TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI VIỆT NAM
Miền nam Việt Nam là
nơi phát sinh nhiều tôn giáo bản địa đều bắt nguồn từ đạo Phật, như, Đạo Cao
Đài, đạo Hoà Hảo. (Tứ Ân
Hiếu Nghĩa) , Bửu Sơn Kỳ Hương,Đạo Khất Sĩ…trái lại miền Bắc phát sinh
nhiều tín ngưỡng nhân gian. Như đạo thờ Mẫu . thờ Thần, thờ các vị anh hùng dựng nước
giữ nước v.v..
Nam Bộ là vùng đất có diện mạo tôn giáo hết sức phong phú. Nơi đây không
chỉ đón nhận nhiều tôn giáo trên thế giới du nhập vào, mà còn khai sinh ra nhiều
tôn giáo dân tộc hoặc cải cách tôn giáo ban đầu để hình thành nên dòng phái
riêng biệt. Tịnh Độ Cư Sĩ Phật hội Việt Nam (TĐCSPHVN) ngày nay là một tổ chức
tôn giáo đã được Chính phủ Việt Nam công
nhận tư cách pháp nhân. Đặc điểm của giáo phái này là dù vẫn thờ Phật và theo
giáo lý nhà Phật, nhưng chỉ có hàng cư sĩ tại gia chứ không có tu sĩ xuất gia,
lấy Tịnh Độ tông theo phương pháp trì niệm danh hiệu Phật làm nền tảng tu hành.
1/ Quá trình hình thành và phát triển : Người khai sáng TĐCSPHVN là Đức Tông sư Minh
Trí (1886- 1958). Ông tên thật là Nguyễn văn Bồng, sanh 1886. quê ở xã Tân Mỹ,
tổng An Thạnh Thượng, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Tân Mỹ, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng
Tháp). Ông là con thứ bảy trong nhà nên còn gọi là Bảy Bồng. Xuất thân từ gia
đình có truyền thống Nho học, ông học hành rất thông minh. Song, tương truyền
thời tuổi thơ, ông tỏ ra có nhiều tính cách khác bạn bè trang lứa, như thường
trầm mặc suy tư, ít đùa giỡn với bạn trẻ.
Sức khoẻ ông vốn không tốt, thường
xuyên đau ốm, khó ăn, thân thể tiều tuỵ…nên đến 15 tuổi phải
nghỉ học. Do cha mẹ không may mất sớm nên ông sống với anh chị ruột và được cho
theo học nghề Đông y. Năm 19 tuổi, ông lập gia đình theo sự sắp xếp của anh chị.
Đến khi ông 25 tuổi thì chính thức hành nghề y chữa bệnh giúp đời. Năm 1915,
ông từ giã gia đình đi vân du, một mặt là lấy cớ buôn bán
trên sông nước, nhưng mặt khác thực chất là muốn đi tầm đạo và tìm hiểu dân
tình. Năm ấy ông 29 tuổi.
Trong những năm tháng nầy, ông đã thu phục được những đệ tử mà sau đó trở
thành những trụ cột của giáo hội như ông Huấn sư Dương Văng Đình, Huấn sư Nhan
Văn Đồng, Huấn sư Đinh Văn Ninh, Huấn sư Nguyễn Văn Kiên… Năm 1921, ông Minh
Trí và bốn người đệ tử nêu trên cùng lên núi Cấm (An Giang), mỗi người được
phân định một địa điểm để nhập thất. Qua bảy ngày thiền định, thầy trò cùng xuống
núi, sau đó ông Minh Trí phân công cho mỗi đệ tử đi vân du truyền đạo ở từng tỉnh
cụ thể (Nguyễn Võ Nguyên Pháp 2015).
Sau hơn mười năm hành đạo các nơi, có được một lượng tín đồ
khá đông đảo, ông Minh Trí quyết định thành lập tổ chức tôn giáo. Ông cho soạn
thảo điều lệ, cử ra Ban sáng lập để trình đơn xin lên chính quyền Pháp. Ngày
20/2/ 1934, Thống đốc Nam Kỳ Pierre Andre Michel Page phê chuẩn cho thành lập tổ chức tôn giáo mang tên Tịnh Độ Cư sĩ Phật hội ( chưa có hai chữ Việt Nam). Ngày 13/3/1934,
Ban Sáng lập tổ chức Đại hội lần thứ nhất tại Hưng Long Tự để bầu Ban Trị sự đầu
tiên.
Đến ngày 25/7/ 1934, Ban Trị sự mới tổ chức phiên họp bất
thường ở chùa Hưng Long để suy tôn ông Minh Trí làm Tông sư. Ông lấy lý do tuổi
tác và sức khoẻ để thoái thác, tuy nhiên do Ban Trị sự tha
thiết suy cử, ông hoan hỷ nhận lời. Cũng từ đó, Tông sư Minh Trí lại trở về lục
tỉnh, bắt đầu phát phái quy y công khai cho tín đồ sau khi giáo hội đã được “
danh tánh ngôn thuận”.
Cũng nên nói thêm. TĐCSPH ban đầu chưa có trụ sở, nên mượn
tạm một ngôi chùa là chùa Hưng Long để đặt hội quán. Sau đó, một điền chủ cũng
là đệ tử của TĐCSPH tên là Quách Thị Mười đã hiến một phần đất ở chợ Lớn để cất
hội quán trung ương. Năm 1935, hội quán mới
được khởi công xây cất và đến năm sau thì hoàn thành mang tên là Tân Hưng Long tự (nay đã đổi thành Hưng Minh
tự). Năm 1937, TĐCSPH xuất bản tạp chí Pháp
âm Phật học làm cơ quan ngôn luận và phổ biến giáo lý.
Ngày 22/12/1953, được sự công nhận của chính phủ Quốc gia
Việt Nam, giáo hội chính thức mang tên đầy đủ Tịnh Độ Cư Sĩ Phật hội Việt Nam
như ngày nay. Năm 1957, Tôn sư Minh Trí đã ngoại thất tuần, có lẽ dự đoán được
tình hình sức khoẻ của mình nên ông hành đạo miền Tây lần
cuối. Khuya ngày 22 rạng sáng 23 tháng 8 âm lịch năm 1958, Tông sư Minh Trí
viên tịch, thọ 73 tuổi. Hiện tại mộ ông còn ở Tổ đình Hưng Minh tự.
Đến nay TĐCSPHVN có
hơn 200 hội quán có mặt ở miền Trung và miền Nam với gần 1,5 triệu tín đồ, trong đó có gần 5.000 chức sắc,
gần 1.000 lương y…Lãnh đạo Phật hội là Ban Trị sự Trung ương do Chánh Hội trưởng
đứng đầu, mỗi tỉnh có Ban Trị sự Tỉnh hội đứng đầu là Hội trưởng. Cơ sở thờ tự được gọi là hội quán, với chữ Hưng đứng
đầu. Việc thờ tự trong hội quán chi thiết trí duy nhất một pho tượng Phật Di
Đà. Đạo kỳ của TĐCSPHVN là lá cờ chữ nhựt nền vàng, giữa có chữ “ nhứt” viết
theo dạng cổ tự, mang hàm nghĩa là quy về một lối.
2/ Phương pháp tu tập : Tác
giả Huỳnh Minh (1967-: 298) nhận định :
“ Tôn chỉ của Phật học hội là thực hiện chủ nghĩa từ bi và bác ái của
nhà Phật, cứu thế , độ nhân, lập công bồi
đức giúp đời, âm thầm làm phật sự, hàn gắn sự đau khổ của người, với
lòng vị tha. Hội chủ trương với mục đích cao cả ấy, khuyến khích mọi người mở rộng
tình thương, tận dụng khả năng, đem tài sức của mình giúp người theo phương tiện,
không danh không lợi ”.
Buổi đầu, để phù hợp với bối cảnh xã hội và trình độ dân
trí người Nam Kỳ lúc bấy giờ, Tông sư Minh Trí xét thấy khó có thể giảng giải
những triết lý cao sâu của đạo Phật. Ông chọn Tịnh Độ tông là pháp môn niệm
danh hiệu Phật A Di Đà để truyền bá với đối tượng hướng đến là hàng cư sĩ tại
gia. Đồng thời, ông kết hợp với việc vân du các nơi chữa bệnh cho dân chúng hoạt
động từ thiện xã hội, từ đó cảm hoá đức tin của họ và
khuyên họ tu hành.
Ông còn truyền dạy
phương pháp lễ bái lục phương (đông, tây, nam, bắc, thượng, hạ - mỗi hướng 4 lạy),
phương pháp này được Đức Phật Thích Ca
hướng dẫn trong kinh Giáo thọ Thi ca la việt, thuộc Trường bộ trong hệ
thống kinh tạng Nikaya (tương ưng với kinh Thiện Sanh trong kinh Trường A Hàm).
Năm 1919, ông chính thức truyền bá tông phái gọi là Lục phương tông với nền tảng
là pháp môn lễ bái lục phương.
Năm 1950, Tông sư Minh Trí đơn giản hoá
cách lễ bái lục phương mà chỉ còn lạy một hướng vào bàn thờ Phật 24 lạy, xá
phía trong rồi xoay ra xá phía ngoài, trở lại xá vào trong một lần nữa. Ông cho
rằng, Lục phương tông là phương tiện truyền giáo buổi đầu, khi giáo hội đã
chính thức mang tên TĐCSPH thì thuộc về Tịnh Độ tông.
Đồng thời, Tông sư triển khai phương pháp Phước Huệ song tu,
nhằm nâng cao trình độ tu học của tín đồ. Tu phước là làm các việc thiện giúp
ích cho xã hội, tu Huệ là nghiên cứu giáo lý của nhà Phật để nâng cao trí thức.
Để thuận lợi trong thực hiện pháp môn này, ông cho thành lập hai ban chuyên
trách là Ban Y tế Phước thiện và Ban Đạo
đức. Tác giả Trần Hồng Liên (2001 : 70) nhận định : “ Một điểm đặc biệt trong tông
chỉ của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam là quan niệm về vấn đề đạo đức. Người
có đạo đức là người có tánh hạnh tốt lành, hay cứu nhơn độ thế, thực hành hai
chữ nhơn nghĩa ”.
Trong năm 1958,
trong ngày Đại hội mùng 8 tháng 4 âm lịch- nghĩa là vài tháng trước khi viên tịch,
Tông sư Minh Trí ban hành huấn từ cuối cùng cho toàn thể tín đồ với nội dung
nguyên văn như sau :
“
Nầy chư Thiện hữu Tri thức ! Thành lập
Ban Y tế phước thiện, tôi chẳng có ý dành riêng cho y sĩ sanh tu Phước, mà để
cho tất cả các chức sắc hội viên và toàn thể thiện nam tín nữ tu phước. Cũng như thế,
tôi thành lập Ban Đạo đức, chẳng phải dành riêng cho các chức sắc tu Huệ,
mà để cho toàn thể hội viên và thiện nam tín nữ tu Huệ. Tinh tấn thực hành Phước
Huệ song tu là lên đường Giải thoát. Tinh tấn
thực hành Phước Huệ song tu là đường về Cực lạc. Tôi tha thiết khuyên nhủ tất cả lớn nhỏ, nam
nữ ghi lấy, nhớ lấy ”.
Ngày nay về phương diện tu Huệ, việc phổ truyền giáo lý được
thể hiện qua một số tác phẩm tiêu biểu do Tông sư hoặc các vị Huấn sư soạn như
: Lễ bái lục phương, Phu thê ngôn luận,
Giới luật, Đạo Đức, Phật học vấn đáp, phương pháp kiến tánh… Song song
đó, về phương diện tu phước, tại mỗi hội quán đều có phòng
thuốc Nam phước thiện, thể hiện đường lối hành đạo nhập thế tích cực. Trong
hành trì hằng ngày, tín đồ có tứ thời công phu, khi lễ Phật thì lạy 24 lạy, lễ
Quan Âm Bồ tát thì lạy 12 lạy, lễ đức Tông sư Minh Trí 6 lạy. “ Cư sĩ là người tu
tại gia, không bắt buộc từ bỏ gia đình, xuống tóc. Tuy nhiên trong Hội vẫn có
tu sĩ xuất gia, như trường hợp ở Hưng Đức tự (tỉnh Bình Dương)”.
(Trần Hồng Liên 2016).
3- Nhận định chung : Nhìn
chung, hoà trong dòng chảy văn hoá Nam
Bộ giai đoạn cận và hiện đại với sự biến đổi sâu sắc trên cả hai bình diện vật
chất lẫn tinh thần, TĐCSPHVN – một trong những hiện tượng văn hoá
đặc thù và góp phần cấu thành diện mạo văn hoá Nam Bộ- đã
thể hiện một số đặc trưng cơ bản như : tính hệ thống, tính dân tộc, tính phục
hưng, tính linh hoạt.
Sự ra đời và phát
triển của TĐCSPHVN nằm trong hệ thống văn hoá tinh thần của
người Nam Kỳ trong giai đoạn giao thời. Tông sư Minh Trí đã giản dị hoá các lý thuyết tôn giáo , thổi vào đó sắc thái vùng miền để
dễ đi vào lòng người. Những nỗ lức đó phần nào thể hiện ý chí phục hưng Phật
giáo và văn hoá dận tộc. Và để thể hiện nguyện vọng đó, người
đứng đầu của giáo phái đã hết sức linh hoạt trong phương pháp truyền bá, theo
nguyên tắc tuỳ cơ hoá độ.
Do những hoàn cảnh nhất định về lịch sử và văn hoá, nên miền Nam đã là nơi ra đời nhiều tôn giáo và dòng phái
bản địa như: Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Cao Đài, Đạo Phật Khất sĩ… trong đó có
TĐCSPHVN là một trong những đường nét chủ đạo tạo nên bức tranh đa màu sắc về
tôn giáo trên vùng châu thổ. Dù theo đuổi
triết lý nào, các tôn giáo nầy cũng là sản phẩm văn hoá độc
đáo được hình thành trong lòng không gian văn hoá Nam Bộ và
đã phát huy những giá trị cụ thể, những ý nghĩa to lớn đối với đời sống đồng
bào Nam Bộ xưa và nay.
(Trích : Tịnh Độ Cư Sĩ Phật hội Việt Nam :
Vĩnh Thông- VHPG –số 344- 15-5-2020)
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét