PHẦN 2: LUẬT NHÂN QUẢ
NHÂN QUẢ LUÂN HỒI
1-
Mở đề: Có một số người bảo: “Nhà
Phật nói luân hồi nhân quả để ru ngủ con người trong giấc mơ mê tín”. Chúng ta
khảo sát câu nói đó có đúng như thế không? Là người Phật tử chúng ta cần phải
làm sáng tỏ vấn đề này. Bởi thuyết luân hồi là một thuyết quan trọng trong các
giáo lý nhà Phật. Đạo Phật là đạo giác ngộ, truyền bá những lẽ thực của mình
giác ngộ được cho chúng sanh biết là nhiệm vụ của Đức Phật. Chúng ta là những
người nối bước theo sau Phật, cần phải hiểu rõ, nghiên cứu tường tận và có
trách nhiệm giải bày cho mọi người được hiểu, khỏi sanh nghi ngờ là điều cần yếu
không thể thiếu được. Lý luân hồi là một cơ cấu hệ trọng trong Phật pháp, bao gồm
cả Nhơn quả - Nghiệp báo, là căn bản đạo đức
của người tu Phật. Không thông lý luân hồi, người tu Phật khó bề tu tiến
được, do đó chúng ta cần phải tìm hiểu thấu đáo.
Mỗi
tôn giáo đều có một giáo lý riêng, để giải thích sự sống, giáo lý ấy có khi
hoàn toàn dựa trên đức tin thuần tuý, có khi dựa trên sự tưởng tượng hoang đường,
có khi dựa trên lòng mơ ước tha thiết của loài người.
Riêng
về đạo Phật, giáo lý về sự sống đặt căn bản trên lý trí và thực nghiệm, giáo lý
ấy mệnh danh là NHÂN QUẢ- LUÂN HỒI.
Luật
nhân quả không xa lạ gì đối với những ai có một chút nhận xét và suy luận, luật
nhân quả lại rất gần gũi với khoa học. Nhờ
tin chắc ở luật nhân quả mà nhà khoa học khám phá ra rất nhiều điều huyền
bí của vũ trụ và phát minh được những cái kỳ lạ cho cõi đời. Dựa trên luật nhân
quả mà các nhà khoa học, bác học làm cho nhân loại từ cuộc sống thô sơ, cơ cực
đưa đến cuộc sống sung túc tiện nghi. Dựa trên luật nhân quả mà các nhà y học
tìm ra những phương pháp trị bệnh cho nhân loại mau hồi phục một cách hữu hiệu.
Nhưng những nhà khoa học, bác học, y học chỉ áp dụng luật nhân quả trong phạm
vi vật chất. Đức Phật đi xã hơn chứng minh luật nhân quả cả trong phạm vi tinh
thần.
Các nhà khoa học chỉ
áp dụng luật nhân quả trong một thời gian nhất định. Đức Phật đi xa hơn nữa đã
chứng minh luật nhân quả trong suốt thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai.
Luật nhân quả chứng minh thời gian vô hạn định và trong phạm vi tinh thần ấy, Đức
Phật gọi bằng một cái tên riêng là “luân hồi”. Nói một cách khác luân hồi là
nhân quả liên tục trong phạm vi tinh thần. Đã tin nhân quả tất nhiên không thể
phủ nhận luân hồi. Vì thế, ngày nay trên thế giới, không phải chỉ có tín đồ Phật
giáo mới tin lý nhân quả luân hồi, mà các nhà thông thái Âu Mỹ cũng lãnh nạp
giáo lý ấy. Trong các báo chí và sách vở ở khắp năm châu vấn đề nhân quả luân hồi
đã được đem ra nghiên cứu một cách đúng đắn và chân thành.
2- ĐỊNH NGHĨA: Luân hồi
là xoay vần, cứ mãi đảo lên lộn xuống xoay vần trong khuôn khổ cố định. Mọi sự
đổi thay biến chuyển không đứng yên ở một vị trí nào. Hằng xê dịch biến thiên từ
trạng thái này sang trạng thái khác, từ
hình tướng này sang hình tướng khác. Tất cả sự biến thiên đều tuỳ duyên thăng
trầm không nhất định là luân hồi.
Nhân
quả: Nhân là nguyên nhân, quả là kết
quả. Nhân là hạt giống, quả là trái. Như
vậy có gieo giống thì có quả sau này, gọi là nhân quả.
-
Luân hồi là sự thật, qua định nghĩa trên ta thấy luân hồi là một triết lý thực
tiễn không còn gì phải nghi ngờ. Bởi vì con người và vũ trụ hiện tại đều nằm
chung trong một định luật biến thiên.
a) Quả đất luân hồi: Nhờ khoa học
phát minh cho chúng ta biết quả địa cầu chúng ta đang ở xoay quanh một cái trục
trong không gian. Do sự xoay tròn này, phía nào của quả đất hướng về mặt trời
thì sáng, phía bị khuất thì tối. Từ đó con người mới đặt ra thời gian. Sự xoay
tròn này là một sự luân chuyển, hay gọi là luân hổi. Quả đất xoay khiến cho có
ngày đêm và 24 tiếng đồng hồ nhịp nhàng theo chiều quay của trái đất, lại có chia xuân, hạ, thu, đông
do sự xê dịch gần xa mặt trời. Từ sự
xoay tròn của trái đất, nảy sinh ra thời gian. Thời gian và trái đất luân hồi ,
quả đất là chỗ tựa nương để sống còn của vạn vật và con người, bản thân nó đã
luân hồi thì những vật tựa nương vào nó làm sao tránh khỏi luân hồi. Thế thì cả
vũ trụ lẫn vạn vật cùng toàn thể chúng sanh đều là luân hồi. Đó là một sự căn cứ
trên khoa học chứ không phải chuyện huyền
thoại mơ hồ.
b) Vạn vật luân hồi : Mọi vật trên
quả địa cầu đều cùng chung luân hồi. Về sinh vật từ cái cây, ngọn cỏ đều do hạt
nẩy mầm tăng trưởng thành cây, ra trái rồi sinh hạt, đảo đi lộn lại mãi không
cùng. Các loài động vật thì từ trứng nở thành con, con lại sanh trứng hoặc từ
bào thai thành hình. Khi trưởng thành lại có bào thai, lẫn quẫn lanh quanh
không cùng. Đó là sự luân hồi trong sự tiếp nối. Đến ngay bản thân sự vật cũng
bị luân hồi. Chúng sanh trưởng thành là do đất, nước, gió, lửa. Khi tan hoại
cũng trở về đất, nước, gió, lửa. Tụ lại tan ra theo duyên biến chuyển không
cùng. Bản thân đất, nước, gió, lửa vẫn bị luân hồi. Như khi ta múc một thau nước
để ngoài trời nắng từ mai đến chiều thau nước ấy cạn dần. Như vậy nước đi đâu?
Nước không đi đâu, nước cũng chẳng mất, chẳng qua nước là thể lỏng do nắng nóng
bốc lên thành thể hơi, hơi theo gió bàng
bạc trong hư không, nào có định xứ. Thể hơi gặp lạnh, đông lại rơi xuống thành
nước. Nước bốc lại thành hơi, cứ thế mãi luân hồi không cùng. Cho đến gió, lửa,
đất cũng thế, tuỳ duyên từ hình thái này
đổi sang hình thái khác, thay đổi, đổi thay không có ngày cùng. Tìm chỗ bắt đầu
và chung cục của chúng không thể dược. Hình tướng trạng thái, luôn luôn đổi
thay, sự thật vẫn không bao giờ mất, từ một hình tướng thô đổi thành một trạng
thái tế, với cái nhìn thô thiển người ta bảo là mất, thực sự nào có mất, chỉ là
biến thái.
c) Con người luân hồi: Nói đến con
người tạm chia làm hai phần, vật chất và tinh thần, như bóng đèn và điện,- ngọn
đèn phát huy được ánh sáng phải có đủ hai điều kiện hỗ tương nhau, có bóng đèn
mà không có điện trở thành vô ích, có điện mà không có bóng đèn cũng vô nghĩa.
Sự hỗ tương giữa điện và bóng đèn không thể tách rời, không thể đặt giá trị
thiên trọng, không thể xem như chủ khách, cần phải thấy sự tương quan bất khả
phân ly. Tinh thần và vật chất của con người cũng thế, mọi sự phân chia khinh
trọng đều sai ý nghĩa chơn thật của nó. Vì muốn thấy sự luân hồi tường tận,
chúng ta tạm nhìn con người ở hai mặt để nhận xét.
d-Vật chất luân hồi: Phần
vật chất nơi con người nhà Phật chia tổng quát bốn phần : đất, nước, gió, lửa.
Những loại cứng trong thân con người như da, thịt, gân, xương, tóc, răng, móng
thuộc về đất. Các loại ướt như máu mủ, mồ hôi đàm dãi, nước miếng, nước mắt, nước
mũi thuộc về nước. Hít không khí vào cho phổi hô hấp, quả tim đập, các mạch máu chảy mọi thứ động
thuộc về gió. Nhiệt độ con người làm cho thức ăn tiêu hoá, máu không đông đặc, ấm
áp toàn thân thuộc về lửa- bốn thứ này thiếu một là con người chết ngay- đây
chúng ta phân tích sự luân hồi từng thứ.
e- Đất luân hồi: Thâu nhận tế bào mới, đào thải tế bào cũ,
thay mới đổi cũ, không lúc nào dừng, ấy là luân hồi, cho đến thân này sống nhờ
ăn những thức ăn có chất bột( đất ) khi chết nó tan hoại trở thành đất. Khi sống
mượn những chất đất bồi dưỡng, lúc chết trả lại cho đất. Hợp lại tan ra, tan ra
hợp lại, đó là một sự luân hồi.
g- Nước luân hồi: Máu từ quả tim chảy khắp các mạch rồi chảy trở
về quả tim, chảy ra trở về, trở về chảy ra, sự tuần hoàn như thế gọi là luân hồi.
Cho đến khi sống mượn nước để bồi bổ chất ướt trong thân, lúc chết chảy ra trở
về lòng đất. Sự mượn trả mà không bao giờ mất ấy là luân hồi.
h- Lửa luân hồi: Do những thức ăn
có chất nóng nuôi dưỡng phần lửa trong thân. Lửa dùng sưởi ấm toàn thân, thiêu
đốt vật thực, lại do vật thực bồi bổ chất lửa, cứ tiêu dùng bồi bổ, bồi bổ tiêu
dùng, đảo đi lộn lại là luân hồi. Khi tiêu dùng mà không bồi bổ kịp, lửa từ từ
tắt con người chết. Lửa ấy trở về với thiên nhiên, tuỳ duyên chuyển biến trong không gian mà chưa
bao giờ mất là luân hồi.
y- Gió luân hồi : Hít không khí vô,
thở ra không khí, hít vô thở ra cả đời như vậy gọi là luân hồi. Nhờ cái động của
thở hít không khí mà các cơ quan trong toàn thân hoạt động, các cơ quan hoạt động
là thân sống. Đến khi thở không khí ra mà không hít lại, liền ngưng hoạt động tức
là thân chết. Thế nên sự sống của thân này đích thực do luân hồi của gió, gió
ngừng luân hồi thì thân phải hoại diệt.
Tóm lại: Tứ đại tụ họp quân bình nhau, là
con người khoẻ mạnh, nếu thiếu quân bình thì ốm đau, phân tán thì tử vong.
Trong khi tứ đại tụ họp, trong thân này luôn luôn biến chuyển tuần hoàn, không
được ngăn trệ ứ đọng. Vừa bị ngăn trệ ứ đọng là thân này nguy ngập. Sự biến
chuyển tuần hoàn của tứ đại, trong thân con người gọi chung là vật chất luân
hồi, sở dĩ nó luân hồi vì biến chuyển mà không mất hẳn.
k- Tinh thần luân hồi
: ( Tâm sở luân hồi) Phần tinh thần của chúng ta luôn luôn thay đổi bất thường,
không bao giờ đứng yên một vị trí, những thứ buồn vui thương ghét, yêu giận
lành dữ, phải quấy ... Thường thay mặt đổi mày, như trên sân khấu, có khi chúng
ta hiền lành như Phật, có lúc giận dữ như cọp đói. Nhiều lúc vui vẻ yêu thương,
lắm lúc bực bội thù ( nghịch ) địch, những tâm trạng đổi thay không lường được,
chính tự thân chúng ta cũng không ước đoán nổi tâm trạng của mình xảy ra những cái gì. Sự buồn vui thương ghét,
đổi thay thăng giáng nơi nội tâm của chúng ta gọi là luân hồi.
Nói chung, nơi con người chúng ta có hai
phần vật chất và tinh thần đều là tướng trạng luân hồi. Sự luân hồi của chúng
ta là sự hoạt động sống của chúng ta. Biết rõ vật chất tinh thần chỉ đổi thay
hình tướng trạng thái, chứ không một vật nào mất. Nếu thấy mất chẳng qua do cái
nhìn nông cạn mà kết luận.
Thực thể quả nó là “ biến thiên mà bất diệt”.
Thấy chỗ tận cùng ấy, mới khỏi nghi ngờ. Về lý luân hồi, sự luân hồi ngay trong
thân hiện tại này là hiện tại luân hồi, sự tụ lại tan ra, tan ra tụ lại của
thân con người là luân hồi từ đời này sang đời khác.
Mọi sự tụ tán đều tuỳ duyên khiến hình tướng
trạng thái đổi khác. Ví dụ: nước do duyên nóng bốc thành hơi, gặp duyên lạnh cô
đọng thành khói. Sự biến thái này đều do duyên quyết định. Duyên quyết định do
sự luân hồi của con người là gì ? Là Nghiệp : - Nghiệp là động cơ chính yếu
trong cuộc luân hồi của con người.
Do sự chi phối của nghiệp lực, nghiệp lực
con người có thể bị đoạ lạc hay được thăng tiến, trở nên thấp hèn hay cao
thượng - sự chuyển hướng của hành động là sự chuyển hướng bản chất của con
người, thay đổi xu hướng đoạ lạc, thành xu hướng siêu việt, đưa con người từ chỗ thấp hèn đến
chỗ cao thượng.- Vì vậy quan niệm về bản chất và biểu hiện của Nghiệp trong
giáo pháp của Phật không giống như các quan điểm về triết lý hành động thế gian.
- Động cơ luân hồi: Nghiệp là hành động tự thân tâm con người tạo
thành, khi thành nghiệp rồi nó thúc đẩy dẫn dắt con người đến chỗ thành quả của
nó. Chính nó là động cơ quan yếu đẩy mãi trong vòng luân hồi không dừng của tất
cả chúng sanh - Cơ quan tạo nghiệp có ba thứ : thân , miệng và ý- nói đến nghiệp
là nói đến sự toàn quyền quyết định nơi mỗi người chúng ta không ai tạo nghiệp
thế cho chúng ta, cũng không có ai có thể thay thế nghiệp của chúng ta.- Chính
chúng ta là chủ nhân tạo nghiệp, cũng chính là chủ nhân thọ báo .- Trọng trách
của mọi khổ vui hiện tại và mai sau đều do chúng ta quyết định - Chủ trương
nghiệp là chủ trương dành lại toàn quyền cho con người, chúng ta là ông chủ
nhân của chúng ta, hiện tại và tương lai. Không phải một đấng Thượng Đế hay một
tha nhân nào khác tạo thành, một cuộc sống an vui hay đau khổ cho chúng ta, mà
do chính thân, miệng, ý của chúng ta trong quá khứ cũng như hiện tại gây nên,
chúng ta thừa nhận nghiệp do mình tạo ra, đã tước hết mọi quyền năng của đấng thiên
liêng, của định mệnh, của tướng số và cả rủi may. Nghiệp là hành động của thói
quen, nên có thể chuyển đổi, chỉ cần nổ lực và bền chí - nghiệp có Nghiệp Thiện
Nghiệp Ác.
Nghiệp ác: là những hành động làm cho con
người khổ và mình khổ, hoặc ở hiện tại hoặc ở vị lai. Hành động này do ba cơ
quan tạo nên bởi thân khẩu ý.
-Thân làm ác : Để cho thân
buông lung, thích hành động giết sinh mạng người hoặc thích trộm cướp tài sản của
người, hoặc đắm say dâm dật. Trái phép là nghiệp ác của thân vì hành động này
làm cho người khổ và mình khổ, nếu hiện tại chưa đến thì vị lai cũng chịu.
- Miệng làm ác : Miệng ưa nói
lời dối trá, lời độc ác, lời thêu dệt là nghiệp ác của miệng. Vì những lời nói
này khiến người nghi ngờ bực tức đau khổ mang tai hoạ nên hiện tại hoặc vị lai
mình cũng phải chịu lấy hậu quả đau khổ ấy.
-
Ý làm ác: Si mê tham lam nóng giận là Nghiệp ác của ý, miệng nói ác. Bản thân
nó thì chưa làm hại được ai , song do nó khiến thân sát phạt người, miệng chửi
bới nguyền rủa người. Thân , miệng mà không cộng với tham ,sân,si thì tự nó
không có lỗi lầm gì. Thế nên tuy nói ba cơ quan tạo nghiệp mà ý là cơ quan hệ
trọng hơn cả, nó là chủ động hai cơ quan kia.
Thân làm lành:
Thân không giết hại người, không cướp tài sản người, không dâm dật phi
pháp, là nghiệp thiện của thân. Tại sao
không làm ba việc ấy là thiện? Bởi vì con ngời quý báu nhất là sinh mạng, chúng
ta không hại sinh mạng họ thì họ đến với chúng ta một cách an ổn, không sợ sệt.
Thứ yếu là tài sản con người, tự thấy tài sản là huyết mạch của họ, chúng ta nhất
quyết không trộm cướp thì họ đến với chúng ta cũng như ta đến với họ đều được
an vui không hồi hộp lo âu về mất của. Hạnh phúc của gia đình là vợ chồng hoà
thuận tin yêu trinh bạch với nhau. Nếu vợ hay chồng có tình ý riêng tư với ai
là gia đình mất hạnh phúc, chúng ta giữ
gìn không theo sự dâm dật phi pháp, đến với gia đình ai họ đều an ổn vui vẻ
không nghi ngờ sợ sệt. Gìn giữ ba điều này
chúng ta đã ban sự an ổn vui tươi cho bao nhiêu người rồi, cũng chính là đem sự
an ổn vui tươi cho gia đình chúng ta.
- Miệng làm lành: Miệng không
nói dối, không nói lời ác độc, không nói ly gián, không nói thêu dệt là miệng
làm lành, vì sao? Bởi vì nói dối trá khiến người nghi ngờ mất lòng tin, đã
không tin nhau làm gì có thương mến. Thế nên nói dối là căn bản khiến con người
mất hết tình thương . Nói độc ác khiến người nghe phẫn nộ bực dọc đau buồn, nói ly gián làm cho thân thuộc họ phải chia
lìa tạo thành cái khổ ái biệt ly. Nói thêu dệt là tô điểm không đúng chân lý,
khiến người không tìm ra lẻ thật. Chúng ta quyết định giữ gìn miệng không nói bốn
điều trên là tạo được tình thân giữ mình và người đem, lại cho mọi người sự an ổn
bảo vệ tinh thần của người , giúp cho người dễ nhận ra lẽ thật. Thế là chúng ta
đã tạo điều kiện tốt đẹp cho xã hội.
- Ý làm lành: ý không tham
sân si là ý làm nghiệp lành, chúng ta thường thấy mọi sự bất bình và đổ vỡ đều
phát nguồn từ tham sân si. Nếu chúng ta không để tham sân si dẫn dắt hoành hành thì cả cuộc đời chúng ta được an ổn,
cũng là nguồn an ổn cho mọi người.
Ba thứ này gọi là tam độc, vì
nó gây đau khổ cho mình và người, không thể lường được. Người nào kiềm cương giữ
thắng được nó, thì bảo đảm được một đời sống an lạc, cũng bảo vệ được an ninh
trật tự cho mọi người. Ngược lại kẻ nào buông cương thả thắng nó sẽ lôi đời họ
vào hố sâu nguy hiểm, cũng gây hoạ hại cho mọi người không ít. Thế nên không
cho tham sân si nổi dậy là gìn giữ sự an ổn vẹn toàn cho mình và mọi người.
3)
KHẢ NĂNG
CỦA NGHIỆP:
Nghiệp là cái không có hình tướng, mà có
khả năng đáng kể, ví như gió, tuy không có hình tướng mà nó thổi đất nước đều
lung lay.- Nghiệp cũng thế, bình thường chúng ta không thấy nó, mà nó lôi chúng
ta đi khắp nẻo luân hồi, sở dĩ nó có khả năng mạnh mẽ như vậy là do tập quán
lâu ngày.- Như người tập hút thuốc, buổi đầu khói thuốc cảm thấy khó chịu nhưng
tập lâu ngày thành ghiền, khi ghiền rồi với giá nào cũng phải tìm cho có nó.
Cái ghiền ấy không có hình tướng, nhưng nó điều khiển con người một cách mãnh
liệt, quả thực không ai biết tướng mạo của nó, nhưng khi nó đòi hỏi người ta
phải chạy ngược chạy xuôi tìm cho ra thuốc để hút. Cho đến bệnh ghiền rượu cũng
vậy, nó có khả năng còn mạnh hơn từ những hớp rượu cay xé mồm tập mãi thành
quen rồi đưa đến bịnh ghiền, khi đã ghiền rồi không có rượu khiến người ta phải
ụa, phải mữa, oằn oại mệt nhọc, quả thật bệnh ghiền nó chi phối con người hết
mọi khả năng. Chúng ta tự hỏi, ai đem bịnh ghiền ấy đến cho chúng ta. Chính
chúng ta tự tập, tập lâu thành ghiền, cái ghiền ấy do mình tự tập, cái ghiền ấy
do mình tạo rồi mình chịu. Cái ghiền ấy phải ma lực gì mà đầy đoạ hành hạ con
người chăng ? Hẳn không phải ma lực gì, chẳng qua tập lâu ngày thành thói quen,
thói quen càng lâu sức càng mạnh. Đã tự chúng ta thành bệnh, khi muốn hết bệnh
cũng tự chúng ta gan dạ bỏ nó không ai có thể bỏ thế cho chúng ta. Khả năng của
bệnh ghiền giống hệt khả năng nghiệp chi phối chúng ta trong lục đạo luân hồi. Vậy chúng ta tạo nghiệp lành
hay dữ tạo càng lâu thì sức mạnh càng lớn, đến cuối cùng chúng chi phối dẫn dắt
chúng ta đi vào con đường lành hay dữ tuỳ chỗ gây tạo của mình, không phải Hoá
Công đầy đoạ, không phải Thượng Đế bày ra, chính chúng ta tự tạo rồi tự thọ,
khi đã thành nghiệp chúng ta khó cưỡng được nó. Thế nên biết chọn nghiệp lành
đã tạo là tự gây một sức mạnh đưa mình đến cõi lành, cố tình gây nghiệp ác là
tạo áp lực lôi mình vào cõi dữ. Chính đây là quyền chọn lựa của con người, quyền định đạt số phận ở mai sau. Nếu cứ sống
say chết ngủ không biết tỉnh thức đẩy đâu đi đó, những kẻ này về sau than trời
trách đất nào có ích gì. Chúng ta có đủ thẩm quyền quyết định đời mình hiện tại
và vị lai. Tại sao chúng ta lại bỏ mất
cái giá trị cao cả ấy? Những kết quả tốt, xấu
dỡ hay ở hiện tại và mai sau đều
nằm trong tay chúng ta. Chúng ta có quyền phán quyết chọn lựa một hoàn cảnh tốt
hoặc xấu của mình trong đời sống mai sau. Đừng cầu khẩn van xin bất cứ một năng
lực nào ngoài chúng ta. Nghiệp và chúng ta không phải là hai. Nếu chúng ta khôn
ngoan khéo léo lo tạo nghiệp lành, chúng ta dại khờ ngu muội gây tạo nghiệp ác,
khổ vui sẽ tuỳ nghiệp mang đến với chúng ta một cách chân thành.
Tất yếu của luân hồi : Tạo nghiệp là nhơn,
thọ báo là quả. Tất yếu của sự luân hồi là nhơn quả - lăn lộn trong ba cõi sáu
đường đều thuộc nhơn quả. Mình đã gây nhơn nhất định mình phải chịu quả, quả khổ
vui là do gây nhơn khổ vui. Nhơn quả là lẽ công bằng chân thật bởi mỗi cá nhân
gây tạo khác nhau, nên sự thọ nhận cũng
sai biệt, sự công bằng từ nhân đến quả không phải sự công bằng do ai khác áp đặt
cho mình. Nếu do kẻ khác áp đặt cho mình là đã bất công rồi. Ngày nay chúng ta
tạo nhận ngày mai chúng ta thọ quả, thật là rõ ràng rành mạch biết bao. Song
nói tới nhân quả là căn cứ trên thời gian suốt cả quá khứ, hiện tại vị lai.
Cũng thế, khiến có những kết quả xảy đến
mà đương sự không bao giờ nhớ. Lại có những sự kiện mà không thấy kết quả. Do
đó nhơn quả trở thành rắc rối khó khăn, người ta khó tin khó nhận. Nhưng sự thực
lúc nào cũng thực bởi khả năng nhớ hiểu của con người quá giới hạn, nên có những
thắc mắc như thế. Nếu người hiểu sâu về lý nhơn quả thì cuộc sống này đã có
tiêu chuẩn nhắm đến và an ổn vô cùng. Vì mọi kết quả nhận chịu trong đời đều do
nhơn gây ra từ thuở trước. Nên khổ không oán hờn, vui không ngạo mạng- mình làm
mình chịu, chỉ quý ngang đây phải chọn lấy nhơn tốt mà làm, để mai kia khỏi phải
thọ quả đau khổ, cho nên trong kinh nói: Bồ Tát sợ nhân chúng sanh sợ quả. Kẻ
trí thì sợ nhơn người ngu thì sợ quả. Do cái nhìn thấu suốt và cái nhìn nông cạn,
nên có chia Bồ Tát và cúng sanh. Nhơn có thiện ác thì quả cũng có khổ vui .
Những kẻ gây tạo nghiệp ác phải thọ quả
khổ trong ba đường dữ. Địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh. Nghiệp ác là mình làm cho kẻ
khác khổ, cân xứng với nhân mình gây, thọ quả khổ một nơi trong ba đường dữ.
Nhơn khổ có khi không thành quả, do nữa chừng mình biết hối cải hoặc chuyển đổi.
Nhơn khổ nhất định thọ quả khổ, do sự nuôi dưỡng một cách sung mãn, ví như có
người uống rượu mà không ghiền vì họ biết giới hạn chừa bỏ. Có người uống rượu
nhất định phải ghiền rượu, vì họ mãi tiếp tục và say mê. Có nhơn khổ mà không
thọ quả khổ, hoặc nhất định phải thọ quả
khổ cũng như thế .
Người gây tạo nghiệp thiện ác thọ quả vui
trong cõi người, cõi A tu la và cõi trời, cân xứng với nghiệp lành mình đã tạo
nhiều ít cao thấp, kết quả cũng có hơn kém thấp cao. Có khi người tạo nghiệp
lành mà không hưởng quả lành hoặc người tạo nghiệp lành nhất định hưởng quả
lành. Từ nhơn đến quả có lúc bị sai khác là do ảnh hưởng duyên, nếu nhân mà có
duyên đầy đủ thì đưa đến quả tương xứng, còn nếu nhân mà thiếu duyên thì quả nếu có sẽ không sung mãn hoặc không đưa đến
quả, cho nên từ nhân đến quả còn cần có sự kiện trợ giúp đầy đủ mới được viên
mãn( Điều kiện trợ giúp gọi là duyên)cho nên không thể có nhận định tất nhiên rằng
có nhơn là có quả. Bởi vì thời gian từ nhơn đến quả là giai đoạn biến động, hoặc
được tăng cường hoặc bị tiêu mòn, tuỳ theo những sự kiện trợ giúp. Bởi thê
chúng ta có thể chuyển nhân xấu thành tốt, hoặc nhân tốt trở ra xấu.
Sự kiện tất yếu của luân hồi tuỳ thuộc
nhân quả, không có kẻ nào khác áp đặt khổ vui cho chúng ta, cũng không có bàn
tay nào lôi kéo chúng ta phải đi đường này hay lối khác, mọi sự kết quả đều cân
xứng với nhân mình gây tạo. Nắm vững yếu tố này mới thấy chúng ta trọn quyền định
đoạt số phận của chúng ta. Nếu cuộc đời của chúng ta hiện nay được tươi sáng
hay đen tối đều do sự khéo léo hay vụng về của ta ngày xưa, can đảm nhận lấy
trách nhiệm của mình, không oán trách kêu ca, không than thân, trách phận,
chúng ta gan dạ trong cuộc sống hiện tại, song phải khôn ngoan chọn lấy lối đi
của ngày mai.
4-
THOÁT LY LUÂN HỒI
:
Đạo Phật giải rõ lý luân hồi, nhưng không
phải để mãi chịu luân hồi. Đúng như ý nghĩa biết khổ, chúng ta mới tìm cách
thoát khổ. Luân hồi là vòng lanh quanh lẩn quẩn nhào đi lộn lại không thể thoát
ra, chấp nhận trong vòng quanh quẩn do con người không tìm được manh mối thoát
ra, hoặc không đủ khả năng để thoát ra, như các nhà khoa học phát minh ra được
sức hút của trái đất, mọi vật đều cam chịu trong vòng vọt lên rớt xuống không
sao thoát ra ngoài được. Từ đó các nhà khoa học chế ra các phi thuyền có khả
năng vượt ra ngoài vòng sức hút của trái đất. Đức Phật cũng thế, Ngài biết rõ
lý luân hồi, mới dạy phương pháp thoát ly sinh tử luân hồi, không chấp nhận sự
loanh quanh trong vòng sinh tử. Còn trong vòng sanh tử dù dài, dù ngắn khổ vui,
đạo Phật đều kết luận là đau khổ, vì cùng một số phận vô thường, chỉ thoát được
luân hồi mới là an vui giải thoát.
5- KẾT LUẬN :
Đạo Phật nói lý luân hồi cũng là phát
minh một sự thật của vạn vật và con người. Vì đối tượng của đạo Phật là con
người, nên chung quy đặt nặng về sự luân hồi của con người. Con người nhận hiểu
thấu đáo về lý luân hồi, nếu họ có khả năng thoát ly luân hồi, do sự hiểu biết
lý luân hồi rồi tiến tu đạo giải thoát. Biết được lý luân hồi, chúng ta biết
được lẽ công bằng của con người, cũng nhận lấy sự tự do căn bản nơi chúng ta.
Mọi mê tín ỷ lại đều tiêu tan do biết ta là người quyết định thân phận của
mình. Tất cả mọi oán hờn tủi hận đều sạch hết,vì có ai áp đặt sự khổ vui cho
mình mà than thở. Quả chúng ta là con người độc lập tự do cho chính mình trong
hiện tại và vị lại. Dù chưa giải thoát, biết được lý luân hồi chúng ta cũng
sáng suốt và an ổn ngay trong đời sống này, mọi tương lai đều nằm trong tay
chúng ta, chúng ta trọn quyền chọn lấy một
chọn lấy một tương lai tuỳ theo sở thích của mình.
NHÂN QUẢ
1. Định nghĩa : Các tôn
giáo nói chung đều có quan niệm khác nhau về nhân quả. ở đây chúng ta tìm hiểu
thuần tuý về nhân quả Phật giáo.
Nhân
là nguyên nhân, quả là kết quả. Trong thế giới tương quan duyên sinh, mỗi sự
vật đều có những nguyên nhân của nó. Nguyên nhân của một sự thể gọi là nhân, và
hiện hữu của sự thể đang tồn tại gọi là quả. Trong mối tương quan nhân quả này,
mỗi hiện hữu vừa là nguyên nhân và là kết quả
như sự tuần hoàn của mây, nước, hơi nước. Nguyên nhân chính( trực tiếp
của một hiện hữu gọi là nhân, nguyên nhân phụ( gián tiếp) có ảnh hưởng đến
quả gọi là duyên hay các điều kiện phụ
thuộc). Do đó, nếu nói đủ là : nhân - duyên - quả.
2. NỘI DUNG :
Trong
tương quan nhân quả như đã đề cập còn có các yếu tố duyên( trung gian) xen vào.
Do đó sự thành tựu của các quả còn tuỳ thuộc vào các duyên . Vì thế, ở đây chúng ta cần ghi nhận một số điểm như sau
:
Trong giáo thuyết nhân quả, một nhân
không thể đưa đến một quả, hay một quả không thể có một nhân. Và nhân quả thường
là đồng loại. Ví dụ : Trứng gà thường nở ra con gà, chứ không thể có trường hợp
trứng gà nở ra con vịt. Như thế là không có sự lẫn lộn trong đồng loại.
Nhân quả tuy cùng một giống( đồng loại)
nhưng do các duyên trung gian xen vào, cho nên có thể quả cùng loại với nhân
nhưng vẫn khác với nhân. Ví dụ nắm muối nếu bỏ vào tô canh thì mặn, nhưng bỏ
vào hồ nước mênh mông thì không mặn. Sự khác
biệt này tuỳ thuộc vào các duyên( thuận hay nghịch) và theo đó quả hình
thành.
Nhân quả- Nghiệp báo là sự hiện hữu của các mối tương quan thiện
ác, chánh tà.... Nó thuộc pháp hữu vi
sanh diệt, vốn là hiện thân của ý niệm phân biệt. Do đó, với tâm thanh tịnh và
xả ly thì vấn đề nhân quả nghiệp báo không còn được bàn đến
3. PHÂN
LOẠI NHÂN QUẢ :
Thông thường một quả khi hình thành nó
cần đầy đủnguyên nhân chính và các nhân phụ, cho nên nhân quả được xét đến qua
nhiều góc độ như thời gian, không gian, tâm lý v.v...
a)
Phân loại 1( theo thời gian )
1. Nhân quả đồng thời : Là loại nhân quả
từ nhân đến quả rất nhanh, ví dụ ăn thì no, uống nước thì hết khát, tức giận
thì buồn phiền
2. Nhân quả khác thời : Là loại nhân quả mà thời
gian đi đến quả có một khoảng thời gian và khoảng thời gian đó được chia làm ba
giai đoạn như sau :
Hiện báo Nghĩa là nghiệp nhân trong đời
này đưa đến quả báo ngay trong đời này. Ví dụ tuổi nhỏ lo học hành chăm chỉ nên
lớn lên trở thành người tri thức .
Sinh báo Nghĩa là tạo nhân trong đời này
nhưng đến đời sau mới chịu quả báo. Ví dụ kinh Địa Tạng bảo rằng ai hay trêu chọc
người, đời sau sẽ thác sinh vào loài vượn khỉ .
Hậu báo : Nghĩa là tạo nhân trong đời này
nhưng đến các đời sau mới chịu quả báo.
Ba thời nhân quả này vì có một thời gian
tương đối ổn định( có khỏang cách) do đó, chúng được xếp vào loại định nghiệp.
Cũng có trường hợp do các nhân duyên trung gian can thiệp mạnh vào làm cho
nghiệp quả trở nên khó xác định về thời gian và chủng loại. Trong trường hợp
này, chúng được gọi là bất định nghiệp. ba thời nhân quả đồng thời cũng là câu
trả lời tại sao( một số trường hợp) có người làm lành trong đời nay lại gặp
những điều bất hạnh và ngược lại người làm việc ác lại gặp may mắn.
b) Phân loại 2 ( Theo vật lý và tâm lý)
Cách phân loại này nhằm chỉ đến sự biểu hiện của nghiệp quả
thông qua thái độ tâm lý tiếp thọ nghiệp, đồng thời nói lên những khoảng cách
khác nhau của nghiệp quả giữa tâm lý và vật lý, giữa nội tâm và ngoại cảnh.
1. Nội tâm và ngoại giới :
Nhân quả biểu hiện ở trong tâm lý của con người được gọi là nhân quả nội tâm( nội
giới) và ngược lại là ngoại cảnh( ngoại giới). Như trường hợp một vị sư bị vu
khống phải ở tù, thân vị ấy ở trong tù nhưng tâm vị ấy an định, ly thủ giải
thoát. Như thế nghiệp quả chỉ biểu hiện ở thân chứ không biểu hiện ở tâm.
2. Tâm lý và vật lý : Sự biểu hiện khác nhau của nhân quả trên cùng
một con đường được chia thành hai phần : Tâm lý và vật lý. Như một người có
thân thể( Thể chất vật lý) xấu xí, khó nhìn, nhưng tâm thì thông minh và sáng
suốt, hiền từ và độ lượng, tu tập tốt( Tương tự như đối với các trường hợp ngược
lại ). Tuy nhiên cũng có trường hợp được phước báo cả hai mặt thân và tâm hoặc
ngược lại.
4. CÁC
PHẠM TRÙ NHÂN
QUẢ :
Có thể nói rằng, nhân quả là giáo lý gắn
liền với đời sống tu tập của người Phật
tử, gắng liền với các vấn đề luân lý, đạo đức của con người và nhân quả đã nghiêm túc đặt ra vấn đề trách nhiệm của
con người đối với chính tự thân cũng như xã hội. Bởi lẽ Đức Phật dạy rằng : “
Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp”. Từ đó nhân quả được
bàn đến thông qua các phạm trù cơ bản của
đời sống con người.
* Nhân quả vấn đề luân lý đạo đức Phật giáo
Trước
hết giáo lý nhân quả dạy cho con người thức tỉnh trong các hành động tạo tác của
mình để xa lánh các việc ác, tức là vấn đề luân lý đạo đức của con người nói
chung và của hàng phật tử nói riêng. Tuy nhiên vấn đề trọng yếu của giáo lý
nhân quả là ở chỗ nó đặt ra trách nhiệm cá nhân của mỗi người đối với các điều
kiện sống của con người ấy. Do đó, không thể quy ước giáo lý nhân quả tức là
luân lý đạo đức Phật giáo theo khuôn mẫu ước lệ như luật pháp được ban hành trong xã hội. Chẳng hạn một người
phạm tội , luật pháp sẽ trừng trị y khi hành vi phạm tội được xác định, nghĩa
là y đã thực hiện điều tội lỗi. Trong khi với đạo đức và luân lý anh ta sẽ có tội
ngay khi những ý niệm tội lỗi( xấu ác ) phát sinh trong tâm của y mặc dù đó chỉ
là ý niệm chứ chưa phải là hành vi. Do đó, trách nhiệm cá nhân theo giáo lý
nhân quả ở đây là trách nhiệm cao nhất. Đối với thái độ tâm lý đạo đức của mỗi
người, mà không phải là trách nhiệm theo quy ước, luật pháp trong xã hội.
Trong
một số trường hợp, những người khôn ngoan có thể chạy trốn pháp luật, nhưng với
luân lý đạo đức , họ không thể chạy trốn với lương tâm của chính mình được. Vì
thế, nếu đứng trên phương diện giáo dục, giáo lý nhân quả thực là một phương
pháp giáo dục vô cùng lành mạnh và tích cực. Vì ngay từ đầu, tinh thần nhân quả
đã đưa con người về với chính nó. Con người phải hoàn toàn phải chịu trách
nhiệm về tư duy và hành động của chính mình. Hạnh phúc hay khổ đau là do mình
tự tạo cho mình, ở đây không có một sự
trừng phạt hay ban thưởng nào, cũng không có một giáo điều hay tín lý nào có
thể thiết lập trên cơ sở nhân quả của Phật giáo. Một nền luân lý đạo đức như
thế, trí tuệ và đầy tình người như thế, nếu được áp dụng vào mỗi con người gia
đình, học đường và xã hội ắt hẳn sẽ đưa đến một cuộc sống an lạc và hạnh phúc.
* Nhân quả khởi điểm của tiến trình giải thoát
Như
đã đề cập, giáo lý nhân quả đặt trọng tâm vào vấn đề thiện ác, chánh tà, tốt
xấu,v.v.. tức là các vấn đề liên quan đến đời sống đạo đức con người. Tuy nhiên đó cũng là điểm khởi đầu của con người để đi vào đạo. Nhưng đối với
Phật giáo , sự giác ngộ và giải thoát
không chỉ dừng lại ở lĩnh vực nhân quả
thiện ác, mà nó còn đi xa hơn nữa, đó là đi ra khỏi thế giới phân biệt, đối đãi
giữa thiện ác( thực tại giải thoát) . Vì lẽ, Phật dạy các pháp là vô ngã. Do
đó, mọi sự phân biệt thiện ác chánh tà... đều là sản phẩm của ý niệm vốn sanh
khởi từ sự có mặt của ngã tưởng. ở đây điều tối quan trọng là hãy nổ lực tư duy
và nhận ra rằng không hề có mặt bất luận một ngã tưởng nào thực sự hiện hữu.
Tất cả đều là vô ngã. Khi nhận ra điều này, nghĩa là đã bước lên đường để đi
vào thế giới thực tại giải thoát. Một thế giới vượt lên trên ý niệm phân biệt,
mọi ngã tưởng điên đảo, thế giới của sự thanh tịnh, xã ly và vô niệm. Tại đây
thần chết của sinh tử của nhân quả sẽ
không còn nữa. Vì rằng khi ngã tưởng được buông bỏ thì tham ái và chấp thủ sẽ
tiêu tan và khi ngã tưởng, tham ái và chấp thủ bị đoạn diệt thì trụ cột của thế
giới tương quan nhân quả của nghiệp báo thiện ác bị sụp đổ. Đây là ý nghĩa của
Niết Bàn tối thượng.
5.
MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VỀ GIÁO LÝ NHÂN QUẢ
Qua các phần trình bày ở trên, nhân quả có
vị trí rất quan trọng trong việc giải thích sự
khác biệt nghiệp quả của mỗi con người và thiết lập nên một nền tảng đạo
đức luân lý Phật giáo nhân bản và tích cực. Nhân quả theo Phật giáo không phải
là định mệnh, cũng không mang tính chất tiền định cố hữu. Bởi lẽ sự hiện hữu
của con người không đơn giản tuỳ chỉ thuộc vào các nhân đã gieo trong đời sống
quá khứ, mà nó tuỳ thuộc ngay trong các hành động (nghiệp mới) tạo tác trong
hiện tại. Điều này cũng khai phóng cho con
người một lối đi năng động, tích
cực để vượt qua mọi trở ngại của nghiệp quả, thậm chí có thể chấm dứt dòng sinh
tử khổ đau ngay tại cuộc đời này. Thực ra, theo lời Đức Phật dạy: Tất cả nghiệp
quả ( của vô lượng kiếp quá khứ ) đã tập trung vào thân 5 uẩn này rồi. Vấn đề
còn lại là hành vi tạo tác( xúc) giữa thân căn và thế giới, nói cụ thể là những
nghiệp mới được tạo tác thông qua sự giao tiếp giữa 6 căn, 6 trần để ý thức (
hay 6 thức) cảm thọ vui, buồn, khổ, lạc hoặc không khổ, không lạc mà thôi. Từ
đó lối đi của giải thoát chân thực, thực sự không phải là nghiệp quả của 5 uẩn,
mà chính là hành vi tạo tác của 5 uẩn. Cho đến khi nào chúng ta ngộ được rằng 5
uẩn là vô ngã, chúng không có tự tánh và không còn tham ái và chấp thủ 5 uẩn là Ta , là của Ta, là Tự ngã
của Ta. Ngay lúc đó nhân quả, nghiệp báo sẽ không còn hiện hữu. Trong kinh
điển, thoảng hoặc nói về nhân quả xuất
thế gian, nhưng thực ra nếu ngay tại
thế gian này mà phiền não, lậu hoặc đã được đoạn tận thì xuất thế chính
là tại thế, cũng như hoa sen đã vươn lên khỏi mặt nước và nở rộ giữa hư không
vô tận.
Kết luận Nhân quả nghiệp báo là pháp duyên sinh. Do đó, không
có lý do gì mà nó thường trụ vĩnh hằng. Vấn đề là nổ lực tận dụng năng lực của
trí tuệ soi sáng bóng mờ của tự ngã để đi vào chân trời thực tại như thực. Đó
chính là hình ảnh của bậc A La Hán, đã chấm dứt dòng sinh tử ngay trên mảnh đất
trần thế này. Và đối với người Phật tử,
cần phải hiểu rõ nhân quả, xây dựng niềm tin trên cơ sở của nhân quả, để từ đó
kiến tạo cho mình một đời sống thanh bình, an lạc. Kinh Pháp cú- Đức Phật dạy
rằng: “ ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ tạo tác, đối với ý nhiễm ô, nói năng hay
hành động, khổ não bước theo sau, như xe theo chân vật kéo.... đối với ý thanh
tịnh, an lạc bước theo sau, như bóng không rời hình”.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét