Nhân quả
1. Định nghĩa: Các tôn giáo
nói chung đều có quan niệm khác nhau về nhân quả. ở đây chúng ta tìm hiểu thuần
tuý về nhân quả Phật giáo.
Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả. Trong
thế giới tương quan duyên sinh, mỗi sự vật đều có những nguyên nhân của nó.
Nguyên nhân của một sự thể gọi là nhân, và hiện hữu của sự thể đang tồn tại gọi
là quả. Trong mối tương quan nhân quả này, mỗi hiện hữu vừa là nguyên nhân và
là kết quả như sự tuần hoàn của mây,
nước, hơi nước. Nguyên nhân chính (trực tiếp) của một hiện hữu gọi là nhân,
nguyên nhân phụ (gián tiếp) có ảnh hưởng đến quả gọi là duyên hay các điều kiện phụ thuộc). Do
đó, nếu nói đủ là: nhân - duyên - quả.
2. NỘI DUNG:
Trong tương quan nhân quả như đã
đề cập còn có các yếu tố duyên (trung gian) xen vào. Do đó sự thành tựu của các
quả còn tuỳ thuộc vào các duyên. Vì thế, ở
đây chúng ta cần ghi nhận một số điểm như sau:
Trong giáo thuyết nhân quả, một
nhân không thể đưa đến một quả, hay một quả không thể có một nhân. Và nhân quả
thường là đồng loại. Ví dụ: Trứng gà thường nở ra con gà, chứ không thể có
trường hợp trứng gà nở ra con vịt. Như thế là không có sự lẫn lộn trong đồng
loại.
Nhân quả tuy cùng một giống(đồng
loại) nhưng do các duyên trung gian xen vào, cho nên có thể quả cùng loại với
nhân nhưng vẫn khác với nhân. Ví dụ nắm muối nếu bỏ vào tô canh thì mặn, nhưng
bỏ vào hồ nước mênh mông thì không mặn. Sự khác
biệt này tuỳ thuộc vào các duyên(thuận hay nghịch) và theo đó quả hình
thành.
Nhân quả- Nghiệp báo là sự hiện hữu của các mối tương quan thiện
ác, chánh tà.... Nó thuộc pháp hữu vi
sanh diệt, vốn là hiện thân của ý niệm phân biệt. Do đó, với tâm thanh tịnh và
xả ly thì vấn đề nhân quả nghiệp báo không còn được bàn đến
3. PHÂN LOẠI NHÂN
QUẢ:
Thông thườngmột quả khi hình
thành nó cần đầy đủ nguyên nhân chính và các nhân phụ, cho nên nhân quả được
xét đến qua nhiều góc độ như thời gian, không gian, tâm lý v.v...
a) Phân
loại 1(theo thời gian)
1. Nhân quả đồng thời: Là loại nhân quả từ nhân đến quả rất nhanh, ví
dụ ăn thì no, uống nước thì hết khát, tức giận thì buồn phiền
2. Nhân
quả khác thời: Là loại nhân quả mà thời gian đi đến quả có một khoảng thời
gian và khoảng thời gian đó được chia làm ba giai đoạn như sau:
Hiện
báo Nghĩa
là nghiệp nhân trong đời này đưa đến quả báo ngay trong đời này. Ví dụ tuổi nhỏ
lo học hành chăm chỉ nên lớn lên trở thành người tri thức.
Sinh
báo Nghĩa là tạo nhân trong đời này nhưng đến đời
sau mới chịu quả báo. Ví dụ kinh Địa Tạng bảo rằng ai hay trêu chọc người, đời
sau sẽ thác sinh vào loài vượn khỉ.
Hậu
báo:
Nghĩa là tạo nhân trong đời này nhưng đến các đời sau mới chịu quả báo.
Ba thời nhân quả này vì có một
thời gian tương đối ổn định (có khoảng cách) do đó, chúng được xếp vào loại
định nghiệp. Cũng có trường hợp do các nhân duyên trung gian can thiệp mạnh vào
làm cho nghiệp quả trở nên khó xác định về thời gian và chủng loại. Trong
trường hợp này, chúng được gọi là bất định nghiệp. ba thời nhân quả đồng thời
cũng là câu trả lời tại sao (một số trường hợp) có người làm lành trong đời nay
lại gặp những điều bất hạnh và ngược lại người làm việc ác lại gặp may mắn.
b) Phân loại 2 (Theo vật lý và tâm lý)
Cách phân loại này nhằm chỉ đến sự biểu hiện của nghiệp quả
thông qua thái độ tâm lý tiếp thọ nghiệp, đồng thời nói lên những khoảng cách
khác nhau của nghiệp quả giữa tâm lý và vật lý, giữa nội tâm và ngoại cảnh.
1. Nội tâm và ngoại giới:
Nhân quả biểu hiện ở trong tâm lý của con người được gọi là nhân quả nội tâmb(nội
giới) và ngược lại là ngoại cảnh (ngoại giới). Như trường hợp một vị sư bị vu
khống phải ở tù, thân vị ấy ở trong tù nhưng tâm vị ấy an định, ly thủ giải
thoát. Như thế nghiệp quả chỉ biểu hiện ở thân chứ không biểu hiện ở tâm.
2. Tâm lý và vật lý: Sự biểu hiện khác nhau của nhân quả trên cùng
một con đường được chia thành hai phần: Tâm lý và vật lý. Như một người có thân
thể (Thể chất vật lý) xấu xí, khó nhìn, nhưng tâm thì thông minh và sáng suốt,
hiền từ và độ lượng, tu tập tốt (Tương tự như đối với các trường hợp ngược lại).
Tuy nhiên cũng có trường hợp được phước báo cả hai mặt thân và tâm hoặc ngược
lại.
4. CÁC PHẠM TRÙ
NHÂN QUẢ:
Có thể nói rằng, nhân quả là giáo
lý gắn liền với đời sống tu tập của người
Phật tử, gắng liền với các vấn đề luân lý, đạo đức của con người và nhân
quả đã nghiêm túc đặt ra vấn đề trách nhiệm của con người đối với chính tự thân
cũng như xã hội. Bởi lẽ Đức Phật dạy rằng: “Con người là chủ nhân của nghiệp,
là kẻ thừa tự nghiệp”. Từ đó nhân quả được bàn đến thông qua các phạm trù cơ
bản của đời sống con người.
* Nhân quả vấn đề luân lý đạo đức Phật giáo
Trước hết giáo lý nhân quả dạy
cho con người thức tỉnh trong các hành động tạo tác của mình để xa lánh các
việc ác, tức là vấn đề luân lý đạo đức của con người nói chung và của hàng phật
tử nói riêng. Tuy nhiên vấn đề trọng yếu của giáo lý nhân quả là ở chổ nó đặt
ra trách nhiệm cá nhân của mỗi người đối với các điều kiện sống của con người
ấy. Do đó, không thể quy ước giáo lý nhân quả tức là luân lý đạo đức Phật giáo
theo khuôn mẫu ước lệ như luật pháp được
ban hành trong xã hội. Chẳng hạn một người phạm tội, luật pháp sẽ trừng trị y
khi hành vi phạm tội được xác định, nghĩa là y đã thực hiện điều tội lỗi. Trong
khi với đạo đức và luân lý anh ta sẽ có tội ngay khi những ý niệm tội lỗi (xấu
ác) phát sinh trong tâm của y mặc dù đó chỉ là ý niệm chứ chưa phải là hành vi.
Do đó, trách nhiệm cá nhân theo giáo lý nhân quả ở đây là trách nhiệm cao nhất.
Đối với thái độ tâm lý đạo đức của mỗi người, mà không phải là trách nhiệm theo
quy ước, luật pháp trong xã hội.
Trong một số trường hợp, những
người khôn ngoan có thể chạy trốn pháp luật, nhưng với luân lý đạo đức, họ
không thể chạy trốn với lương tâm của chính mình được. Vì thế, nếu đứng trên
phương diện giáo dục, giáo lý nhân quả thực là một phương pháp giáo dục vô cùng
lành mạnh và tích cực. Vì ngay từ đầu, tinh thần nhân quả đã đưa con người về
với chính nó. Con người phải hoàn toàn phải chịu trách nhiện về tư duy và hành
động của chính mình. Hạnh phúc hay khổ đau là do mình tự tạo cho mình, ở đây
không có một sự trừng phạt hay ban thưởng nào, cũng không có một giáo điều hay
tín lý nào có thể thiết lập trên cơ sở nhân quả của Phật giáo. Một nền luân lý đạo
đức như thế, trí tuệ và đầy tình người như thế, nếu được áp dụng vào mỗi con
người gia đình, học đường và xã hội ắt hẳn sẽ đưa đến một cuộc sống an lạc và
hạnh phúc.
* Nhân quả khởi điểm của tiến trình giải thoát
Như đã đề cập, giáo lý nhân quả
đặt trọng tâm vào vấn đề thiện ác, chánh tà, tốt xấu,v.v.. tức là các vấn đề
liên quan đến đời sống đạo đức con
người. Tuy nhiên đó cũng là điểm khởi đầu của con người để đi vào đạo. Nhưng đối với
Phật giáo, sự giác ngộ và giải thoát không
chỉ dừng lại ở lĩnh vực nhân quả thiện ác, mà nó còn đi xa hơn nữa, đó
là đi ra khỏi thế giới phân biệt, đối đãi giữa thiện ác(thực tại giải thoát).
Vì lẽ, Phật dạy các pháp là vô ngã. Do đó, mọi sự phân biệt thiện ác chánh
tà... đều là sản phẩm của ý niệm vốn sanh khởi từ sự có mặt của ngã tưởng. ở
đây điều tối quan trọng là hãy nổ lực tư duy và nhận ra rằng không hề có mặt
bất luận một ngã tưởng nào thực sự hiện hữu. Tất cả đều là vô ngã. Khi nhận ra
điều này, nghĩa là đã bước lên đường để đi vào thế giới thực tại giải thoát.
Một thế giới vượt lên trên ý niệm phân biệt, mọi ngã tưởng điên đảo, thế giới
của sự thanh tịnh, xã ly và vô niệm. Tại đây thần chết của sinh tử của nhân quả sẽ không còn nữa. Vì rằng khi
ngã tưởng được buông bỏ thì tham ái và chấp thủ sẽ tiêu tan và khi ngã tưởng,
tham ái và chấp thủ bị đoạn diệt thì trụ cột của thế giới tương quan nhân quả
của nghiệp báo thiện ác bị sụp đổ. Đây là ý nghĩa của Niết Bàn tối thượng.
5.
MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VỀ GIÁO LÝ NHÂN QUẢ
Qua các phần trình bày ở trên, nhân quả có
vị trí rất quan trọng trong việc giải thích sự
khác biệt nghiệp quả của mỗi con người và thiết lập nên một nền tảng đạo
đức luân lý Phật giáo nhân bản và tích cực. Nhân quả theo Phật giáo không phải
là định mệnh, cũng không mang tính chât tiền định cố hữu. Bởi lẽ sự hiện hữu
của con người không đơn giản tuỳ chỉ thuộc vào các nhân đã gieo trong đời sống
quá khứ, mà nó tuỳ thuộc ngay trong các hành động (nghiệp mới) tạo tác trong
hiện tại. Điều này cũng khai phóng cho con
người một lối đi năng động, tích
cực để vượt qua moị trở ngại của nghiệp qủa, thậm chí có thể chấm dứt dòng sinh
tử khổ đau ngay tại cuộc đời này. Thực ra, theo lời Đức Phật dạy: Tất cả nghiệp
quả (của vô lượng kiếp quá khứ) đã tập trung vào thân 5 uẩn này rồi. Vấn đề còn
lại là hành vi tạo tác (xúc) giữa thân căn và thế giới, nói cụ thể là những
nghiệp mới được tạo tác thông qua sự giao tiếp giữa 6 căn, 6 trần để ý thức (hay
6 thức) cảm thọ vui, buồn, khổ, lạc hoặc không khổ, không lạc mà thôi. Từ đó
lối đi của giải thoát chân thực, thực sự không phải là nghiệp quả của 5 uẩn, mà
chính là hành vi tạo tác của 5 uẩn. Cho đến khi nào chúng ta ngộ được rằng 5
uẩn là vô ngã, chúng không có tự tánh và không còn tham ái và chấp thủ 5 uẩn là Ta, là của Ta, là Tự ngã
của Ta. Ngay lúc đó nhân quả, nghiệp báo sẽ không còn hiện hữu. Trong kinh
điển, thoảng hoặc nói về nhân quả xuất
thế gian, nhưng thực ra nếu ngay tại
thế gian này mà phiền não, lậu hoặc đã được đoạn tận thì xuất thế chính
là tại thế, cũng như hoa sen đã vươn lên khỏi mặt nước và nở rộ giữa hư không
vô tận.
Kết luận: Nhân
quả nghiệp báo là pháp duyên sinh. Do đó, không có lý do gì mà nó thường trụ
vĩnh hằng. Vấn đề là nổ lực tận dụng năng lực của trí tuệ soi sáng bóng mờ của
tự ngã để đi vào chân trời thực tại như thực. Đó chính là hình ảnh của bậc A La
Hán, đã chấm dứt dòng sinh tử ngay trên mảnh đất trần thế này. Và đối với người Phật tử, cần phải hiểu
rõ nhân quả, xây dựng niềm tin trên cơ sở của nhân quả, để từ đó kiến tạo cho
mình một đời sống thanh bình, an lạc. Kinh Pháp cú- Đức Phật dạy rằng: “ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ tạo tác,
đối với ý nhiễm ô, nói năng hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe theo
chân vật kéo.... đối với ý thanh
tịnh, an lạc bước theo sau, như bóng không rời hình”
0 nhận xét:
Đăng nhận xét