Vần đề
nguyên nhân đầu tiên là vấn đề thường làm cho người ta thắc mắc nhất. Mỗi khi
ngước mắt nhìn vũ trụ, con người thường băn khoăn tự hỏi: "vũ trụ do đâu
mà có? Nguyên nhân đầu tiên của vạn vật là gì?”Câu hỏi này đã được đặt ra từ
bao giờ mà đến nay vẫn không có được một câu trả lời nào thoả đáng. Bao nhiêu
trí óc đã từng thắc mắc, băn khoăn, đau khổ vì nó. Giá mà câu hỏi kia được giải
đáp, có lẽ người ta sung sướng lắm, và dù "buổi mai nghe buổi chiều hết
cũng thoả mãn vậy”.
Cũng
bởi vì nổi khổ đau thắc mắc ấy của loài người mà các thần giáo ra đời. Mỗi thần
giáo chủ trương một vị thần linh tối cao tối đã tạo lập nên trời đất muôn vật.
Đó là Brahma, là Allahn, là Jehovah, là Thượng Đế, là Chúa Trời... Bản thân của
các vị chúa tể ấy, loài người không thể hiểu hết được. Quyền phép tạo lập, cứu
vớt và trừng phạt của các vị ấy, trí óc loài người không thể kiểm soát được. Về
các vị ấy, người ta không thể dùng lý trí để suy luận, chỉ có thể đem một lòng
tin để thừa nhận mà thôi.
Lòng
tin ấy chính là sự vỗ về an ủi, một "liều thuốc tê”để con người làm dịu
trí não đang bị căng thẳng, đang bị đau khổ vì câu hỏi trên kia mà thôi.
Đưa ra
một "đấng”tạo hoá để giải quyết vấn đề nguyên lai của vũ trụ, thực ra cũng
giản dị và dễ dàng lắm. Nhưng kẻ không có đức tin thì không được an ủi dễ dàng
như vậy. Họ vẫn có thể băn khoăn đau khổ, điên dại vì câu hỏi ác nghiệt kia.
Công
nhận một đấng tạo hoá tức là chặn đứng sự hiểu biết của con người lại. Người
xưa, khi trông thấy hiện tượng kỳ bí của vũ trụ, cũng ước mong một lời giải đáp
có thể làm thoả mãn họ. Họ không cắt nghĩa được các hiện tượng ấy một cách khoa
học, cho nên đã cầu cứu đến những lực lượng siêu nhiên thần bí. Gió thổi là bởi
thần gió đi qua. Nước ngập là bởi thần thuỷ giận dữ. Nếu khoa học mà chấp nhận
lối trả lời đó thì làm sao khoa học có thể tiến lên mà cắt nghĩa bằng thuyết
nhân sinh duyên rằng: Gió là kết quả của sự chuyển động của không khí, rằng lụt
là do nước nguồn chảy về quá nhiều.
Tất cả
những giải đáp có tính cách mê tín như thế đều là những trở lực lớn lao ngăn
cản bước tiến của trí thức nhân loại. Khi đã công nhận rằng đấng tạo hoá đã
sinh ra muôn vật, không ai còn có thể tự hỏi rằng nguyên do nào đã tạo ra đấng
tạo hoá, nương vào đâu để được phát sinh. Như thế, chính ý niệm về nguyên nhân
đầu tiên sẽ làm cho sự tìm hiểu của ta bị chặn đứng hoàn toàn, không thể tiến
thêm một bước nữa.
Đạo
Phật chủ trương không nguyên nhân đầu tiên. Ý niệm về nguyên nhân đầu tiên là
một "vọng tưởng điên đảo”do sự cố chấp mê lầm của chúng sinh mà có. Nếu
hiểu được giáo lý đạo Phật, ta sẽ thấy câu hỏi “nguyên nhân đầu tiên là gì?”là
một câu hỏi ngớ ngẩn, buồn cười không đáng làm cho ta thắc mắc.
Trong
những bài trước chúng ta đã thấy rằng, theo đạo Phật các hiện tượng luôn luôn
biến chuyển và sinh diệt, không lúc nào ngừng nghỉ. Sự sinh diệt của những hiện
tượng ấy được thể hiện trên đường lối nhân duyên. Một hiện tượng phát sinh
không phải do một “nhân”tiền hữu, mà là còn do vô số các "duyên”(điều kiện
giúp cho sự phát sinh) khác. Các duyên này không phải tự nhiên mà có. Chúng
cũng là một "quả”do vô số "duyên”khác tạo nên. Như thế, một hiện
tượng có liên quan (dù gần dù xa) với “tất cả”các hiện tượng của vũ trụ.
Nói
"hiện tượng”đây tức là một "dòng hiện tượng". Bởi vì khi nói đến
một hiện tượng, ta thường nghĩ đến cả lịch trình phát sinh, trưởng thành hư
hoại và tan rã, (thành, trụ, hoại, không) của hiện tượng ấy. Có thành trụ hoại
không tức là có chuyển biến, mà có chuyển biến thì cố nhiên không phải là hiện
tượng đồng nhất. Nó là một "dòng hiện tượng”bởi vì "nó”của phút sau
kông phải là "nó”của phút trước, vả lại, trước khi "nó”(dòng hiện
tượng) phát hiện ta bảo rằng chưa có "nó". Kỳ thực, "nó”đã có
trong muôn ngàn nhân duyên tiền hữu rồi, sở dĩ ta không nhận được "nó”là
vì ta không thấy được "nó”bằng cặp mắt thiển cận mà thôi.
Bạn tôi
có "ráp”một chiếc xe đạp ở Sài Gòn từ năm 1945 tại hiệu Dur Fort, giá
400đ. Cái xe ấy cũ dần, hư dần, bạn tôi đã thay cả tay lái,và vừa rồi gãy khung
xe, bạn tôi liệng nó vào hè, không dùng nữa. Bạn tôi chỉ nó mà bảo tôi: "Đó là chiếc xe tôi mua ở
Sài Gòn giá 400đ đấy". Bạn tôi không ý thức được sự thay đổi của chiếc xe
kia mà vẫn một mực đồng nhất chiếc xe năm nay với cái xe trước đây. Lẽ ra,
trong quá trình chuyển biến của chiếc xe, bạn tôi phải thấy chiếc xe hôm sau
khác chiếc xe hôm trước, và hơn thế nữa, chiếc xe phút sau khác chiếc xe phút
trước.
Tệ hơn
nữa bạn cho rằng chiếc xe chỉ "có”từ khi bạn tôi mua và "hết có”từ
khi gãy khung. Bạn tôi không biết rằng chiếc xe đã "có”từ trước khi bạn
tôi mua và hơn thế nữa, "có”từ vô thỉ trong các nhân duyên của nó. Bạn tôi
cũng lại không biết rằng nằm mãi đó để biến chuyển, để tiếp tục dòng đẳng lưu
nhân quả của nó, tương quan và tương duyên với vạn vật khác. Con của bạn tôi sẽ
tháo một cái chuông lắp vào xe nó, biết đâu cháu của bạn tôi sẽ tháo một cái
tăm để mài nhọn, làm chiếc dùi đóng sách, biết đâu...., và biết đâu đống sắt
còn lại ấy sẽ luân hồi vào một dụng cụ khác bằng kim khí...
Bạn tôi
chấp rằng chỉ có một cái xe đồng nhất bất biến, mà kỳ thực chỉ có một hện
tượng"xe”luôn luôn chuyển biến. Đó là "vọng tưởng”thứ nhất.
Bạn tôi
vì ý thức vụ lợi, chỉ cắt xén một giai đoạn cả thực tại để mà cho rằng
"có", và tất cả những giai đoạn trước và sau đều là
"không". Cái quan niệm về có và không như thế là một vọng tưởng thứ
hai.
Hai thứ
vọng tưởng kia phản chiếu một nhận thức sai lầm chung cho tất cả mọi người.
Muôn
vàn hiện tượng có chuyển biến, vì thế có sinh, diệt, thành, hoại nên ta cảm
thấy cái có và cái không của vạn vật. Quan niệm về có và không của chúng ta
hoàn toàn do sự sinh diệt của muôn ngàn hiện tượng mà có. Kỳ thực, muôn ngàn
hiện tượng kế tiếp nhau mà phát hiện theo luật tương quan tương duyên, cái có
và cái không của chúng ta chỉ là giả tưởng do trí óc "vọng tưởng”của ta
tạo ra mà thôi. Không có gì thêm vào, cũng không có gì vứt đi, câu nói này rất
là chí lý vậy thì có và không chỉ là những giả tưởng của các hiên tượng sinh
diệt. Trí óc ta nhận "có", là khi nào ta thấy được một hiện tượng do
nhân duyên cấu hợp, trí óc ta nhận “không “khi ta thấy hiện tượng ấy theo nhân
duyên mà tan rã. Cái "có, không", của ta quan niệm là cái có, không
của các đợt sóng chứ không phải là nước. Muôn ngàn đợt sóng thấp, cao, lớn, bé
đua nhau thành, hoại, có, không. Còn nước (bản thể của muôn ngàn đợt sóng ấy)
vẫn không bao giờ chịu luật có, không, thành, hoại của các đợt sóng vốn là hiện
tượng của mình.
Về mỗi
đợt sóng ta có thể phân biệt đầu đuôi, mất còn, to nhỏ. Những danh từ này chỉ
để nói cho sinh diệt không thể gắn vào cho nước.
Về các
hiện tượng ta phân biệt có thuỷ, có chung, có nhân, có duyên, có lớn, có nhỏ ấy
không thể gán cho vũ trụ, cho thực tại cho bản thể. Hiện tượng tuy còn, mất,
sinh, diệt bản thể vẫn bất biến, trường tồn. Hai đầu đòn cân tuy có lên xuống,
có chậm mau, có sau trước, nhưng chính bản thân cái đòn cân vẫn là đòn cân
không lên không xuống, chậm mau sau trước gì cả.
Thực
tại là có một cái gì vượt ra ngoài sinh diệt tồn vong. Không có. Thế mà
người ta nỡ xem thực tại như là những
hiện tượng có sinh diệt, có thuỷ chung và bắt trí óc phải tìm ra "nguyên
nhân đầu tiên của nó".
Trong
biển sinh diệt, "một”hiện tượng là nhân cho "tất cả”các hiện tượng
khác, và cũng là quả do "tất cả"các hiện tượng khác làm nhân.
"Một "do tất cả làm thành, "tất cả”đều do "một “mà phát
hiện. Trong một có tất cả, trong tất cả có một, lý "nhất tức nhất thiết
nhất thiết nhất tức”ấy vốn là căn bản của luật nhân duyên tương hợp tương
thành.
Trong
thế giới tương quan, tương duyên nhiệm mầu của hiện tượng, trí óc ta có tật cắt
xén, phân chia thành từng cá thể riêng biệt rồi đi tìm một nguyên nhân cho cá
thể ấy.
Quan
niệm nhân quả một chiều (một nhân một quả) của Aristote ngày xưa đã sai lạc lắm
rồi.Nay muốn ngược dòng nhân quả một chiều ấy để tìm đến nguyên nhân đầu tiên
thật không còn gì dại dột hơn nữa.
Các giả
tưởng sinh, diệt, có không, chung, thuỷ hoàn toàn do óc vô minh vọng tưởng của
con người tạo ra cả. Một ngày kia thể nhập vào thực tại, vào cuộc sống muôn
đời, ta không chỉ thấy những giả tưởng sinh, diệt, có, không kia nữa. Thực tại
là thực tại. Nó không "có”và không "không”như các hiện tượng sinh
diệt. Thực tại vượt ra ngoài giả tưởng có không. Nếu như thực tại có "có”thì
cái "có”ấy chẳng phải là cái "có"của giả tưởng nhân duyên. Thực
tại không "có”một cách giả tạm như hiện tượng sinh diệt, nên gọi là
"diệu”hữu, thực tại không "không”một cách giả tạm như hiện tượng sinh
diệt nên gọi là "chân không".
Diệu
hữu và chân không là hai danh từ mô tả thực tại bất biến, bất sinh bất diệt, vô
thuỷ, vô chung. Con người khi thể nhập vào lòng thực tại thì bao nhiêu giả
tưởng sinh, diệt, thành, hoại thủy chung đều tan cả.
Để làm
rõ nguyên lý này, ta nên lấy một ví dụ:
Một hôm
ta trông thấy một chú bé mủm mỉm dễ thương, tay chân hồng hào nằm ngủ trong
nôi. Mười năm sau ta trở về, trông thấy cậu bé tay chân cứng cáp, chạy nhảy nô
đùa và tỏ ra rất láu lỉnh. Ta bảo: "Chà cậu bé mau lớn làm sao".
Trong trí ta hình dung cậu bé lúc mới sinh, ta so sánh hình ảnh ấy với hình ảnh
bây giờ, ta thấy có biến chuyển, có trước sau, có lớn nhỏ, nghĩa là có thời
gian. Cha mẹ cậu bé thì ít suy tưởng như ta và ít thấy như ta. Họ ở gần cậu bé
luôn và không thấy cậu bé "mau lớn”như ta thấy. Nhưng nếu cố ngồi nhớ lại
một vài hình ảnh ngày xưa của cậu bé và đem so sánh những hình ảnh đó với những
hình ảnh bây giờ, họ cũng sẽ thấy được một ít biến chuyển, đổi thay. Đến như
chính cậu bé ấy thì cậu không hề có cảm tưởng cậu đã lớn, cậu đã biến chuyển hàng
năm, hằng ngày, hàng giây phút. Cậu không cảm nhận được sự sinh diệt của các tế
bào trong cơ thể cậu. Cậu không có những ý tưởng về sinh diệt, trước sau lớn
nhỏ, biến chuyển hay không biến chuyển. Tóm lại, trong sinh hoạt bản thân cậu
không có ý thức về không gian và thời gian. Vì sao thế? Vì chính cậu là thực
thể, cậu đã "thể nhập vào thực tại". Nếu cậu tự đối tượng hoá để suy
nghiệm, cậu hồi tưởng một vài hình ảnh cũ của bản thân rồi đem so sánh nó với
hình ảnh hiện thời của mình, cậu cố ý thức được rằng các tế bào trong cơ thể
cậu đang sinh diệt từng giây phút, thì cậu sẽ cảm thấy tất cả những biến
chuyển, sinh diệt, thành hoại, thỉ chung, còn mất. Nghĩa là cậu sẽ thấy có thời gian và không
gian. Chính vì "đối tượng hoá”mình như vậy, nên cậu sinh ra lo sợ, suy
nghĩ bực dọc... Giá đừng bao giờ cậu “đối tượng hoá”mình cả, thì cậu sẽ suốt
đời sống trong an lạc hồn nhiên.
Vậy con
người nằm trong thực tại, con người chính là thực tại, là những hiện tượng của
thực tại bất sinh bất diệt. Vì vô minh con người đã đối tượng hoá thực tại, cho
nên đã lo sợ, buồn vui, thương ghét đã khổ đau vì những giả tưởng sinh diệt,
thành hoại thỉ chung. Vì nay con người lại muốn điên đảo thêm, khổ đau khắc
khoải thêm, cho nên mới bôn ba đi tìm cái "bắt đầu"của vũ trụ, cái
"nguyên nhân”đầu tiên hư ảo không bao giờ có vậy.
{—]–{