THIỀN ĐỊNH
Nói đến Phật giáo là
nói đến Thiền, vì sao vậy, vì Đức Phật tu tập chứng ngộ thành bậc Chánh Đẳng
Chánh Giác từ phương pháp tu thiền mà ra, tất cả Tổ chứng ngộ kiến tánh cũng từ
phương pháp tu Thiền mà nên. Nhưng Thiền có nhiều loại, Phật thiền, Tổ sư thiền,
ngoại đạo thiền và phàm phu thiền. Thiền lại có nhiều tầng bậc khác nhau, như
Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, Tứ không định thiền v.v.. Người tu phải
ôm hiểu để khỏi bị sai lạc, và để biết mình đi đến đâu, ở giai đoạn nào. Vì thế
người tu thiền phải học hỏi các bậc minh sư chỉ dẫn có phương pháp thực hành mới
không bị sai lạc.
Thiền nói cho đủ là Thiền định, vì Định là một trong ba chi phần quan trọng
trong Tam vô lậu học, tức là Giới học, Định học và Tuệ học, nói gọn là Giới, định,
tuệ. Đinh học là kết quả do thực hành Giới học đem lại và là nhân của Tuệ học.
Nhân giới sanh định, nhân định phát huệ. Trên con đường thực tập tâm linh theo
Phật giáo, nếu thiếu chi phần này thì kết quả thực tập sẽ không thành tựu trọn
vẹn. Bởi mỗi chi phần trong đó sẽ hỗ trợ cho nhau, chúng nằm trong một chỉnh thể
thống nhất bất phân, bao hàm trọn vẹn đạo lộ đi đến giác ngộ giải thoát. Do vậy,
hành giả tu học sẽ phải thực hành trọn vẹn về giới học, về định học và về tuệ học.
Ý
nghĩa thuật ngữ : Thiền định là thuật
ngữ Samadhi, dịch qua tiếng Anh là Concentration, Trung Hoa dịch là Thiền na (dhyana) và người Nhật gọi thiền là Zen, tức là đề cập
đến một trạng thái của sự nhất tâm hay chuyên chú tâm. Thiền định có nghĩa là
tư duy hay tỉnh lự, là chuyên chú tâm vào một đối tượng duy nhất để đạt được trạng thái nhất tâm. Thiền định được chỉ
định trong giai đoạn thứ hai của con đường thanh tịnh, bao gồm cả nghĩa đen và
nghĩa bóng. Nghĩa đen nó có nghĩa là cố định vững chắc, do đó, chúng ta có thể
định nghĩa theo nghĩa hẹp nhất và độc nhất của nó về cơ bản là tập trung tâm ý
lành mạnh vào một đối tượng duy nhất. Và theo nghĩa rộng nhất của nó theo truyền
thống bao gồm chánh niệm, sự mãn nguyện,
sự giải thoát khỏi những triền cái, bài tập sơ bộ cho sự phát triển của nhất
tâm, sự chuyên chú, nhất tâm, các trạng
thái thiền từ Sơ thiền đến Tứ thiền, đến Tứ không định…
Kinh Pháp Bảo đàn định nghĩa : Toạ thiền : “ bên
ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là Toạ, bên trong thấy tự
tánh chẳng động gọi là Thiền. Ngoài lìa
tướng tức thiền, trong chẳng loạn tức Định. Ngoài thiền
nội Định gọi là thiền định. Ngoài lìa tướng nghĩa là khi thấy tướng không dính
mắc vào tướng, tức là sáu căn tiếp xúc với sáu trần tâm không dính mắc, hay rong ruổi chạy theo tìm kiếm. Bên trong tự tánh không động, tức
nội tâm an trú, vắng bặt các tạp niệm. Do vậy, tâm chuyên nhất, đó là định.
Kinh An ban thủ ý định nghĩa thiền
là loại trừ và đốt cháy. Loại trừ và đốt cháy ở đây là loại trừ những cấu uế
trong tâm những phiền não tập khí và nội kết trong tâm. Thiền là làm cho tâm
ngay thẳng lại, là làm cho ý chuyên nhất lại. Tập hợp tất cả những điều lành,
dùng những điều lành để loại trừ những uế ác, còn dính mắc trong tâm. Uế ác đó
là năm sự ngăn che, gọi là Ngũ triền cái, đó là tham dục, sân hận, thuỳ miên, trạo hối và nghi ngờ.
Như vậy, có thể nói Định học là một phạm trù rộng lớn trên con đường thực
tập tâm linh trong Phật giáo. Thiền định được xem là trái tim của Phật giáo, vì
nếu không có thực tập thiền định thì sẽ không đạt được mục tiêu cuối cùng đó là
trí tuệ vô lậu giải thoát.
Ngày nay Phật giáo phát triển rộng lớn, các trường phái thiền được phát triển, thiền chỉ, thiền quán, thiền
Tứ niệm xứ, thiền Quán niệm hơi thở và thiền Từ bi được áp dụng thực tập rộng
rãi. Trong đó thiền Chánh niệm đã trở thành một dòng thiền thiết yếu trong xu
hướng thời hiện đại. Thiền định giúp giải quyết nhiều vấn đề cấp thiết như giảm
stress, buông thư, an trú và an lạc, giúp tái cấu trúc và thiết lập cơ chế tâm,
mang lại an lạc giải thoát trong đời sống ./.
Trích : Tổng quan về Định học : Thích Trung Định – VHPG số 332- 1-11-2019
0 nhận xét:
Đăng nhận xét