TÌM HIỂU VỀ NGHIỆP
Chánh
Tấn Tuệ.
Trong
nhà Phật, nghiệp có nghĩa rất rộng, rất sâu, bao hàm từ thô đến tế.
Rộng,
vì nghiệp hiện diện trong từng tư tưởng, tình cảm, hành vi, thân xác, vận mệnh
của mỗi chúng sinh (trong đó có con người ).
Sâu,
vì nghiệp là chỗ khởi đầu của sanh tử.
Thô,
vì con người có thể nhận ra nghiệp trong các sinh hoạt bình thường.
Tế,
vì chỗ khởi đầu của sinh tử chỉ là bất giác tâm động mà thành niệm ( vô minh
nghiệp tướng ). Niệm này cực kỳ vi tế, ý thức của người bình thường không thấu
được.
Nghiệp
là gì ? Theo Tự điển Phật học Huệ
Quang, nghiệp có nghĩa là tạo tác. Tạo tác là làm ra, tạo ra, làm nên. Tạo tác
diễn ra trong tâm, gọi là ý nghiệp. Tạo tác diễn ra nơi miệng thành lời nói, gọi
là khẩu nghiệp. Tạo tác diễn ra nơi thân như tay chân co, duỗi v.v.. gọi là
thân nghiệp. Ý nghiệp, khẩu nghiệp và thân nghiệp, gọi chung là tam nghiệp. Con
người tạo nghiệp thông qua ba hình thức đó.
Nghiệp
có người định nghĩa là hành động. Hành động ở thân, ở miệng, và ở ý. Nói hành động
ở thân và miệng thì dễ chấp nhận, nhưng với ý nghiệp thì chưa hiển bày được hết
nghĩa của nó. Thành định nghĩa này tuy gần với đại chúng nhưng không bằng hai
chữ tạo tác. Tạo tác hàm chứa được nghĩa của nghiệp rộng hơn.
Do
bị A nói xấu sau lưng nên B quyết định trả đũa- quyết định này là ý nghiệp.
Sáng nay gặp A, B liền trách móc chửi mắng, đây là khẩu nghiệp. Do A không chịu
nhận lỗi, cứ quanh co biện minh khiến B thấy rằng nói là chưa đủ, nên thượng
chân hạ tay với A, đây là thân nghiệp.
-
Sau một thời gian quen biết, A thấy mình có tình cảm với B. Trải qua nhiều đắn
đo suy nghĩ, A quyết định viết thư và tặng hoa để bày tỏ tình cảm. Việc có tình
cảm, đắn đo suy nghĩ và quyết định viết thư thuộc ý nghiệp. Hành động viết thư
và tặng hoa thuộc thân nghiệp.
-A
khởi lên ý nghĩ cần có một việc kinh doanh để tăng thu nhập. Sau khi suy tính,
A quyết định mở cửa hàng kinh doanh quần áo, đó là ý nghiệp. Để thực hiện ý định
trên, A tìm đến chủ nhà có vị trí thích hợp để thương lượng thuê nhà. Thương lượng
thành công, A tiến hành sửa chữa, trang trí, mua quần áo, trưng bày để bán…Các
việc làm đó thuộc thân và khẩu nghiệp, giúp thực hiện ý nghiệp muốn kinh doanh.
Người
không lìa nghiệp : Sáng chủ nhật, A bật ti vi xem chương trình thể thao. Được
một lát, A tắt ti vi bật máy nghe nhạc. Nghe vài bản A tắt máy, bước ra sân
chăm hoa và quay sang nói chuyện với hàng xóm. Xong, A quay vào nhà thay quần
áo rồi lấy xe xuống phố. Ngang qua cửa hàng, thấy quảng cáo hàng mới, A gởi xe
vào xem… Việc này nối tiếp việc kia trong một ngày được gọi là nghỉ ngơi, cho
thấy con người suốt ngày sống với nghiệp, hết nghiệp này đến nghiệp khác. Khi
thân mệt mỏi mới chịu dừng nghỉ. Song dù miệng không nói, tay không làm, chân
không đi tâm vẫn chưa hết nghĩ. Các ý niệm thay nhau xuất hiện không ngừng
trong đầu. Đây dù không có thân và khẩu nghiệp, ý nghiệp vẫn vận hành. Vận hành
ngay cả khi ngủ. Đa phần người đời vẫn mộng thấy làm cái này, cái kia, thấy
yêu, thấy ghét, thấy sợ.v.v…như đang sống trong đời sống thường nhật. Tóm lại,
con người suốt ngày sống trong sự tạo tác. Vì luôn có tạo tác nên gọi là hữu
vi. Kinh nói chúng sinh thường sống với pháp hữu vi.
Ý
nghiệp là nền tảng, là chủ đạo : Ý
nghiệp là chỗ khởi đầu của nghiệp. Ý nghiệp có thể xuất hiện một mình, không cần
đến sự hiện diện của thân nghiệp và khẩu nghiệp, nhưng phải nương vào ý nghiệp
thì thân nghiệp và khẩu nghiệp mới có thể xuất hiện.
Khi
nghiệp xuất hiện, ý nghiệp có thể được ý thức như các trường hợp vừa nêu. Song
cũng có nhiều trường hợp, nghiệp xuất hiện mà ý nghiệp không được nhận biết dù
nó đã hiện diện nơi tâm. Trong buổi họp, A đã phát biểu. Khi nói xong, A cảm thấy
áy náy, vì nhận ra lời nói của mình đã đụng chạm đến cấp trên, điều mà A muốn
né tránh. Rõ ràng khi phát biểu, A đã không ý thức được đầy đủ điều mình đang
nói. Nếu ý thức được, A đã không nói. Dù không ý thức được, nhưng đã có một động
lực nằm sẵn trong tâm thúc đẩy A nói. Động lực đó là ý nghiệp.
Trong
phân tâm học có một thí nghiệm rất nổi tiếng có tên là “ Ám thị có kỳ hạn”. Thí
nghiệm này giúp thấy rõ hơn về sự vận hành của ý nghiệp dù ta không ý thức được
sự có mặt của nó. Trong giấc ngủ thôi miên của một người bệnh, bác sĩ ra lệnh:
“ Sau khi đánh thức nữa giờ, anh phải bò quanh phòng”. Sau ám thị đó, người bệnh
được đánh thức. Khi người bệnh lấy lại được ý thức của mình, anh không nhớ được
mệnh lệnh đã nhận khi ngủ, nhưng đến giờ quy định, anh trở nên áy náy như muốn
tìm một vật gì. Cuối cùng anh bò quanh phòng, viện cớ là mình đang tìm một đồng
xu bị mất. Thí nghiệm cho thấy người bệnh bò quanh phòng ( thân nghiệp ) nhưng
không hề ý thức được mệnh lệnh bắt anh phải bò. Mệnh lệnh ấy giờ đã thành ý
nghiệp của anh, chi phối tư tưởng của anh khiến anh nghĩ mình đánh rơi đồng bạc,
chi phối hành động của anh khiến anh bò quanh phòng.
Ý
nghiệp là cơ sở của mọi tư tưởng, tình cảm, hành vi của con người, nhưng thường
chúng ta chỉ ý thức được phần nổi, là phần thô của ý nghiệp, chưa ý thức được
phần tế của ý nghiệp, tức chưa ý thức được những nguyên động lực nơi ý nghiệp.
Thế nên “ đối tượng mà ta có ít hiểu biết đúng và có nhiều hiểu lầm nhất là
chính mình”. Nghe có vẻ mâu thuẫn, nhưng đây là sự thật ít ai nghĩ đến.
Huân
tập và thành nghiệp : Một tư tưởng, một
tình cảm, một hành vi được thực hiện lặp tới lặp lui nhiều lần, gọi là huân tập.
Muốn thuộc bài, chúng ta cần đọc tới đọc lui bài học nhiều lần để nhớ bài, việc
đọc tới đọc lui đó gọi là tập học bài. Ngày nào cũng tọa thiền, gọi là tập tọa
thiền. Ngày nào cũng uống rượu, gọi là tập uống rượu.
Chúng
ta suốt ngày sống với nghiệp, hết nghiệp này đến nghiệp khác. Trong các nghiệp ấy,
nghiệp nào được huân tập nhiều, sẽ dẫn đến hiện tượng thành nghiệp. Nếu đã
thành nghiệp thì khi sinh khởi, nó có năng lực bắt thân tâm ta vận hành theo
nó. Ta có thể cưỡng lại tác động này của nghiệp, chỉ là nghiệp đã huân càng nhiều
thì cưỡng càng khó.
Thí
dụ : Ăn uống đã huân thành nghiệp nên khi đói mà có đồ ăn, khó mà không ăn.- Uống
rượu đã huân thành nghiện thì không có rượu, sẽ phát sinh sự thèm muốn. Muốn rồi
sẽ tìm rượu. Có rượu rồi, khó mà cưỡng lại được nó.
Tạo
ra lực nghiệp : Năng lực bắt ta phải
suy nghĩ hay hành động theo nghiệp, gọi là lực nghiệp. Lực này phát sinh khi
thói quen xuất hiện. Tức những gì mà ba nghiệp thân, khẩu, ý đã huân tập thành
nghiệp rồi, sẽ tạo ra một lực bắt ta phải theo hướng đó, gọi là lực nghiệp hay
nghiệp lực.
Nghiệp
nặng và nhẹ : Gọi là nghiệp nặng khi lực nghiệp mạnh. Hai yếu tố chính khiến
nghiệp có sức mạnh là sự huân tập và tình cảm đi kèm với nghiệp. Nghiệp càng được
huân tập nhiều, lực nghiệp càng mạnh. Càng nhiều tình cảm yêu, ghét, tham, sân,
khổ, lạc đi kèm, lực nghiệp càng mạnh. Người ghiền rượu một năm, sự lệ thuộc
vào rượu ít hơn khi đã ghiền tới mười năm. Người nghe âm nhạc với sự ưa thích
nhiều sẽ dính mắc vào âm nhạc, thường tìm đến âm nhạc nhiều hơn so với người
nghe âm nhạc với sự ưa thích ít.
Nghe
nhạc là nghiệp mới huân tập, không được huân tập nhiều như nghiệp nặng, lực của
nó không mạnh.- Với nghiệp nhẹ, ta có thể dễ dàng thay thế nghiệp này bằng nghiệp
khác. Như chơi cờ là thói quen, nhưng do bệnh, thay vì chơi cờ thì có thể dành
thời gian đó để tập thể dục, nhằm tăng cường sức khỏe. Hoặc thay vì nghe nhạc,
ta có thể đi dạo…
Với
nghiệp nặng, ta dễ đánh mất sự tỉnh giác, tâm trở nên mê mờ, thiếu lý trí, khó
phân định được thiện ác, ý thức chỉ hướng đến việc tìm cách thực hiện nghiệp.
Ta cũng khó thay thế một nghiệp nặng bằng một nghiệp khác. Như người ghiền rượu
nặng, khi cơn ghiền xuất hiện, khó mà thay thế việc uống rượu bằng việc làm
khác.
Nghiệp
với phiền não chướng : Phiền não đây chỉ cho những trạng thái không vui,
như bất an, bồn chồn, buồn bực.v.v… Vì làm chướng ngại cho việc thoát khỏi nghiệp,
chướng ngại cho sự giải thoát, gọi là phiền não chướng.
Khi
nghiệp sinh khởi, nếu không thực hiện nghiệp ấy, trong tâm sẽ xuất hiện trạng
thái phiền não. Việc “ không thực hiện nghiệp ấy” có hai : Hoặc do ta muốn, như
do muốn cai rượu nên quyết không uống rượu. Hoặc do không muốn nhưng không đủ
điều kiện để thực hiện nghiệp ấy, như thèm rượu nhưng không kiểm tra rượu để uống.
Phiền
não có thể nhẹ như thấy không vui, bực bội, bất an…, có thể nặng như bồn chồn,
nóng bức nơi tâm, bức bách nơi thân…Nghiệp càng nặng, khổ càng nhiều, vì phiền
não là khổ.
Thông
thường, ai cũng thích sướng sợ khổ nên thường tìm vui tránh khổ, do vậy con người
thường tìm cách nghĩ và sống theo nghiệp đang có hơn là sống trái với nghiệp,
như một cách tránh đối mặt với phiền não. Thái độ đó khiến phiền não trở thành
sợi dây trói con người với nghiệp. Phiền não càng lớn, sợi dây trói buộc càng bền
chắc, khiến con người không còn tự do, tự tại.
Nghiệp-
không nghiệp : Nghiệp vốn không, do huân tập mà hiện ra như có. Dù có xuất
hiện nhưng bản chất của nghiệp vốn không, nên ta có thể làm cho nghiệp trở về
không, gọi là không nghiệp. Nghiệp do huân tập mà thành, chỉ cần không huân tập
nữa, nghiệp lại về không. Như ngày nào cũng hút thuốc, việc lặp đi lặp lại hành
vi này làm cho nghiệp càng ngày càng nặng. Muốn không nghiệp chỉ cần không hút
thuốc nữa. Nếu không hút thuốc diễn ra trong nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều
năm, nghiệp hút thút sẽ dần biến mất.
Về
nguyên tắc, việc không nghiệp có vẻ đơn giản, nhưng thực tế khi cưỡng lại nghiệp,
ta phải đối diện với loại phiền não do dừng nghiệp mà ra. Nghiệp càng nặng thì
phiền não càng lớn, sự mê mờ càng sâu, nên muốn “ không được các nghiệp nặng” cần
phải có ý thức tự giác, sự tỉnh giác và một ý chí kiên định.
-
Chủng tử nghiệp : - Được lưu giữ trong tạng thức: Bất kỳ một pháp nào, một
khi được huân tập sẽ hình thành nên chủng tử của pháp ấy và được lưu giữ trong
tạng thức thứ tám của chủ thể tạo tác. Nghiệp, do huân tập mà thành nên cũng được
lưu giữ trong thức thứ tám, dưới hình thức chủng tử nghiệp.
-
Mang tính cá nhân : Sự huân tập thành
chủng tử mang tính cá nhân. Tức chủng tử của người nào phải do chính người đó tạo
thành, không do một thế lực bên ngoài tạo giùm, cũng không do người khác (dù
thân thuộc ) tạo giùm. Nghiệp cũng do chính mỗi cá nhân tự huân tập lấy mới
hình thành chủng tử nghiệp, mới có thể “ thành nghiệp”. Như cha uống rượu, con
không uống rượu thì cha ghiền, con không ghiền. Con tập hút thuốc, cha không
hút thuốc thì con ghiền, cha không ghiền. Tất cả các nghiệp khác đều như vậy.
-
Ở trạng thái thùy miên : Thông thường
chủng tử ở trong trạng thái thùy miên, tức ngủ ngầm trong tạng thức thứ tám.
Lúc này chủng tử không có hình tướng hay tác dụng nên đồng như không có. Khi đủ
duyên, chủng tử sẽ sinh khởi, tạo ra các niệm tưởng trong tâm. Các niệm tưởng
này xuất hiện từ tế đến thô. Tế là khi các niệm tưởng còn trong thức thứ bảy và
thứ tám ( phân tâm học gọi là tiềm thức và vô thức ). Thô là những ý niệm xuất
hiện trong ý thức.
-
Đủ duyên mới sinh khởi : Thức thứ tám
của mỗi chúng sanh chứa nhiều chủng tử nghiệp khác nhau. Tại một thời điểm nào
đó, chỉ những chủng tử đủ duyên mới sinh khởi, thúc đẩy sự sinh hoạt của tâm,
ý, ý thức. Tùy theo lực nghiệp mạnh hay nhẹ mà ý thức của chúng ta hoạt động mạnh
hay yếu. Có lúc tâm thức hoạt động hòa hoãn, có lúc hoạt động mạnh hơn, có lúc
hoạt động mãnh liệt. Hiểu về nghiệp, sẽ hiểu tại sao tâm thức hoạt động với nhiều
mức khác nhau.
-
Sinh khởi ý nghiệp : Chủng tử nghiệp
khi đủ duyên sinh khởi sẽ tạo ra ý nghiệp. Ý nghiệp này cũng có từ tế tới thô.
Tế, là khi còn nằm trong vô thức. Thô, là khi nó xuất hiện trong ý thức. Vì ý
nghiệp là nghiệp, nên nó xuất hiện cùng với lực nghiệp. Lực này xuất hiện khi ý
nghiệp còn trong vô thức, tạo thành động lực vô thức. Với Freud, đây là “ năng
lực tính dục” (libido). Thật ra, tính dục chỉ là một trong rất nhiều nghiệp được
tích chứa trong thức thứ tám (vô thức ). Chỉ khi thấu về chủng tử nghiệp, ta mới
thấy hết được các động lực tiềm chứa trong vô thức. Động lực này chi phối ý thức,
thúc đẩy thức vận hành theo nghiệp đang khởi.
Từ
ý nghiệp, thân nghiệp và khẩu nghiệp theo đó hiện hành. Nếu có thể nhận biết
nghiệp ngay khi ý nghiệp xuất hiện ( dù ở trạng thái thô) thì có thể quyết định
được sự tạo tác của thân và khẩu nghiệp.
Nghiệp
và lý nhân duyên : Nghiệp xuất hiện và vận hành theo lý nhân, duyên, quả.
Trong đó chủng tử nghiệp là nhân, các điều kiện làm cho nghiệp sinh khởi và
phát triển là duyên. Duyên có thể đến từ bên trong, có thể đến từ bên ngoài.
Duyên
đến từ bên trong, là những sinh khởi hiện hành của tâm- Luận Đại thừa Khởi tín
gọi nó là thức tương tục: “ Thức này giữ gìn nghiệp thiện ác trong vô lượng đời
quá khứ khiến chẳng mất, lại hay thành thục quả báo khổ vui trong đời hiện tại
và vị lai không hề sai lệch, hay khiến hiện tại bỗng nhớ lại những việc đã qua,
bất giác lo nghĩ vọng tưởng những việc chưa tới ”. Nhớ lại những việc đã qua
hay vọng tưởng những việc chưa tới chính là duyên bên trong giúp sinh khởi các
chủng tử nghiệp ẩn sâu trong thức thứ tám. Chủng tử và hiện hạnh, tác động qua
lại làm nhân duyên cho nhau để sinh khởi.
Để
dễ nắm bắt câu nói trên, hãy khảo sát trường hợp giả định sau : Đang yên ổn, chợt
hình bóng A xuất hiện trong ý thức, khiến những hình ảnh quá khứ sống lại kèm
theo đó là tình cảm, buồn, thương, tiếc nuối. Nhìn một cách tổng quát, hình ảnh
A là duyên làm cho chủng tử nghiệp ( mà chủ thể ý thức từng có với A ) sinh khởi.
Chủng tử ở thức thứ tám sinh khởi, thông qua thức thứ bảy, đến với ý thức làm
xuất hiện ở ý thức những ý niệm, là những hình ảnh quá khứ kèm với sự buồn,
thương, tiếc nuối. Ở đây, chủng tử là nghiệp quá khứ được lưu giữ trong thức thứ
tám. Nó là nhân sinh ra quả ( các ý niệm quá khứ ). Nói một cách chi tiết, hình
ảnh A xuất hiện ở ý thức, là duyên làm các chủng tử nghiệp có liên hệ với A
sinh khởi. Chủng tử sinh khởi làm hiện hành các ý niệm về quá khứ. Ý niệm quá
khứ này lại làm cho các chủng tử sinh khởi. Sự tương tác qua lại giữa chủng tử
và hiện hành làm cho các hình ảnh quá khứ nối tiếp nhau xuất hiện trong ý thức,
tạo thành dòng tương tục. William Jame gọi đây là dòng ý thức ( stream of
thought ). “ Độ lâu thuần túy” ( dureé pure ) của Bergson cũng có nhiều điểm
tương đồng với dòng ý thức.
Ai
cũng có thể nhận ra dòng thức tương tục này. Dễ nhất là khi một mình ở chỗ yên
tịnh, không để cảnh vật bên ngoài làm xao lãng, hướng sự chú tâm vào bên trong
ta sẽ thấy các ý niệm xuất hiện rồi biến mất, nhường chỗ cho các ý niệm khác. Nếu
tập quán sát như thế một cách lâu dài và đúng pháp, ta sẽ thấy đó là một dòng
chảy các ý niệm nối tiếp nhau, chính là thức tương tục.
Do
tâm khởi luôn đi kèm với một nghiệp, nên một khi ý niệm xuất hiện trong ý thức,
nó có khả năng lôi kéo ý thức vận hành theo nó. Việc này làm ta bị xao lãng,
không tập trung. Nhưng đang chú tâm vào việc, một ý niệm đột nhiên xuất hiện
trong ý thức. Ý niệm này khiến ta xao lãng công việc. Biết mình đang làm việc,
ta chú tâm vào lại công việc. Lát sau một ý niệm khác lại xuất hiện làm ta xao
lãng v.v…Việc làm chủ các ý niệm này là không dễ, vì nó là ý nghiệp. Ý nghiệp
xuất hiện luôn đi kèm với lực nghiệp. Lực này lôi kéo ý thức vận hành theo nó.
Với
người tu thiền, lực này cản trở việc thiền định. Vì định là dừng tâm trên một cảnh
hay một niệm. Nhưng các ý niệm lại xuất hiện theo nhân duyên, nên luôn dời đổi,
khiến tâm không định. Muốn tâm được định, phải kiên trì giữ tâm một chỗ, hoặc
giữ tâm không chạy theo niệm. Tập lâu mới đạt được định.
Với
người bình thường, để làm công việc có hiệu quả, cần có sự chú tâm. Sự chú tâm
này dễ bị mất vì các ý niệm đột khởi trong tâm, các ý niệm này vốn là ý nghiệp.
Thành muốn có sự tập trung, cần phải tập quen với việc gạc bỏ các ý niệm này, đặt
tâm vào công việc. Nói đơn giản là làm việc gì chỉ biết việc đó, không để cái biết
chạy theo cảnh khác, chạy theo các ý niệm.
Đó
là nói về duyên bên trong.
-Duyên đến từ bên ngoài : Như A Nan là thị giả của Phật, do thích thân
tướng thanh tịnh của Phật mà xuất gia, không có tâm ái thích người nữ. Nhưng
khi gặp Ma Đăng Già thì mê muội, là do nhân duyên 500 đời làm vợ chồng với Ma
đăng già. Chủng tử dâm ái được huân sâu trong thức thứ tám, vẫn ngủ yên cho đến
khi gặp duyên là Ma đăng già, liền sinh khởi ý nghiệp mê muội và sắp hiện ra
thân nghiệp. Nhưng do nghiệp tu hành được huân tập tới hiện đời, được lực hộ
trì của chư Phật, A Nan tỉnh giác kịp thời,
không để mất giới thể. Ma đăng già và lực hộ trì của chư Phật là duyên đến từ
bên ngoài. Do duyên Ma đăng già mà chủng tử dâm ái hiện hành. Do duyên chư Phật
mà chủng tử tỉnh giác xuất hiện, phá tan nghiệp dâm ái.
Suốt
ngày, con người chạy theo nghiệp này đến nghiệp khác, vì hai duyên trong ngoài
luôn có đủ. Khi không có duyên ngoài thì vẫn có duyên trong, khiến ý nghiệp
không ngừng sinh.
Nhiều
nhà Tâm lý học thấy rằng, những phép tắc chi phối các hiện tượng tâm thần rất gần
với các phép tắc chi phối các hiện tượng vật chất. Điều này hoàn toàn đúng, vì
cả hai đều vận hành theo lý nhân –duyên-quả. Một số trong họ muốn đã muốn xây dựng
Tâm lý học thành môn học chính xác như các môn khoa học về vật chất, nhưng dù cố
gắng rất nhiều vẫn không làm được. Vì những môn khoa học vật chất, như vật lý học, được xây dựng chỉ dựa trên nhân và quả. Chỉ cần
biết nguyên nhân, sẽ suy được kết quả, duyên không được bàn đến. Như chỉ cần biết
hai nhân tố chính là gia tốc trọng trường và vận tốc đầu của viên đạn, sẽ tính
được quỹ đạo của viên đạn. Tuy nhiên quỹ đạo đó là kết quả của việc giả định
viên đạn bay trong môi trường hư không, không phải đúng như thực tế là viên đạn
di chuyển trong môi trường không khí, nên phải chịu lực cản của không khí, chịu
tác động của gió…là những duyên tác động lên quỹ đạo thực tế của viên đạn. Để
có thể vận dụng công thức lý thuyết vào thực tế một cách có hiệu quả, người ta
tạo ra viên đạn với hình dáng ít chịu tác động của không khí nhất. Nhờ đó sai số
giữa lý thuyết và thực tế ở mức chấp nhận được. Khoa học luôn là môn học có sai
số, nhưng vì là sai số chấp nhận được, nên khoa học được xem là môn học chính
xác.
Trong
lĩnh vực tinh thần thì không thể vậy. Sự hiện hành của các thức tạo ra mọi hiện
tượng tâm lý, nhưng sự hiện hành này bị chi phối bởi nghiệp mà nghiệp vận hành
theo lý nhân-duyên-quả. Vì thế các hiện tượng tâm lý chịu tác động của nhiều
duyên, các duyên này không thể loại trừ được như trường hợp của vật chất, nên
việc chỉ vận dụng nhân quả trong lãnh vực tâm thần sẽ cho sai số khá lớn giữa
lý thuyết và thực tế. Muốn có một lý thuyết về tâm lý phù hợp với thực tế,
không thể bỏ qua mặt duyên mà chỉ vận dụng đến mặt nhân quả của pháp.
Kinh
luận có đề cập đến Tứ duyên. Đó là Nhân duyên, Sở duyên duyên, Đẳng vô gián
duyên và Tăng thượng duyên. Các duyên này chi phối tất cả pháp ở thế gian. Việc
đề ra nhiều duyên như vậy, cho thấy duyên là thứ không thể bỏ qua trong sự vận
hành của vạn pháp. Quán xét pháp với Tứ duyên sẽ giúp cái nhìn đối với vạn pháp
chính xác hơn.
Nghiệp
và ngã : Ai cũng cảm nhận về một cái
Ta, chủ thể thân tâm của chính mình. Tùy theo thời điểm hoàn cảnh mà Ta xuất hiện
với những hình thức khác nhau. Sáng Ta thức dậy, Ta đánh răng rửa mặt, Ta tập
thể dục, Ta ăn sáng, Ta đi làm…Chiều tan sở Ta về nhà, Ta dọn dẹp nhà cửa, Ta tắm
rửa, Ta nghe nhạc. Ai chê Ta buồn, ai khen Ta vui. Trước chuyện chưa giải quyết
được,Ta tư duy.Ta thương nhớ.Ta khỏe,Ta ốm yếu v.v…Quan sát kỹ , Ta luôn xuất
hiện cùng với nghiệp. Nghiệp thường thay đổi nên Ta cũng thay đổi và mang nhiều
hình thức khác nhau. Do nghiệp mà có Ta xuất hiện, nên luận nói “ Nghiệp sinh
ra người”.
Ý
thức có một chủ thể trong các hoạt động, tư tưởng, tình cảm, hành vi của mình
và cho rằng đó là Ta, Duy thức gọi là Ngã chấp phân biệt. Đây là sự chấp ngã mà
hầu hết người đời đều có. Nói “ ngã chấp”vì cho rằng cái Ta ấy là có. Nói “phân
biệt” là do có cái Ta mà có sự phân biệt giữa Ta với người, Ta khác người khác,
Ta khác các sự vật. Sự chấp ngã này thuộc về ý thức.
Do
ý thức hoạt động có gián đoạn nên ngã nhấp phân biệt cũng có gián đoạn. Như khi
ngủ say hay chết giấc, lúc ấy ý thức không hoạt động thì Ta không xuất hiện. Ta
gián đoạn như vậy, nhưng vì sao trước và sau sự gián đoạn đó, ý thức về Ta vẫn
không thay đổi, vẫn thấy Ta trước và Ta sau là một ? Đó là do bên trong, thức
thứ bảy vẫn hằng chấp thức thứ tám làm ngã. Ý thức nương đó mà chấp phần hiện
hành của thức thứ tám làm Ta. Cho nên, dù ý thức có gián đoạn, cái Ta sau và
cái Ta trước vẫn thấy không khác.
Ta,
gọi là ngã chấp phân biệt này, không tự tại. Vì do nghiệp sinh ra . Ba nghiệp
là nhân. Duyên bên ngoài là nghiệp quả. Bị tác động bởi hai gọng kìm nhân duyên
ấy mà Ta, thứ vẫn được cho tưởng là chủ thể của mọi suy nghĩ và hành động, thực
ra đang bị sai sử bởi nghiệp và duyên.
Đang
nghèo biết mình trúng số đặc biệt, thế là vui, không vui không được. Vì vui là
trạng thái phù hợp với sự ưa thích của mình nên ít ai thấy được sự trói buộc của
vui, không vui không được. Trường hợp ngược lại, như vừa bị phá sản, thì việc “
không muốn buồn cũng vẫn buồn” được thấy rõ hơn. Hoặc như vừa bị tai nạn gãy
chân, đau đớn khổ não, một trạng thái không ai muốn có, vẫn hiện diện. Nếu Ta
thật là chủ thể thì ta có quyền không buồn, không đau, không khổ. Thực tế không
như vậy. Ta vẫn chịu những việc ta không muốn. Việc đó cho thấy Ta không tự tại
mà lệ thuộc vào nghiệp, vào duyên.
Theo
nhà Phật, nghiệp và ngã là một cặp duyên khởi. Do có nghiệp mà có Ta. Do có Ta
mà có nghiệp. Nếu không cho Ta là có thì nghiệp dù hiện diện, bản chất của nó vẫn
là không. Lúc này dù có tạo tác mà vẫn không tạo tác, nên gọi là vô vi. Chúng
sanh do chấp có ngã nên nghiệp chẳng không, từ đó có trói buộc, khổ đau. Nếu
không tiếp tục tạo nghiệp và không chấp ngã nữa thì chứng được vô ngã, là chỗ
chứng của các vị A La Hán.
Nghiệp
và tính cách cá nhân : Theo cách nói thông thường, sự thành nghiệp còn được
gọi là thói quen, là tập tính, tính cách do huân tập mà thành.
Khi
còn nhỏ, tính cách của mỗi người chưa xuất hiện rõ ràng. Tính cách cá nhân dần
rõ nét theo quá trình trưởng thành, kéo theo sự sai biệt giữa tính cách của người
này với người khác ngày càng nhiều. Với người trưởng thành, thông thường ta
quen nhìn pháp ( sự vật, sự việc ) theo quan niệm ta đã có về loại pháp đó, suy
nghĩ theo cách ta thường suy nghĩ, làm những việc ta quen làm, cảm nhận sự việc
này, sự việc kia theo cách ta thường cảm nhận trong quá khứ, ưa thích các sự vật
ta thường ưa thích, ghét bỏ các sự vật ta thường ghét bỏ, ứng xử với người này,
người kia theo cách ta thường có… Những điều nói trên làm nên tính cách của ta.
Nói cách khác, tính cách của mỗi người là một số tập tính ( nghiệp ) nổi bậc của
người đó. Vì tính cách cá nhân là nghiệp, do huân tập mà thành, nên không cố định,
thay đổi được.
Thí
dụ : Người hung dữ có thể trở thành người ít hung dữ, thậm chí là hiền lành.
Ngược lại cũng vậy. Người sống không có
tổ chức, không có văn hóa có thể trở thành người sống có tổ chức, có văn hóa.
Ngược lại cũng vậy. Ở đây chúng ta cần tránh hai cái nhìn cực đoan.
1-
Cho rằng, tính cách (bản tính) của con người là không thay đổi được, nên cứ sống theo cách đã và đang sống mà
không tìm cách vươn lên để sống tốt hơn.
2- Cho rằng, việc thay đổi tính cách cá nhân là
điều dễ thực hiện, không mất thời gian. Thông thường tính cách cá nhân là nghiệp
đã được huân tập nhiều, nên là nghiệp nặng. Muốn thay đổi, cần có sự chỉ dạy (
giáo dục), tự giác, ý chí, nghị lực và thời gian để thay đổi một tập tính.
Thông
thường tính cách của người trẻ dễ thay đổi hơn người lớn tuổi. Vì người trẻ, tuổi
đời còn ít, thời gian huân tập các nghiệp làm thành tính cách của người đó chưa
nhiều, nên nghiệp nặng ít, nghiệp nhẹ nhiều, dễ có sự thay đổi. Với người lớn
tuổi, các tính cách có nhiều thời gian để huân tập, nên nghiệp nhẹ ít, nghiệp nặng
nhiều, khó thay đổi.
Tóm
lại, tính cách cá nhân vốn không cố định, nên thay đổi được. Để thay đổi tính
cách, ta cần vượt qua nghiệp lực đã hình thành trong quá khứ. Nghiệp càng nặng
càng cần nhiều ý chí và thời gian để vượt qua.
Nghiệp,
con người và xã hội : Con người là con vật được xã hội hóa. Thật ra không hề dễ
dàng để trở thành một người chân chính, vì xã hội đòi hỏi rất nhiều, đưa ra nhiều
trói buộc cho mỗi cá nhân, điều mà một con vật trong tự nhiên không có. Trong
thực tế, luôn có sự đối kháng giữa phần người ( là phần xã hội hóa ) và phần
con nơi mỗi cá nhân. Để làm người, cần sự tự giác nơi mỗi cá nhân. Mỗi người cần
tự hào về những phẩm chất cao quý mà các con vật không có, chỉ có nơi con người.
Vì thế cần vun bồi các phẩm chất người mỗi ngày để hoàn thiện chính mình. Cá
nhân không thể làm điều này mà không có sự trợ giúp của xã hội, thông qua sự
giáo dục từ tôn giáo, nhà nước, chính quyền, văn hóa, pháp luật v.v.. để giúp mỗi
người phát triển tính người.
Giáo
dục đóng vai trò to lớn trong việc giúp mỗi người ý thức được đạo làm người.
Giáo dục nhằm khơi dậy sự tự giác và tính tự hào là người nơi mỗi cá nhân, giúp
mỗi người phân biệt được thiện ác, tốt, xấu, đúng, sai…Trên cơ sở đó, mỗi người
dần vượt qua phần con, chấp hành các trói buộc của xã hộ, để xây dựng một xã hội
ổn định bền vững phát triển, cho kịp và vượt lên thòi đại.Giáo dục như thế nào
để đáp ứng các nhu cầu trên là trọng trách của nhà nước và các tôn giáo.
(
Trích NSGN số 277- 4- 2019- của Chánh Tấn
Tuệ ).
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét