TÍN NGƯỠNG PHẬT GIÁO
Nói về tín ngưỡng nó
đã phát xuất và hình thành từ khởi nguyên của nhân loại. Mới đầu là nguồn gốc
tín ngưỡng Toten là tín ngưỡng “Vật Tổ”, nó chỉ cho loại hình tôn thờ của một
Thị tộc, một Bộ lạc của các dân tộc. Đối tượng tín ngưỡng Toten chủ yếu là quần
thể thị tộc bộ lạc. Trong ý thức cuộc sống quần thể thị tộc, Toten là khởi
nguyên tín ngưỡng sớm nhất. Tín ngưỡng này đã được hình thành từ trong tâm tưởng
người cổ đại nguyên thỉ đối với hiện tượng tự nhiên. Tác giả nổi tiếng Durkheim, nhà xã hội học đã nghiên cứu cuốn “
Đời sống tôn giáo ” và đưa ra lý luận vấn
đề tín ngưỡng Toten và pháp luật của thầy Phù thuỷ (Thầy mo
hay Thầy bùa) hỗn hợp lại thành tôn giáo khởi nguyên của nhân loại. Freud trên
nền tảng phát triển tín ngưỡng Toten đã nói rõ: Không chỉ tôn sùng Toten là khởi
nguyên của tôn giáo mà cũng là khởi nguyên của văn hoá, đạo đức và tổ chức xã hội. Toten là là một loại hình của
ý thức xã hội, nó đã thâm nhập vào các phương diện cuộc sống của người nguyên thỉ,
nó đã có ảnh hưởng đến sự phát triển và sáng tạo văn hoá,
nó là nền tảng là nguyên lý để hình thành nên văn hoá hiện
đại của loài người.
Ban đầu tín ngưỡng tôn giáo người nguyên thỉ, vô cùng đơn giản,
chủ yếu là những vấn đề trong tự nhiên trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống sinh
hoạt của họ, là một biểu hiện tiến bộ không có hoài nghi. Do vì trong tôn
giáo nguyên thỉ, tư tưởng linh hồn và
linh hồn bất tử là một loại hiện tượng thiên phú tự nhiên, khi đó tư tưởng con
người còn lạc hậu, nhưng họ cũng đã biết đến mối quan hệ với tự nhiên có tác dụng
ảnh hưởng đến sự sanh tồn của loại người như thế nào. Đây là nguyên nhân ban sơ
đưa con người cổ đại bước vào lãnh vực tín ngưỡng.
Quan niệm tín ngưỡng Toten được sản sanh từ trong sinh hoạt của
loài người nguyên thỉ, họ sanh tồn trong điều kiện hoàn cảnh thiên nhiên vô
cùng ác liệt và khắc nghiệt như: Sấm, sét, mưa bão, hồng thuỷ,
mãnh hổ, ác thú, thiên tai, hoạn nạn … từng giờ từng khắc đe doạ
mạng sống và sự sanh tồn của loài người. Trước năng lực và sức mạnh của thiên
nhiên, con người không có cách nào hơn lá lấy thiên nhiên để đối trị thiên
nhiên. Dần dần trong ý thức của người nguyên thỉ, việc tôn thờ và sùng bái
thiên nhiên được xuất hiện, và quan niệm sùng bái Toten được xem như là thần
linh có quyền năng bảo bọc họ. Người cổ đại nguyên thỉ ngoài việc tôn sùng
Toten là để tránh tai hoạ thiên nhiên uy hiếp, còn là
phương thức tế cầu, khẩn nguyện sự bình yên cho con người. Họ tôn sùng gấu beo
là cha, cọp hổ là mẹ, và mỗi bộ lạc đều lấy một loại động vật làm vật sùng bái,
cũng có bộ lạc lấy thực vật như cây cối, hòn đá hay các vật thể mà họ cho rằng linh thiêng làm thành
vật tôn sùng. Họ cũng cho rằng nhờ vào sức mạnh tôn sùng đó khiến họ đấu tranh
và chống lại các loại cầm thú hung ác phá hoại, tránh được sự huỷ
diệt của thiên nhiên. Từ quan điểm này người nguyên thỉ cho rằng tổ tiên của họ chính là động vật. Điều này
cho đến ngày nay vẫn còn thấy một số quốc gia vẫn còn tôn sùng những loại thú vật như người Trung Quốc,
họ xem rồng là biểu tượng tôn thờ của đất nước họ, người Ấn Độ xem bò là loại động
vật linh thiêng. Có một số nơi họ tôn thờ các loại động vật như rắn, cóc, cọp,
sư tử v.v...Vương Kiến Vũ, giáo sư khoa sử học tỉnh Hồ Bắc đã nói: “ Mặc dù trải
qua sự tiếp nhận các hình thức nghi lễ, tín ngưỡng phức tạp và không đồng quan
điểm nhưng chung quy người nguyên thỉ đều lấy đối tượng tự nhiên làm chỗ nương
tựa tinh thần trong hoàn cảnh xã hội chưa có ánh sáng văn minh xuất hiện ”. Do
một số động thực vật đã trở thành vị Thần ban đầu của xã hội Thị tộc, vị thần bảo
hộ đầy quyền uy,và tín ngưỡng Toten đã được xuất hiện kể từ đây.
Nhân tố tâm lý
trong tín ngưỡng Phật giáo.
Tâm lý học gia Freud từng chỉ ra rằng: “Thượng đế không phải
thống trị, chính phục lực lượng con người, tôn giáo của con người là hình thức
quy y, là sự nương tựa nơi tự thân, nhờ vào sự quy y này, người ta tránh được cảm
giác cô độc”. Đối với tín ngưỡng Phật giáo, con người cần hiểu rõ tín điều, lễ
nghĩa và giáo điều quy định của Phật giáo, có thể lấy thân phận của tín đồ mà
luận bàn nhân tố tâm lý trong tín ngưỡng và tiến hành xác chứng giá trị của tín
ngưỡng. Tín ngưỡng không những thoả mãn nhu cầu tâm linh
con người mà còn có khả năng làm tăng giá trị tự tôn trong mối quan hệ giao tiếp
xã hội. Tác dụng quan trọng của tín ngưỡng làm thoả mãn nhu
cầu tinh thần nhân loại, duy trì trật tự xã hội, xúc tiến xã hội ổn định và
hoàn thiện quy phạm đạo đức con người. Tín ngưỡng là hiện tượng đặc thù trong
tâm lý học, là một phương thức hoạt động, một loại thái độ, truy tìm giá trị
siêu vượt hiện thực.
Tín ngưỡng Phật giáo là sự tôn trọng và phụng hành một loại
quy tắc chuẩn mực đối với nhân sinh quan và thế giới quan, nó còn là hiện trạng
ý thức cao nhất có thể thống nhiếp các loại ý thức. Từ góc độ tín ngưỡng mà
nói, chúng ta không thể trực tiếp thực hành trắc nghiệm mà chúng ta có thể
thông qua sự lựa chọn của mỗi cá nhân, sự kiên định trong cuộc sống, trong công
việc, trong ngôn từ, trong thái độ cư xử và hành vi biểu hiện mà trực tiếp cảm
nhận giá trị tín ngưỡng tối cao.
Quan điểm của Phật giáo là tìm ra con đường thoát khổ cho
nhân loại, giải toả những cố chấp câu sanh đang tiềm ẩn
trong tự thân mỗi con người. Muốn tìm ra bộ mặt thật của nhân sinh thì phải
truy nguyên cội nguồn của nhân sinh: “Con người từ đâu sanh ra, và khi chết đi
về đâu? ”. Nhận thức của nhân sinh đối với thế giới quan còn bị hạn cuộc, vấn đề
giải thoát tâm linh và tâm linh bị trói buộc là đề tài muôn thuở. Do vậy, tín
ngưỡng Phật giáo là cơ hội giúp nhân sinh
tìm ra nơi trở về cuối cùng của họ: Bằng cách con người tự tịnh hoá tâm linh của chính mình, có thể đạt được con đường giác ngộ
mà bậc Thánh Hiền đã đi qua. Chính vì thế, Phật giáo chủ trương nhân loại muốn
có cuộc sống ý nghĩa, muốn tìm được cảm giác hạnh phúc nên kiến tạo thái độ sống
ngay trong hiện tại đầy đủ mỹ đức, thiện hạnh, đồng tình và an tịnh. Mỗi giờ khắc
chúng ta nên tỉnh giác và tự câu thúc mình, thừa nhận năng lực tự thân và tin
vào năng lực mà mình đang tín ngưỡng. Điều này có thể đưa chúng ta đến sự an tịnh
thân tâm, và đạt được trạng thái an lạc vô phiền vô não trong xã hội đầy dẫy phức
tạp của dòng chảy tham sân si, và các thảm hoạ của thiên
tai từng giờ từng khắc đe doạ con người.
Thái độ tâm lý trong tín ngưỡng Phật
giáo.
Phật giáo chỉ rõ nguyên nhân “ Khổ ” của nhân sinh trong “ Tứ Thánh đế” và “Thập nhị nhân duyên”.
Khổ đế và Tập đế là một tiến trình phát sanh Logic mà Phật giáo đã luận về nhân
sinh, đồng thời duyên khởi luận cho rằng: Tất cả vạn vật trên thế gian là do
các điều kiện và nhân tố hình thành mà ra, vạn vật hình thành trong mối tương
quan tương duyên. “Chư pháp tùng duyên sanh, diệc tùng nhân duyên diệt”, ly
khai tất cả các điều kiện và mối quan hệ duyên khởi này thì mọi sự vật đều huỷ diệt và biến hoá. Nguyên thỉ Phật giáo
dùng lý duyên khởi để quán sát nhân sinh, con người và sự vật hỗ tương sanh tồn
trong điều kiện nhân quả của 12 nhân duyên. Gồm có: Vô minh, hành, thức, danh sắc,
lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. 12 nhân duyên không ngừng diễn
biến và sanh diệt mối liên hệ móc xích nhân quả. Trong đó Vô minh, hành là nhân
quá khứ; thức, danh sắc, lục nhập, xúc,
thọ là quả hiện tại, ái, thủ, hữu là nhân hiện tại, sanh, lão tử là quả vị lai.
Chúng sanh vì thọ báo ứng mà luân chuyển không ngừng trong lục đạo, không có đường
lối ra. Nguyên nhân chúng sanh chịu sự luân hồi trong khổ quả là do 12 nhân
duyên câu thúc, nếu đoạn dứt vô minh ngay từ ban đầu thì 12 nhân duyên đều chấm
dứt. Nếu muốn thoát khổ cảnh chúng sanh chỉ cần phản tỉnh nội tâm, tự tịnh hoá thân tâm, phá trừ vô minh, thì sẽ đạt được giải thoát an lạc.
Trên thực tế cho thấy, cái khổ về tâm linh của con người không phải do nguyên
nhân xã hội mà là do con người vô tri đối với các duyên quá khứ mà đẩy đưa đến quả hiện tại.
Đức Phật đã từng phủ nhận, Ngài không phải là người sáng thế,
cũng không phải là người có thể ban phước giáng hoạ. Ngài
cũng không thừa nhận Ngài có thể xoá bỏ vĩnh viễn nhân quả
báo ứng cho con người, cũng không chịu vấn đề thiện ác do con người gây ra.
Duyên khởi luận Phật giáo cũng phủ nhận Thần và tư tưởng Phạm thiên của Bà la
môn giáo. Tín ngưỡng đặc trưng của Phật giáo là y vào tự thân để cải thiện tâm
lý và hành động gọi là tu tập. Từ lý duyên khởi mà đưa đến kết luận: Tất cả sự
vật chỉ tồn tại trong ý nghĩa tương đối, không thể vĩnh viễn trường tồn. Nhân
sinh khổ là do vô minh dấy khởi, chấp trước tự ngã, truy tìm sự vĩnh hằng của sự
vật mà tạo thành đau khổ không dứt. Chúng ta đã sống quá lâu trong thành kiến
và định kiến hẹp hòi cùng với lòng tham lam kiêu mạn trong ngôi nhà bản ngã; đến
một lúc, chúng ta cần phải bước ra khỏi nhà để được nhìn ngắm toàn bộ sự mênh
mông và bát ngát của đất trời, của vạn vật, do đây mỗi người chúng ta chỉ cần đối
lập với bản ngã, hiểu rõ lý duyên sanh, cái khổ từ đây sẽ chấm dứt. Điều này chứng
tỏ, tín ngưỡng Phật giáo không mang tính quyền uy, áp đặt, chỉ thuần nhất tinh
thần tự do trong đạo đức, Lấy Phật đà làm biểu tượng, lấy giới luật làm tông chỉ
tu hành, lấy tinh thần lục hoà làm quy tắc, cải thiện thái
độ và tư tưởng của mình trong đời sống thường nhật. Đức Phật là người thành lập giáo đoàn, trong
đó mỗi thành viên Tăng già đều phải biết tuân thủ trật tự, quy tắc, điều chỉnh
thái độ của mình trong tinh thần tôn trọng tập thể, có như thế, mỗi vị Tăng già
sẽ đạt được kết quả mỹ mãn do mình tạo ra, đoàn thể Phật giáo sẽ mang đến điều
hay lẽ phải cái đẹp cho cộng đồng và làm đẹp bộ mặt Phật giáo trong lòng nhân
loại.
Động cơ và giá trị quan trong tín ngưỡng
Phật giáo.
Giá trị quan do nhiều góc độ, nhiều tầng lớp, và do mỗi suy
nghĩ của con người mà cấu thành giá trị quan sai biệt. Các nhà tâm lý học, xã hội
học với việc nghiên cứu giá trị quan không đồng góc độ, nhưng cũng có thể tổng
kết những quan điểm chủ yếu. Kluckhohn cho rằng: Giá trị quan là nguyên lý có đầy
đủ mô thức hoá, là ba nhân tố hỗ tương tác dụng:
1/ Nhận thức của con người.
2/ Tình cảm con người,
3/ Ý hướng của con người
Ngoài
ra Dương Đức Quảng cũng nâng giá trị quan bao gồm: nhận thức, tình cảm và ý hướng;
trong ba loại này phân thành: Giá trị mục tiêu, giá trị bình luận và giá trị
thú hướng. Học giả Perry đem giá trị quan phân thành. Giá trị quan kinh tế, giá
trị quan đạo đức, giá trị quan xã hội, giá trị quan chính trị, giá trị quan thẩm
mỹ, giá trị quan tôn giáo, giá trị quan vật chất, giá trị quan tri thức, giá trị
quan chuyên nghiệp và giá trị quan tình cảm. Hoàng Hy Đình lại phân giá trị
quan thành giá trị quan nhân sinh, giá trị quan chính trị, giá trị quan đạo đức,
giá trị quan chức nghiệp, giá trị quan thẩm mỹ, giá trị quan hôn nhân, giá trị
quan tôn giáo, giá trị quan tự ngã, giá trị quan trong mối quan hệ và giá trị
quan hạnh phúc. Trong đó, giá trị quan tôn giáo là giá trị cao nhất vượt thoát
cuộc sống hiện thực tầm thường và đưa con người đến cảnh giới chân thiện.
Đến thế kỷ này, kinh tế xã hội có phần khả quan, con người có
thể thoả mãn hơn về vật chất so với 20 năm về trước. Thế
nhưng khổ đau của con người, vấn nạn xã hội, môi trường ô nhiễm… ngày càng gia
tăng. Ở các quốc gia chậm tiến cũng như đang phát triển ngày càng có nhiều dịch
bệnh, đói nghèo, trẻ em bỏ học …vẫn đầy dẫy những tệ nạn con người như hàng hoá, bị phân biệt đối xử…Tiện nghi vật chất trong sinh hoạt hằng
ngày càng nhiều nhưng môi trường bị huỷ hoại trầm trọng,
làm cho khí hậu thay đổi, địa cầu nóng lên, thiên tai bất thường, động đất sóng
thần thường xảy ra làm thiệt hại mạng sống và tài sản con người không thể kể xiết...hơn
nữa một số người vì công việc không thuận lợi hay vì mâu thuẫn gia đình, tuổi
trẻ tình duyên trắc trở họ bèn nghĩ đến chùa chiền tự viện hay giáo đường là
nơi họ có thể tìm được sự nguôi ngoai tâm hồn.
Điều này cũng có thể xem là động cơ khiến con người bắt đầu tìm đến tín
ngưỡng. Vì tín ngưỡng có nhiều hình thức và góc độ cảm nhận khác nhau. Nếu như
con người không hề gặp phải những trở ngại tinh thần hay khúc mắc tâm lý, không
trắc trở công việc người ta ít khi tìm đến tín ngưỡng, chỉ khi cùng đường, họ
liền nghĩ đến năng lực của Phật, Bồ Tát có thể khiến họ thoát khỏi tâm trạng bất
an. Nhưng giá trị quan Phật giáo cho rằng: Con người muốn thoát khổ không cần
tìm đến bất kỳ đối tượng nào mà chỉ cần biết khống chế hành vi, thái độ của
mình từng giờ từng khắc ngay trong cuộc sống thường nhật, lựa chọn cho mình
phương hướng tốt đẹp, phân biệt thiện ác, chánh tà, chân nguỵ
mới có thể ly khổ đắc lạc. Nơi bình yên và an ổn nhất mà con người có thể quay
về là “tâm linh”, chỉ cần con người quay về tâm linh là đến được bến bờ hạnh
phúc. Đến một lúc nào đó, chúng ta hiểu được sự thật của niềm vui không phải là
ở đỉnh vinh quang, hay ngọn núi ngập hoa vàng mà chính là từng bước chân thảnh
thơi và được ngắm hoa cỏ dại trên đường, chúng ta chợt nhận ra rằng: Hạnh phúc
không phải đâu xa mà chính là sự mãn nguyện trong từng giây phút hiện tại.
Công năng tín ngưỡng Phật giáo ảnh hưởng
trong xã hội đương đại.
Mặc dù có nhiều đạo
giáo và hình thức tín ngưỡng khác nhau, nhưng hình ảnh Bồ Tát Quan Thế Âm trong
Phật giáo vẫn là biểu tượng của sự tín ngưỡng cao độ. Những thanh thiếu niên hiện
nay, phần nhiều các em chưa có tín ngưỡng và chưa cảm nhận được giá trị tín ngưỡng
thế nhưng vẫn xem Phật và Bồ Tát là những người có thể bảo vệ các em tránh những
điều bất như ý. Trong tín ngưỡng nhân gian hình ảnh Bồ Tát được xem là “lạc thiện
hảo thí ” nghĩa là ban bố niềm vui. Do vậy, thói quen của người dân khi chuẩn bị
làm một việc gì, họ đều thắp hương khấn cầu chư Phật phò hộ cho họ thuận buồm
xuôi gió. Giới kinh doanh lại càng xem việc tín ngưỡng Phật Tổ là điều may mắn
đem lại phước lành, mua may bán đắt, những người đi biển cầu Bồ Tát chở che tai
qua nạn khỏi, các em học sinh đến kỳ thi cử rủ nhau cùng đến chùa thắp hương cầu
Phật phù hộ… Tất cả hình ảnh ấy đều là hình thức của việc tín ngưỡng..
Ngoài những điều trên, tín ngưỡng Phật giáo còn là động lực
khiến con người thoát ly khổ não, công năng tín ngưỡng Phật giáo tìm đến thú
vui tinh thần cho cuộc sống. Từ trong bản chất của cuộc sống mà nói, con người
có thể chấp nhận cái khổ vật chất nhưng lại không thể chịu đựng cái khổ tinh thần,
cái khổ tinh thần dễ dàng đưa con người vào đường cùng không có lối thoát, thậm
chí có thể khiến con người dễ dàng mất đi sinh mạng khi họ không tìm ra chỗ
nương tựa. Giáo lý đạo Phật cung cấp cho ta cái nhìn trí tuệ qua mọi hình thức
trong xã hội. Phật giáo không cố chấp bảo thủ cứng nhắc để xa cách quần chúng,
cũng không mù quán bám theo đức tin lệch lạc của quần chúng để mình tồn tại. Đạo
Phật có thể chuyển hoá xã hội, chuyển hoá
tín ngưỡng quần chúng theo một tuệ giác chính đáng. Với tuệ giác đó, Phật giáo
mới tồn tại và phát triển khắp mọi nơi. Nắm vững như thế, một tu sĩ sẽ không cảm
thấy có chướng ngại khi hoằng pháp, đặc biệt là nơi vùng sâu vùng xa, không bị
chống đối bởi ngoại pháp còn xa lạ với đạo Phật, mà còn hoà
nhập, hoá giải đồng hành như từng đồng hành với Khổng giáo
và Lão giáo. Thế nên tín ngưỡng Phật giáo là sự chuyển hoá.
Sự chuyển hoá của đạo phật là chuyển hoá
tâm hồn con người, chuyển hoá khổ đau thành hạnh phúc, chuyển
hoá phiền não thành an lạc, chuyển hận thù thành tình
thương, hoá giải và đưa con người đến sự cảm thông, để từ
đó mỗi người đều biết mở rộng lòng đón nhận những điều không như ý đến với
mình. Giá trị quan Phật giáo là đưa con người đến con đường tâm linh tuyệt vời,
nơi mảnh đất tâm linh ấy không có bóng dáng của hận thù, sầu
bi ưu não, chỉ toàn là cảnh sắc tươi đẹp và tâm hồn trở nên thanh thản nhẹ
nhàng. Tín ngưỡng Phật giáo còn là dòng nước thanh lương có thể cuốn trôi bao hệ
luỵ tinh thần giúp con người thanh thản
trong công việc và hoàn thiện mình trong cuộc sống.
Tín ngưỡng Phật giáo là niềm tin trên cơ sở khoa học. Bản chất
của cuộc đời không hề nhuốm màu đau khổ, con người sở dĩ đau khổ là do tâm thức
đối diện với sự vật mà phát sanh khái niệm sai biệt, chấp ngã chấp pháp, chấp
chân nguỵ, chấp bỉ thử, thành ra khổ đau triền miên. Tín
ngưỡng Phật giáo là nơi con người có thể nương tựa, một sự nương tựa có giá trị
cao nhất, sự nương tựa không chỉ xoa dịu nỗi đau tâm lý cho con người mà còn là
hòn đảo bình yên nhất không có sự hơn thua, thù hận. Giá trị tín ngưỡng chân chánh
giúp con người tìm thấy trí tuệ nơi tự thân, khi trí tuệ đã khai mở là con người
bắt đầu thay đổi tham vọng của mình bằng sự rộng lượng, thay đổi sân si bằng đức
từ bi, ngay lập tức con người sẽ cảm nhận hạnh phúc không ở đâu xa mà là ngay
nơi hành động đã được thay đổi và cải thiện. Đạo Phật kêu gọi con người “hãy
mang tài nguyên vô tận về lòng từ bi, hỷ, xả của bạn ra để xoa dịu hết tất cả
những nỗi khổ niềm đau mà chúng ta vô tình hay cố ý tạo ra cho nhau từ bấy lâu
nay. Thế giới này sẽ đẹp biết bao khi chúng ta mang những thứ sẵn có ấy trong
ta để làm cho bạn và thế giới chung quanh được trở nên hạnh phúc”
Nguồn: phattuvietnam, net
(trích: Luật tín ngưỡng tôn
giáo- Tìm hiểu về lễ hội-tín ngưỡng)
Áp dụng: từ 01-01-2018)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét