Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2024

TƯ TƯỞNG ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC HIỆN ĐẠI.

 

TƯ TƯỞNG ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO

VÀ KHOA HỌC HIỆN ĐẠI.

            Ông Einstein là một nhà bác học Vật lý (1879-1955) ông thọ 76 tuổi ông gốc nước[1] Đức, ông nói rằng: Điểm khởi đầu của khoa học là điểm cuối cùng của Phật giáo (vì Phật lịch nay là 2567 năm khoa học mới phát triển nay gần 300 năm). Nếu có một tôn giáo tương lai nào để đáp ứng nhu cầu khoa học thì tôn giáo đó phải là Phật giáo.

          Phật giáo có hai hệ thống Nam truyền Phật giáo và Bắc truyền Phật giáo, còn gọi là Tiểu thừa Phật giáo và Đại thừa Phật giáo. Ngày nay người ta không dùng Tiểu thừa hay đại thừa vì hai từ này có sự so sánh nên không thích hợp, người ta gọi Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền, hay Phật giáo Nguyên Thủy và Phật giáo phát triển.

           Thế nào gọi là Nam truyền, vì Phật giáo đi về phía Nam để hoằng hóa, nên gọi là Nam truyền, như Thái Lan, Lào, Campuchia, Miến Điện…Phật giáo Nam truyền giữ nguyên hình thức tu tập, từ tụng đọc kinh điển cho đến ăn mặc giống như tăng đoàn Phật còn tại thế, nên gọi là Phật giáo nguyên thủy, hay Phật giáo thủ cựu. Nói là nói như vậy, thực ra Phật giáo Nam truyền cũng đã thay đổi nhiều cách sinh hoạt và tu tập mới thích hợp và tồn tại chứ không phải không thay đổi. Ví như sự ăn ở, đi lại, y áo nếu không thay đổi thì không thể thích hợp và tồn tại với xã hội mới. Không thể đi chân trần mà không đi xe, đi máy bay, không mặc bận vãi vóc, chỉ mặc vãi lượm ở bãi tha ma thì không thể thích hợp và tồn tại được. Đơn cử một số nhỏ như vậy, cũng đủ thấy Phật giáo Nam truyền đã và đang thay đổi cách sống cách tu chứ không phải không thay đổi.

           Vì thế đã và đang có một số người theo hệ thống Phật giáo Nam truyền đã phá, công kích Phật giáo Đại thừa là ảo tưởng, là ngoại đạo v.v… tự dựng lên các đức Phật và Bồ tát để mê hoặc quần chúng. Phật di Đà, Phật Di Lặc, Bồ tát Quan Âm v.v.. là sự tưởng tượng, là ảo giác không có thật, cũng không có các thế giới của chư Phật như thế giới Cực Lạc cõi Phật A Di Đà hay cõi Phật Dược Sư Lưu Ly ở Đông Phương v.v…

          Những điều công kích và đã phá kinh điển Đại thừa đã làm cho Phật giáo suy yếu, những người tin Phật chưa đủ sự hiểu biết chín chắn sẽ hoang mang thối thất, cộng thêm có những sư thầy tu hành không đúng giới luật, hay những công trình xây dựng chùa viện không đúng mục đích tu học, chỉ chuyên về hình tướng đã gây xôn xao dư luận khiến cho Phật giáo đi vào con đường suy thoái.

           Và người tu theo Phật chỉ có tu Thiền mới đúng, ngoài ra các phương pháp tu khác là tu theo ngoại đạo. Thiền chỉ có thiền Tứ Niệm xứ mới đúng của Phật dạy, ngoài ra Thiền tông, Tổ sư thiền v.v… đều là những thiền không phải của Phật giáo. Thiền tông và Tổ sư thiền được phát triển mạnh ở Trung Quốc qua bao thế hệ dù có hay đến mấy, số người tu theo Nam truyền cực lực phản bác, cho là sự phịa đặt của người Trung Quốc.  Nhân cả thế giới không đồng tình với một số việc làm của giới chính quyền Trung Quốc, bị cả thế giới lên án. Vì thế kinh điển Đại thừa phần đông phát xuất từ Trung Quốc cũng ảnh hưởng bị cho là ảo tưởng, bịa đặt v.v… những việc như thế đã góp phần làm suy yếu Phật giáo.

          Thời đại khoa học phát triển, nếu không có kinh điển  Đại thừa, không có con người tu theo Đại thừa, thì Phật giáo lấy đâu để làm cơ sở chứng mình lời Phật dạy là khoa học, và vượt trên khoa học?

          Phật giáo Bắc truyền hay là Phật giáo Đại thừa là hướng phát triển của Phật giáo về phương Bắc, như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc v.v… nên gọi Phật giáo Bắc truyền.

           Đặc biệt Phật giáo Bắc truyền khác với Phật giáo Nam truyền, hễ đến xứ sở nào Phật giáo đều hòa hợp với phong tục tập quán xứ đó, tuy hình thức có thay đổi nhưng nội dung vẫn còn nguyên vẹn tính chất của nó. Ngoài hình thức bên ngoài bên trong sự tu tập, đọc tụng kinh điển cũng thay đổi theo văn hóa của nước đó, tuy có thay đổi nhưng không mất bản chất của mình, mà còn làm phong phú thêm cho văn hóa nước đó  và chính trị.

          Ví như Phật giáo đến Việt Nam dung hợp từ hai nguồn Phật giáo Nam và Bắc, nhưng không giống với Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Bắc truyền hoàn toàn, mà Phật giáo Việt Nam có bản sắc riêng biệc so với Phật giáo các nước khác đó là: Ngoài mục đích chính là tu cầu giải thoát, Phật giáo Việt Nam còn góp phần giữ nước dựng nước, hộ quốc an dân, đưa đất nước ổn định trên mặt chính trị, kinh tế văn hóa v.v…

          Đạo Phật như một cây đại thọ, có gốc, có thân và có cành, nhánh, lá. Đạo Phật Nguyên thủy như gốc cây, Đạo Phật Trung thừa như thân cây, đạo Phật Đại thừa như cành cây, nhánh cây và lá cây. Tuy ba mà một, thiếu một trong ba thì cây không thành.

          Chúng sanh có đa bệnh về thân, nên có nhiều loại thuốc để trị. Cũng thế chúng sanh có vô số phiền não, bệnh về tâm nên Phật nói ra nhiều phương pháp tu tập để chữa trị bệnh tâm cho chúng sanh. Vì thế không thể nói pháp này là đúng, pháp kia là sai. Không thể đứng một góc nhà mà đánh giá toàn cái nhà được. Cho nên Phật giáo Nam truyền không nên kích bác, đả phá Phật giáo Bắc truyền, ngược lại Phật giáo Bắc truyền cũng vậy.

          Phần lớn các kinh Đại thừa không chỉ nói về con người, mà còn đề cập đến các thế giới khác, chúng sanh khác, hay những hiện tượng vũ trụ, hình thành vũ trụ v.v… Như kinh Di Đà Phật nói: Từ đây qua phương Tây phải trải qua mười muôn vạn ức cõi Phật, có một thế giới gọi là Cực Lạc, thế giới ấy có đức Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp…

          Hay trong kinh Hoa Nghiệm nói: Ba ngàn thế giới nằm trong đầu sợi lông. Thời đại 4.0 sự phát triển của công nghệ thông tin đã chứng minh lời Phật nói. Ngày nay người ta không cất chứa dữ liệu trong sách, trong tủ, trong tài liệu bằng văn bản giấy tờ nữa mà mạng Internets đã thâu giữ các dữ liệu vào trong một ổ đĩa nhỏ như ngón tay mà đã dung chứa hàng ngàn dữ liệu. Ngàn dữ liệu nằm trong đầu ngón tay, khi mạng Internets chưa có thì chúng ta không thể tin nổi đều này được.

           Công nghệ lần thứ nhất là máy chạy bằng hơi nước; công nghệ lần thứ hai là máy chạy bằng xăng, gọi là công nghệ điện năng, từ hai công nghệ đó phát triển công nghệ thứ ba là máy điện toán, sau chuyển thành mạng Internets. Công nghệ lần thứ tư là công nghệ 4.0. Gọi là không gian thực mà ảo, nghĩa là hình ảnh hay âm thanh dù có xa mấy nhưng thấy và nghe như thật, như trước mặt mà không thật, vì nó là hình ảnh ảo, mà thật. Như các mạng Zalo, Messenger, Viber, Facebook, Youtube…

          Công nghệ 4.0 gọi là thực mà ảo, ảo mà thực, tương đương với câu trong kinh Bát Nhã: “Sắc tức thì không, không tức thì sắc”. Nghĩa là không tức có, có tức không. Chữ Không trong kinh gọi là “chơn không diệu hữu” tức trong không có vô số điều vi diệu, chứ không phải trống không, không có gì hết. Và trong không gian hiện nay có vô số đường chuyền điện tử, tài nguyên thiên nhiên đều nằm ở không gian, vô số tin tức, dữ liệu quốc gia, thế giới đều lưu trữ ở trên không gian .v.v…

          Thế nào là 4.0 là công nghệ lần thứ tư có 4 phạm trù không cần có. Tức là không cần có không gian, thời gian, con người và thiết bị máy móc. Ngày trước cần có con người, không gian, thời gian và máy móc mới làm ra tiền của. Ví như một cơ xưởng, phải có con người, như giám đốc, công nhân, phải có không gian mặt bằng để lắp đặt máy móc và hàng hóa, phải có thời gian để hoàn thành sản phẩm. Phải có đủ 4 phạm trù đó mới làm ra tiền của.  Với công nghệ 4.0 ngày nay, người ta chỉ cần nữa mét vuông có thể làm ra tiền tỷ trong thời gian ngắn một giờ chẳng hạn.

          Vì thế ba đặc điểm của công nghệ 4.0 là:

1/ Thần tốc, nhanh như chớp.  

2/ Kỳ lạ thấy và nghe những điều chưa từng thấy nghe.

3/ Ngoạn mục.

Vào thế giới 4.0 không ai là không vui mắt, dù già hay trẻ, quên ăn mất ngủ cũng vì hình ảnh trên màn hình điện thoại.

           Và 5 đặc trưng của 4.0 là:

          1/Thế giới mở ra và thu lại. (không gian)

          2/ Thời gian mở ra và thu lại. ( thời gian)

3/ Vinh danh con người và cải tạo con người. Nhờ thông tin trung thực và nhanh chóng, mà những người sa cơ thất thế, nghèo khổ trở nên nổi tiếng và sung túc giàu có.

4/ Kinh tế tăng trưởng thần tốc: Ngày xưa làm thủ công, mỗi ngày có được 5 đến 3 sản phẩm, ngày này trong một tiếng ra cả ngàn sản phẩm.

5/ Chỉ cần một cái máy Smatphone thì đi bất cứ nơi đâu không cần người dẫn đường, hay đem theo tiền bạc .v.v.. trong đó chứa đủ mọi nhu cầu chúng ta cần.

          Trong kinh Đại thừa chứa đựng rất nhiều điều mà khoa học chưa khai thác hết.  Như câu trong kinh Hoa Nghiêm: “Nhất niệm thông tam giới”, nghĩa là chỉ trong một niệm thông cả ba ngàn thế giới. Với mạng thông tin thần tốc ngày nay cũng thế, sự kiện xảy ra trong một nháy mắt cả thế giới đều hay biết.

          Hay “Phật quán nhất bát thủy bát vạn tứ thiên trùng”  Phật xem một bát nước có đến tám vạn bốn ngàn vi trùng, ngày xưa chưa có kính hiển vi mà Phật đã thấy được vi trùng,  do đó ngày xưa những người không tin Phật họ nói Phật nói chuyện viễn vông, nhưng ngày nay thì quá thực.

      Trong kinh Đại thừa nói: Phật nói một âm mà các loài đều nghe biết. Nghĩa là Phật nói ra một lời mà các loài như con người, loài chó, chim, trâu bò v.v.. đều nghe và hiểu lời Phật nói. Chúng ta nghe như vậy tin mà không thể hiểu được. Nhưng ngày nay các nhà khoa học đã chế ra cái máy nghe đa ngôn ngữ y như lời kinh Đại thừa vậy. Các hội nghị quốc tế, mỗi thành viên tham dự được phát cho một cái máy nghe có dây nghe. Người lên diễn đàn trình bày sự việc bằng một ngôn ngữ Anh hay Pháp hoặc Nhựt, thì cái máy của mỗi người đeo nghe trên người nó sẽ dịch sang tiếng của nước thành viên đó, không cần phải có thông dịch. Nghĩa là người nói một thứ tiếng mà các máy dịch ra nhiều thứ tiếng. Và cái máy còn ghi âm và đánh thành chữ văn bản trên máy của các nhà báo, đài đưa tin tức nữa, không cần phải dịch thuật lại nữa. Máy móc ngày nay quá hiện đại quá siêu. Nhưng đức Phật đã đi trước khoa học những điều này rồi.

Cũng vậy, ngày nay các khoa học gia chế tạo các phi thuyền bay ra khỏi trái đất, lên tận cung trăng, các phi cơ chở 500 người bay trên không từ nước này qua nước khác trong vài tiếng đồng hồ. Thì đối với con người thời xưa 300 năm về trước việc này họ cũng cho là huyền bí khó hiểu, không tin nổi có những sự việc như vậy.
Trước khi Phật ra đời cũng đã có nhiều vị tu luyện có đủ ngũ thông, và sau Phật cũng có nhiều người tu luyện đã chứng được ngũ thông. Riêng đức Phật có đủ lục thông, vì thế Phật mới tuyên bố sau khi thành đạo rằng: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có giác tánh (Phật tánh, Tự tánh thanh tịnh) vì thế Ta là Phật đã thành và tất cả chúng sanh là Phật sẽ thành”. Hai ngàn năm sau, ngài Huệ Năng (638- 713), là một thiền sư vĩ đại nhất trong lịch sử thiền tông Trung Hoa. Khi ngài Huệ Năng được Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang ngài Huệ Năng hoát nhiên đại ngộ hết thảy vạn pháp không lìa Tự tánh, rồi nói bài kệ trước mặt Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn rằng: “Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp, Hà kỳ tự tánh vốn tự đầy đủ…”. Nghĩa là “Nào ngờ tự tánh năng sanh vạn pháp; Nào ngờ tự tánh vốn thanh tịnh; Nào ngờ tự tánh không sanh diệt; Nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ; Nào ngờ tự tánh vốn không dao động”

 Hay trong kinh nói “Phàm tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ”. Nghĩa là  phàm đã làm việc gì đều không mất, khi nhân duyên hội đủ thì quả báo sẽ hiện ra”.  Ngày nay các nhà khoa học chế tác ra cái máy truy tìm lại âm thanh và hình ảnh của các sự kiện gây án mạng, hay đánh cắp tài sản. Như vậy những điều Phật nói trong kinh đều phù hợp vơi sự nghiên của của các  giới khoa học.

Vì thế những lời Phật nói là những lời chân thật ngàn năm về trước và mấy ngàn năm về sau, những ai y theo lời Phật dạy thì sẽ đạt được những gì Phật đã thấu đạt được không sai./.

 

Phụ lục:

Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Phật nhãn, Pháp nhãn thì thông suốt còn nhục nhãn thì ngăn ngại.

- Thiên nhãn còn gọi là thiên nhãn thông, là năng lực nhìn thấy rõ vạn vật gần xa, nhìn thấy mọi bản chất sự vật của chúng sanh cũng như mọi hình sắc trong thế gian không gì là ngăn ngại.

- Pháp nhãn là mắt sáng của chư Bồ tát vì đã thực hành sâu xa Bát Nhã Ba la Mật để thấy rõ căn cơ của chúng sanh mà tùy duyên hóa độ. Pháp nhãn là loại nhãn của Bồ tát và A La hán.

- Tuệ nhãn: Là con mắt trí tuệ, thấy quá trình luân hồi sanh tử, thấy được các thế giới và các tầng không gian…

Phật và chư Bồ tát có các loại nhãn như vậy, nên các ngài hóa độ chúng sanh không bị trở ngại, và hóa độ vô lượng chúng sanh mà không sanh sự nhàm mỏi.

Tóm lại Kinh điển Đại thừa đã đáp ứng nhu cầu cho các nhà khoa học nghiên cứu và thực nghiệm để đem lại tiện ích cho cuộc sống con người trong mọi thời mọi lúc mọi nơi.

          Vì thế trong kinh các nhà dịch thuật kinh điển mới tôn vinh đức Phật rằng: Trên trời dưới trời, tìm hết không có ai bằng Phật là vậy. Giỏi và siêu như khoa học mà cũng không bắt kịp lời Phật dạy là vậy.

                                                          ]



[1]

TƯ TƯỞNG ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC HIỆN ĐẠI. Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét