ỨNG DỤNG THIỀN TRONG NẾP SỐNG CỦA HÀNH GIẢ HIỆN TẠI
( sc Tuệ Phương )
Ngày nay, Thiền định không những được biết đến qua tên tuổi các vị Thiền sư,
qua những công án thiền, mà còn thực sự đi sâu vào đời sống tu tập của Tăng Ni,
Phật tử và những người mến mộ đạo Phật được tổ chức nhiều nơi trong nước và ngoài nước. Từ đó nếp
sống hành thiền đã đi sâu vào đời sống. Đây thực sự là một phương thức minh triết,
trở về nếp sống tu tập thiền định để chuyển hóa tâm thức, nhằm đem lại bình an
nội tại trong xã hội văn minh, hiện đại ngày nay.
Giới thiệu về Thiền : Bởi mang
ý nghĩa “ Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” Thiền ( trở nên ) là cái phi
lý nhất, khó quan niệm nhất trong đời. Tuy nhiên, ta cũng có thể hiểu Thiền từ
nhiều phương diện khác khác nhau.
Định nghĩa về Thiền Thiền tiếng Pali là Jhana, Phạn ngữ là
Dhyana, từ Jhana hay Dhyana có nghĩa là Tịnh lự, hay tư duy. Trong đó tịnh lự
là để tâm vắng lặng mọi vọng thức điên đảo, mọi tư tưởng tư lự (mang tính chất
thiền chỉ) ; tư duy là suy nghiệm,
nghiên cứu suy tư đối tượng của tâm thức (mang tính chất thiền quán). Từ
ghép “ Thiền định”, với “Định” Phạn ngữ gọi là Samadhi, đi từ động từ căn “ Định
” được hiểu là một phương pháp làm cho tâm vắng lặng, đưa tâm đến trạng thái
chuyên chú, nhất tâm.
Thiền sư Huệ Hải định nghĩa về thiền như sau :
“Vọng niệm chẳng sanh là thiền, thấy bản tánh là định” cũng trong ý nghĩa đó ,
Lục Tổ Huệ Năng nói : “ Bên ngoài dứt hết các huyễn tướng ấy gọi là thiền, bên
trong đoạn trừ tất cả các tâm niệm loạn động, tà vạy ấy gọi là định”.
Từ
các định nghĩa trên, ta thấy thiền định là một phương pháp làm cho thân chánh
tâm an, dứt trừ mọi ràng buộc vọng động, hướng tâm thẳng vào đối tượng để khám
phá sự thật của chính nó. Thiền gọi đó lá “Ngộ”, Ngộ là ý nghĩa quan trọng
trong thiền. Thiền không thể thiếu sự chứng ngộ, sự chứng ngộ không tách rời
thiền. Đó là chất keo tạo nên nên ý nghĩa rốt ráo và đầy ý vị trong thiền.
Phân
loại : Theo truyền thống tu tập, thiền của
Phật giáo gồm có hai nhánh lớn là: thiền chỉ và thiền quán.
Thiền chỉ : Tự điển Phật học của Đoàn Trung
Còn định nghĩa : “ Chỉ” tiếng Phạn là Samatha, tức là ngưng lại, tắt đi… là ngừng
tắt cái tâm náo động của mình, khiến cho tâm định chỉ về một nơi. Nói cho dễ hiểu
“ chỉ ”là dừng lại, là “ Chế tâm nhất xứ” . Bởi vì tâm chúng sanh như con vượn
chuyền cành lao xao loạn động nên muốn định, trước phải dùng thiền chỉ, một
hình thức chú tâm trên một đối tượng nhất định. Chẳng hạn như trú tâm vào hơi
thở vào và ra, bạn chỉ ý thức về hơi thở vào rầm tuyệt nhiên không để tâm rong
ruổi theo trần cảnh. Đây là bước đầu tiên của người hành thiền vậy.
Thiền quán ( vipassana ) : là phương pháp tu
tập bằng cách theo dõi, phân tích một đối tượng qua cái nhìn tư duy vận chuyển
trên nền tảng Duyên khởi hay ba pháp ấn, tức là chánh tư duy. Thiền quán là sắc
thái trí tuệ đặc biệt của thiền Phật giáo.
Thiền
chỉ và thiền quán đều thể hiện rõ đặc trưng của thiền là tịnh chỉ, là định, là
hướng đến tuệ. Cho nên, điểm gặp nhau đáng chú ý của hai loại thiền này là cùng
dùng đến điểm chú tâm. Bởi nếu “ chỉ” là
dừng tâm thì cũng phải dùng tâm trên một đối tượng nào đó và nếu “quán” là chiếu soi, là nhìn và thấy thì
cũng phải có sự trú tâm trên đối tượng cụ thể, sự soi chiếu mới đưa đến nhất
tâm được. Chỉ và quán là hai pháp tu của thiền Phật giáo, tùy căn cơ, trình độ
và tùy “ hoàn cảnh tâm” mà chọn thiền chỉ hay thiền quán cho thích hợp. Hành giả
cần biết rõ mình đang cần chỉ hay quán cho tâm hiện tại. Xét cho cùng, phương
thức thực hành thiền định rốt ráo nhất vẫn là chỉ quán song tu.
THIỀN
VÀ TƯ TƯỞNG SỐNG tinh thần vô cầu.
Tinh
thần vô cầu không nên hiểu theo nghĩa ngộ nhận là không được mong cầu gì cả, chỉ
ăn không ngồi rồi, ai cho gì thì tốt, không cho cũng tốt; không phải theo chiều
hướng thụ động như vậy. Vô cầu ở đây chính xác là thiểu dục tri túc, là biết đủ
với những gì mình đang có. Chúng không phải là một giáo lý khuyến khích sự tự
mãn mà biểu lộ thái độ sống biết đủ với những nhu cầu chính đáng của con người.
Thiểu dục tri túc : Nguyên nghĩa là ít ham muốn- biết
đủ. Pháp này thuộc về lãnh vực đạo đức, giới hạnh, là hệ quả của tri thức sâu
xa bắt nguồn từ sự chứng ngộ của Đức Phật. Tri thức ấy, về nhận thức là xác chứng
theo nguyên lý duyên khởi hình thành nên vũ trụ vạn hữu, về mặt giới đức là từ
bỏ hai cực đoan sống đam mê trong dục vọng và khắc khổ hủy hoại bản thân. Tuy
nhiên, nó hoàn toàn không phải là một giáo điều cứng nhắc trói buộc con người,
vì nói biết đủ chứ không nói bao nhiêu là đủ cũng như nói ít ham muốn, chứ
không nói chừng nào mới là ít ham muốn. Nên thiểu dục tri túc giúp chúng ta cân
bằng lại sự sống, không đắm vào thỏa mãn những dục lạc bản thân. Hai cực đoan
này, lúc đi tìm thầy học đạo, Đức Phật đã kinh qua nhưng thật sự không đem lại
hạnh phúc cho bản thân. Từ bỏ hai cực đoan này, đi trên con đường trung đạo,
Ngài đã giác ngộ. Khi thành Chánh giác, Đức Phật liền nhớ đến những người bạn
cùng tu với mình đang mắc phải hai cực đoan này không thể tu tập giải thoát được.
Ngài liền rời cội Bồ đề ở Ưu lâu tần loa ( Uruvela) chỗ chư Thiên đọa xứ để độ cho năm anh em Kiều Trần
Như (Kodanna). Mở đầu bài Sơ chuyển pháp luân, Đức Phật dạy : “ Nầy Kiều Trần Như ! Năm ông hiện nay đang mắc
phải một cái bệnh hiểm nghèo là bệnh chấp chặt một phía. Bắt nhục thể phải chịu
khổ chỉ càng khiến tâm thần thêm rối loạn. Trái lại, cho thân trọng bên này hoặc
bên kia, đều không thể thành tựu đại đạo căn bản. Vấn đề này, ta đã thấu rõ khi
còn ở trong vương cung và khi ta cùng các ông tu khổ hạnh sáu năm. Xa lìa ép
xác khổ hạnh lẫn dục lạc đó là con đường trung đạo, đưa đến giác ngộ tối cao”.
Do
đó, khi dạy về thiểu dục tri túc, Đức Phật không có ý định thắt chặt những nguyện
vọng, những nhu cầu của con người. Sự thật, dạy thiểu dục tri túc, Đức Phật chỉ
nhắm đến khía cạnh tâm lý, thấy rằng về mặt tâm lý, thiểu dục tri túc có tác dụng
chữa khỏi những ham muốn không biết đủ, gây nên những khổ não, giày vò bất an
cho con người. Lại nữa, thiểu dục tri túc còn giúp con người bình đẳng trước hạnh
phúc, vì hạnh phúc hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ tâm lý con người, chứ không
phụ thuộc vào vật chất nhiều hay ít. Nên Đức Phật dạy : “ Biết vừa đủ thì dù nằm
trên đất cũng thấy an vui, không biết vừa đủ thì dù ở trên thiên đường cũng
không vừa ý”. Cũng trong ý nghĩa đó, nhà Nho Nguyễn Công Trứ đã nói “ Biết đủ
là đủ, đợi bao giờ mới đủ” . Đây là nhân tố khiến chúng sanh bất an và đau khổ.
Con
đường đoạn tận khổ đau không gì ngoài phương thức sống ly dục. Ở đây ly dục
không có nghĩa là phủ nhận sự hiện diện của vật chất mà sử dụng vật chất ở vị
thế của người chủ, không phải một nô lệ. Khi chúng ta là chủ, tài, sắc, danh,
thực, thùy đều không cám dỗ được ta. Nên đời sống thiểu dục tri túc của một tu
sĩ không những làm cho tự thân thanh tịnh giải thoát mà còn giúp cho xã hội an
định nữa.
Tuy
nhiên sự thể hiện thiểu dục tri túc của Phật giáo không chỉ dừng lại trong phạm
vi dục giới, sắc giới, và vô sắc giới mà với cả ý niệm về Niết bàn cũng vậy.
Nghĩa là không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không xa lìa sanh tử, cũng không ham
thích Niết bàn, không chấp trú pháp vô vi, không chấp xả pháp hữu vi mà vượt ra
ngoài phạm trù nhị nguyên đối đãi. Thậm
chí, ngay cả ý niệm về thiểu dục tri túc của hành giả cũng phải xả, chỉ sống với
phương châm “ im lặng như chánh pháp, nói năng như chánh pháp”. Cái im lặng
không còn ý niệm hữu vô, thường-đoạn, sinh –diệt, khứ-lai. Cái im lặng bởi
không còn cái bóng dáng của tham, sân, si chủng tử bất thiện. Chính giây phút
đó mỗi hành động, đi, đứng, nằm, ngồi đều chứa đựng Phật pháp, đều thể hiện
tinh thần vô trụ vậy.
Tinh
thần vô trước : Đức Phật dạy nguyên nhân của khổ đau là do vô minh dẫn đến tham
ái và chấp thủ, mà căn bản là tham, sân, si. Càng bớt tham, sân, si thì càng an
lạc hạnh phúc, hay nói cách khác, khi vắng mặt, tham, sân, si sẽ tự tại giải
thoát. Sở dĩ chúng sanh chìm đắm trong mọi phiền não và khổ đau là vì bệnh chấp
ngã, chỉ cần đoạn trừ được ngã chấp thì phiền não sanh tử không còn. Đoạn trừ
ngã chấp có nghĩa là không chấp trước cái ngã và ngã sở nữa. Sự xả bỏ của cải
thân mạng và những cái ngã chấp đây là của ta, đó là xả ly ngã sở. Sự xả bỏ tâm
niệm và ý niệm chấp đây là ta, đây là tự ngã của ta, đó là xả ly ngã. Cho nên,
Đức Phật dạy : “ Này các Tỳ kheo, phàm sắc gì quá đi, hiện tại, vị lai, hoặc
trong hay ngoài, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần cần phải được như thật
quán với chánh trí : Cái này không phải là của ta, cái này không phải là ta,
cái này không phải là tự ngã của ta. Phàm thọ gì, tưởng gì, hành gì , thức
gì…thuộc quá, hiện tại, vị lai hoặc trong hay ngoài, thô hay tế, liệt hay thắng,
xa hay gần cần phải được như thật quán với chánh trí: Cái này không phải là của
ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta.
Này
các Tỳ kheo, bậc đa văn thánh đệ tử nhàm chán đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Do nhàm chán vị ấy ly tham và giải thoát. Khi giải thoát biết rằng đã giải
thoát. Trong sự giải thoát trì khởi lên: Ta đã được giải thoát”. Vị ấy biết rõ
: Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, không còn trở lại
trạng thái này”.
Chấp
ngã là chấp ngũ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, thức là ngã. Con người chấp cả năm
uẩn là ngã, hoặc chấp từng uẩn riêng là ngã, như chấp sắc là ngã, thọ là ngã,
hay hành là ngã. Nhưng dù chấp cả năm uẩn hay một uẩn cũng dẫn đến phiền não khổ
đau. Vì con người không hiểu rõ thân ngũ uẩn là giả tướng của năm yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành, thức tạo thành, nó
không phải là một thực thể, mà chỉ là sự giả hợp, nó luôn luôn thay đổi và biến
hoại. Chấp năm uẩn kết hợp lại làm ngã tức chấp thân là một cá thể tồn tại độc
lập, là một chủ thể có tự tính. Nhưng thật ra bản chất của nó là do năm uẩn kết
hợp tạo thành, năm uẩn nương vào nhau mà tồn tại và luôn ở trạng thái sinh diệt
và biến dị. Đức Phật đưa ra sự tác hại của chấp ngã: “ Ai khởi lên ý nghĩ: “ Cái này chắc chắn là của ta, nay không còn của ta
nữa,. Cái gì chắc chắn của ta, chắc chắn ta không được cái ấy. Suy nghĩ như vậy,
nó phiền muộn than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đưa đến bất tỉnh”. Còn những ai cho
rằng : “ Sau khi ta chết, sẽ thường hằng, thường tồn, thường tại mãi mãi. Khi
nghe Đức Phật giảng pháp, sẽ bạt trừ được kiến xứ, tịnh chỉ được các hành, từ bỏ
mọi sanh y, đoạn trừ khát ái”. Thời vị ấy sầu muộn…vì nghĩ rằng mình sẽ bị hoại
diệt, không còn tồn tại. Cho nên mọi khổ đau khởi lên đều do chấp năm thủ uẩn
này, là ta, là của ta, là tự ngã của ta. Sắc là vô thường, cái gì vô thường là
có khổ. Vậy để diệt trừ tham, sân, si
chúng ta phảo làm thế nào ? Trong kinh Kim Cang Đức Phật dạy : “ Ưng vô sở trụ nhi sanh ký tâm”- Nghĩa là
không nên trú vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không trụ vào tài sản, danh
lợi, ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả… mà sanh tâm phân biệt chấp thủ ngã tướng.
“ Không trụ” ở đây không có nghĩa là nhắm mắt, bịt tai giữa cuộc đời, cũng chẳng
phải rời xa hay chạy trốn cuộc đời, mà
chính trong cuộc đời ác trược này, ngay tại đây, ta vẫn hít thở, vẫn sống, vẫn
nhìn… Nghĩa là, đối với năm giác quan, ta vẫn sử dụng nhưng theo thái độ khác.
Nhìn chỉ là nhìn, nghe chỉ là nghe, ngửi chỉ là ngửi, nếm chỉ là nếm, mà thôi. Ở
đây, không phải mắt, tai, mũi, lưỡi, mất tác dụng mà chúng vẫn làm mọi việc,
nhưng hoạt động dưới ánh sáng vô ngã, vô trụ, vô nhiễm, đã thoát ra khỏi mọi hệ
lụy cuộc đời. Như Đức Phật từng dạy :: “ Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy,
trong cái nghe sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ, tưởng sẽ chỉ là thọ; tưởng;
trong cái thức tri sẽ chỉ là cái thức tri. Như vậy là đoạn tận khổ đau” . Được
như thế, dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, mọi thanh sắc có quyến rũ đến đâu thì
lòng vẫn an nhiên tự tại, không sợ bất cứ điều gì nữa, khi đó có xông pha giữa
cuộc đời và dạo đi khắp các xứ sở cũng không bị cuộc đời chi phối. Vì ngộ được
ý nghĩa đó nên ngài Bàng Uẩn nói rằng : “Thể tự vô tâm nơi vạn vật- Đâu sợ vạn
vật thường nhiễu quanh”.
Am
hiểu tinh thần này Quốc sư Vạn Hạnh đã đóng góp vai trò quyết định trong cuộc
chuyển giao nhà Tiền Lê- lập ra nhà Lý, đứng đầu là Lý Công Uẩn, học trò của
Ngài. Từ đó, mở ra triều Lý là giai đoạn thịnh thế của Phật giáo Việt Nam thời
Trung đại. Làm một việc có giá trị lịch sử muôn đời như vậy, nhưng trong thị tịch,
Thiền sư Vạn Hạnh chỉ viết
“
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy- Thịnh suy
như lộ thảo đấu phô” ( Vận động tùy theo
quy luật thịnh suy- Xem thịnh suy chỉ như sương mai trên đầu ngọn cỏ ).
Không
còn bảo thủ, cố chấp về tư tưởng, sở kiến, sở hành, do đó chúng ta không bị
ràng buộc, chi phối và phiền não khổ đau. Ngã chấp được đoạn tận đồng nghĩa với
tham, sân, si không còn, chúng ra sẽ giải thoát khỏi những nỗi lo sợ và bất an.
Không còn thấy tự ngã, tức là một cái ta riêng biệt với những cái ta khác, tất
nhiên ta sẽ sống một đời sống hữu ích cho mình và cho người, dám hy sinh cho tất
cả.
ỨNG DỤNG THIỀN TRONG NẾP SỐNG HÀNH GIẢ THỜI HIỆN ĐẠI.
Tinh tấn thực hành thiền
để xây dựng nếp sống minh triết.
Từ
lâu, Thiền tông đã được xem là suối nguồn tinh thần của người dân Việt Nam. Cuộc
sống mọi người sẽ an lạc, hoàn thiện hơn khi tu tập theo tinh thần Phật giáo. Bởi
Phật giáo khước từ những bạo động, chấm dứt nguyên nhân dẫn đến khổ đau, chỉ rõ
cho con người biết đâu là con đường đưa đến xấu ác, tội lỗi, đâu là con đường đến
với đời sống cao thượng. Thực tập thiền là thực tập khả năng thương yêu, bao
dung và tha thứ biết ôm ấp và chia sẻ những khó khăn của người mình thương, để
tạo ra chất liệu hiểu biết và thương yêu, an lạc và hạnh phúc trong đời sống hằng
ngày. Khi trong tâm thật sự có an lạc và hạnh phúc do tu tập đem lại, chúng ta
sẽ không thể nào đi tìm kiếm những ảo tưởng bên ngoài.
Xã
hội bình an và hạnh phúc khi nào con người biết dừng lại và chuyển hóa những yếu
tố tiêu cực đang hiện hữu trong tự thân, để xây dựng nếp sống cao đẹp, để có chất
liệu của con người và bảo vệ tình người, tình đồng loại. Vì vậy, thế giới ngày
nay đang kêu gọi con người phải hiểu nhau, thương nhau, cùng nhau tạo dựng một
xã hội bình an và hạnh phúc dựa trên nguyên tắc hòa bình, không tranh cãi. Do
đó, thực tập thiền với nếp sống hiểu biết và thương yêu là rất cần thiết. Đừng
nghĩ rằng thực tập thiền là thực tập cho Phật giáo. Chúng ta thực tập thiền để
có an lạc và hạnh phúc trước, sau đó đem nguồn năng lượng tích cực đó đến với
người khác; tự độ -độ tha lưỡng lợi.
Kiến tạo nếp sống tỉnh
thức
: Như trong căn phòng được thắp sáng bởi một ngọn nến lung linh, bóng tối sẽ
tan biến và chúng ta nhìn thấy rõ từng vật dụng trong đó. Cũng vậy, khi chánh
niệm tỉnh giác được thắp lên, mọi vọng tưởng sẽ biến mất, chúng ta sẽ ý thức tất
cả những ý niệm như chúng đang là. Chúng ta sẽ biết mình đang làm gì, nói gì,
nghĩ gì. Ba nghiệp thường xuyên được kiểm soát như vậy, chúng ta sẽ nhanh chóng
có niềm an lạc hạnh phúc trong hiện tại. Nếp sống tỉnh thức như Đức Phật dạy : “ Đừng tìm về quá khứ / Đừng tưởng đến tương
lai / Quá khứ đã không còn / Tương lai thì chưa tới / Hãy quán chiếu sự sống /
Trong giờ phút hiện tại / Kẻ thức giả an trú / Vững chãi và thảnh thơi”.
Thật
vậy, nếu như một người tập thiền đợi đến giờ nhất định mới đi vào tọa thiền để
có được sự chánh niệm tỉnh giác thì người hành thiền ấy chưa phải là người thực
tập thiền giỏi. Một người hành thiền giỏi là người biết ứng dụng thiền đi vào đời
sống có hiệu quả nhưng không đánh mất đi sự chánh niệm tỉnh giác của mình. Như ở
trong thiền đường, ngồi im lặng và theo dõi từng hơi thở để cho thân và tâm
tĩnh lặng, tự chủ và an lạc thì chúng ta cũng phải biết áp dụng thiền như thế
nào đó để cho ta ở trong thiền đường hay trong một môi trường khác thì tâm vẫn
được an lạc.
Lại
nữa, việc hành trì thiền định liên tục trong đời sống sẽ tạo sự chuyển hóa nội
tâm, bước vào sự quân bình thân tâm để triệt tiêu những tác nhân gây rối loạn tâm lý thường xuyên quấy nhiễu,
kích thích các dục hoạt động trong đời sống hằng ngày. Thật ra các dục ở đời sống
được thể hiện bởi lòng ham muốn, khát khao thỏa mãn tâm ý con người. Chúng là kết
quả của sự khổ đau đè nặng lên thân phận kiếp người, đúng như lời Phật dạy : “ Từ tham dục nảy mầm khổ đau / Từ tham dục nảy
mầm sợ hãi/ Với ai thoát khỏi vòng tham dục/ Không còn khổ đau, và sợ hãi” (
Pháp Cú 214)
Thiền
định là con đường trở về thực tại, thường xuyên chánh niệm tỉnh giác trong mọi
nẻo đường của ý tưởng, hành vi. Khi tâm đã làm chủ các pháp, những trạng thái
biến chuyển tâm lý bị ức chế bởi sầu, bi, khổ, ưu, não, thất vọng, lo lắng, sợ
hãi trong tâm hồn được thanh lọc, tẩy rửa để rồi tự phá hủy mọi gông cùm của thực
tại, được đúc kết từ sự tham dục từ vô thỉ của con người. Chính sự duy trì
chánh niệm tỉnh giác giúp chúng ta vượt ra khỏi sự hỗn loạn đang chế ngự trong
cõi lòng của mỗi người. Thực tại là cuộc sống đang là, một sự thanh thản tâm hồn
trong chánh niệm tỉnh giác. Tại đây sự quân bình thân tâm trở về với chính mình
trong từng giây phút: “ Thở vào tâm tĩnh
lặng/ Thở ra miệng mỉm cười/An trú trong hiện tại/ Giây phút đẹp tuyệt vời” ( Kinh Quán niệm hơi thở- HT Nhất Hạnh )
Chánh
niệm tỉnh giác thường xuyên có mặt thì tâm thức được lắng đọng. Đây là phương
cách để tẩy sạch các hạt giống chất chứa sự nhiễm ô, nhằm đạt đến sự tĩnh lặng
an lạc và giải thoát. Tất nhiên, một tâm thức trong sáng như thế sẽ vận hành
theo một chiều hướng mới, tạo ra một loạt
hoạt động, lời nói và ý nghỉ tốt lành. Khi bước vào đời sống nội tâm,
chúng ta cần có sự bình an nội tại để quan sát, thẩm thấu chân lý. Nên cần có nếp
sống hành thiền thường xuyên mới có thể chuyển hóa các hạt giống phiền não đang
còn tồn đọng trong tâm thức. Giống như một tấm gương trong suốt phản chiếu mọi
đối tượng khi được soi rọi vào mà không hề dính mắc một chút mảy may bụi trần.
Cũng vậy, hành giả phải thường xuyên quan sát sự vận hành của tâm trong chiều
hướng thanh tịnh, để viễn ly và trừ bỏ mọi tác nhân gây nhiễu loạn tâm thức, từ
đó tâm thức mới được khai phóng và thoát ra khỏi lớp sương mù ảo giác giữa cái
ngã và chân lý. Trong kinh Giáo Giới La Hầu
La, Đức Phật đã dạy La Hầu La phải phản tỉnh và phản tỉnh nhiều lần nhằm điều
chỉnh tâm thức trước khi làm, đang làm
và sau khi làm để tâm thức khỏi phải lo âu sợ hãi. Đây chính là phương pháp tịnh
hóa ba nghiệp mà dù ta ở đâu và làm việc gì, lúc nào cũng có thể thực hiện được.
Đi
vào thiền định là đi vào con đường nhận rõ và không chấp thủ các vọng niệm của
tâm thức và tại đó cái ngã không còn cơ hội để len lỏi khắp nơi. Như La Hầu La,
sau khi phản tỉnh nhiều lần về ba nghiệp trước khi làm, đang làm và sau khi làm
thì mọi hạt giống bất thiện đã bung vỡ không còn mầm mống để đâm chồi nữa. Cũng
thế, với tâm tĩnh lặng tỉnh giác, bạn sẽ có sự cân bằng nội tại, một trạng thái
tâm lý thoải mái và hoàn toàn tự do.
KẾT
LUẬN : Những nan giải và phức tạp trong
cuộc sống thường nhật sẽ được giải quyết triệt để, nếu như con người biết thực
tập đời sống thực hành thiền định. Tất nhiên, hành giả phải biết điều chỉnh tâm
thức như thế nào để tâm được tĩnh lặng và tự chủ. Đồng thời, sử dụng chánh tinh
tấn để duy trì sự miên mật. Có như thế, chúng ta mới bước ra ngoài vùng tâm lý
rối loạn bởi những định kiến sai lầm và những tác nhân bên ngoài thường xuyên
kích động, quấy nhiễu tâm thức. Chính nhờ sự thực tập làm cho tâm thức tỉnh lặng
mọi lúc, mọi nơi một cách đều đặn đã làm lắng đọng và tẩy rửa mọi vết nhơ, tạo
nên sự bình lặng trong tâm thức. Thiền định là chìa khóa có thể làm hóa giải những
bức xúc trong tâm và bên ngoài đời thường. Rõ ràng, thiền định đã đưa đến nếp sống
văn hóa ứng xử lên đỉnh cao nhất trong các mối liên hệ giữa con người với con
người và các mối quan hệ cộng hưởng chung quanh. Với nếp sống chánh tỉnh giác
như vậy, tất nhiên hạnh phúc sẽ có mặt mà bất cứ ai đi vào con đường này cũng đều
được lãnh hội. Phật giáo xây dựng hạnh phúc bằng tất cả niềm tin nhận chân sự
thật khổ đau và đoạn tận khổ đau. Nếp sống thiền định là nếp sống có giá trị
thiết thực hiện tại, đến để mà thấy. Cốt lõi của một đời sống hạnh phúc có ngay
trong đời sống bình nhật, khi một tâm thức có nhân cách hoàn mỹ, tâm hồn trang
trải lòng từ đối với mọi loài và được soi sáng bằng trí tuệ vô biên.
( Trích : Ứng dụng thiền
trong nếp sống của hành giả thời hiện đại -
SC Thích nữ Tuệ Phương - VHPG số
394-nnn1—2022 )
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét