳng may
gặp phải con hổ già, nhe nanh dựng gáy nghênh ngang chạy sấn tới ông, hình thù
rất đáng sợ. Chính lúc nguy cấp này, bổng có một nàng mỹ nữ hiện đến và hét ''
cọp '' một tiếng, hổ liền quỳ xuống cuối đầu bỏ đi. Ông Chấn may mắn được cứu
sống, và ông mừng quá vòng tay xin cảm ơn và hỏi danh tánh. Nàng nói ta là khúc
gổ áp lan ở trong nhà ngươi. Nói xong ẩn mất, chẳng thấy nàng đâu. Ông Chấn mới
nhớ lại trong nhà mình có cây áp lan mộc, thớ thịt nó rắn chắc mịn màng, ông có
ý định chạm tượng Đức Quan Thế Âm để thờ, nhưng vì công việc làm ăn bận rộn nên
chưa chạm được.
Mới
sanh một niệm thiện, mà đã được nhờ cảm ứng như thế, cho nên chúng ta sanh một
niệm thiện thời hoa quí ở cung điện trên trời đã thành.
Mây sấm nổ sét đánh Tuôn giá xối, mưa lớn
Do sức niệm Quan Âm Liền đặng tiêu tan cả,
Khi
trời nổi mây đặc, gió mưa cùng lúc, lửa điện chớp nhoáng bốn phương, tiếng sấm
sét đùng đùng chấn động, có thể làm hư hại người và vật. Hể gặp những điều
chẳng lành như thế đều là hiện tượng tai ươn hung hiểm. Nếu người đang đi dưới
mưa gió như thế,, sấm sét như vậy thế nào cũng bị nguy hiểm đến tính mạng. Nên
gấp hồi đầu xưng niệm danh hiệu Đức Quan Thế Âm thì tức khắc có thể mây tiêu
mưa tán gió ngưng, sấm ngừng bầu trời quang đảng.
Chúng sanh bị khổ ách Vô lượng khổ bức thân
Quan Ân sức trí diệu Hay cứu khổ thế gian
Trong
tâm chúng sanh bị: tham, sân, si, mạn các phiền não bức ép. Ngoài thân bị:
Nước, gió, lửa, binh đao, đói khát, tam tai, bát nạn, các khổ ấy thay phiên
nhau hoành hành dữ dội. Khốn ngặt ở trong thống khổ vô lượng vô biên. Quan Thế
Âm Bồ Tát có đại bi, có đủ thần lực trí tuệ, không nạn nào chẳng cứu, không khổ
nào chẳng vớt.
Đầy đủ sức thần thông Rộng tu trí phương tiện
Các cõi nước mười phương Không cõi nào chẳng hiện
Các loài trong đường dữ Địa ngục, quỷ, súc sanh
Sanh, già, bệnh, chết, khổ Lần đều khiến dứt hết.
Quan Thế Âm Bồ
Tát đầy đủ thần thông diệu lực. Thần là thiên tánh chẳng đo lường được. Thông
tức huệ tâm. Dùng tánh thiên nhiên thấu soi vô ngại gọi là thần thông. Chúng
sanh vốn sẳn đủ thần thông diệu dụng, ngặt vì bị phiền não vọng tưởng che lấp
chẳng hay hiển hiện được. Nếu có thể buông bỏ muôn duyên, thần thông tức hiện
tiền.
Bồ
Tát, La Hán, quỷ thần đều có thần thông. Thần thông của Bồ Tát rộng lớn hơn La
hán gấp trăm nghìn lần, nhưng so với Phật thì không sánh kịp. La hán, Bồ Tát,
Phật có đủ 6 thần thông. Còn quỷ thần chỉ có 5 thần thông, thiếu vô lậu tận
thần thông. Cho nên các thần thông của quỷ thần gọi là hữu lậu thần thông. Vì
phiền não vẫn còn tồn tại. Sở dĩ có khi động đến sát cơ, tức là bị giết hại.
Quan
Thế Âm Bồ tát sớm đã thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Đã chứng được
thể tự tâm thật tướng, đầy đủ sức đại thần thông bất khả tư nghì. Sở dĩ cùng
với các vị mới thành Bồ Tát chẳng đồng. Bởi thế nên gọi là '' Đầy đủ sức thần
thông''. Lại nữa, rộng tu đại trí tuệ, đại phương tiện. Đầy đủ quyền trí không
chúng sanh nào chẳng độ, không cõi nào chẳng đến, khắp cả mười phương thế giới
thị hiện ứng hoá thân rộng độ các chúng sanh trong các loài. Khiến cho chúng
sanh dần dần thoát các khổ.
Chơn quán thanh tịnh quán
Trí huệ quán rộng lớn
Bi quán và Từ quán
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Chơn quán tức chơn không
quán: xét soi tất cả khổ thảy đều chơn không. Chúng ta trong thân tâm, ngoài có
thế giới, đều bởi vọng niệm vọng kiến phân biệt mà có, kỳ thật đều hư vọng
chẳng thật. Cái có của vọng kiến như trong mộng thấy sự việc, như hoa đốm ở hư
không, kỳ thật trong chiêm bao không có cảnh vật sự việc, hư không không có
hoa. Cũng thế, ở thế gian giàu nghèo, sang hèn, đàn ông, đàn bà sự nọ việc kia
đều do vọng kiến mà có. Khi chứng đến địa vị Phật mới thấy rõ ràng không có vật
gì cả. Như mắt lành bệnh, không có hoa ở hư không, khi tỉnh thức sự việc ở
chiêm bao không còn. Duy là thanh tịnh một mảy bụi vẫn chẳng dính nhớp, cho nên
biết tất cả cảnh giới đều vọng kiến mà có. Bởi chấp cho là có mới khởi phân
biệt. Đã sanh khởi phân biệt thời có yêu, có ghét có giận có hờn, có khổ có
vui, có tốt có xấu đủ điều phát ra. Ngược lại, nhất tâm bất sanh, thân tâm trở
về ''không'' muôn vật đâu có nữa. Mới soi thấy năm ''uẩn '' đều không, tất cả
đều không, chứ chẳng phải làm tiêu diệt cái
''có'' mới là không. Đấy gọi là '' chơn không quán ''.
Kinh
dạy: Không những gì đã có. Nhưng không mà bất không là Diệu hữu. Trong không ấy
vốn sẳn đủ tất cả pháp, chứ chẳng phải là cái đoạn diệt không. Sở dĩ phải gấp tu
thiện tích đức, tổn mình lợi người rộng độ chúng sanh. Đấy tức là Diệu hữu
quán.
Sao
gọi là Thanh Tịnh Quán:Người đời làm mọi việc công đức,từ thiện, hợp ý
thời làm, trái ý thời bỏ, thuận đưa đến thời vui, nghịch xảy ra thời giận dữ
thối tâm. Sẳn có tâm lý tốt xấu, ưa ghét luôn luôn tồn trử, nên thấy có hư,
được, mất. Chỉ biết có thật mà chẳng biết bản thể nó vốn là không. Rồi đụng đâu
vẫn dính dấp đắm nhiểm chẳng thể thanh toàn cho trong sạch được. Quan Thế Âm Bồ
Tát trọn ngày ở trong trần lao độ sanh, mà thật không có tướng trần lao. Tâm
lợi sanh chẳng phải có mà có,có mà chẳng phải có. Như trăng dưới nước, hoa giữa
hư không, không chấp đắm gì, không an trụ vào đâu. Sở dĩ tuy tích cực cứu đời
vào cõi độ sanh, mà vẫn thanh tịnh không nhơ bẩn, như hoa sen vượt lên trên bùn
nước. Như dạo vườn hoa trăm thứ, thân chẳng đụng một cành. Nhưng là vô tâm với
vạn vật, ngại gì vạn vật thường đanh vây. Sở dĩ mới gọi là Thanh tịnh quán.
Chơn
không quán là ra khỏi đời, Thanh tịnh quán là vào trong đời. Do ra đời mà vào đời
là chơn lợi nhân. Do vào đời mà ra khỏi đời là Chơn tự lợi. Chơn và Tịnh đều
viên thông. Tức Không tức Có. Không và Có chẳng hai vào nơi Trung đạo. Mà Trung
đạo quán trí chẳng đình trệ nơi hai bên Không và Có. Sở dĩ mới dạo khắp cả pháp
giới, rộng lớn không gì chướng ngại, cho nên mới gọi Trí huệ quán rộng lớn.
Tu
Chơn không quán, phá được kiến tư phiền não, chứng được
Bát nhã đức. Tu Diệu hữu Thanh tịnh quán, phá được trần sa phiền não, chứng
được Giải thoát đức. Tu Quảng đại trí huệ quán, phá được vô minh phiền não,
chứng được Pháp thân đức. Ba quán pháp này là tuyệt đãi viên dung. Tức là ý
nghĩa chữ Quán của Quán Thế Âm. Đấy, ba pháp quán tự lợi, cũng tức là căn bản
lợi tha vậy.
Từ
quán và Bi quán là hai quán lợi tha, mà cũng dụng tự lợi vậy. Quan Thế Âm Bồ
Tát là Quan Thế Âm trong Tâm chúng sanh. Vì với chúng sanh đồng một thể không
hai. Cứu khổ chúng sanh tức là cứu khổ tự mình, tuy khiến chúng sanh thoát ly
tất cả các thống khổ ngũ trụ, nhị tử, giải trừ tất cả các tai nạn lục phàm, tam
thừa. Không một hạng nào chẳng phải là nhiếp tha về tự, để làm việc cần thiết
nơi thân mình. Sở dĩ gọi là Đồng thể Đại bi quán.
Từ,
năng khiến chúng sanh được vui Chơn không, vui Diệu hữu, cho đến vui Trung đạo
vô thượng Niết bàn bất sanh bất diệt, tịch diệt là vui, và cái vui vô thượng Bồ
đề, bất cấu bất tịnh, giác pháp lạc. Trọn ngày cho vui mà không có tướng cho
vui. Không có Bồ tát là Năng duyên, cũng không có chúng sanh là Sở duyên. Năng
với Sở duy là nhất tâm. Nên gọi là Vô duyên Đại từ. Sở dĩ bọn chúng ta là chúng
sanh thường nguyện Quan Thế Âm Bồ tát Từ bi cứu vớt cho, thường mong Phổ Môn
Đại sĩ Diệu Tướng Trang Nghiêm đảnh lễ ngửa trông cầu xin soi nhiếp.
Sáng thanh tịnh không nhơ Tuệ nhựt phá các tối
Hay tiêu tai khói lửa Khắp soi sáng thế gian.
Quan
Thế Âm Bồ Tát với ba pháp quán đã đầy đủ, hay phá trừ tất cả phiền não được
trong sạch, không còn nhơ bẩn nên gọi là Không như. Tâm chúng ta vốn là thanh
tịnh, như gương sáng trong sạch không nhơ. Đức Lục Tổ nói: '' Đâu ngờ tự tánh
vốn tự thanh tịnh - Tự tánh vốn không sanh diệt - Tự tánh vốn đầy đủ -Tự tánh
vốn không dao động - Tự tánh hay sanh muôn pháp ''. Xưa nay không một vật, chỉ vì tham, sân, si
ba độc nhơ bẩn ngăn ngại, như bụi bẩn che gương sáng nên lu mất dụng sáng
trong. Do đấy chúng sanh vẫn là chúng sanh muôn đời ! Quan Thế Âm Bồ Tát khi ban sơ cũng là phàm
phu, nhờ công phu tu tam quán, mới đem nhơ bẩn rửa sạch, suốt đến trong sạch
rốt ráo là bất sanh bất diệt. Sạch cùng cực là sáng thông suốt. Hết nhơ hiện
sáng. Sở dĩ đấy trong ngoài thấu suốt sáng rực rỡ, nên gọi là sáng thanh tịnh
không nhơ. Cái sáng như thế, tức là Đại trí tuệ quang. Huệ quang chiếu sáng,
giống như sáng mặt Nhựt giữa thanh không năng phá tất cả màng đen tối.
Chúng
ta tuy đang ở dưới ánh sáng của bạch nhựt thanh thiên nhưng cả bọn đều mờ mịt
bởi tâm ác liệt, cũng như đang ở trong thế giới tối tăm mù mịt vậy. Nhưng hôm
nay, chúng ta nghe kinh hiểu rõ đạo lý, mở mang trí tuệ, niệm Phật tức thanh
tịnh tâm, chuyển đổi thế giới đen tối, biến thành thế giới quang minh.
Bồ
Tát dùng Chơn không quán, chứng Nhứt thiết trí quang. đem phá tối tăm kiến tư
phiền não cho chúng sanh. Dùng Thanh tịnh quán, chứng Đạo chủng trí quang, đem
phá tối tăm trần sa phiền não cho chúng sanh. Dùng Quảng đại trí huệ quán, chứng
Nhất thiết chủng trí, đem phá tối tăm vô minh phiền não cho chúng sanh. Cho nên
gọi là phá các tối. Phiền não tối tăm là nhân khổ của chúng sanh đã bị phá hết,
thời tất cả các tai nạn là quả khổ cũng phải bị tiêu diệt theo, cho nên gọi là
hay tiêu ba tai bảy nạn, tất cả gió, nước, lửa, binh đao, tai kiếp mênh mông và
giặc cướp các nạn đều tiêu tan trong âm thầm vô hình.
Đức
Quán Thế Âm Bồ Tát dùng Huệ nhật ba Quán pháp, ba Trí quang, phóng bủa Đại
quang minh khắp soi cả thế gian đều khiến lìa khổ được vui. Cho nên gọi là khắp
soi sáng thế gian.
Lòng bi răn như sấm Ý từ diệu dường mây
Xối mưa
pháp cam lồ Dứt trừ lửa phiền não.
Bốn
câu này khen ngợi ba luân bất khả tư nghị của Quán Thế Âm Bồ Tát. Câu đầu khen
ngợi Thân
luân là thể pháp thân Đại từ bi, Đại bi pháp thể do trì giới mà chứng
được. Quán Thế Âm Bồ Tát dùng Đại từ bi giới thể, thân luân hiện thông, thị
hiện 32 ứng hoá thân để hiển ra Đại thần thông làm kinh động cả cõi đại thiên
thế giới như sấm sét cảnh tỉnh những người mê mộng. Cho nên gọi là “Lòng bi răn
như sấm".
Câu
hai khen Ý luân. Dụng tâm của Bồ Tát không đâu chẳng phải là lòng Đại Từ
Đại Bi để soi xét các cơ nghi, dùng các thứ phương tiện với mục đích là hy vọng
tất cả chúng sanh đều được lợi ích. Lối dụng ý thâm diệu như đám mây lớn che
khuất nắng mặt trời, tiêu trừ nóng bức mà được mát mẻ. Cho nên gọi là “ý từ diệu dường mây".
Hai
câu 3,4 là khen khẩu luân. Cam lồ là thuốc trường sanh bất tử trên trời, dụ cho
Diệu pháp bất sanh bất diệt, Bồ Tát dùng khẩu luân thuyết pháp, pháp nào cũng
đều thấm nhuần vào chúng sanh tam thảo nhị mộc đều được sanh trưởng, thảy đều
diệt trừ lửa hừng phiền não, mới chứng được đất mát mẻ là Niết Bàn bất sanh bất
diệt vậy.
Cải
kiện qua chỗ quan Trong quân trận sợ sệt
Do sức niệm Quan Âm Cừu oan đều lui tan.
Nếu
gặp phải việc tranh chấp, kiện cáo mà đến quan nha nguy hiểm. Hoặc bị binh tai
chiến hoạ, kinh khủng nguy nan, niệm danh Quan Âm tất cả oan gia đối đầu đều có
thể tiêu tán.
Diệu Âm Quán Thế Âm Phạm âm Hải triều âm
Tiếng hơn thế gian kia Cho nên thường phải
niệm.
Văn
trước nói Chơn quán, Thanh tịnh quán, Quảng đại Trí tuệ quán, Bi quán và Từ
quán là giải thích chữ quán của Quán Thế Âm. Văn đây là giải thích chữ Âm. Do
đấy hợp lại để giải thích lý do lập Hồng danh Quán Thế Âm Bồ Tát. Chữ Diệu là
Diệu Âm tức là ý nghĩ bất khả tư nghị. Tuy Bồ Tát đến đâu cũng vẫn tuỳ duyên
giáo hoá, thi thiết pháp âm quyền mưu phương tiện, nhưng tức nơi Quyền là
Thiệt. Nguyên lai chẳng đổi dời, chẳng lay động. Cho nên gọi là tuỳ duyên mà thường
bất biến. Tức nơi Dụng là Thể, nên gọi Diệu Âm. Xét soi tất cả tiếng tăm thế
gian, trì danh cầu cứu, tức là không cõi nào chẳng hiện thân để tìm tiếng tăm
ấy đến mà cứu khổ. Trăng trên trời chẳng động khắp hiện nghìn sông. Chẳng khởi
khỏi Bản diệu mà khắp cửa cứu nạn cứu tai. Tức nơi thật mà thi thiết quyền mưu,
bất biến mà vẫn tuỳ duyên, phát khởi các Diệu dụng nên gọi Quán Thế Âm. Diệu Âm là Quan Thế Âm, bất biến thường tuỳ
duyên, cũng có thể Quan Thế Âm là Diệu Âm, tuỳ duyên tức bất biến.
Chữ
Phạm là nghĩa thanh tịnh khiết sạch. Tiếng Quan Âm chẳng rơi nào “không và hữu “không ô nhiễm hai bên. Trên hợp với lý Trung đạo thật tướng
với mười phương chư Phật nên gọi là Phạm Âm. Diệu Âm Bồ Tát thuyết pháp phổ
biến mà lại chẳng mất thời cơ. Dưới mỗi lời nói là hợp với cơ duyên chúng sanh.
Chúng sanh nào được nghe trọn pháp âm không một ai chẳng vui sướng, như tiếng
hải triều khắp cả mà lại lui ra, nhảy vào có thời khắc nhất định. Khi nào cơ
duyên chúng sanh đã thuần thục vời thời đến là Bồ Tát tức thì hiện thân thuyết
pháp hoá độ. Cơ nghi đã xong thời ứng tích chẳng ẩn mà ẩn, nên gọi là Hải Triều
Âm. Phạm Âm trên cầu Phật đạo, Hải Triều Âm dưới hợp cơ nghi chúng sanh. Sở dĩ
vượt qua khỏi tất cả các tiếng thế gian là đồng cư, phương tiện, thật báo. Bởi
duyên cớ này, nên chúng sanh ta phải cần thường xưng niệm mới được thật ích.
Niệm niệm chớ sanh nghi Quán Âm bậc Tịnh thánh
Nơi khổ não nạn chết Hay vì làm
nương cậy
Đủ tất cả công đức Mắt lành
trông chúng sanh
Biển phước lớn không lường Cho nên phải đảnh lễ
Chúng
ta trì niệm Thánh hiệu Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, tuyệt đối chẳng nên mống sanh
mảy may nghi ngờ. Nghi là rất chướng ngại lớn lao cho lòng tin, khó được cảm
ứng. Sở dĩ với trong mỗi mỗi niệm đừng nên sanh nghi ngờ, ngay thẳng mà niệm đi
tự được lợi ích. Vả lại Quán Thế Âm Bồ Tát đã dứt hết phiền não, chẳng đồng như
những vị Bồ Tát chưa dứt hết vô minh phiền não, cũng như chẳng đồng với La Hán,
vì La Hán chưa dứt hết được trần sa phiền não huống là vô minh ư? Sở dĩ Quyền thừa Bồ tát và La Hán tuy là Thánh nhân, nhưng là bực Hiền trong
thánh. Duy có Quán Thế Âm Bồ Tát là Thánh trong bực Thánh. Bởi vì ngũ trụ phiền
não đã dứt rốt ráo, hai thứ chết đã hẵn tiêu vong, thanh tịnh rốt ráo nên gọi
là Tịnh Thánh. Phải biết chúng ta hiện đang còn ở trong sanh tử khổ não. Gặp
lúc ách nạn, năng nhất tâm xưng niệm Quan Thế Âm, thời Bồ Tát năng làm vị Từ
phụ cho chúng ta nương tựa, làm vị Từ mẫu cho chúng ta cậy nhờ. Bởi vì Quán Thế
Âm Bồ Tát đầy đủ tất cả các công đức nhiều vô lượng, đem con mắt từ Đại Từ Bi
bình đẳng xem tất cả chúng sanh không có sai khác, đồng như cha mẹ ái hộ các
con trai con gái với tấm lòng phi thường nồng nhiệt, cho nên khi đại nạn đến
đầu, khả dĩ làm chỗ nương cậy nhờ, phước đức lớn như một đống ngọc báu, rộng như
bể cả không ngằn. Bởi những cớ ấy, nên chúng sanh cần phải lễ bái cúng dường.
Bấy giờ
Ngài Trì Địa Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước bạch Phật rằng: “Thế
Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát đạo nghiệp tự tại, Phổ
Môn thị hiện sức thần thông này, thời phải biết công đức người đó chẳng
ít".
Khi
Đức Phật nói kệ tụng vừa xong, có một vị Bồ Tát tên là Trì Địa, từ chỗ ngồi
đứng dậy thưa Đức Phật, xin khen ngợi phẩm Phổ Môn này, để làm chứng minh công
đức. Ngài Trì Địa Bồ Tát, ở vô lượng kiếp về trước là một con người khổ não,
không học thức mấy. Nhưng Ngài có hoài bão, tấm lòng lợi người và mình rất
thiết tha, khác hẵn với người bình thường. Ngài vui lòng làm những việc từ
thiện một cách vô tư lợi ích cho thế gian. Ngài chịu thiệt thòi về phần văn
kinh thính pháp, đương nhiên con đường lý trí Ngài vẫn lờ mờ. Phàm những việc
gì mà ích vật lợi người đều bởi thiên tánh sử nhiên khế hợp với hành vi của Bồ
Tát. Ngài sống đem sức mạnh để phục vụ người khác, trọn ngày ở đầu đường xó
chợ, cầu cống, nơi dốc dương hiểm trở, đợi gặp những kẻ mang gánh nặng nề, thời
Ngài ra tay mang giúp hộ qua cầu đường, gặp xe chở nặng không lên dốc nổi, Ngài
hộ sức ấn vào đẩy lên khỏi dốc, và chẳng nhận một món thù lao nào, hay lời cảm
ơn gì cả. Nếu có khúc đường nào lầy lội khó đi, lồi lõm chỗ cao chỗ thấp, Ngài
đem đất đến lấp cho bằng, cầu cống bị hư, Ngài ra tay tu sửa chắc chắn lại. Nên
bấy giờ người ta gọi Ngài là Trì Địa Bồ Tát. Tuy Ngài đến đâu vẫn khổ tâm lo
việc mình làm, mình biết chẳng cần ai để ý, dụng tâm hết sức lương thiện, và
cặm cụi làm như vậy rất lâu, nhưng chưa hề thấy hiệu quả đến như thế nào?
Một
hôm, Ngài gặp Đức Phật Tỳ Xá Phù đi ngang qua. Ngài liền cung kính lễ bái, Đức
Phật dạy: Người làm việc công ích, từ thiện khắp giúp mọi người, cố nhiên là
việc làm tốt lành. Nhưng ngươi cứ một mặt trên vật chất mà làm là thành công
chẳng tròn, chẳng biết muôn vật duy là Tâm. Ngươi phải biết thế giới đại địa
đều là từ trong Tâm hiện ra. Địa có cao thấp, do Tâm bất bình. Sở dĩ Tâm người
bình, thế giới mới bình theo. Vì Tâm là làm chủ nhân muôn vật, nhân bình thời
quả mới bình, lẽ phải như thế. Sở dĩ muốn bình đại địa, trước tiên phải bình
tâm đã. Sau một hồi được Đức Phật khai thị cho Ngài Trì Địa Bồ Tát, liền từ nơi
sự việc đã làm mà vào lý quán. Và cứ thế mà lần lửa gắng công tu hành mới phá
được vô minh chứng pháp tánh, thành Đại Bồ Tát.
Khi
Đức Thích Tôn giảng phẩm Phổ Môn, thời Ngài Trì Địa Bồ Tát cũng được tham dự,
nghe xong Ngài đứng dậy ra trước chúng hội chứng minh để thuật sự lợi ích rằng:
Bạch Thế Tôn: Nếu có chúng sanh năng nghe phẩm Phổ Môn này. Thời Bồ Tát đầy đủ
sức tự tại tam nghiệp không chướng không ngại năng khắp cửa tuỳ loại thị hiện
thần thông oai đức, thời người ấy được công đức nghe pháp rất là rộng lớn mênh
mông.
Lúc
Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh đều
phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác.
Khi
Đức Phật Thích Ca giảng phẩm Phổ Môn. Đại chúng nghe giảng tại hội có bốn chúng
đệ tử, Trời, rồng và tám bộ chúng thảy, số lượng rất nhiều chẳng thể kể hết.
Nội bên trong có tám muôn bốn ngàn chúng sanh, mỗi mỗi người đều phát Đại tâm.
Luận về trong một thân con người chúng ta đều có tám muôn bốn ngàn chúng sanh.
Cho nên một người nghe kinh được lợi ích tức là tám muôn bốn ngàn chúng sanh ấy
được lợi ích. Đấy là căn cứ trên một cái thân mà nói, chứ tâm bao gồm cả thái
hư, lượng khắp cả sa giới, mười phương pháp giới đều ở trong tâm. Cho nên người
phát khởi Bồ Đề tâm tức là cả pháp giới đều duyên đấy mà phát khởi theo. Một
cái động là động tất cả. Sở dĩ đó nên trong tự Tâm ta có vô lượng Đại chúng đều
phát tâm rồi vậy.
Phát
tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tức là phát tâm thành Phật. Hiện tiền chúng
sanh có giác tri, nhưng là vọng giác vọng tri. Nếu giác ngộ được muôn pháp đều
không, trọn không có gì, chẳng đắm nơi có gọi là Chánh Giác. Tuy Chánh Giác rồi đấy, nhưng một bên chấp đắm là
không, lại chẳng bình đẳng. Cho nên điều tiên quyết phải đem tự tri mà tri cho
kẻ vị tri, đem tiên giác mà giác cho kẻ hậu giác. Từ Bi mà giác ngộ cho chúng
sanh, tích cực mà cứu giúp cho đời. Được như thế, đã chẳng chênh lệch nơi ngoan
không, lại cũng chẳng ngưng trệ về giả hữu, thời “không và hữu”bình đẳng, gọi
là Chánh đẳng. Tự giác giác tha- hai giác này đều tròn đầy vượt lên trên tất cả
các công đức khác, gọi là Vô thượng.
Chánh
giác là tự lợi, chơn không là tiêu cực, khỏi đời. Chánh đẳng là lợi tha. Diệu
hữu là tích cực, vào đời. Vô thượng là Tự với Tha chẳng hai, bình đẳng nhất
như. Dung Thông cả khỏi đời và vào đời hội qui cả tiêu cực và tích cực, viên
dung vô ngại. Tức là trung đạo không và hữu bình đẳng bất nhị. Diệu hữu phi hữu
là chơn không. Chơn không bất không là Diệu hữu. Gọi đó là Phật tánh viên tuyệt
Diệu trung. Khi thành Phật tức là chứng tánh này đây vậy. Người đời thường ngộ
nhận cho Phật giáo là Không môn, chẳng phải chơn nghĩa. Cần phải hiểu rõ hai
nghĩa Không và Bất Không: chẳng chấp đắm nơi Không nên mới làm lợi tha, tức là
Chánh đẳng. Và phải biết Hữu tức là phi hữu chẳng chấp đắm nơi Hữu mà sanh ích
kỷ, mới được giác ngộ chơn không, tức là Chánh Giác. Như thế lìa năng và sở,
tuyệt đối đải, duy là trung đạo bình đẳng bất nhị tức là Vô Thượng.
Được
như vậy thời mới vượt lên trên tất cả phàm phu. La Hán và Bồ Tát, chẳng có thể
ngang hàng với ba hạng trên nên gọi là Vô đẳng, tức không ngang hàng. Không
ngang mà ngang, ngang với tất cả. Một sắc một hương không một thứ nào chẳng
phải là trung đạo, nên gọi là Vô Đẳng đẳng. Nghĩa là pháp ấy bình đẳng không có
cao hạ. Người người đều sẽ thành Phật, đều có thể ngang hàng với tâm Bồ Đề Vô
đẳng này. Sở dĩ chúng ta cần nên phát tâm Quảng đại Bồ Đề. Chúng ta đã thấu rõ
chân nghĩa Phật pháp, nếu chẳng phát tâm hành trì, thời như nói món ăn, đếm hộ
tiền cho người khác và như chiếc bánh vẽ chẳng ích gì cho bụng đói. Rốt cuộc
đến cùng, tự mình chẳng được một điểm thọ dụng nào cả.
Hy
vọng mọi người buông thả muôn duyên chơn thật tiến tu, bỏ lìa tình nhiễm, vượt
khỏi sự thấy biết tầm thường, lão thiệt trì niệm, khắc kỳ mà chứng lấy mong sao
đựoc sự lợi ích thù thắng. Được vậy mới xứng đáng là chơn Phật tử. Nguyện chư
Phật tử cố gắng đừng kinh thường mà bỏ qua cơ hội.
DIỆU PHÁP LIÊN
HOA KINH
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN
PHẨM.
Soạn xong 19-9- Kỷ Mão (27-10-1999)
Vi tính xong
28-8-Giáp Thân (11-10-2004).
Biên soạn và hướng dẫn Đ Đ Thích Thện Phương
0 nhận xét:
Đăng nhận xét