NIỀM TIN
TRONG PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
Cuộc sống của chúng sanh luôn có những thử
thách và khổ đau, nhất là đối với con người. Vì vậy đã xuất hiện những con người
vỹ đại, tự mình đi tìm lối giải thoát xa rời khổ đau cho mình và người khác. Đó
cũng là nguyên nhân hình thành nên các tôn giáo trên thế giới, trong đó có Phật
giáo. Mục đích của các tôn giáo là hướng dẫn con người đến chân thiện mỹ trong
đời sống hiện tại và sau khi chết đi.
Người
xưa từng nói : “ Như nhơn ẩm thủy, noãn
lãnh tự tri” nghĩa là người thật sự uống
nước mới biết được nóng lạnh của nó. Cũng vậy, người nào thực hành tinh chuyên
theo phương pháp tu hành của một tôn
giáo thì người đó mới đạt được mục đích, mới cảm nhận sự giải thoát về tâm
linh, biết được giá trị con người. Người chuyên tu tập về pháp môn Tịnh độ cũng
vậy, họ có niềm tin sau khi chết sẽ được vãng sanh về cõi Tịnh độ của Đức Phật
A Di Đà. Tất nhiên muốn sanh về những cõi đó, cần phải thực hiện các điều kiện
tất yếu.
Kinh
Hoa Nghiêm nói “ Tín vi đạo nguyên công đức mẫu, trưởng dưỡng nhất thiết chư
thiện căn” , lòng tin chính là mẹ đẻ ra các công đức, làm cho các căn lành sinh
trưởng và phát triển. Người nào muốn sanh về cõi nước Cực lạc Phật A Di Đà, cần
hội đủ ba điều kiện là Tín, Hạnh và Nguyện. Trong đó niềm tin đứng đầu, tin rằng
cõi Phật đó trang nghiêm thanh tịnh, tin bản thân đủ khả năng tu tập để sanh về
cõi đó. Như vậy niềm tin là liều thuốc về tinh thần, khi chúng ta có đủ sức mạnh
về tinh thần thì làm gì cũng sẽ đưa đến kết quả tốt. Tuy nhiên lòng tin cần có
trí tuệ, nghĩa là lòng tin đặt đúng chỗ, tin đúng đối tượng, tin về những gì thật
sự có ích lợi, niềm tin chắc thật không mù quán. Nếu lòng tin không có sự suy
xét rõ ràng sẽ rơi vào mê tín. Đối với Phật tử niềm tin đó gọi là Chánh tín, vì
Phật pháp là con đường đem lại lợi ích cho tất cả chúng sanh.
Nhưng
một niềm tin thuần túy chưa đủ để đưa Phật tử ra khỏi khổ đau, cũng không dẫn đến
chân hạnh phúc mà cần phải kết hợp, xây dựng trên nền tảng của trí tuệ và thực
nghiệm thì con người mới có thể tự giải thoát khỏi nghiệp lực và khổ đau. Tin Phật cần phải hiểu lời Phật dạy, từ đó áp
dụng thực hành nhằm mang lại an vui hạnh phúc cho mình và người. Nếu chỉ nghe
người khác nói về Đức Phật A Di Đà và
phát khởi lòng tin không thôi thì vẫn chưa đủ mà còn phải chứng thực. Bởi vì phật
dạy “Tin Ta mà không hiểu Ta tức là hũy
báng Ta”. Có câu chuyện như vầy : Gia đình nọ cha và mẹ đi làm xa căn dặn con ở
nhà coi chừng cửa nẻo kẻo trộm vô nhà lấy cắp đồ trong nhà. Đêm hôm ấy trong
làng có gánh hát tổ chức tại sân làng, anh ta mê hát nếu ở nhà thì không đi xem
hát được, anh mới nghĩ ra cách cha mẹ bảo giữ cửa nẻo thì mình tháo cửa cất kỷ
rồi đi xem hát thì an toàn cho việc đi xem hát, thế là anh tháo cửa cất rồi đi
xem hát. Xong sau khi xem hát về nhà không có cửa ăn trộm vào tha hồ lấy hết đồ.
Té ra anh ta không hiểu lời dặn của cha mẹ, giữ cửa nẻo là giữ những thứ quý
giá ở trong nhà chứ không phải việc giữ cửa nẽo là xong.
Người
tin Phật cũng vậy, chỉ căn cứ trên lời dạy của Phật, nhưng không suy xét hiểu
được ý Phật nói, nên chỉ giữ trên hình thức, thực hành trên hình tướng, còn ý
nghĩa thâm sâu thì không hề hay biết. Vì thế càng tu càng thấy bất an và đau khổ
là vậy, tu chỉ chuyên bề tín ngưỡng lễ lạy đọc tụng mà không thay đổi tâm tính,
còn về phần thực hành thì không áp dụng trong cuộc sống nên mọi việc đâu vào
đó. Trong văn Cảnh Sách có câu “ Bước đi năm trước, tất bước không dời”, tức những
tập khí năm xưa nay vẫn còn nguyên như ban đầu không thay đổi. Thế rồi đỗ thừa
cho Nghiệp, vì tu là chuyển nghiệp mà lại đỗ thừa cho nghiệp là việc sai lầm.
Tin
Phật mà không hiểu ý lời Phật dạy chỉ áp dụng hình thức bên ngoài thì trái lời
Phật dạy lòng tin đó ngược lại ý của Phật, trở thành người phá hoại, hay hũy
báng lời Phật. Cũng vậy với Pháp môn Tịnh độ lòng tin đối với Phật A Di Đà và
cõi Cực lạc cần phải đặt trên nền tảng của trí tuệ. Đạo Phật gọi là đạo trí tín
là đạo tin bằng lý trí chứ không phải tin bằng sự mê tín, cuồng tín. Điều này,
chứng tỏ đạo Phật đề cao sự nỗ lực cá nhân. Con người có được giải thoát hay
không, có được giác ngộ hay ra khỏi luân hồi hay không là do chính bản thân
mình. Vì vậy, ngoài niềm tin đối với Đức Phật và giáo pháp Ngài truyền trao còn
phải tin vào bản thân mình, chính bản thân chúng ta sẽ là người tiếp nhận và thực
hành giáo pháp Đức Phật. Và chính mình người sẽ là người đạt được kết quả tu tập
do bản thân mình đem lại, chứ không ai thay thế cho mình được. Như vậy, niềm
tin rất cần thiết và quan trọng trong tôn giáo. Đó cũng là con đường để chúng
ta đi đến kết quả của sự tu tập.
Tóm
lại : Cõi Tịnh độ là sự mong muốn, ao ước của con người về một thế giới tốt đẹp,
nơi mà con người bớt đi mọi khổ đau thay vào đó là sự an vui hạnh phúc. Đây
không chỉ là ước muốn con người nói riêng và tất cả chúng sanh nói chung mà còn
là mục đích của những bậc giáo chủ các tôn giáo nhằm tạo ra cho con người một
con đường giải thoát, xa lìa mọi khổ đau ở thế gian. Cũng chính nhờ sự nhìn nhận
riêng của mỗi người nên cõi Tịnh độ được diễn đạt theo hai hướng: Một hướng là
cầu sự an lạc của nội tâm, hướng đến sự giác ngộ của tự thân đề cao tinh thần tự
giác ; Một hướng là cầu mong sự giúp đỡ
bên ngoài và đặt trọn niềm tin vào nơi đó. Như vậy, sự mong cầu khác nhau, đều
do sự nhìn nhận, suy nghĩ của mỗi người, vì những cõi an lạc đó đều là mục đích
cho con người hướng đến và niềm tin chính là cánh cổng mở ra con đường đi đến mục
tiêu.
Tất
cả đều là phương tiện mở ra để dẫn dụ con người có một cuộc sống an lạc ngay
trong hiện tại, chỉ là chúng ta có chọn đúng con đường hay không mà thôi. Và vấn
đề đạt đến mục đích đó, ngoài việc đặt trọn niềm tin và nổ lực của sự thực hành
theo chánh pháp của Phật, thì trong hiện tại chúng ta cũng phải sống tốt, đem lại
bình an cho mình và người khác. Và nếu hiện tại chúng ta đã thành tựu được vậy
thì tương lai chắc chắn sẽ sinh về quốc độ của chư Phật như mong muốn. Đức Phật
dạy các pháp Ngài đã thuyết như ngón tay chỉ mặt trăng, khi các pháp đã được thuần thiện, mục đích cuối cùng của con
người không còn phân biệt mà sẽ trở thành một nơi chung cho tất cả. Nhân quả thế
gian là chung cho tất cả chúng sanh, khi một người tạo nhân thiện thì sẽ có được
kết quả thiện. Do đó, quan trọng nhất vẫn à sự thực hành của mỗi cá nhân, đạt
được mục đích giải thoát hay không đều do chính bản thân mình. Một người khi
tâm thanh tịnh thì không còn ham muốn phải sanh về cõi nào khác, mà chính nơi
người đó là cõi Tịnh độ rộng lớn, có thể dung chứa tất cả và giải thoát mọi hạn
cuộc trên thế gian này./.
( Trích : VHPG số 403 –
15-12-2022 . “Định nghĩa cõi Tịnh độ theo các kinh và tiến trình lịch sử kết tập
kinh A Di Đà” SC Thích Nữ Hạnh Liên.)
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét