GIÁO LÝ NGHIỆP
A. Dẫn nhập:
Trong kinh Trung Bộ, Đức Phật dạy rằng “ Con người là chủ nhân của
Nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà con người từ đó được sanh ra, nghiệp là quyến thuộc,
là nơi nương tựa. Như thế sự hiện hữu
của mỗi con người, đồng thời là sự hiện hữu của nghiệp thiện và bất thiện( từ
vô lượng kiếp ) quá khứ. Mỗi con người cá thể là điểm trung tâm của Nghiệp,
ngoài mỗi cá thể ấy sẽ không có,bất kỳ một cái nghiệp nào được bàn đến .
B- Nội dung :
I
- Định nghĩa : Nghiệp tiếng Sanskrit gọi
là Karma, có nghĩa là hành động có tác ý. Nói cách khác, nghiệp luôn luôn được
bắt nguồn từ những tạo tác của tâm (ý ) thông qua những hoạt động của thân,
miệng và ý, gọi chung là tam nghiệp. Do đó, một hành động (tạo tác) nếu không
phát sinh từ tâm thì không thể gọi là Nghiệp mà hành động ấy chỉ được gọi là
hành động hay hành động duy tác. Và như vậy, định nghĩa của nghiệp là : Hành
động có tác ý, hay hành động được phát sinh từ tâm .
II - Nội dung của nghiệp :
Thông thường nói đến nghiệp, là nói đến vấn đề
thiện, ác trong vòng sanh diệt và tương tục của đời sống con người. Thông qua việc
tạo nghiệp ( thiện hay ác ) mà con người tự xây dựng cho mình một định nghiệp -
một đời sống khổ đau hay hạnh phúc. Nhưng khổ đau hay hạnh phúc là những cảm
nhận của riêng mỗi con người khác nhau và nó là những pháp sanh diệt, tương tục
trên cơ sở tâm lý khác nhau. Vì thế sẽ không có một khuôn mẫu ước lệ nào có thể
quy ước một cách đầy đủ về nghiệp. Tuy nhiên, cơ sở của nghiệp là tâm (ý). Do
đó, khảo sát về nghiệp chính là khảo sát về cội nguồn của tâm. Đức Phật dạy :
“ Ý dẫn đầu các
pháp - Ý làm chủ tạo tác
Nếu với ý nhiểm ô -
Nói năng hay hành động,
Khổ não bước theo sau
- Như chiếc xe theo chân con vật kéo ”
** ** ** **
“ Ý dẫn đầu các
pháp - Ý làm chủ tạo tác ,
Nếu với ý thanh
tịnh - Nói năng hay hành động ,
An lạc bước theo
sau -
Như bóng không rời hình ”
Qua bài kinh trên, chúng ta nhận rõ rằng
chính mối quan hệ nhân quả từ nơi tâm ý của con người đã hình thành nên cái
nghiệp thiện hay ác mà con người phải thọ nhận. Vì thế Đức Phật dạy về nghiệp
là nhằm thức tỉnh con người từ nơi tâm ý của chính mình( tự tịnh kỳ ý) để từ đó
đi vào một đời sống an lạc giải thoát. Tất nhiên cái mà gọi là nghiệp ở đây là
những gì thuộc pháp hữu lậu( nghiệp hữu
lậu) tức là những gì thuộc thiện ác, khổ đau, hạnh phúc v.v...nó gắn liền với
đời sống đạo đức, luân lý của con người, với những cảm thọ vui buồn, khổ lạc,
mà không phải là những gì thuộc vô lậu giải thoát. Do đó, trong một số trường
hợp khi các kinh văn đề cập đến nghiệp và lậu,
chúng ta cần hiểu rằng đó là một lối diễn đạt nhằm phân biệt giữa cái
thiện, ác và cái đã thoát ly mọi ý niệm về thiện, ác. Chẳng hạn như tham sân si
là nghiệp bất thiện, nghiệp ác, nhưng tự thân không tham, không sân, không si,
đã là thanh tịnh giải thoát rồi. Ở đây trên phương diện nào đó, không cần thiết
phải gọi không tham, không sân, không si là cái nghiệp thiện hay cái nghiệp
thanh tịnh giải thoát. Bởi lẽ thanh tịnh giải thoát tự nó đã thoát ly mọi khái
niệm thiện, ác, hữu, vô. Do vậy, khi bàn đến nội dung của nghiệp, ở đây chúng
ta chỉ thuần tuý nói đến nghiệp thiện và nghiệp ác, tức là nghiệp hữu lậu mà
không nói đến nghiệp vô lậu. Cố nhiên, định nghĩa : Nghiệp là hành động có tác
ý hay hành động phát sinh từ tâm” chỉ được dùng cho tất cả nghiệp hữu lậu, tức
là mọi vấn đề liên quan đến thiện và ác
III
- PHÂN LOẠI
NGHIỆP
Thông thường nghiệp được tạo tác trên cơ
sở của thân, khẩu và ý. Tất nhiên cả 3 nghiệp đều xuất phát từ ý hay còn gọi là
tâm. Như thế khi xét đến nghiệp của một con người là xét đến thân nghiệp, khẩu
nghiệp và ý nghiệp. Ngoài ba nghiệp này, không còn một cái nghiệp nào khác. Tuy
nhiên, nghiệp có những tính chất và chức năng khác nhau nên chúng được phân làm
nhiều loại và có nhiều tên gọi khác nhau.
1. Phân loại 1( Theo tên gọi) Theo trình tự
giáo lý về nghiệp được chia thành hai loại
a) Nghiệp thiện :Tư duy và hành động về các
điều lành như thực hành 5 giới và thập
thiện giới.
b) Nghiệp
ác : Tư duy hành động về các điều ác
như thực hành những điều trái ngược với 5 giới và 10 thiện giới.
Từ hai loại nghiệp trên chúng ta phải xét
đến quá trình tạo tác, tư duy và hành động để hình thành nên nghiệp (thiện hay
ác) . Do đó, nếu xét về tiến trình của nghiệp, thì nghiệp lại chia thành hai
loại nữa.
a) Nghiệp
nhân : Những tư duy hành động tạo nghiệp chưa đưa đến một kết quả.
b) Nghiệp
quả : Những tư duy hành động tạo tác sau một tiến trình đã tạo thành
nghiệp, còn gọi là nghiệp quả hay nghiệp báo.
Trong thực tế, khi nói đến nghiệp, hàng
Phật tử thường chú trọng đến nghiệp báo( nghiệp quả) hơn là nghiệp nhân. Và đây
là chỗ thiếu sót của chúng sanh khi đối diện với nghiệp. Và cũng chính điều này
khiến cho chúng sanh quan tâm đến quả báo hơn là gieo nhân. Nghiệp quả hay
nghiệp báo cũng được gọi là quả dị thục( nghiệp đã chín muồi)
2. Phân loại 2 ( Theo tiến trình)
Xét theo tiến trình từ nhân đến quả của
nghiệp thì có hai loại nghiệp cơ bản.
a)
Định nghiệp : Là nghiệp được lưu chuyển trong thời gian ổn định và từ
nhân đến quả thống nhất với nhau. Ví dụ trứng gà, sau khi được ấp trong một
thời gian sẽ nở ra con gà. Nói chung, các nghiệp nhất định sẽ đưa đến kết quả(
Như ăn thì no) thì được gọi là định nghiệp.
b) Bất định nghiệp : Là nghiệp không dẫn
đến kết quả, hoặc kết quả sẽ thành tựu trong thời gian bất định, hoặc có thể
giữa kết quả và nguyên nhân không hoàn toàn thống nhất với nhau, thì được gọi
là bất định nghiệp.
3) Phân loại 3 ( Theo thời gian)
Nếu căn cứ theo thời gian, chúng ta sẽ
nhận ra hai loại nghiệp, một đã chín muồi và một đang và sẽ diễn tiến trong dòng nghiệp tạo
tác.
a) Nghiệp
cũ: Là nghiệp đã được tích luỹ từ
nhiều đời sống quá khứ, và hiện tại nó đã chín muồi. Chẳng hạn thân thể của ta
( Cao thấp, mập, ốm, thông minh, ngu đần, hạnh phúc hay bất hạnh v.v... ) ngày
nay là do cái nghiệp đã gieo từ trong vô thuỷ., các nghiệp quả ( y báo và chánh
báo) cuả thân này là quả dị thục của các nghiệp nhân từ vô thuỷ. Ngoài thân này
không hề có một nghiệp riêng lẽ, cũ xưa nào khác.
b) Nghiệp
mới : Nếu như thân thể này là nghiệp cũ thì mọi tạo tác đang làm và sẽ làm
của chính thân thể này là nghiệp mới. Ví dụ sự thành đạt của ta ngày hôm nay là
do cái tạo tác trước đó, và sự thành đạt của ngày mai như thế nào sẽ tuỳ thuộc
vào tư duy và hành động của ngày hôm nay. Kinh tương ưng IV Phật dạy “ Mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, và ý là nghiệp cũ. Các hành động của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý
trong hiện tại là nghiệp mới”
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã chỉ rõ cái
nghiệp cũ và mới của con người
“ Sư rằng phúc
hoạ đạo trời
Cội nguồn cũng ở lòng
người mà ra
Có trời mà cũng
có ta
Tu là cội phúc, tình
là dây oan”
Hoạ và phúc( thiện và ác ) là đạo trời,
nhưng cái đạo ấy cội nguồn của nó chính ở tại lòng người ( tâm, ý) mà sinh ra.
Và trời ở đây là nghiệp cũ, còn ta chính là nghiệp mới.
4) - Phân loại 4 (
Theo tính chất)
Như đã trình bày nghiệp báo là sự chín muồi
( quả dị thục) của các nghiệp thuộc về bất thiện. Do đó, khi nói đến nghiệp
báo( nghiệp quả) là nói đến tiến trình nhân quả của nghiệp. Theo giáo lý về
nghiệp, một nhân không thể tạo thành một quả, mà phải có các duyên phụ trợ. Cho
nên, nói đủ phải nói là nhân- duyên- quả. Duyên là các nhân phụ làm cho các
nhân chính thành quả như nước, phân, đất, sự cần mẫn chăm bón của con người (
là các duyên) làm cho hạt giống thành tựu nảy nở. Vì thế, khi tìm hiểu về quả
dị thục ( sự chín muồi) của nghiệp ta phải tìm hiểu về ba đặc tính sau:
a) Dị
thời nhi thục : Thời gian chín muồi của nghiệp quả khác với thời gian tạo
nghiệp( nghiệp nhân). Ví dụ : như trái xoài, thời điểm khi sinh ra cho tới khi
chín muồi là khác nhau( khác thời mà chín)
b) Dị
loại nhi thục: Kết quả bị biến chất ( dị loại) so với thời gian mới tạo
nghiệp. Ví dụ trái xoài khi nhỏ thì chua, nhưng khi chín thì ngọt( biến chất
rồi mới chín)
c) Biến
dị nhi thục: Kết quả bị biến thái và biến tướng (biến dị ) so với thời gian
mới tạo nghiệp. Ví dụ trái xoài non thì
màu xanh, đến khi chín thì màu vàng.
5. Phân loại 5 : (Theo năng lực)
Năng lực của nghiệp được hình thành theo từng
loại nghiệp khác nhau trong một tiến tình tâm lý rồi đưa đến sự hình thành các
đặc tính của nghiệp.
a) Tập quán nghiệp : Là nghiệp được huân tập bởi một thói quen
trong đời sống hằng ngày. Có thể đó là thói quen thuộc tâm lý, hành vi, cách
ứng xử v.v.... Ví dụ hút thuốc lá là một
tập quán nghiêp.
b)
-Tích luỹ nghiệp : Là các nghiệp
được tích luỹ dần như rót nước vào thùng, có thể xem thân của ta như là một
tích luỹ nghiệp từ vô thỉ.
c)-
Cực trọng nghiệp : Là các nghiệp
gây ấn tượng xấu ác cực mạnh vào sâu trong tâm lý của con người như phạm các
tội ngũ nghịch( giết cha, mẹ v.v..)
d) -Cận
tử nghiệp: Là nghiệp lúc sắp
chết hay là sức mạnh tâm lý của con người trước lúc tắt thở. Nghiệp này cực kỳ
hệ trọng trong việc hướng dẫn nghiệp thức đi tái sanh. Những tư tưởng cuối cùng
của người sắp chết sẽ tạo nên một cận tử nghiệp( thiện hoặc bất thiện). Một
người suốt đời có thể làm ác, nhưng trước lúc tắt thở nổ lực sinh khởi ý thức
về thiện pháp, về những điều thiện trong đời. Và nhờ ý lực đó, có thể tái sanh
về cõi tốt đẹp. ( Tương tự như vậy đối với trường hợp ngược lại). Từ đó, qua những
kinh nghiệm cận tử, chúng ta cần huân tập các thiện nghiệp trong đời sống của
mình để tạo thành một sức mạnh( ý lực) đoạn trừ các ác nghiệp ngay trong đời sống hằng ngày và cả đến giờ phút
lâm chung.
6.
MỘT SỐ DANH TỪ VỀ NGHIỆP MÀ TA
CẦN BIẾT
-
Bạch nghiệp ( Nghiệp trắng ) : Các nghiệp thiện
-
Hắc nghiệp ( Nghiệp đen) : Các nghiệp ác
-
Phi hắc phi bạch nghiệp: Các hành
động duy tác( Không thiện không ác)
-
Biệt nghiệp : Nghiệp riêng của mỗi
người
-
Cộng nghiệp : Nghiệp chung của tập
thể
-
Thành nghiệp: Nghiệp đưa đến kết quả
-
Duy tác nghiệp: Nghiệp không có sanh y(
không có quả)
-
Chướng nghiệp: Nghiệp cản trở sự kết
thành của quả
- Đoạn nghiệp : Nghiệp tiêu diệt các năng lực sanh nghiệp
IV - THÁI ĐỘ
TÂM LÝ TIẾP
THỌ NGHIỆP
Đây là một vấn đề vô cùng quan trọng
trong giáo lý nghiệp báo. Vì mỗi người
đều có các nghiệp riêng do vô minh, ái thủ đã tạo nên. Do đó, đương nhiên phải
đối diện với quả báo của mình. Sự trốn tránh
nghiệp lực là điều vô ích. Cụ Nguyễn Du, trong Truyện Kiều, đã nói rằng :
“ Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần
trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”
Vì thế, vấn đề quan trọng được đặt ra
đối với người đang trên đường tu tập không phải là nghiệp báo mà chính là thái
độ tâm lý tiếp thọ nghiệp. Kinh Nipata, Đức Phật dạy rằng : “ Người đã tiêu
diệt ảo kiến, phá tan lớp tối tăm dày đặc trong tâm sẽ không còn thênh thang đi
mãi”. Đối với người ấy, vấn đề nhân quả( nghiệp báo) không còn nữa.
Đoạn kinh trên cho ta thấy rằng tâm lý
của người giải thoát sẽ hoá giải mọi
nghiệp lực của chính họ. Như một nhà sư vô cớ bị tù, ở trong tù mà lòng thì vô
cùng bình an, không hề dao động nghĩa là nhà sư ấy không còn bị nghiệp lực chi
phối nữa. Chẳng hạn, cùng một hành động xảy ra đối với hai người, nhưng thái độ
thọ nhận hành động( nghiệp ấy của hai
người thì hoàn toàn khác nhau như trường hợp “ Nhà giàu đứt tay, bằng ăn mày đổ
ruột”. Do đó, đối với nghiệp, thái độ tâm lý của người tiếp thọ thì quan trọng
hơn là chính cái nghiệp ấy. Ngài Huyền
Giác, trong Chứng đạo ca, bảo rằng “ Sát na diệt khước A tỳ nghiệp”. Có nghĩa
là khi đã giác ngộ thì mọi nghiệp chướng( nặng như A tỳ) trong tích tắc cũng
đều băng tiêu. Vì lý do này, nên trong kinh thường nói đến thọ nghiệp (chịu đựng nghiệp ) và phi thọ
nghiệp ( không bị chi phối bởi nghiệp)
KẾT LUẬN :
Đức Phật dạy rằng: “ Không ai làm cho ta nhiễm ô, cũng không ai làm cho
ta trong sạch, trong sạch hay nhiễm ô là tự nơi ta, chỉ có ta làm cho ta trong sạch. Lời dạy trên đã mở ra cho
con người một hướng đi rất chủ động
trong việc tạo nên một đời sống an lạc giải thoát ngay tại cuộc đời này.
*** *** ***
CÁC QUẢ
BÁO GỒM CÓ :
1. Hiện báo : Quả báo trong kiếp hiện tại.
2. Sanh báo: Gây nhân kiếp này đời sau mới trả quả.
3. Hậu báo: Gây nhân đời này đến 3,4,100,1000 hay vô
lượng kiếp sau mới trả, hậu báo có tính cách lâu hơn.
4. Định báo: Quả báo nhất định phải chịu không thể chuyển
đổi được.
5. Bất định báo: Nghiệp báo có thể
chuyển biến sửa đổi được.
6. Cộng báo: Quả báo chung. Bà Tỳ Xá Ly có 32 người con bị vua Ba Tự Nặc
giết lầm. Bởi kiếp trước ông làm thân trâu, 32 người kia làm kẻ trộm do nhân
quả nên phải trả và cùng chung số phận.
7. Biệt báo: Còn gọi bất cộng báo, là
quả báo riêng của mỗi cá nhân trong loài người và loài vật.
8. Cận tử báo: Quả báo lúc sắp chết.
Những người sắp chết những nghiệp thiện hay ác từ kiếp này hay kiếp trước dồn
lại ảnh hưởng mạnh mẽ hơn lúc thường.
9. Thục vị thục báo: Trạng thái của
nghiệp báo chưa thuần thục và đã thuần thục. Như người mắc nợ, mối nào mạnh thì
nó lôi trước.
10. Chuyển báo: Là biến trạng khổ vui do
sức tu thiện hay làm ác của đương người. Biến trạng này là sự dồn dập để chuyển
đổi những quả báo sắp đến. Ông Ngô Mao bị giặc đâm 7 thương, ông tĩnh dậy nói:
“ đời trước làm ác đáng lẽ đầu thai làm heo bảy kiếp nhưng nhờ ăn chay niệm
Phật nên chỉ chịu bảy thương”.
11. Thế gian báo: Là quả báo khổ vui
trong ba cõi dục-sắc- vô sắc.
12. Xuất thế gian báo: Là quả báo của tứ
thánh quả , báo này do tu lìa ngã chấp mà được.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét