NGHIỆP CHI PHỐI ĐỜI SỐNG NHÂN SINH
Chân Hiền Tâm
Ngày
còn bán hàng rong ngoài đường, tôi gặp một phụ nữ, tuổi đã ngoài ba mươi. Mỗi lần
chờ khách, chị hay ngồi nói chuyện với tôi. Người không xinh xắn, bụng lớn ngực
lép, đi thì chân này đá chân kia, nhưng khá đắc khách.
Bẵng
đi một thời gian không thấy chị đâu, hỏi thăm, mới biết chị được một người lái
xe đường dài lấy về làm vợ, lo hết mọi thứ để chị thoát được cái nghề thiên hạ
gọi là hạ cấp.
Chưa
đầy nữa năm, lại thấy xuất hiện tiếp tục nghề cũ. Nghĩ bị thiên hạ bỏ rồi,
nhưng không chị bỏ thiên hạ. Chị nói ở nhà buồn quá em ơi. Nhớ nghề.
Ai
cũng lắc đầu . Đồng nghiệp của chị lắc đầu. Thiên hạ thì chửi chị ngu. Tôi thì
hết biết nói gì. Đến khi biết đạo, hiểu
về nghiệp thấy được thực chất của nghiệp …chẳng còn một niệm trách cứ, chỉ biết
thở dài ngao ngán cho kiếp người, được kết tụ bởi nghiệp, lưu chuyển nhờ nghiệp
và kết thúc cũng bằng nghiệp. Không có khoảnh khắc nào là không có nghiệp. Vừa
đủ chiêm nghiệm câu mà Sư Hưng đã nói “
Nghề là nghiệp”. Một định nghĩa khá đơn giản nhưng đầy ý nghĩa, rõ ràng.
Tìm
hiểu về nghiệp : Nghiệp, Phạn ngữ là Karma, chỉ cho những tạo tác thuộc ba
nghiệp. Câu –xá quang ký q.13 ghi : “ Tạo
tác gọi là nghiệp”. Những tạo tác ở thân như co, duỗi, lấy, bỏ v.v.. gọi là
thân nghiệp. Tạo tác âm thanh ngữ ngôn gọi là khẩu nghiệp. Tạo tác ở tâm như
suy nghĩ, dự định, quyết định…gọi là ý nghiệp. Kinh luận nói ba nghiệp, là chỉ
cho thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
Nghiệp
có nghiệp nhân và nghiệp quả. Nghiệp nhân là những gì xuất hiện thuộc ba nghiệp,
cho ra quả khi đủ duyên. Nghiệp quả là những kết quả có được từ những nghiệp
nhân đã gây tạo. Với thế giới này, nhân
luôn phải có trước quả. Nhân dùng để chỉ cho những gì có khả năng sinh
quả. Quả là những gì có được từ nhân. Với cái nhìn của Trung luận, một khi đã gọi
là nhân thì nhất định phải đi liền với quả. Đã nói đến quả thì nhất định phải
có nhân. Nếu không có quả thì nghiệp ấy chỉ gọi là nghiệp, không gọi là nghiệp
nhân. Nếu không có nhân thì chẳng có nghiệp quả. Thực chất của nhân quả là như
vậy. Dựa vào lý này, ứng dụng tu hành để chuyển nghiệp và dứt nghiệp.
Nhân
và quả này không mang tính cố định. Nghiệp nhân trong hiện tại có thể là nghiệp
quả của những nghiệp nhân đã tạo trong quá khứ. Nghiệp nhân trong quá khứ gọi
là túc nghiệp. Như A Nan, do có túc nghiệp làm vợ làm chồng với Ma Đăng Già 500
đời, nên đã xảy ra việc gặp nhau thì mê vào nhà Ma Đăng trong hiện tại. Việc xảy
ra trong hiện tại đó gọi là hiện nghiệp. Nếu hiện nghiệp này không được ngăn dứt,
đủ điều kiện tiếp diễn thì có cái quả của nó. Như vậy, hành vi trong hiện tại
tuy là quả của những việc quá khứ, nhưng lại có khả năng làm nhân cho những quả
khác trong tương lai. Tức nhân quả không cố định, chỉ tùy duyên mà lúc là quả,
lúc là nhân.
Nghiệp,
một khi được lặp lui lặp lại hoài, như Sư Hưng đã nói “ Nghề là nghiệp”, sẽ tạo
ra một lực, gọi là lực nghiệp. Lực này có là do những tạo tác giống nhau được
huân tập nhiều, tích trong tạng thức mà thành có lực. Lực này không được nhận
biết, cho đến khi nó bị cản trở. Động quen rồi, giờ có việc phải ngồi một chỗ,
cảm giác bồn chồn trống vắng sẽ xảy ra, chân tay loay hoay, chỉ muốn làm một
cái gì đó, không thể yên vị. Cái loay hoay và muốn ấy là kết quả của lực động.
người phụ nữ không biết làm nghề ấy bao lâu, nhưng với chị nó đã có lực. Lực đã
lôi chị trở lại với nó, không yên phận được ở nhà dù ở nhà an thân hơn. Vì nghiệp
đã có lực nên những thứ thiên hạ thấy tốt đẹp lại trở thành buồn chán với chị.
Chị không thể ở nhà hưởng thú an nhàn mà theo tiếng gọi của nghiệp trở lại đường
xưa. Nghiệp đó, nếu được tiếp tục huân, ngày càng nhiều thì lực nghiệp ngày càng
mạnh. Lực này có liên quan đến mật thiết đến Tập nói trong Tứ đế. Tập là sự
tích tụ. Do tích tụ nhiều nên nghiệp thành có lực.
Thói
quen là một dạng của Tập, vì nó được lặp đi lặp lại, tích tụ vào tạng thức, nên
thói quen cũng có lực của nó. Việc này có thể kiểm nghiệm dễ dàng trong đời sống
của mình. Bạn quen ăn ớt, giờ không có ớt, bạn sẽ thấy cảm giác thiếu thốn, ăn
không ngon, có cái gì đó thôi thúc khiến bạn tìm ớt…Thứ khiến bạn cảm thấy thiếu
thốn và giục bạn tìm ớt chính là lực của nghiệp. Nếu ngay đó tỉnh biết mà dừng
lại là bạn đang phá cái tập ăn ớt cũng như cái lực của nghiệp.
Lực này chính là thứ giúp chúng sinh tái sinh ở
các cõi. Tùy theo sự tạo tác thiện hay ác mà có quả ở các đường. Những tạo tác
nào đưa đến cái quả tốt đẹp cho mình và người thì gọi là thiện nghiệp. Thiện
nghiệp giúp tái sanh vào ba cõi Trời, Người, và A Tu la. Nghiệp nào đưa đến quả
báo bất hạnh cho mình và cho người thì gọi là ác nghiệp, giúp tái sinh vào ba
cõi Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh.
Trong
cõi Người có người sung sướng hạnh phúc, có người bệnh tật đau khổ, đều tùy
nghiệp thiện ác đã tạo trong quá khứ mà ra. Đời người, lúc lên voi, lúc xuống
chó, cũng là tùy nghiệp thiện ác từng tạo trong quá khứ. Thiện nghiệp trổ quả
thì lên voi, ác nghiệp trổ quả thì xuống chó. Thiện nghiệp nhiều thì hạnh phúc
nhiều hơn. Ác nghiệp nhiều thì đau khổ nhiều hơn. Cũng có loại nghiệp không
mang tính thiện ác. Nó là cái quả của những tạo tác không mang màu sắc tham,
sân, cũng không mang màu sắc phước báu.
Nghiệp
và khía cạnh cần lưu ý.
Nghiệp
tạo ra sự trói buộc : Chúng sinh và thế
giới là kết quả của lực nghiệp, lực nghiệp lại mang tính dẫn dắt và trói buộc,
nên con người, tuy bản chất là tự do tự tại, là chủ nhân có toàn quyền quyết định
cuộc đời mình, lại trở thành kẻ nô lệ, bị ràng buộc bởi những nghiệp nhân đã
gây tạo trong quá khứ. Thiện nghiệp thường cho cái quả khiến ta không nhận ra sự
ràng buộc này, vì nó thuận với sở thích muốn của ta, nhưng thực chất thì mọi thứ
đều có trói buộc trong đó. Thiện nghiệp một khi được huân tập mạnh, sẽ tạo ra lực
khiến ta phải theo nó, cũng như không thể gây tạo ra ác nghiệp. Như bố thí quen
rồi thì gặp duyên liền bố thí, không bố thí liền thấy áy náy. Cũng thấy bất an
và sợ hãi khi nghĩ đến ác nghiệp. Lỡ gây tạo ác nghiệp thì lo sợ sám hối v.v…
Nói trói buộc là vậy. Một trói buộc giúp cuộc sống và tư tưởng con người thăng
hoa hơn.
Song
hành Bồ tát đạo, một con đường cần vô lượng phương tiện khác nhau mới tương ưng
được với mọi căn cơ của chúng sanh, nếu chỉ dựa vào các hình thức thiện, khó mà
giúp chuyển hóa những con người bất trị, cũng khó mà giúp phá bỏ những tư tưởng
còn chấp nặng vào thiện nghiệp, cũng khó thực hành việc đồng sự với người hữu
duyên. Cho nên, huân nghiệp thiện mà để thiện nghiệp trói buộc là một chướng ngại
lớn cho việc thực hành Bồ tát đạo. Vì thế với hàng Đại Bồ tát, tuy không ngừng
thực hiện thiện nghiệp, nhưng là thiện ở mặt thể, không phải ở mặt hình tướng.
Tức chỉ lấy lợi ích của nhân sinh làm trọng, không vướng vào hình tướng của thiện
nghiệp. Muốn vậy, phải sống được với tánh Phật, phải phá cho được tâm phân biệt,
tức tâm chấp trước.
Thiền
sư Phần Dương, ngữ ngôn và giọng điệu của ông không mang tính ái ngữ mềm mỏng.
Song đó là phương cách ông dùng để phá bỏ tâm chấp thiện của hạng thiền sinh có
cơ lành, giúp họ ngộ được Phật tánh, thoát được tâm phân biệt. Thiền sư Trung
Hoa ghi : Mỗi khi Sư vào thưa hỏi, chỉ bị
Phần Dương mắng chửi thậm tệ, hoặc nghe chê bai những vị khác, nếu có dạy bảo
thì toàn dùng lời thế tục thô bỉ. Một
hôm Sư tự trách : “ Từ ngày đến pháp tịch này đã qua mất hai mươi năm mà chẳng
được dạy bảo, chỉ khiến tăng trưởng niệm thế tục trần lao, năm tháng qua nhanh
việc mình chẳng sáng, mất cái lợi của kẻ xuất gia…” Sư nói chưa dứt đã thấy Phần
Dương xuất hiện, nhìn thẳng vào Sư mắng : “ Đây là ác tri thức dám chê trách
ta”. Nói rồi cầm gậy đuổi đánh. Sư toan la cầu cứu, Phần Dương liền bụm miệng
Sư, Sư chợt đại ngộ, nói : “ Mới biết đạo của Lâm Tế vượt ngoài thường tình”.
Sư ở lại hầu hạ Phần Dương bảy năm.
Nghiệp
và sự sắp đặt của luật nhân quả :
Tôi
nhận ra rằng có một dòng nhân duyên nối tiếp nhau, quả này nối tiếp quả kia tạo
thành dòng sống của một con người, rất khéo léo và tài tình, từ thiện nghiệp
cho đến ác nghiệp. Mọi thứ đều khéo léo trật tự tùy thuộc vào cái nhân mà mình
đã tạo trong quá khứ. Nói quá khứ là muốn nói nhân trước quả sau, không khẳng định
nó thuộc về thời điểm nào trong vô lượng kiếp mà đời người đã sở hữu. Ai cũng
tưởng mình quyết định mọi thứ cho cuộc đời mình, chọn một nghề tương hợp, phát
triển được sự giàu có v.v…đều do một cái ta bản lãnh, trí tuệ và đầy tài năng
quyết định. Không, thứ chúng ta có thể quyết định làm hay không làm là thiện
nghiệp, với điều kiện bản thân không bị lực và quả của ác nghiệp trói buộc quá
mạnh. Còn lại, mọi vận hành trong đời đều là sản phẩm của luật nhân quả. Nhân
thiện cho ra quả lành, nhân ác cho ra quả dữ. Ta trở thành tài ba, khéo léo,
nhà to cửa lớn, nói gì thiên hạ cũng nghe… là do vòng xoáy của nhân quả sắp đặt.
Chính luật nhân quả đã tạo nên sự hài hòa, tài ba, khéo léo trong cuộc đời bạn
dù là thiện nghiệp hay ác nghiệp. Nói tài ba khéo léo mà nói đến ác nghiệp, bởi
có những việc xảy ra thật không tưởng để tội ác được thực thi, trả một cái nợ
đã vay từ quá khứ. Sự khéo léo của luật nhân quả khó có thể hình dung khi nhân
đã gây và duyên đã đủ. Thứ duy nhất mà bạn có thể quyết định trong cái duyên của
bạn là tạo thiện nghiệp hay ác nghiệp. Từ thiện nghiệp, nhân quả vận hành để mọi
thứ được trật tự tốt đẹp, như thế bạn là người sắp đặt ra nó. Từ ác nghiệp nhân quả vận hành để mọi thứ
được sắp đặt như có một định mệnh nào đó quyết định cuộc đời bạn khiến bạn thấy
bất lực với nó.
Nhân nào tương ưng với quả nào đều được dạy rõ trong kinh Thập Thiện.
Trong đó mà thực hành thì cuộc sống tương lai sẽ tốt đẹp, cũng là cách giúp
chuyển những nghiệp xấu đã tạo.
Nghiệp
quyết định mọi thứ :
Phật
nói : “ Các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp và thừa tự nghiệp ấy. Nghiệp
là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các
loài hữu tình, có liệt có ưu”. Schopenhauer,
một triết gia Đức, phát biểu một câu khá lý thú “ Bề ngoài, con người tuồng như
có một cái gì đó ở trước thúc đẩy họ đi tới, song kỳ thực họ bị thúc đẩy từ đằng
sau”. Cái đằng sau đó chính là nghiệp. Người phụ nữ không thích làm một cô vợ
ngoan mà chọn con đường gian truân, với cái nhìn của người đời là do cô ta muốn
vậy. Thực tế chính vì nghiệp khổ đã có lực. Lực đó khiến việc ở nhà trở thành
buồn tẻ chán ngán, thúc đẩy cô ta theo nghề cũ, không thể dừng. Nếu chịu quán
sát, bạn sẽ thấy những loại lực này chi phối các sinh hoạt của bạn ra sao, bạn
lệ thuộc vào chúng thế nào.
Đó
là nói về nhân duyên nghiệp lực thuộc thói quen của bản thân. Còn một loại nhân duyên nghiệp lực có liên
quan trực tiếp đến người khác. Nếu chịu quán sát, bạn sẽ thấy tập nghiệp sân,
tham, đố kỵ v.v… của mình không phải khi nào cũng hiện khởi ở khắp mọi nơi. Có
người khi gặp, những tập nghiệp ấy ở bạn không hiện khởi, nhưng có người hễ tiếp
xúc là tâm sân ở bạn hiện khởi mạnh. Không đố kỵ với ai, chỉ đố kỵ duy nhất một
người, đố kỵ đến mức không thể tỉnh giác, dính luôn vào nghiệp bất thiện, dù hiện
đời họ không làm gì mình v.v…Đó là do những mối nhân duyên đã xảy ra từ quá khứ
được lưu lại trong tạng thức, giờ đủ duyên thì hiện khởi. Vua Lưu Ly khởi tâm
tàn sát dòng họ Thích là do quá khứ khi còn làm cá sống ở ao hồ đã bị dòng họ
Thích giết, lấy đó làm thức ăn. Do uất khí, ông đã phát nguyện hồi hướng mọi
thiện nghiệp cho việc trả thù được thành công. Nên khi đủ duyên, ác nghiệp được
thực hiện, quả địa ngục hiện tiền.
Không hẳn là đổ thừa : Lực nghiệp mang tính trói buộc
và dẫn dắt, nên nếu giới, định, huệ không được huân tập thành lực thì khó mà
làm chủ được các tạo tác thuộc ba nghiệp. Vì vậy, những thứ mình nghĩ là đổ thừa,
có khi không hẳn là đổ thừa. Khi bạn có khả năng và điều kiện để vượt qua một
thói xấu hay một hoàn cảnh xấu, mà không chịu vượt qua, lại nói do nghiệp, thì
thiên hạ nói bạn đổ thừa, ý của đổ thừa là vậy.
Khi
tôi nói : “ Chị làm lại chi cho cực, về già bệnh lắm chị”. Chị trả lời : “ Chắc
tại nghiệp chị vậy”. Câu nói cửa miệng của những ai thấy mình bất lực trước vấn
đề nan giải, dù khi phát biểu đó không hề biết nghiệp là gì, nói là biết sâu xa
hơn về nghiệp. Nhưng đó là câu trả lời chính xác trong hoàn cảnh này. Nghiệp
nói ở đây không phải nói ở mặt nghiệp báo mà chính là thói quen đi khách của chị.
Chị có được điều kiện thuận tiện giúp vượt qua nghề ấy, nhưng khả năng vượt qua
lại không có. Đi khách đã tích tụ thành thói quen qua bao nhiêu năm. Nó đã có lực
khiến chị không thể vượt qua chính mình khi không đủ trí tuệ cũng như nhẫn lực
để đối trị, dù thuận cảnh đã đủ.
Trong
đời này, bạn thấy nhiều việc ngu dại xảy ra, không hiểu vì sao người ta không
biết dừng để đánh mất tất cả, chính là do thói quen. Một loại nghiệp được tích
tụ nhiều trong tạng thức, đủ duyên nó hiện hành và phát tán. Nhẫn lực không có
nên không đủ tỉnh giác mà hàng phục và làm chủ hành vi của mình, cứ theo duyên
tới luôn, cho đến khi thấy mình hiện diện khắp nơi nhờ cộng đồng mạng, mới thấy
hối hận, thì đã muộn. Cho nên, bình thường nếu không hàng phục được tham sân
thì khi đủ duyên khó mà không trở thành nạn nhân của những thứ đó. Tham mà gặp
tiền thì chỉ thấy có tiền, không thấy tù tội, ngạ quỷ hay địa ngục. Sân mà gặp
bất như ý thì như tên điên, bất chấp tất cả. Dâm mà gặp sắc thì mờ mịt, ngu tối
v.v… Từ ngu muội có tham sân. Do tham sân mà thành ngu muội. Tất cả đều do nghiệp
đã được huân tập.
Huân
tập có chủ đích và không chủ đích : Huân tập có chủ đích là những gì bạn làm mà
ý thức rõ ràng về nó, với một mong muốn hay ý thích rõ ràng. Vì thích như vậy
hay muốn như vậy mà bạn thực hiện. Hoặc dù không thích nhưng do ý thức được lợi
ích của việc mình làm mà bạn vẫn thực hiện mọi thứ, gọi là huân tập có chủ
đích. Nhận ra cuộc đời vô thường, bạn phát tâm tu hành. Do Phật Tổ dạy niệm Phật
và tọa thiền là việc bạn phải thực hiện để thanh lọc thân tâm, nên ngày ngày bạn
thực hành niệm Phật hay tọa thiền. Huân tập như vậy gọi là huân tập có chủ
đích.
Huân
tập không có chủ đích là một loại huân tập bị động. Bạn không ý thức rõ ràng về
những gì mình đã làm, nhưng mọi thứ vẫn được thực hành và huân tập vào tạng thức
đều đặn. Bạn thích tụng kinh và chủ động thực hiện việc đó, là một loại huân tập
có chủ đích. Song tụng kinh và phát tâm Bồ đề là hai việc khác nhau. Có người tụng
kinh mà không thích thành Phật hay hành Bồ tát đạo, chỉ muốn an tâm hưởng phước
Trời, Người. Tuy vậy, bài hồi hướng cho tất cả vẫn là: “ Nguyện đem công đức
này/ Hồi hướng khắp tất cả / Đệ tử và chúng sanh/ Đều trọn thành Phật đạo”. Ai cũng huân tập đều đặn bài kệ ấy dù có người
không hề ý thức gì về việc thành tựu Phật đạo, nhưng vì đó là cái lệ phải làm
sau mỗi thời tụng kinh, niệm Phật, tọa thiền, nên ai cũng niệm đều. Huân như thế
gọi là huân tập không có chủ đích.
Huân
tập có chủ đích hay không có chủ đích, tuy ở mặt dụng có sự khác nhau, nhưng đều
tạo thành chủng tử nghiệp lưu trong tạng thức. Huân bài kệ đó vào tâm là đang
huân tạo ý nghiệp. Ý nghiệp này một khi có lực và đủ duyên sẽ tạo thành thân
nghiệp và khẩu nghiệp, huân tiếp vào tạng thức. Đây cũng là lý do giải thích vì
sao giới trẻ dễ có những hành vi bất thiện khi huân tập các hình ảnh bất thiện
vào tâm quá nhiều mà không thấy có sự sợ hãi. Lập trường học, tùng lâm, nói đến
việc giáo dục v.v…là ứng dụng việc huân tập có chủ đích hay không chủ đích này
vào đời sống nhân loại. Phật Tổ đứng từ lý thật mà nói ra. Các nhà nghiên cứu
thì theo phương pháp quy nạp các hiện tượng mà nhận xét kết quả.
Bồ
tát hành Phật đạo, gieo duyên tu hành với chúng sinh, có khi bằng phương cách
giúp nhân sinh huân tập thiện pháp có chủ đích, có khi bằng phương cách giúp
huân tập thiện pháp không chủ đích. Cách sau thường được áp dụng cho các vị
không tự tỉnh giác phát tâm trong hiện đời. “ Dạy con từ thuở lên ba” cũng là một
loại huân tập không có chủ đích giúp trẻ huân tập thiện pháp. Đều do nắm được
tính huân tập của tâm cũng như lực của các nghiệp để thành tựu thiện pháp, giúp
hình thành nhân cách cho con người.
Nan – đà là người đắm sắc, không thích tu
hành. Tuy vậy, ngay ngày cưới của ông,
Thế Tôn đã đến và đặt bình bát của Ngài vào tay ông với một lời chúc
phúc, sau đó ra đi mà không lấy lại bình bát. Nan-đà đã phải cầm bình bát chạy
theo sau đến tận tịnh xá.
Phật
hỏi : - Ông muốn đi tu không ? Vì lòng tôn kính với Phật quá sâu đậm nên thay
vì thốt “ Con không muốn tu”, ông lại thưa
Dạ con muốn. Thế là Phật gật đầu
và cho ông xuất gia trong khi cô vợ thì khóc ngất.
Khoảng
thời gian làm Tăng là một cực hình đối với ông. Lời than thở của ông đến tai Phật.
Phật gọi ông lên hỏi. Ông xác nhận điều đó. Chỉ muốn về nhà với vợ và sống một
cư sĩ.
Đức
Thế Tôn nắm tay Đại đức Nan đà, dùng thần lực đưa ông đến cõi trời Ba mươi ba,
chỉ cho thấy năm trăm thiên nữ đang hầu hạ thiên chủ, và nói với ông sẽ có năm
trăm thiên nữ như vậy nếu tiếp tập tu hành. Nan-đà chóa mắt và quên luôn việc
đòi về. Huynh đệ của Nan đà xem ông như một người tu mướn. Ông vì “ mục đích tối
hậu” mà Thế Tôn đã hứa, nên mặc kệ những
lời đàm tiếu. Ông sống độc cư, xuất ly, chánh niệm, tinh tấn, dõng mãnh. Không
bao lâu, Nan đà an trú trong tuệ trí giác ngộ và đạt được đạo quả tối thượng của
đời sống tu hành. Đại đức đã biết : “ Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc làm
đã xong, ta không còn trở lại đời sau nữa ”. Được quả vị ấy, chẳng còn nghĩ đến
việc gì khác nữa.
Huân
tập như thế, với mục đích được năm trăm thiên nữ, thì việc tu tập của Nan đà là
có chủ đích, nhưng với mục đích thành tựu chánh quả, nó trở thành không có chủ
đích. Thế Tôn đã mượn sự huân tập đó để Nan đà huân trưởng chủng tử tu hành,
phá bỏ chủng tử dâm ái đang hiện hành ở Nan-đà. Đó là phương tiện dụng pháp
khéo léo của Thế Tôn.
Cho
nên, với hàng Bồ tát có trí tuệ và định lực, khó mà quán xét họ ở phương diện dụng
pháp. Chỉ tùy cơ ứng duyên mà có pháp phù hợp. Vì do ứng tâm mà thành pháp, nên
dù thiện pháp hay bất thiện pháp đều mang đến
kết quả lợi ích nhân sinh. Một việc khó nghĩ bàn. Nếu dùng tâm phân biệt
của phàm phu mà định liệu thiệt hơn thì không bao giờ thấu được việc làm của
chư vị.
Giới,
định, tuệ giúp hàng phục nghiệp : Muốn dừng được lực nghiệp, nói cách khác
muốn dừng được Tập, là nhân của khổ, bạn phải có Đạo. Đạo, thô là thiện nghiệp
Trời Người, tế là thiện nghiệp Thanh văn và Duyên Giác, tế nữa là thiện nghiệp
của Bồ tát, thành tựu Phật vị. Đa phần các loại tạp nghiệp đều phải nương về giới,
định, tuệ mới dừng được lực nghiệp. Giới-định-tuệ này cũng phải được huân thành
chủng tử, có lực, mới hàng phục được lực nghiệp. Không thì khó mà xóa được sự
tích tụ của nghiệp đã huân sâu trong tạng thức.
Phải
dựa vào lực của giới-định-tuệ mới hàng phục được lực nghiệp, nên chỉ có phước
báu thôi thì không đủ để hàng phục lực nghiệp. Phước báu đưa đến hoàn cảnh tốt
đẹp cho bạn, tạo thuận duyên cho bạn tránh ác nghiệp, nhưng nếu bạn không ý thức
được gì là thiện để làm, gì là ác để tránh, không biết đến luật nhân quả trả
vay ở thế giới này (tuệ), cũng không có khả năng bình thản hay nhẫn chịu phiền
não khi phải đối đầu với một thói quen (định ), thì điều kiện dù tốt bao nhiêu,
bạn sẽ trơ gan cùng tuế nguyệt. Và có khi, chính những thuận duyên của phước
báu lại khiến bạn tạo tội gây nghiệp. Cho nên, huân tập giới-định-tuệ là việc cần
thiết trong vấn đề chuyển nghiệp.
Nghịch
cảnh, có khi chính là phước báu giúp dừng các nghiệp xấu. Cậu hàng xóm nhà tôi
tuyên bố có thể bỏ vợ, không thể bỏ thuốc. Nhưng nhờ máu nhiễm mỡ, men gan cao…
mà biết thuốc vẫn có thể bỏ. Chỉ do không ý thức nên tự trói mình trong khói
thuốc độc hại. Tuy vậy, việc dừng đó là việc dừng bị động. Mọi thứ có thể tái
diễn nếu chúng ta không ý thức rõ về vấn đề mình đang vướng phải. Định-tuệ luôn là thứ cần thiết trong vấn đề
chuyển nghiệp.
Nguyện,
lực của ý nghiệp : Nguyện là một loại ý nghiệp mang tác dụng tích cực trong
việc thành tựu những gì mà hiện tại bạn chưa thành tựu. Do mong muốn nó được
thành tựu trong tương lai nên ta phát nguyện. Nguyện là thứ không thể thiếu
trong quá trình hành đạo của một vị Bồ tát. Chỉ là một lời phát nguyện, được
vun bồi và trả giá bằng những thiện nghiệp trong hiện tại, nhưng một khi được
phát ra với sự thành tâm thì nó trở thành kim chỉ nam cho con đường mà bạn đang
đi. Cho nên, hãy phát những nguyện mang lợi ích cho mình và cho người, là nhân
của an lành và hạnh phúc. Chớ phát những nguyện mang tính hẹp hòi, ích kỷ v.v..
là nhân của bức ngặt và khổ đau. Tích chuyện vua Lưu Ly phát nguyện tàn sát
dòng họ Thích cũng như những gì Phật đã dạy trong bài kinh Thiên tử Mã Huyết đã
nói lên việc này, sức mạnh của nguyện lực.
Thực
tướng của nghiệp : Nói đến thực tướng
hay thực tánh của nghiệp là muốn nói đến bản chất của nghiệp. Bản chất của nghiệp là gì mà nghiệp có thể
thay đổi, dừng lại và chuyển được ? Bản chất của nghiệp là “ không” nên mọi
hình tướng đều mang tính vô thường, có thể thay đổi, dừng lại và chuyển được.
Sul,
con gái nhỏ của Chang, học trò thuần thành của Ma-tsu. Do căn lành đời trước,
cô đã có được những trãi nghiệp giá trị nhờ vào việc niệm Phật và sau đó là thiền
định, khi còn khá nhỏ.
Một
lần Sul đến thăm Ma-tsu tại chùa của ngài. Ma-tsu hỏi :
-
Trong Phật giáo, từ nghiệp được dùng rất nhiều. Con có nghiệp Phật giáo rất tốt.
Ta hỏi con nghiệp là gì ?
-
Thứ lỗi cho con Đại sư ! Ngài có thể giải thích lại cho con câu hỏi một lần nữa
không ?
-
Trong Tam thừa của Phật giáo, khái niệm nghiệp có thể được hiểu theo cách này
hay cách khác. Ta muốn hỏi con, với con,
nghĩa đích thực của nghiệp là gì ?
- Sul nói cảm ơn rồi im lặng.
- Ma-tsu cười lớn : Một cú lừa rất tuyệt ! Con đã hiểu về nghiệp.
Tướng của nghiệp thì dễ
diễn tả. Mọi tạo tác của thân, khẩu, ý đều gọi là nghiệp. Nghiệp được huân tập
nhiều, tích tụ trong tạng thức thành chủng tử nghiệp. Thành chủng tử rồi, nó sẽ
tạo ra một lực có thể biến hiện ra căn, thân và thế giới của một chúng sanh hữu
tình, như ngủ rồi mộng mà thấy người ta
và mọi cảnh giới khác nhau. Luận Đại thừa Khởi tín và Kinh Lăng Nghiêm mô tả
khá rõ về quá trình này. Nhưng nghiệp mà Ma-tsu hỏi không phải hình tướng đó,
cũng không phải là quá trình đó, ông hỏi về thực tướng của nghiệp. Một thực
tánh không thể dùng lời mô tả được, bởi “ Thực tướng của các pháp/ Tâm hành
ngôn ngữ đoạn”. Phật Tổ tạm dùng chữ “ không” để nói về cái gọi là “ phi tất cả
những hình tướng ” đó mà “ không lìa các hình tướng đó”. Khi tâm bạn “phi” được
mọi hình tướng thì cái không ấy hiện tiền. Bát Nhã Tâm Kinh nói: “ Tướng không
của các pháp, không sinh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.
Cho nên trong tướng không, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức…không
có trí tuệ, cũng không có chứng đắc”. Tướng của tánh không ấy là như vậy. Vì thế
mọi hiện hữu đều không thể dùng để nói về thực tướng của pháp, cũng không thể
dùng sáu thức, sáu căn mà nhận được nó.
Nghiệp là một pháp. Thực
tướng của nghiệp cũng là không, nhưng không phải là cái không đối với có, đối
tượng của căn và thức. Không ấy vượt ngoài mọi nhị biên phân biệt, trong đó có
cặp nhị biên năng và sở, là biết và bị biết. Sul đã tạm dùng sự im lặng để chỉ
về chỗ rốt ráo đó, như sự im lặng sấm sét của Duy Ma Cật. Tuy vậy, không phải mọi
tướng im lặng đều là thể hiện của tánh không đó. Nếu im lặng là thể hiện cho
tánh không thì người câm đều là kẻ chứng đạo. Nhưng khá nhiều người câm không
chứng đạo. Cho nên, phải là thứ im lặng thể hiện được nội dung sâu xa bên
trong. Cũng như khi tôi nói với các bạn về thực tánh, không có nghĩa tánh ấy
chính là những ngôn từ này. Đó chỉ là phương tiện để giúp bạn hình dung ít nhiều
về cái gọi là thực tánh, theo phương pháp loại trừ. Thực tánh không phải không
có mà nó không phải là những gì bạn thấy được. Ngôn từ chỉ là ngón tay chỉ mặt
trăng, còn mặt trăng thì bạn phải tự thấy. Bạn cần phải thấu được sự im lặng ấy
bằng chính nội tâm sâu xa của bạn. Tâm hành ngôn ngữ đoạn. Không phải chỉ có
ngôn ngữ đoạn mà mọi tâm hành cũng phải ngưng dứt. Khi ấy bạn sẽ chứng nghiệm
được thực tướng của nghiệp.
Thực tướng của nghiệp
là không, chỉ do huân tập các tạo tác
thiện ác mà thành có. Nếu không huân nữa thì mọi thứ thành không. Vì bản chất của
nghiệp là không . Lúc đó những gì đã huân tập thành chủng tử sẽ không còn lực để
sinh khởi hay biến hiện. chỉ còn nguyện lực của chư Phật và Bồ tát, do nguyện độ
sanh mà ứng duyên hóa độ. Đó là Hóa thân và Báo thân trong tam thân của Phật.
Kết luận : Dựa vào tính chất của nghiệp mà
ta rút ra được các hệ quả sau : Do thực chất của nghiệp là không nên hiện tướng
của nghiệp là vô thường, việc thay đổi nghiệp nhất định được. Ngay cả định nghiệp,
một loại nghiệp nhân đã có, duyên đã đủ, thì với kinh Niết bàn, tuy quả tướng vẫn
hiện mà sự nhận quả vẫn có thể chuyển khi tâm đã không. Tâm không thì cảnh có
cũng như không. Đây là lý do Phật Tổ dạy người đời sám hối, nhẫn chịu, bỏ ác
làm lành, hàng phục vọng tâm… Sám hối để không còn tạo ác nghiệp. Nhẫn chịu để
đối với những nghịch duyên đã từng tạo nhân, mình không vì đó mà gây tiếp ác
nghiệp. Nhẫn chịu có thể giúp ác nghiệp luôn dừng, thiện nghiệp luôn tạo, là
nhân duyên của phước báu và an lành. Hàng phục vọng tâm để định-huệ được hiển
phát, đó là nhân duyên giúp dừng các tập nghiệp và soi thấu “ ngũ uẩn đều
không”.
Tuy nghiệp có thể chuyển
nhưng do tính huân tập của tâm, nghiệp nào được lặp đi lặp lại nhiều, được tập
quen nhiều thì nghiệp đó mang tính trói buộc và khó dừng được liền, nên ngộ thì
đốn mà tu là phải tiệm. Kinh luận có nói
đến hai loại hoặc, là kiến hoặc và tư hoặc. Kiến hoặc, có thể đốn trừ. Tư hoặc,
phải có thời gian, tuy từ bỏ rồi mà bất giác thì vẫn hiện lại. Tuy vậy mức độ của
nghiệp ấy không còn như trước, như dao động tắt dần của quả lắc đồng hồ. Hành
giả thực hành Bồ tát đạo, nắm được tính huân tập này của nghiệp thì việc tự lợi
và lợi tha thành tự tốt đẹp. Với tật xấu thì cần tạo điều kiện để nó giảm dần.
Với nghiệp tốt cần tạo điều kiện để nó phát huy, huân mạnh.
Hiểu được tính chất của
nghiệp thì thói cuồng thiền cũng sẽ bớt. Bởi không có thứ gì chỉ nói thôi mà
thành tựu được nghiệp lành. Bạn không thể dạy người dứt tâm phân biệt khi bản
thân bạn chất đầy tâm phân biệt, cũng không thể bỏ tâm xan tham khi chỉ khuyên
người bố thí còn bản thân thì không bỏ ra chút gì, chỉ tính chuyện gom vào.
Thói đời không chuyển thì đạo nghiệp khó hiện khởi.Với tập nghiệp, không phải dừng được vài lần là nó đã dứt hẳn, nó sẽ hiện khởi
khi đủ duyên và khi mình bất giác coi thường. Vì thế cần có tâm cẩn trọng với
những tập nghiệp của mình và thông cảm với nghiệp của người.
( Trích : NSGN- số 277-04-2019- Chân Hiền Tâm )
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét