1- Dân
tộc Ấn Độ là anh em chú bác với dân tộc tộc Ba Tư. Cả hai cùng ở phía đông biển
Caspienne tiến xuống phương Nam, người Ba Tư ngừng lại trung nguyên Iran thì
người Ấn Độ tiếp tục tiến, vượt sông Ấn vào bán đảo Ấn Độ. Bán đảo này hình tam
giác, phía bắc là một dãy núi hiểm trở, còn ba mặt kia là biển, vì có 2 con
sông lớn ở biên giới Đông và Tây (sông Ấn và sông Hằng) xứ đó gần như cô lập.
Theo bờ biển có hai dãy đồi cao ngăn gió mưa từ biển thổi vào, nên miền giữa
bán đảo khô, nóng lắm, và có nhièu bãi sa mạc nhỏ.
Người Ấn Độ tới bán đảo, đánh
đuổi thổ dân rồi chiếm đất. Họ bỏ nghề du mục, sống về nghề nông, thương mãi
không có gì phát đạt.
Do địa thế, xứ đó chia thành hàng
ngàn tiểu quốc, giao thông với nhau hơi khó, nên lịch sử Ấn Độ thời xưa không
có gì đáng kể: họ không bị dân tộc nào xâm lăng mà cũng không thống nhất được.
Có tiểu quốc chỉ nhỏ bằng một làng mà sống yên ổn hàng thế kỷ.
Họ đã có một lối chữ viết nhưng
chưa được thông dụng và kinh Vệ Đà của họ là một án văn chương có giá trị.
Xã hội chia làm nhiều giai cấp,
hàng quý phái sống mơ mộng trong cung điện, hết đi săn thì hưởng thanh sắc,
hàng tu hành Ba La Môn chẳng làm việc gì, chỉ tụng niệm và rất được kính trọng.
Hạng binh sĩ, hạng thương nhân và nông dân, và hàng tôi tớ tuy chưa đến nỗi như
hạng tiện dân, (hạng này bị các giai cấp khác khinh tởm như ta tởm người cùi, đến nỗi không ai dám
lại gần họ và cái bóng họ chiếu vào vật nào thì vật đó coi như dơ bẩn phải ném
đi chứ không ai chịu mó tay vào nữa) song chắc cũng không hơn gì hạng nô lệ Hy
Lạp là mấy.
Hạng tu hành Bà La Môn không có
quyền hành như hạng quý phái, nhưng uy thế rất mạnh, cũng tựa như Giáo hội thời
trung cổ ở Âu. Thực ra họ hành đạo để giữ chế độ giai cấp như trên hơn là để
cứu nhân độ thế. Họ đặt ra rất nhiều nghi lễ, ai cũng phải theo và chỉ họ mới
được làm chủ lễ, nên ai mà dám chống lại họ? Họ dạy người ta thờ thần Bà La Môn
và chịu khổ hạnh để giải thoát vòng sinh tử, mà khi chết đi linh hồn được nhập
với đại khối.
Giữa xã
hội như vậy, một vị Phật ra đời, cũng muốn san phẳng các giai cấp.
** ** **
2-Trong
lịch sử nhân loại, hạng anh hùng có công cứu nước, hạng bác học có tài phát
minh thì rất nhiều, còn hạng người nhờ đạo đức cao đẹp mà thu phục nhân tâm,
cải hoá quần chúng thì rất ít, may mắn lắm được 5, 6 người. Họ không có một tấc
đất mà khinh hết thảy của cải trần gian, không có một chút quyền mà vua chúa
phải nể, áo quần rách rưới, thân hình tiều tuỵ, họ lang thang khắp nơi, thốt
một lời là người ta chép thành kinh, vẫy một cái là người ta ùn ùn tới.
Họ đều sinh ở Châu Á, người ra
đời trước hết là Moise rồi tới Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử, và Giêu Su.
(Không kể Mahomet người sáng lập ra đạo Hồi,
đạo Ông không có gì sáng sủa và mới mẻ, ông dùng binh lực để truyền bá, và bắt
buộc người ta phải theo).
Vị giáo chủ hiện nay được nhiều
người theo nhất là Đức Thích Ca Mâu Ni. Đời Ngài thật là một thiên tiểu thuyết.
Đức Thích Ca sinh vào thế kỷ VI
trước Thiên Chúa giáng sinh, tại một tiểu quốc bên cạnh xứ Nepal hiện nay, dưới
chân dãy núi Himalya. Thân phụ ngài là một vị quốc vương tên là Tịnh Phạn, thân
mẫu ngài là Hoàng hậu Ma Gia, Thân mẫu Ngài ngoài 50 mới sinh Ngài, nên Ngài
rất được cưng quý lắm.
Trong tuổi thơ ấu và thành niên,
Ngài được nuôi dưỡng và dạy dỗ kỹ càng và đầy đủ mọi thú vui cũng như các môn
học, bản chất Ngài rất thông minh và nhân hậu không ai bằng. Do vì muốn nối dõi
tông đường và kế thế sự nghiệp Vương triều. Vua cha và Hoàng hậu quyết định cho
Ngài phải lấy vợ lúc 19 tuổi. Tuổi xuân
của Ngài thật là một vườn hoa tươi đẹp đầy hương thơm và màu sắc, Ngài sống một
đời vương giả giữa vàng bạc, ngọc ngà vợ đẹp con xinh, cung tầng mỹ nữ, lầu gác
cung điện lúc vui trong cung lúc ra ngoài dạo cảnh, du ngoạn đó đây, sự sung
sướng và tự do dường như không có một người thứ 2 bằng Ngài. Nhưng giữa chốn
thanh sắc đó Ngài cảm thấy buồn, nỗi buồn mênh mông, cái buồn của một tâm hồn
cao cả, nỗi buồn không phải vì bất mãn, vì chán chường, vì thất bại do ai gây
ra cho Ngài, mà Ngài buồn vì muốn làm một cái gì đó giúp cho nhân loại mà chưa
được. Mỗi khi Ngài buồn, thì kẻ hầu người hạ tìm đủ mọi cách để làm vui Ngài,
hương lại ngát thêm, sắc lại tươi thêm,tiếng đờn ca du dương lại réo rắt thêm,
nụ cười khoé mắt tình tứ lại quyến rũ thêm nhưng cái sầu của Ngài chỉ tăng mà
không giảm, như cái sầu vạn cổ vậy.
Ngài
thấy cuộc đời sống trong cung điện nguy nga, bên những cung nữ diễm lệ không
phải là đời của Ngài, nó chỉ như “một vụ nghỉ đã kéo dài quá lắm”.
Trong
khi tâm hồn Ngài khủng hoảng hoang mang như vậy thì bốn cảnh mắt thấy tai nghe
làm Ngài suy nghĩ.
Một
hôm, Ngài ra ngoài thành chơi, gặp một người ốm yếu, mắt lờ, tai điếc, chân
chậm da nhăn, tay lòng còng, Ngài xúc động thở dài, hỏi Xa Nặc người hầu cận
trung thành rằng cảnh đó như thế nào? Xa Nặc bảo: “Đường đời như vậy, ai nào thoát
khỏi cảnh già, than thở làm chi? ”. Ngài chưa quên cảnh đó, luôn luôn ám ảnh
trong tâm của Ngài, dạo chơi lần khác Ngài lại thấy một người bị bệnh dịch, rên
la ở gốc cây, thân hình quằn quại, hai tay quào đất, miệng méo xệch, mắt trợn
trừng. Lần này khiến Ngài càng xúc động hơn, nhưng Xa Nặc lại bảo: “Đường đời
là vậy, ai nào thoát khỏi cảnh bệnh hoạn đâu, than thở mà chi? ”
Lại
lần thứ ba, Ngài gặp một xác người chết không ai chôn cất, trương lên hôi thúi,
diều quạ rỉa cắn, thú dữ xé thịt, Ngài cảm thấy đau buồn rơi lệ, Xa Nặc lại vỗ
về: “Đường đời như vậy, nào có ai thoát khỏi cảnh chết bao giờ, than khóc mà
chi ”.
Từ
đó ba hình ảnh, già, bệnh, chết cứ lởn vởn hoài trong đầu óc Ngài, cho đến khi
gặp một nhà tu hành khổ hạnh, đăm đăm
suy nghĩ để tìm chân lý, Ngài quyết chí
đi tu, thì lúc đó có tin vợ Ngài đã sanh con trai. Ngài đã chẳng vui,
còn than thở:‘‘ Lại thêm một dây tình nữa phải cắt đứt ”.
Kể
từ đó trong cung lại tổ chức yến tiệc linh đình để ăn mừng tin vui lần ấy,
nhưng Ngài cũng chỉ gượng vui, cho đến nửa đêm, Ngài thức giấc choàng dậy
“hoảng hốt bàng hoàng như một người hay tin nhà mình đang cháy ”. Ngài ngồi dậy
suy nghĩ một lát, ra phòng ngoài, đánh thức Xa Nặc bảo sửa soạn xe ngựa cho
Ngài đi, rồi trở vào.
Dưới
ánh đèn mờ, vợ Ngài đang ngủ, con nhỏ trong tay, Ngài muốn ôm vợ vào lòng trước
khi vĩnh biệt, nhưng sợ thức giấc người thân, Ngài đành lặng lẽ quay ra, qua
các phòng vũ nữ, thấy mặt hoa thiêm thiếp dưới ánh trăng mờ, rồi Ngài rảo bước
leo lên lưng ngựa cùng Xa Nặc tiến ra khỏi thành.
Giữa
đêm khuya thanh vắng như vậy, Thái tử bảo
Xa Nặc dắt ngựa cho Ngài, Xa Nặc thắc mắc hỏi:
Trời
tối nhân gian mờ mịt quá - Giờ nầy Thái tử định đi đâu?
- Thái tử đáp:
Chính đời mờ mịt nên ta phải - Ra
đi để tìm ánh đạo mầu
-Xa Nặc hỏi:
Ngày
mai sẽ có bao nhiêu người than khóc,
Ly
biệt thương Ngài nổi khổ đau.
-Thái tử đáp:
Ta sẽ trở về khi thấy đạo - Cứu vớt nhân gian mọi thảm sầu
Lúc
đó dông tố nổi dậy trong lòng Ngài, Ngài ráng chống lại với tiếng gọi của gia
đình, của phú quý vinh hoa. Sáng hôm sau, Ngài đã tới bờ sông ANô Ma, lấy gươm
cắt tóc đưa cho Xa Nặc cùng áo mão mang trở về, còn một mình Ngài lang thang đi
tìm đạo, hễ nghe đâu có nhà tu hành lỗi lạc nổi tiếng thì Ngài đến tham vấn học
hỏi tu tập theo, đã trải qua nhiều thầy hay bạn tốt, nhưng tất cả lối tu và chí
hướng của họ không làm Ngài thoả mãn ý nguyện. Thế rồi Ngài lại từ giã họ ra đi
tự tu tự học.
Hồi
đó, Người Ấn Độ tin rằng càng chịu khổ hạnh thì càng dễ tìm được con đường
sáng. Họ coi thân thể là kẻ thù của linh hồn, xác thịt là con thú phải xiềng
xích, phải hành hạ cho đến bao giờ tê mê mà không còn cảm giác nữa, Ngài cũng
bắt chước họ làm theo, cùng với 5 người đệ tử vào rừng sâu nhịn đói, nhịn khát,
đày đoạ thân hình, danh tiếng vang lừng, nhưng lòng Ngài vẫn buồn bã vì chưa
thấy ánh đạo.
Cho
đến một hôm vì yếu quá, Ngài đang đi lảo đảo rồi té, nằm mê man trên đất, khi
tỉnh lại, Ngài nhận ra rằng, cách tu ấy vô lý, và muốn suy nghĩ sáng suốt thì
thân thể phải được khoẻ mạnh trước đã. Năm người bạn thấy Ngài đổi ý, bèn bỏ
Ngài và xa lánh, mọi người khinh Ngài thối chí. Một mình Ngài lủi thủi trên
đường mặc tiếng thị phi.
Thế
rồi một lần Ngài ngồi dưới gốc cây Tất Bát La, trầm tư, trải qua 49 ngày đêm,
Ngài bỗng nhiên hoát ngộ tìm thấy chân lý. Ngài đã tự giác và đắc đạo.
Sau
đó Ngài đi tìm 5 người đệ tử cùng tu, để giảng đạo cho họ nghe, mới đầu mọi
người đều nghi ngờ Ngài không tiếp, nhưng sau mới và gọi Ngài là Phật. Phật là
một danh từ chỉ cho những người đã đắc đạo, giáng thế cứu nhân loại. Theo
truyền thuyết Ấn Độ rất thịnh hành thời đó. Cứ vài trăm năm lại có một vị Phật
ra đời. Vậy trước Đức Thích Ca đã có nhiều Phật và sau Ngài còn có nhiều vị
khác nữa.
Trong
suốt 49 năm huyết pháp độ sanh, Ngài đã đi khắp thung lũng sông Hằng giảng đạo
cho mọi người, trên từ vua quan dưới đến dân dã kẻ giàu sang phú quý cho đến kẻ
nghèo hèn cô quạnh, kẻ hiền lương đức độ cho đến kẻ hung tàn bạo ngược, kẻ khôn
người trí kẻ ngu người dại, kẻ câm người điếc, kẻ lớn người nhỏ, kẻ khoẻ mạnh
người tật nguyền bệnh hoạn tất cả đều được Ngài chỉ dạy và tu học có một đời
sống tinh thần khá cao, không còn sầu khổ trong chốn thinh trần nữa, với xã hội
Ấn Độ thời ấy có 96 phái ngoại đạo và 4 giai cấp chia rẽ và phân cách con người
tạo cho một xã hội hỗn loạn nhiễu nhương về tinh thần lẫn vật chất. Sự ra đời
và thành đạo của Ngài như một ngọn đèn sáng lớn chiếu phá hắc ám của đêm khuya,
như mặt trời chiếu sáng và sưởi ấm cho những đêm đông dài lạnh lẽo, sự giác ngộ
và thành Phật của Ngài như quả bom lớn phá vỡ và san bằng những giai cấp bất
công, những tập tục mê tín dị đoan, tất cả đều hướng về một nẻo, Chân, Thiện,
Mỹ, từ đó về sau cái gương sáng lớn đó được mọi người noi theo, cái ngọn đuốc
soi đường ấy người người trao nhau cho đến tận bây giờ vẫn còn sáng và cháy mãi
luôn luôn làm lợi ích cho quần sanh.
Cuộc
đời Ngài đã hiện diện trên cõi trần thế, tính được 80 năm, 80 sự hiện diện của
Ngài là 80 bông hoa tươi thắm làm đẹp cho đời và có ích cho loài người. Ngài đã
thị hiện bằng xương bằng thịt như bao con người khác và Ngài đi ra khỏi cõi
trần cũng như con người đến lúc phải ra đi chứ không có gì khác. Nhưng có điều
kỳ diệu thay với sự hiện diện của Ngài không có con người nào trên trái đất lại
giống, Ngài sống trong vinh hoa phú quý mà không chìm đắm đam mê, sống trong
nguy hiểm ngặt nghèo khó khăn mà không sờn lòng thối chí, cả cuộc đời Ngài là
rừng hoa tươi đẹp dâng hiến cho đời. Và sự kết thúc đời Ngài được khép lại,
Ngài để lại cho đời những lời dạy làm khuôn vàng thước ngọc cho hậu thế noi
theo tìm đến con đường hạnh phúc chân thật.
Với
sắc thân tứ đại đến lúc phải để lại, không ai có cái thân mà không phải trải
qua 4 giai đoạn thành- trụ- hoại -không, với lẽ đó Ngài thị tịch Niết Bàn vào
năm 488 trước Công Nguyên.
Nhìn
lại cuộc đời Ngài ta thấy những thắc mắc của Ngài cũng chính là của chúng ta,
ai không buồn rầu về cảnh già, bệnh, chết, ai không có lúc muốn tìm một chân
lý, một mục đích cho đời? Và khi tìm chưa được ai chẳng băn khoăn?
Vậy
nhìn vào đời Ngài, ta thấy hình ảnh của chúng ta, một hình ảnh cao đẹp, rực rỡ
hơn bội phần, nhưng quả là hình ảnh chúng ta, nên ta vừa kính phục vừa cảm mến.
Sở dĩ Ngài có đông đệ tử có nhiều tín đồ có lẽ vì vậy.
** ** **
3- Đạo
Phật là đạo có nhiều kinh sách nhất. Người mới bước vào cái rừng kinh, sách đó
cũng phải ngộp và hoang mang trước những lý thuyết rất huyền diệu, thâm sâu.
Tuy nói rằng lời dạy của Phật thân sâu huyền diệu, nhưng không phải con người
chỉ tin mà không hiểu được, nó rất rõ ràng giản dị và cụ thể mặc dầu sâu sắc.
Sự
tra cứu của các nhà học giả, những bài thuyêt pháp của Phật đã được ghi chép
lại sau khi Phật nhập diệt còn lưu lại cho đến ngày hôm nay, mà người ta xác
nhận là sự thật chứ không phải do sự thêm bớt của con người đời sau.
Đức
Phật Thích Ca rất dày lòng Từ bi, Ngài nói “nước mắt chúng sanh trong 3 ngàn
thế giới đem dòn lại nhiều hơn nước trong 4 biển”. Sống ngày nào là khổ ngày
ấy, nhưng chết đi không chắc hết khổ? Vì sau khi chết sẽ đầu thai kiếp khác, đó
là thuyết luân hồi, cứ như vậy sinh rồi tử, tử rồi sinh, không bao giờ ngừng.
Hành vi của ta trong kiếp này sẽ là nguyên nhân cho những việc xảy ra trong
kiếp sau, đó là thuyết nghiệp báo. Nghiệp báo đó nó khốc liệt khổ hại vô cùng,
không con người nào, sinh vật nào thoát khỏi. Có lẽ nổi khổ và bất hạnh ấy thôi
thúc Ngài ra đi tìm con đường chân lý độ thoát chúng sanh.
Ngài
nói muốn diệt nghiệp báo phải diệt cái vô minh là cái u mê, không hiểu lẽ sinh
tử. Muốn hết khổ phải trừ nghiệp báo, không còn nghiệp báo thì khỏi phải luân
hồi, khỏi phải vào sinh ra tử, ra khỏi vòng sinh- lão- bệnh- tử.
Từ
vô minh đến sự sinh còn có 9 nguyên nhân nữa, thêm với lão, bệnh, tử thành ra
là 12 nguyên nhân, mà đạo Phật gọi là “Thập nhị nguyên nhân”chính 12 điều kiện
này dệt thành cái vòng luẩn quẩn mà chúng sanh đời đời kiếp kiếp không thoát ra
được.
Muốn
thoát ra được cái vòng ấy, phải diệt trừ vô minh, vô minh là cái nhân ban đầu
để tạo ra các điều kiện kế tiếp tạo nên cái vòng sinh tử triền miên, vô minh
chính là đám mây che lấp ánh sáng khiến mắt người trần không thấy được lẽ thật
phải ở mãi trong vòng luân hồi. Phật dạy muốn ra khỏi cái nẻo trầm luân đó phải
nương theo con đường với tám phương tiện đó là pháp tu, gọi là Bát Chánh Đạo
gồm có: 1/ Chánh kiến: thấy biết chân chánh. 2/ Chánh tử duy: suy xét chân
chánh. 3/ Chánh ngữ: lời nói chân chánh. 4/ Chánh nghiệp: việc làm chân chánh.
5/ Chánh mệnh: mưu sinh chân chính. 6/ Cánh tinh tấn: siêng năng chân chính. 7/
Chánh niệm: nhớ nghĩ chân chánh. 8/ Chánh định: ngẫm nghĩ chân chánh (quyết
định).
Thực
hành trọn 8 điều này thì thấu rõ được nghĩa “vô nhân vô ngã”(không có người
không có ta) phá được vô minh và đạt được cảnh giải thoát. Tức cảnh thênh
thang, lâng lâng của một tâm hồn không còn gợn chút bụi trần, không vướng chút
tình ái, không còn sầu khổ lo âu, không nhiễm mùi vật dục.
Đối
với đạo Phật, giáo lý cơ bản chứa đựng phần tinh tuý là Tứ Diệu Đế tức là 4 sự
thật. Từ 4 chân lý này chia chẽ ra các pháp tu khác được hình thành cũng đều
dựa trên 4 nguyên tắc này tức là Khổ đế - Tập đế - Diệt đế - Đạo đế. Đối với
khổ đế cần phải biết, với Tập đế cần phải dứt trừ, đối với Diệt đế cần phải tu,
đối Đạo đế cần phải chứng.
Đạo
Phật chủ trương rằng tất cả chúng sanh đều bình đẳng, dù con người hay con thú
đều có quyền sống, đều có sự ham sống sợ chết, tất cả đều có sinh mệnh, đều có
tính sáng suốt (Phật tánh) nhưng vì nghiệp lực có khác nhau nên ta thấy có hơn
có kém. Đạo Phật kêu gọi không nên sát hại vì tất cả đều só sự sống như nhau.
Đạo Phật khuyên ta tránh ác làm lành giữ tâm ý cho trong sạch, lấy Trí tuệ làm
căn bản, lấy Từ bi làm chất liệu, lấy hành động làm phương châm. Phật dạy chúng
ta hãy tự cường để tự giác không nương cậy ỷ lại bất cứ một thần linh nào. Khi
đã tự giác rồi phải hy sinh để giác tha. Song chung quy cũng chỉ mong thoát
khỏi cảnh khổ sanh già bệnh chết. Còn đời sống hiện tại chỉ tạm bợ không thật.
Sau
khi Phật Thích Ca tịch diệt, các đệ tử của Ngài ghi chép lại những lời Ngài
giảng dạy suốt 49 năm thành kinh điển, gồm có 3 phần gọi là Kinh-Luật- Luận gọi
là Tam Tạng. Ấn Độ thời ấy, giai cấp nông dân thường bị giai cấp Bà La Môn và
giai cấp quý phái tức vua quan áp bức, nên sau khi Phật thành đạo Ngài tuyên
báo không có giai cấp khi mọi người máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, đây là lời
nói đầu tiên được tuyên bố sự bình đẳng con người trên trái đất, xóa bỏ được
giai cấp tức phá huỷ được cái thành trì kiên cố đã mấy ngàn năm giam hãm số
phận con người sống trong bất hạnh khổ nhục, nay được giải toả nên mọi người
tìm đến Phật rất đông. Tuy vậy áp lực cuả Bà La Môn giáo mới đầu cũng quyết
liệt nhưng rồi dần dần được đức Phật thuần hoá trở thành đệ tử Phật thuần thành
và đắc lực trợ giúp Phật tuyên dương chánh pháp suốt 49 năm và kéo dài cho đến
ngày nay. Tuy rằng có sự ngăn cản của đạo Bà La Môn, nhưng sự phát triển của
đạo Phật khá mau, không những trên lãnh thổ đất Ấn mà còn lan ra các nước phía
nam như Thái Lan, Cao Miên, Tích Lan, Miến Điện, Nam Dương - Phía bắc như Trung
Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam rất mạnh có thể hơn Ấn Độ.
Giáo
lý đạo Phật chia làm hai hệ thống: Nam Tạng và Bắc Tạng.
Về
triết lý Bắc Tạng gọi là đại thừa, quan niệm về vũ trụ nhân sinh như là ảo ảnh,
cảnh mộng không có gì thực thể cả, cho đến cái bản thể con người, cái mà ta
xưng là “ta”gọi là “ngã”của ta cũng không có thực vậy. Nhân đó sinh ra những
thuyết về “sắc không”, về “vô ngã”.
Về
luân lý đại thừa chú trọng lấy Từ bi làm cơ bản khác với tư tưởng Nam Tạng lúc
đầu lấy giải thoát làm cứu cánh, lấy Từ bi làm phương tiện, còn đại thừa lấy Từ
bi làm mục đích. Tuy trên phương diện thời gian về sự hình thành hệ thống giáo
lý của Phật ta lấy chia ra có 2 phần, nhưng trong thực tế của nó chỉ có một,
như một cái cây nó phải đủ gốc rễ thân cây và cành lá, hệ thống giáo lý nhà
Phật cũng như vậy. Tuy có khác nhau giữa ban đầu và cuối nhưng trước sau đều có
cùng một chất liệu là giác ngộ giải thoát và độ sanh, như nước 4 biển tuy nhiều
nhưng cùng một vị mặn, đạo Phật cũng thế có một vị chung dù đại thừa hay tiểu
thừa cũng cùng chung một vị đó là vị giải thoát mà thôi.
Đạo
Phật vốn là một hệ thống triết lý hơn là một tôn giáo. Đức Phật không muốn ai
phải ca ngợi Ngài và lệ thuộc nơi Ngài, và Ngài cũng không cổ xuý phải nương
tựa thần linh nào khác mà Ngài dạy tất cả mọi người hãy tự coi mình là hải đảo
duy nhất, tự mình thắp đuốc lên mà đi.
Đạo
Phật càng về sau sự truyền thừa có nhiều sai khác, có nhiều lý do bởi những pha
trộn với các phong tục tập quán, bởi những lý thuyết ngoại đạo, cùng với những
người lấy đạo Phật làm chỗ nương tựa cho đời mình hơn là mục đích giải thoát độ
sanh không vì sự tồn vong của đạo. Chính vì thế đạo Phật càng ngày mang nhiều
màu sắc mê tín dị đoan hơn là chánh tín. Cơ sở Phật đạo ngày càng nhiều tín đồ
càng đông mà mà sự thực học chân tu lại càng ít khiến đạo Phật tăng phần số
lượng mà giảm phần chất khiến cho những người đến với đạo Phật hoang mang đứng
trước con đường nhiều nẻo không biết mình nên đi về đâu cho đúng đích.
Tuy
nhiên, đạo Phật dù có sai lạc tới bực nào, đạo Phật vẫn là một đạo Từ bi, không
ganh với đạo khác, không lấy sức mạnh uy quyền để đưa người vào đạo, không dụ
dỗ, không dùng mưu hay chước khéo để rủ rê người tin đạo mà đạo Phật lấy trí
tuệ để xét đoán và hướng dẫn người đến với đạo bằng con đương chánh kiến. Trong
đạo Phật cũng có một sự tổ chức song so với các tổ chức đạo khác thì có phần
đơn giản hơn nhiều. Đạo Phật đã trải qua nhiều thời đại, nhiều chế độ vua quan
chính trị, có thời được tôn sùng kính ngưỡng, lại cũng lắm lúc gặp những thời
đại vua quan bạc đãi hành hạ tiêu diệt. Tuy vậy mà đạo Phật không bao giờ ta
thấy gây chiến với ai cả. Chỉ có bấy nhiêu cũng đã đủ cho ta hết lòng kính phục
đạo Phật cao thượng biết chừng nào rồi./.
Dựa
theo
“Lịch
sử Thế Giới”- Nguyễn Hiến Lê -Thiên Giang
0 nhận xét:
Đăng nhận xét