TÌM HIỂU VỀ NHÂN QUẢ TRONG ĐẠO PHẬT
Nhân quả là chủ đề
trung tâm của Phật pháp. Thế nhưng những người theo chủ nghĩa duy vật, khi tìm
hiểu về tính nhân quả trong Phật giáo họ thường nhắm đến các hoạt động thực tiễn
của vũ trụ nhân sinh, bằng sự quan sát, phân tích, đánh giá thông qua các giác
quan, mà bỏ qua yếu tố vận hành về nhân
quả trong hoạt động tâm lý. Hoặc những
tín đồ Phật giáo khi triển khai nhân quả thì thường dẫn dụng những câu chuyện
huyền bí chưa được kiểm chứng hoặc thiếu sức thuyết phục. Điều này sẽ dẫn đến hệ
quả, khiến cho những người nghe nói đến nhân quả ngay lập tức thính chúng gán
cho Phật giáo là mê tín, dị đoan, rồi cho rằng thuyết nhân quả là thuyết mê tín
dị đoan của Phật giáo. Đây là điều sai lầm mà người thiếu hiểu biết về nhân quả
thường hay mắc phải.
Phật giáo hoàn toàn
không phải là tôn giáo mang màu sắc mê tín, cũng không dẫn dắt con người đi con
đường tà dị đoan, cho nên nhân quả mà Phật giáo nói đến không thể xem như một học
thuyết mê tín, mà phải nhìn nhận nhân quả như một quy luật khách quan mang tính
khoa học.
Đức Phật vì muốn khai
mở tri kiến cho chúng sanh để thoát khổ được vui nên ngài mới xuất hiện ở đời.
Đức Phật thấy rõ cảnh đời đầy đau khổ, nên quyết chí từ bỏ ngai vàng điện ngọc,
vợ đẹp con ngoan, xã tắc, địa vị cao sang, để dấn thân trên con đường tìm đạo,
học đạo và tu tập. Sau khi giác ngộ ngài trải qua 49 năm thuyết pháp các vùng
trong Ấn Độ. Đức Phật không phải là thành phần nghèo khổ để đi tìm con đường
vinh hoa phú quý, không vì danh thơm lợi dưỡng, để thu nhận tín đồ càng đông
càng tốt, để khuếch trương danh thơm của mình. Phật là bậc khai sáng chủ trương
thuyết “vô ngã” đặt nặng mục đích “ lợi tha” vì an lạc cho số đông, vì lợi ích
cho chư thiên và loài người. Thì chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng những lời
thuyết giáo của ngài không vì mục đích tư lợi.
Trong kinh Kim Cương đã khẳng định: “ Này Tu Bồ
Đề !
Như Lai là bậc nói lời chân
chính, nói lời thành thực, bậc nói lời như thực, bậc không nói lời tráo trở, bậc
không nói lời sai khác”.
Mê tín là niềm tin mù
quáng không xác thực, không được kiểm định bởi lý trí, người mê tín có thái độ nhắm mắt tin theo một chủ thuyết
vô căn cứ, thường mang tính tiêu cực. Mê tín còn biểu hiện ở tâm lý sợ hãi thần
linh hoặc năng lực vô hình nào đó, rồi dẫn đến hình thức lễ lạy cầu xin ban ơn
giáng họa. Không tự nỗ lực hành động vì lợi ích cho chính mình và người khác.
Phật pháp không rao giảng
bất kỳ một đấng tạo hóa hoặc vô hình nào có khả năng chi phối toàn bộ sự vật hiện tượng trên thế gian nầy, trong đó có con
người. Đức Phật không dạy tín đồ nhắm mắt tin theo lời dạy của ngài một cách vô
điều kiện, mà khuyên mọi người hãy thẩm định và kiểm chứng cẩn thận trước khi
tin bất cứ một điều gì kể cả lời Phật dạy. Tăng chi bộ kinh Đại phẩm ghi : “
Này Bạt đề ! các ngươi chớ có tin lời đồn đoán, chớ có tin lời truyền tụng, chớ
có tin lời tưởng tượng ra, chớ có tin những lời được kinh tụng truyền dạy, chớ
có tin những gì đặt trên sự tác ý, chớ có tin những gì đặt trên các lý do, chớ
có tin những gì vì đánh giá hời hợt các dữ kiện, chớ có tin những gì phù hợp với
định kiến, chớ có tin những gì phát xuất từ người có uy quyền, chớ có tin vị sa
môn này là bậc thầy của mình. Này Bạt đề, khi nào các người tự biết rằng các
pháp này là bất thiện, pháp này là có tội, pháp này bị người trí chê trách, nếu
tự mình thực hiện và chấp nhận viên mãn pháp này, thì sẽ đưa đến vô ích khổ
não. Khi nào các người tự biết rằng các pháp này là thiện, pháp này là không có
tội, pháp này được người trí khen ngợi, pháp này nếu tự mình thực hành và chấp
nhận viên mãn, thì sẽ được an lạc và lợi ích. Này Bạt đề, các ngươi hãy vâng giữ đầy đủ và an trú .”
Đức Phật khuyên các đệ
tử mình hãy thẩm xét cẩn thận khi học hỏi, không nên vội vàng tin nhận bất cứ
điều gì chưa kinh qua sự thẩm định, ngay cả lời nói của bậc đạo sư. Về niềm tin
đức Phật không bao giờ ép buộc học trò tin vào những lời ngài thuyết giảng, mà
trước khi tin điều gì đó thì phải thẩm định xem điều đó có thật là pháp thiện
hay không, có được người trí khen ngợi hay không, có lợi ích cho mình và người
trong hiện tại và tương lai hay không. Tư tưởng tự do của đức Phật cũng như các
đệ tử của ngài mà chúng ta hiếm thấy trong các tôn giáo khác có mặt trên toàn cầu,
vì vậy phật giáo nói về thuyết nhân quả không rơi vào con đường mê tín và duy
tín.
Nhân quả là định luật
khách quan và phổ biến, nó chi phối tất cả mọi sự vật hiện tượng từ thế giới vật
lý đến thế giới tâm lý. Mọi người ai cũng hiểu nhân quả theo chiều hướng “ ác
giả ác báo, ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão ”, về phương diện nào đó, lộ
trình vận hành từ nhân đến quả như vậy không sai, nhưng cách hiểu ấy chưa đầy đủ
và thấu đáo, nên dễ dẫn đến sự ngờ vực về nhân quả khi thấy cuộc sống biểu hiện
muôn hình vạn trạng theo chiều hướng riêng của nó, mà nhãn quan hạn hẹp của con
người chưa hiểu thấu. Khi nhìn thấy những kẻ xấu ác vẫn dương dương tự đắc, còn
những người hiền thiện lại gặp trắc trở khó khăn, thì chúng ta sinh tâm nghi ngờ.
Từ việc nghi ngờ nhân quả, con người dễ đánh mất niềm tin vào điều tốt đẹp và
hành động theo bản năng để thỏa mãn tự dục của mình. Trong thế giới nhiễu
nhương ngày nay để làm người tử tế, và chân thật là điều vô cùng khó khăn.
Thực tế câu chuyện
nhân quả không chỉ dừng lại ở trong một đời người mà nó còn liên hệ đến ba đời,
quá khứ, hiện tại và tương lai. Hơn nữa, quy luật nhân quả không chỉ ảnh hưởng
đến một cá nhân nào đó trước mắt mà nó
còn có liên hệ chằng chịt đến vạn vật trong vũ trụ và cộng hưởng bởi nghiệp thức
chung của toàn nhân loại. Nhân quả là quy luật tự nhiên và chi phối toàn bộ thế
giới này không ai có thể thoát khỏi nhân quả. Làm việc tốt chắc chắn sẽ được
báo đáp xứng đáng, gây điều xấu ắt sẽ lãnh chịu quả báo khổ đau, vấn đề quan trọng
là nằm ở yếu tố thời gian mà thôi. Tin vào nhân quả và áp dụng nhân quả vào đời
sống thực tiễn thường ngày chúng ta tránh được những rủi ro làm tổn hại thân
tâm, hiểu rõ nhân quả để tạo dựng cuộc sống tốt đẹp cho mình và cộng đồng xã hội.
Nhân quả là định luật tất yếu trong sự hình thành nhân
sinh quan và vũ trụ quan của con người. Qua đó, nhân quả được coi như là một
quy luật căn bản cần và đủ để xây dựng nên một xã hội nhân bản và đạo đức. Nhân quả không chỉ có mặt trong Phật giáo, mà
trước và trong thời kỳ đức Phật còn tại thế, các luân sư ngoại đạo tại Ấn Độ
cũng đã lập thành các luận thuyết chủ trương về nhân quả, nhưng mỗi học thuyết
có cách lập luận và giải thích khác nhau.
Nhân quả tức nguyên
nhân và kết quả. Luật nhân quả là một thể giáo cơ bản của Phật giáo. Phật giáo
dùng quy luật nhân quả làm cơ sở lý luận cho tất cả mối quan hệ của thế giới và
nhân sinh. Bởi sự hình thành của tất cả các sự vật hiện tượng trong vũ trụ này
thì nhân là “năng nhân” quả là “ sở sinh”. Nghĩa là, cái nào có khả năng dẫn sinh ra kết quả, thì cái đó là nhân, và
cái nào được sinh ra từ nhân thì cái đó chính là quả. Nhân quả được nhìn nhận
như vậy là nhắm vào yếu tố mang tính chất thời gian.
Thế giới hiện tượng từ tâm lý đến vật lý luôn
chuyển biến liên tục theo quy luật nhân quả. Quả là kết quả của nhân sinh ra,
nhưng đồng thời nó cũng làm nhân để sinh ra kết quả khác. Như mưa là kết quả ,
mây là nguyên nhân, mây là kết quả, hơi nước tích tụ là nguyên nhân. Mỗi một hiện
tượng vừa là kết quả vừa là nguyên nhân. Mỗi hiện hữu đều có một nguyên nhân
chính (trực tiếp) và các nguyên nhân phụ (duyên), nguyên nhân phụ là điều kiện
trợ giúp cho nguyên nhân chính để tạo ra kết quả, cho nên nhân quả nói cho đủ
là nhân-duyên-quả.
Nhân-duyên-quả cho
chúng ta biết quá trình vận hành của sự vật từ nhân đến quả cần phải có sự kết
hợp các yếu tố khác. Như hạt giống muốn nẩy mầm, cần phải thu hút, đất, nước,
hơi ấm, không khí. Quá trình thu nhận phải diễn ra liên tục, nếu gián đoạn,
công năng của hạt giống sẽ mất tác dụng hoặc có thể bị tiêu hủy. Người ta gieo
giống ổi ruột màu trắng, nhưng nếu muốn có quả ổi ruột màu đỏ thì phải can thiệp
và quá trình thay đổi công năng của hạt giống bằng phương pháp biến đổi gene,
hay còn gọi là cải tạo di truyền. Như vậy, có nghĩa là gieo nhân này nhưng lại
được quả khác, vì thế nói gieo nhân gì được quả đó, chỉ đúng trong điều kiện giới
hạn của tư duy thường thức và mang tính xác suất, chứ không phải là nghĩa căn bản
của từ nghiệp được hiểu trong kinh điển Phật giáo. Mặc dù vậy đa số các phật tử
đều định nghĩa nhân quả theo ý hướng “ trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu
”. Gạo có thể nấu thành cơm, nhưng gạo cứ để trong bao mãi mãi thì không thể
thành cơm được, vả lại khi nấu người ta có thể can thiệp các yếu tố khác như nước
ít hay nhiều, nhiệt độ cao hay thấp, thời gian mau hay lâu, mà có thể thành cơm
hay thành cháo hoặc một thứ gì khác, không phải cơm không phải cháo. Như vậy gạo
được nấu lên sẽ thành cơm là một tiên đoán nhưng thành tựu với tính xác xuất,
nên không chính xác tuyệt đối. Quá trình tạo nhân để cho ra kết quả theo nhận định
“nhân nào quả nấy” cũng vậy, nó diễn ra trong thế giới vật lý mang tính cơ giới
chúng ta dễ nhận thấy, còn thế giới tâm lý thì phức tạp hơn nhiều.
Nhân quả là một quy luật
phổ biến, mọi sự hiện tượng tồn tại trong vũ trụ đều có mối quan hệ nhân quả giữa
chúng. Không có mối quan hệ nhân quả thì mọi sự vật không thể tồn tại và chúng
ta không thể nhận thức được gì về thế giới xung quanh. Đối với những ai được hấp
thụ bởi tri thức khoa học, cho dù người đó không tin bất cứ điều gì mang yếu tố
tâm linh, và luôn giữ thái độ hoài nghi khi tiếp cận cái mới, thậm chí khi gặp
bất cứ điều gì cũng cẩn thận tìm ra luận cứ để chứng minh rồi mới tin nhận, thì
họ cũng không thể không tin nhân quả. Vì đây là một định luật khách quan không
ai chối cải, chủ nghĩa duy vật biện chứng Mac –Lênin cũng thừa nhận mối quan hệ nhân quả mang tính khách quan và
phổ biến : “ Mọi sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên và trong xã hội có nguyên nhân nhất định gây ra, không có hiện tượng
nào không có nguyên nhân, chỉ có điều là nguyên nhân đó đã được nhận thức hay
chưa mà thôi ”.
Phật pháp khẳng định mối
quan hệ nhân quả thường dùng thành ngữ “ như bóng theo hình , như vang theo tiếng,
gieo gió gặt bão, ác giả ác báo” để ngầm chỉ mối quan hệ nhân quả. Hơn nữa, đức
Phật triển khai lý nhân quả cho chúng ta thấy trong các kinh điển rất thực tế
và cực kỳ thâm viễn, chứ không dùng các hiện tượng cát hung, họa phước để hiển
bày. Nếu chỉ nhắm đến phương diện họa phước hiện thấy trong cuộc sống thường nhật
để hiển bày nhân quả thì sẽ dễ khiến người ta lạc vào lộ trình của thuyết định
mệnh, về sau, do phương tiện dẫn dắt chúng sanh phát huy điều thiện và giúp con
người biết được tác hại của cái xấu, cái ác nên các vị Tổ sư Phật giáo thường dẫn
dụng một số gương nhân quả họa phước trong cuộc sống thực tế để mọi người thấy
ích lợi của điều thiện mà cố gắng vun bồi, biết sợ tai hại điều xấu ác mà ngăn
ngừa họa xa lánh. Phương tiện quyền xảo này chúng ta nên lưu ý. Người đời phần
nhiều dựa vào sự được mất, hơn thua nhất thời mà nghi ngờ nhân quả không có thật,
phủ nhận thiện ác, hoài nghi kiếp trước kiếp sau. Đây là tầm nhìn hạn hẹp, xuất
phát từ vô minh, chấp thủ. Phật giáo tuyệt nhiên không chấp nhận quan điểm mang
tính đoạn kiến này. Thực tế nhân quả tuân theo quy luật nhất định của nó, không
thể vận dụng năng lực ngoại tại nào đó để thay đổi đươc quy luật này. Giả định
có thể dùng khả năng ngoại tại để thay đổi nhân quả thì nguyên lý nhân quả sẽ mất
đi cơ sở của nó, lúc đó không còn gọi là nhân quả nữa.
Hầu hết các tôn giáo
Đông-Tây đều tin rằng vũ trụ mênh mông này có một đấng chủ tể vạn năng chi phối
tất cả, cho dù mỗi tôn giáo gọi đối tượng ấy bằng các tên Thượng đế, Chân đế,
Phạm thiên hay Đại phạm thiên v.v...có
thể có một số mô tả khác nhau nhưng đều thừa nhận đối tượng ấy là đấng chủ tể
sáng tạo vạn vật mang tính toàn tri toàn năng. Ngược lại Phật giáo không thừa
nhận bất kỳ đấng chủ tể nào, vì điều đó không bao giờ có thật. Đây là điểm khác
nhau cơ bản giữa Phật giáo và các tôn giáo khác, và cũng là vấn đề mấu chót khiến
Phật giáo vượt hẳn các tôn giáo khác về quan điểm và hành động. Những người
theo thần giáo không biết đấng vạn năng hay thần linh là sản phẩm do con người
nặn ra, nên khi nhìn thấy Phật giáo không tin có đấng vạn năng thì họ cho rằng
đây là chỗ khiếm khuyết lớn nhất của Phật giáo. Thật đáng thương cho nhận thức
sai lầm như vậy.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét