LONG VỊ - LINH VỊ
Chư Tăng Ni sau khi viên tịch, trên bàn thờ có
để thờ cái Long vị, còn người đời thờ cái Linh vị. Long vị, vì người ta hay khắc
hình con rồng trên bài vị nên gọi là Long vị, vừa trang nghiêm vừa tôn quý nên
dùng hình con rồng khắc trên bài vị, và cũng để khác biệt với Linh vị người thế
tục. (còn ý nghĩa nào nữa thì chưa tham khảo).
Long vị và Linh vị nội dung giống
nhau, nhưng Long vị người xuất gia có khác hơn một chút là ghi tông môn pháp
phái đời thứ mấy, phẩm vị Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Sa di…và chức vị trụ trì nếu có.
Còn
giống nhau Họ và tên thế tục, năm sinh và năm mất, có khi để địa danh chỗ ở. Long vị và Linh vị nó gần giống nội dung thẻ
Chứng minh Nhân dân hay thẻ Căn Cước Công dân của người còn sống vậy.
Người làm Long vị và Linh vị nếu không hiểu sẽ
hay lẫn lộn cách trình bày nội dung trong bài vị của người Việt và người Trung
Quốc mà ít ai để ý. Vô tình chúng ta biến người Việt thành người Trung Quốc và
hương linh ông bà biến thành hương linh người Trung Quốc, vô hình chung chúng
ta đồng hóa văn hóa con người Việt thành văn hóa và con người Trung Quốc.
-
Long vị: Nên đề PHỤNG VÌ: LÂM TẾ TÔNG, ĐỜI 43 TRUNG QUỐC, ĐỜI THỨ 9 LIỄU QUÁN
VIỆT NAM.
Nếu
đề Lâm Tế Chánh tông, thì không thực, vì đã trải qua bao đời phân phái còn đâu
chánh nữa. Hơn nữa Lâm Tế tông nay phần đông chuyển sang Tịnh Độ tông, hoặc Thiền
Tịnh song tông nên cũng không còn chánh tông nữa.
Vì thế chỉ đề: LÂM TẾ TÔNG. Không để
chữ CHÁNH
Tổ Liễu Quán là người Việt Nam được
truyền pháp từ Tông phái Lâm Tế Trung Quốc. Nên để cả hai Tổ để phân biệt vị
Hòa thượng hay Thượng tọa…đã viên tịch là người gốc Việt Nam. Nếu để Lâm Tế
Chánh tông thì người sau hay người Trung Quốc họ đọc họ sẽ nói đây là vị tu sĩ
Phật giáo người Trung Quốc trụ trì chùa này. Vô tình chúng ta mở rộng văn hóa
và địa phận Việt Nam thành Trung Quốc. Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc các nước
lân cận luôn chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc từ xưa đến nay. Một nước mà mất
văn hóa đồng như mất nước, hoặc là chư hầu của nước đó.
TỲ KHEO BỒ TÁT GIỚI húy thượng NGUYÊN hạ… TỰ… HIỆU… GIÁC LINH TÒA.
Ví dụ câu trên: Tỳ kheo Bồ Tát giới húy
thượng Nguyên hạ Bổn, Tự Thanh Tịnh, Hiệu Quang Phúc chi Giác linh tòa. Tức là
Vị này Giới phẩm Tỳ kheo Bồ tát, thuộc hệ phái Bắc tông (Bên Bắc tông thọ Tỳ
Kheo xong sau đó thọ tiếp giới Bồ tát, nếu không thọ Bồ tát giới công năng độ
sanh sẽ hạn chế vì thế phần đông ở Bắc tông đều thọ Tỳ kheo giới và Bồ tát giới
luôn một lần. Còn Phật giáo Nam tông không có giới Bồ tát).
Câu kệ truyền pháp của Tổ Liễu Quán bắt đầu từ
câu: Tâm Nguyên, Quảng, Nhuận, Đức Bổn Từ Phong.
Vị Tỳ kheo nay pháp danh là Nguyên nên
chữ đầu để là (thượng) Nguyên, chữ sau (hạ) Bổn, tức là Nguyên Bổn, là cách tôn
xưng của người sống với người mất, như người đời họ không xưng tên tộc của cha
và mẹ mà xưng bằng tên con đầu lòng của người đó.
Người
xuất gia mới đầu tập sự hành điệu bổn sư ban cho cái tên trong đạo gọi là Pháp
danh, là tên trong Phật pháp, sau thọ Sa di bổn sư cho pháp Tự, qua thời gian
tu tập một năm hay hai năm hoặc nhiều năm bổn sư thấy chửng chạc đủ khả năng
lãnh thọ Đại giới, bổn sư cho thọ Tỳ kheo, ban tiếp pháp hiệu. Như vậy người xuất
gia ngoài tên đời cha mẹ đặt cho, vào trong đạo thầy bổn sư, hay y chỉ sư ban
cho ba tên pháp nữa: Pháp danh, Pháp tự và pháp hiệu.
LINH VỊ NGƯỜI THẾ TỤC:
Giác linh hay Hương
linh đều là tên đặt cho người chết để phân biệt với người còn sống. Giác linh
là chỉ cho người giác ngộ được cuộc đời xuất gia tu học cầu sự giác ngộ, nên
sau khi chết gọi là Giác linh. Còn những vị thọ Sa di, hay Thập Thiện và Bồ tát
giới, sau khi chết gọi là Chơn linh. Chơn là chơn chánh, là người đã hướng đến
con đường chân chánh tu tập cầu giải thoát, ra khỏi đường mê, đường tà nên gọi
là Chơn linh. Còn ngoài ra thọ 5 giới gọi là Hương linh, còn người chưa thọ 5
giới gọi là Vong linh. Tuy vậy hương linh và vong linh nhiều lúc cũng dùng
chung một từ.
Người làm linh vị thường hay để địa danh trước
họ tên người mất ví như: Kinh Triệu Quận Nguyễn Văn A hay Vĩnh Xuyên Quận Lê Thị
B .v.v..
Kinh Triệu Quận hay Vĩnh Xuyên Quận v.v.. là địa
danh của khu vực từng họ tộc người Trung Quốc ngày xưa, ngày nay Trung Quốc
cũng không còn cách sinh hoạt như xưa nữa, nên cũng không cần để. Hơn nữa ta là
dân Việt Nam mà để địa danh khu vực ở Trung Quốc thì không hợp lệ.
Chỉ
đề Phụng vì Hiển khảo, Hiển Tỷ… Nguyễn Văn A chi linh vị, nếu có pháp danh để
pháp danh sau họ và tên. Người cha sau khi mất xưng là Hiển khảo, người mẹ xưng
là Hiển Tỷ.
Bàn
thờ người sau khi mất, các dịch vụ mai táng hay trang trí trên bàn thờ hai chữ
TRUNG TÍN và TRINH THUẬN. Cách thờ hai chữ này ngày nay không phù hợp cho người
Trung Quốc cả Việt Nam. Vì hiện nay cả
hai nước thuộc chế độ chính quyền Chủ Nghĩa Xã Hội, không còn chế độ vua quan
phong kiến nữa. Nên tư tưởng Tam Cương, Ngũ Thường, Công Dung Ngôn Hạnh không
còn phù hợp nữa. Không còn Trung hay Hiếu nữa ngày nay những tư tưởng ấy không còn
áp dụng trong cuộc sống nữa.
Mà
chỉ để Hiền Mẫu, Hiền Phụ, hay Hiền thê v.v..
Vã
lại người làm dịch vụ mai táng, những em bé trai hay gái mất cũng để thờ Trung
tín và Trinh thuận lại càng bất cập nữa, với tuổi chưa dậy thì, thì Trung tín
và Trinh thuận lại càng không phù hợp nữa. Hơn nữa chúng ta là người Việt mà thờ
chữ Hán, chữ Nho, chẳng ai đọc được, nhiều lúc treo ngược cái chữ cũng không ai
biết chữ treo ngược, thờ như vậy không
có ý nghĩa gì. Thế mà nhà nhà đều y như vậy xưa nay.
Linh
vị là miếng giấy, hay bản gỗ ghi tên người mất để con cháu biết ngày tháng năm
mất mà làm tuần tự và giỗ kỵ cho dễ nhớ thôi, chứ không có gì linh thiêng hay
khó hiểu, thế mà xưa nay ai ai cũng đặt nặng các việc như trên./.
—]–
0 nhận xét:
Đăng nhận xét