Chủ Nhật, 8 tháng 10, 2017

VẤN ĐỀ NGUYÊN NHÂN ĐẦU TIÊN TRONG ĐẠO PHẬT

Vần đề nguyên nhân đầu tiên là vấn đề thường làm cho người ta thắc mắc nhất. Mỗi khi ngước mắt nhìn vũ trụ, con người thường băn khoăn tự hỏi: "vũ trụ do đâu mà có? Nguyên nhân đầu tiên của vạn vật là gì?”Câu hỏi này đã được đặt ra từ bao giờ mà đến nay vẫn không có được một câu trả lời nào thoả đáng. Bao nhiêu trí óc đã từng thắc mắc, băn khoăn, đau khổ vì nó. Giá mà câu hỏi kia được giải đáp, có lẽ người ta sung sướng lắm, và dù "buổi mai nghe buổi chiều hết cũng thoả mãn vậy”.
Cũng bởi vì nổi khổ đau thắc mắc ấy của loài người mà các thần giáo ra đời. Mỗi thần giáo chủ trương một vị thần linh tối cao tối đã tạo lập nên trời đất muôn vật. Đó là Brahma, là Allahn, là Jehovah, là Thượng Đế, là Chúa Trời... Bản thân của các vị chúa tể ấy, loài người không thể hiểu hết được. Quyền phép tạo lập, cứu vớt và trừng phạt của các vị ấy, trí óc loài người không thể kiểm soát được. Về các vị ấy, người ta không thể dùng lý trí để suy luận, chỉ có thể đem một lòng tin để thừa nhận mà thôi.
Lòng tin ấy chính là sự vỗ về an ủi, một "liều thuốc tê”để con người làm dịu trí não đang bị căng thẳng, đang bị đau khổ vì câu hỏi trên kia mà thôi.
Đưa ra một "đấng”tạo hoá để giải quyết vấn đề nguyên lai của vũ trụ, thực ra cũng giản dị và dễ dàng lắm. Nhưng kẻ không có đức tin thì không được an ủi dễ dàng như vậy. Họ vẫn có thể băn khoăn đau khổ, điên dại vì câu hỏi ác nghiệt kia.
Công nhận một đấng tạo hoá tức là chặn đứng sự hiểu biết của con người lại. Người xưa, khi trông thấy hiện tượng kỳ bí của vũ trụ, cũng ước mong một lời giải đáp có thể làm thoả mãn họ. Họ không cắt nghĩa được các hiện tượng ấy một cách khoa học, cho nên đã cầu cứu đến những lực lượng siêu nhiên thần bí. Gió thổi là bởi thần gió đi qua. Nước ngập là bởi thần thuỷ giận dữ. Nếu khoa học mà chấp nhận lối trả lời đó thì làm sao khoa học có thể tiến lên mà cắt nghĩa bằng thuyết nhân sinh duyên rằng: Gió là kết quả của sự chuyển động của không khí, rằng lụt là do nước nguồn  chảy về quá nhiều.
Tất cả những giải đáp có tính cách mê tín như thế đều là những trở lực lớn lao ngăn cản bước tiến của trí thức nhân loại. Khi đã công nhận rằng đấng tạo hoá đã sinh ra muôn vật, không ai còn có thể tự hỏi rằng nguyên do nào đã tạo ra đấng tạo hoá, nương vào đâu để được phát sinh. Như thế, chính ý niệm về nguyên nhân đầu tiên sẽ làm cho sự tìm hiểu của ta bị chặn đứng hoàn toàn, không thể tiến thêm một bước nữa.
Đạo Phật chủ trương không nguyên nhân đầu tiên. Ý niệm về nguyên nhân đầu tiên là một "vọng tưởng điên đảo”do sự cố chấp mê lầm của chúng sinh mà có. Nếu hiểu được giáo lý đạo Phật, ta sẽ thấy câu hỏi “nguyên nhân đầu tiên là gì?”là một câu hỏi ngớ ngẩn, buồn cười không đáng làm cho ta thắc mắc.
Trong những bài trước chúng ta đã thấy rằng, theo đạo Phật các hiện tượng luôn luôn biến chuyển và sinh diệt, không lúc nào ngừng nghỉ. Sự sinh diệt của những hiện tượng ấy được thể hiện trên đường lối nhân duyên. Một hiện tượng phát sinh không phải do một “nhân”tiền hữu, mà là còn do vô số các "duyên”(điều kiện giúp cho sự phát sinh) khác. Các duyên này không phải tự nhiên mà có. Chúng cũng là một "quả”do vô số "duyên”khác tạo nên. Như thế, một hiện tượng có liên quan (dù gần dù xa) với “tất cả”các hiện tượng của vũ trụ.
Nói "hiện tượng”đây tức là một "dòng hiện tượng". Bởi vì khi nói đến một hiện tượng, ta thường nghĩ đến cả lịch trình phát sinh, trưởng thành hư hoại và tan rã, (thành, trụ, hoại, không) của hiện tượng ấy. Có thành trụ hoại không tức là có chuyển biến, mà có chuyển biến thì cố nhiên không phải là hiện tượng đồng nhất. Nó là một "dòng hiện tượng”bởi vì "nó”của phút sau kông phải là "nó”của phút trước, vả lại, trước khi "nó”(dòng hiện tượng) phát hiện ta bảo rằng chưa có "nó". Kỳ thực, "nó”đã có trong muôn ngàn nhân duyên tiền hữu rồi, sở dĩ ta không nhận được "nó”là vì ta không thấy được "nó”bằng cặp mắt thiển cận mà thôi.
Bạn tôi có "ráp”một chiếc xe đạp ở Sài Gòn từ năm 1945 tại hiệu Dur Fort, giá 400đ. Cái xe ấy cũ dần, hư dần, bạn tôi đã thay cả tay lái,và vừa rồi gãy khung xe, bạn tôi liệng nó vào hè, không dùng nữa. Bạn tôi chỉ  nó mà bảo tôi: "Đó là chiếc xe tôi mua ở Sài Gòn giá 400đ đấy". Bạn tôi không ý thức được sự thay đổi của chiếc xe kia mà vẫn một mực đồng nhất chiếc xe năm nay với cái xe trước đây. Lẽ ra, trong quá trình chuyển biến của chiếc xe, bạn tôi phải thấy chiếc xe hôm sau khác chiếc xe hôm trước, và hơn thế nữa, chiếc xe phút sau khác chiếc xe phút trước.
Tệ hơn nữa bạn cho rằng chiếc xe chỉ "có”từ khi bạn tôi mua và "hết có”từ khi gãy khung. Bạn tôi không biết rằng chiếc xe đã "có”từ trước khi bạn tôi mua và hơn thế nữa, "có”từ vô thỉ trong các nhân duyên của nó. Bạn tôi cũng lại không biết rằng nằm mãi đó để biến chuyển, để tiếp tục dòng đẳng lưu nhân quả của nó, tương quan và tương duyên với vạn vật khác. Con của bạn tôi sẽ tháo một cái chuông lắp vào xe nó, biết đâu cháu của bạn tôi sẽ tháo một cái tăm để mài nhọn, làm chiếc dùi đóng sách, biết đâu...., và biết đâu đống sắt còn lại ấy sẽ luân hồi vào một dụng cụ khác bằng kim khí...
Bạn tôi chấp rằng chỉ có một cái xe đồng nhất bất biến, mà kỳ thực chỉ có một hện tượng"xe”luôn luôn chuyển biến. Đó là "vọng tưởng”thứ nhất.
Bạn tôi vì ý thức vụ lợi, chỉ cắt xén một giai đoạn cả thực tại để mà cho rằng "có", và tất cả những giai đoạn trước và sau đều là "không". Cái quan niệm về có và không như thế là một vọng tưởng thứ hai.
Hai thứ vọng tưởng kia phản chiếu một nhận thức sai lầm chung cho tất cả mọi người.
Muôn vàn hiện tượng có chuyển biến, vì thế có sinh, diệt, thành, hoại nên ta cảm thấy cái có và cái không của vạn vật. Quan niệm về có và không của chúng ta hoàn toàn do sự sinh diệt của muôn ngàn hiện tượng mà có. Kỳ thực, muôn ngàn hiện tượng kế tiếp nhau mà phát hiện theo luật tương quan tương duyên, cái có và cái không của chúng ta chỉ là giả tưởng do trí óc "vọng tưởng”của ta tạo ra mà thôi. Không có gì thêm vào, cũng không có gì vứt đi, câu nói này rất là chí lý vậy thì có và không chỉ là những giả tưởng của các hiên tượng sinh diệt. Trí óc ta nhận "có", là khi nào ta thấy được một hiện tượng do nhân duyên cấu hợp, trí óc ta nhận “không “khi ta thấy hiện tượng ấy theo nhân duyên mà tan rã. Cái "có, không", của ta quan niệm là cái có, không của các đợt sóng chứ không phải là nước. Muôn ngàn đợt sóng thấp, cao, lớn, bé đua nhau thành, hoại, có, không. Còn nước (bản thể của muôn ngàn đợt sóng ấy) vẫn không bao giờ chịu luật có, không, thành, hoại của các đợt sóng vốn là hiện tượng của mình.
Về mỗi đợt sóng ta có thể phân biệt đầu đuôi, mất còn, to nhỏ. Những danh từ này chỉ để nói cho sinh diệt không thể gắn vào cho nước.
Về các hiện tượng ta phân biệt có thuỷ, có chung, có nhân, có duyên, có lớn, có nhỏ ấy không thể gán cho vũ trụ, cho thực tại cho bản thể. Hiện tượng tuy còn, mất, sinh, diệt bản thể vẫn bất biến, trường tồn. Hai đầu đòn cân tuy có lên xuống, có chậm mau, có sau trước, nhưng chính bản thân cái đòn cân vẫn là đòn cân không lên không xuống, chậm mau sau trước gì cả.
Thực tại là có một cái gì vượt ra ngoài sinh diệt tồn vong. Không có. Thế mà người  ta nỡ xem thực tại như là những hiện tượng có sinh diệt, có thuỷ chung và bắt trí óc phải tìm ra "nguyên nhân đầu tiên của nó".
Trong biển sinh diệt, "một”hiện tượng là nhân cho "tất cả”các hiện tượng khác, và cũng là quả do "tất cả"các hiện tượng khác làm nhân. "Một "do tất cả làm thành, "tất cả”đều do "một “mà phát hiện. Trong một có tất cả, trong tất cả có một, lý "nhất tức nhất thiết nhất thiết nhất tức”ấy vốn là căn bản của luật nhân duyên tương hợp tương thành.
Trong thế giới tương quan, tương duyên nhiệm mầu của hiện tượng, trí óc ta có tật cắt xén, phân chia thành từng cá thể riêng biệt rồi đi tìm một nguyên nhân cho cá thể ấy.
Quan niệm nhân quả một chiều (một nhân một quả) của Aristote ngày xưa đã sai lạc lắm rồi.Nay muốn ngược dòng nhân quả một chiều ấy để tìm đến nguyên nhân đầu tiên thật không còn gì dại dột hơn nữa.
Các giả tưởng sinh, diệt, có không, chung, thuỷ hoàn toàn do óc vô minh vọng tưởng của con người tạo ra cả. Một ngày kia thể nhập vào thực tại, vào cuộc sống muôn đời, ta không chỉ thấy những giả tưởng sinh, diệt, có, không kia nữa. Thực tại là thực tại. Nó không "có”và không "không”như các hiện tượng sinh diệt. Thực tại vượt ra ngoài giả tưởng có không. Nếu như thực tại có "có”thì cái "có”ấy chẳng phải là cái "có"của giả tưởng nhân duyên. Thực tại không "có”một cách giả tạm như hiện tượng sinh diệt, nên gọi là "diệu”hữu, thực tại không "không”một cách giả tạm như hiện tượng sinh diệt nên gọi là "chân không".
Diệu hữu và chân không là hai danh từ mô tả thực tại bất biến, bất sinh bất diệt, vô thuỷ, vô chung. Con người khi thể nhập vào lòng thực tại thì bao nhiêu giả tưởng sinh, diệt, thành, hoại thủy chung đều tan cả.
Để làm rõ nguyên lý này, ta nên lấy một ví dụ:
Một hôm ta trông thấy một chú bé mủm mỉm dễ thương, tay chân hồng hào nằm ngủ trong nôi. Mười năm sau ta trở về, trông thấy cậu bé tay chân cứng cáp, chạy nhảy nô đùa và tỏ ra rất láu lỉnh. Ta bảo: "Chà cậu bé mau lớn làm sao". Trong trí ta hình dung cậu bé lúc mới sinh, ta so sánh hình ảnh ấy với hình ảnh bây giờ, ta thấy có biến chuyển, có trước sau, có lớn nhỏ, nghĩa là có thời gian. Cha mẹ cậu bé thì ít suy tưởng như ta và ít thấy như ta. Họ ở gần cậu bé luôn và không thấy cậu bé "mau lớn”như ta thấy. Nhưng nếu cố ngồi nhớ lại một vài hình ảnh ngày xưa của cậu bé và đem so sánh những hình ảnh đó với những hình ảnh bây giờ, họ cũng sẽ thấy được một ít biến chuyển, đổi thay. Đến như chính cậu bé ấy thì cậu không hề có cảm tưởng cậu đã lớn, cậu đã biến chuyển hàng năm, hằng ngày, hàng giây phút. Cậu không cảm nhận được sự sinh diệt của các tế bào trong cơ thể cậu. Cậu không có những ý tưởng về sinh diệt, trước sau lớn nhỏ, biến chuyển hay không biến chuyển. Tóm lại, trong sinh hoạt bản thân cậu không có ý thức về không gian và thời gian. Vì sao thế? Vì chính cậu là thực thể, cậu đã "thể nhập vào thực tại". Nếu cậu tự đối tượng hoá để suy nghiệm, cậu hồi tưởng một vài hình ảnh cũ của bản thân rồi đem so sánh nó với hình ảnh hiện thời của mình, cậu cố ý thức được rằng các tế bào trong cơ thể cậu đang sinh diệt từng giây phút, thì cậu sẽ cảm thấy tất cả những biến chuyển, sinh diệt, thành hoại, thỉ chung, còn mất.  Nghĩa là cậu sẽ thấy có thời gian và không gian. Chính vì "đối tượng hoá”mình như vậy, nên cậu sinh ra lo sợ, suy nghĩ bực dọc... Giá đừng bao giờ cậu “đối tượng hoá”mình cả, thì cậu sẽ suốt đời sống trong an lạc hồn nhiên.
Vậy con người nằm trong thực tại, con người chính là thực tại, là những hiện tượng của thực tại bất sinh bất diệt. Vì vô minh con người đã đối tượng hoá thực tại, cho nên đã lo sợ, buồn vui, thương ghét đã khổ đau vì những giả tưởng sinh diệt, thành hoại thỉ chung. Vì nay con người lại muốn điên đảo thêm, khổ đau khắc khoải thêm, cho nên mới bôn ba đi tìm cái "bắt đầu"của vũ trụ, cái "nguyên nhân”đầu tiên hư ảo không bao giờ có vậy.

{]{

VẤN ĐỀ NGUYÊN NHÂN ĐẦU TIÊN TRONG ĐẠO PHẬT Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ