ĐỊNH LUẬT CỦA NGHIỆP
Vì
sao con người sinh ra trong cuộc đời này có sự khác biệt giữa giàu sang và
nghèo khổ, sống lâu và chết yểu, thông minh và ngu muội, xinh đẹp và xấu xí
v.v.. ? Nguyên lý nhân quả sẽ giải thích những vấn đề khác biệt và bất bình đẳng
của loài người và các chúng sanh trong kinh điển Phật giáo. Định luật của nghiệp theo quan điểm Phật giáo
giúp chúng ta sẽ cải thiện được những thắc mắc nghi ngờ trong đời sống hiện tại
và định hướng cho tương lai. Nghiệp được
hình thành theo lộ trình ra sao ? Dựa vào
các kinh luận Pali để triển khai giải
đáp về những nghi vấn trên.
Con người đang gánh chịu những nỗi khổ niềm
đau hay thụ hưởng hạnh phúc an vui trong cuộc đời này đều có nguyên nhân của
nó. Nguyên nhân ấy chính là nghiệp mà bản thân họ đã gây tạo trong quá khứ, dù
quá khứ ấy là thời gian lâu xa từ nhiều đời kiếp trước hay những khoảnh khắc
trước khi hành vi gây tạo vừa kết thúc. Nghiệp liên quan đến vấn đề nhân quả.
Có người chấp nhận nó như một số phận hoặc định mệnh cuộc đời. Từ sự chấp nhận
này, lý thuyết về nghiệp như một nguồn an ủi động viên để những ai gặp khốn
cùng trong cuộc đời biết chấp nhận số phận, đến mức tin tưởng tuyệt đối vào
nghiệp để nhiều khi bị lên án là nhu nhược.
Tuy nhiên, lý thuyết về nghiệp cũng hứa hẹn một kiếp sống hạnh phúc tốt đẹp hơn
cho đời sau theo luật đền bù nhân quả, nếu con người biết cố gắng vượt qua số
phận hẩm hiu của đời này bằng suy nghĩ tích cực và thực hiện những hành động
phước thiện nhằm mang lại lợi ích cho cá nhân và cộng đồng xã hội. như vậy, giữa
hai trạng thái bi quan và lạc quan, tiêu cực và tích cực đan xen trong cách
nhìn nhận về nghiệp trong xã hội các nước phương Đông dưới ảnh hưởng của Phật
giáo.
Đối với những nghi vấn về sự khác biệt và bất
bình đẳng nêu trên, Phật giáo đã đưa ra những giải đáp rất thỏa đáng bằng cách
nhìn sâu vào định luật của nghiệp báo và mối quan hệ nhân quả. Dựa vào những lời
giải đáp của đức Phật trong Tiểu kinh nghiệp phân biệt thuộc Trung bộ, chúng ta
thấy vô số những tình cảnh cấu thành nên vận mệnh con người đều có nguyên nhân
của chúng, không một trường hợp hiện hữu nào mà không phải là quả báo của vô số
nghiệp nhân mà chúng sinh ấy đã tạo ra. Nếu hạt xoài hư hoại gieo xuống đất, nó
không thể nảy mầm để phát triển thành cây xoài sum sê và cho ta trái ngọt; hành
động xấu ác bị thôi thúc bởi tâm ý hiểm độc của đời trước chính là hạt giống và
nguyên do của những điều bất hạnh cho đời nay và đời sau. Cần phải nhận thức rằng,
vận mệnh tốt hoặc xấu cùng những tính chất riêng biệt tiềm tàng khác của một cá
nhân hình thành không thể do ngẫu nhiên mà ắt phải có nhân duyên của nó.
Phật giáo cho rằng, không có bất kỳ bộ phận
sinh lý nào hoặc lĩnh vực tâm lý nào biểu hiện trong con người mà không có
nguyên nhân trước đó; không có bất kỳ cơ thể sống nào được sinh thành, tồn tại và
phát triển mà không tương quan với hoàn cảnh bên ngoài hay môi trường sống xã hội.
Ngoài yếu tố làm nguyên nhân chính, còn phải có các điều kiện phụ trợ khác nữa.
Như cây xoài, ngoài nguyên nhân chính – hạt xoài- còn phải đầy đủ các yếu tố phụ
làm điều kiện như đất, nước, ánh sáng, nhiệt độ, nhân công thì cây xoài mới nảy
mầm, vươn khỏi mặt đất mà sinh trưởng. Cùng nguyên lý đó, sự sinh thành của một
sinh mệnh, một chúng sanh, cũng phải nhờ nghiệp lực đời trước của nó cộng với
các điều kiện phụ trợ thì mạng sống mới hình thành.
Theo quan điểm Phật giáo, sự tái sanh của một
cá nhân, tức phôi thai hình thành trong bụng mẹ đòi hỏi phải có ba điều kiện tất
yếu là : trứng của người nữ, tinh trùng của người nam và nghiệp lực của đời trước.
Nghiệp lực hay còn gọi là nghiệp nặng, trong kinh luận Phật giáo gọi một cách
hình tượng là thân trung ấm hoặc hương linh. Nghiệp lực này là năng lực được
phát huy từ khoảnh khắc sau khi con người chết đi. Nó là một trong ba yếu tố cần
và đủ để cho một sinh mạng mới hình thành. Tinh cha và trứng mẹ chỉ là điều kiện
vật chất cần sinh ra, và quá trình sinh mạng tương lai là sự biểu hiện cụ thể của
nghiệp lực tương quan với đời này. Chỉ có sức mạnh của nghiệp từ đời này chuyển
tiếp đời sau mà không có thứ gì được gọi là ngã hoặc linh hồn bất biến.
Ngã ( ego, self ) mà chúng ta thường gọi, thật
ra tướng của nó chỉ là một quá trình thay đổi không ngừng, nó sinh khởi và mất
đi trong từng khoảnh khắc, từng giờ, từng ngày, từng năm, từng kiếp. Giống như
con sóng xô nhau trên mặt biển, thực tế chỉ là những làn bọt nước mới đẩy làn bọt
nước cũ, lên xuống không ngừng, mà mỗi một lần lên xuống, ngoài việc truyền
phát năng lượng lan truyền của các phân tử nước ra thì chẳng có gì tồn tại
trong đó cả. Nhưng theo thói quen tư duy, người ta mượn khái niệm “ sóng” để chỉ
cho hiện tượng lan truyền của các phân tử nước ấy. Cũng vậy, “linh hồn” hoặc “
ngã” (cái ta) cũng chỉ là khái niệm tạm mượn để chỉ yếu tố tâm lý (năng lực của
tâm) đối lập với yếu tố vật lý (thân xác) của con người. Từ thực tướng rốt ráo
để nhìn nhận về bản chất của sinh mạng, ngoài quá trình sinh khởi, diệt vong
không ngừng của hiện tượng vật chất và tinh thần được khuấy động bởi lòng khát
ái của chúng ra ra,về căn bản chẳng có cái “ngã” nào vĩnh hằng, mà nó chỉ là những
năng lượng chuyển tiếp trong biển khổ luân hồi sinh tử.
Khi tác thành nên một bào thai, trạng thái
tinh thần và phước nghiệp của cha mẹ có ảnh hưởng rất lớn đối với tính trạng của
phôi thai, đặc biệt là tính cách của người mẹ có ảnh hưởng sâu sắc đến tính
cách của thai nhi trong bụng mẹ, nhưng đặc trưng về cá tính hoặc tâm thức của đứa
trẻ hoàn toàn không thể do cha mẹ tạo nên. Đặc điểm di truyền về tế bào mang
tính vật chất trong thân thể của đứa trẻ có thể ảnh hưởng rất nhiều từ cha mẹ
nhưng cá tính của đứa trẻ thì được dẫn sinh và giới hạn bởi nghiệp lực đời trước
của nó. ( có câu nói: cha mẹ hiền đẻ con
dữ, cha mẹ lú đẻ con tiên ). Vì vậy, chúng ta nhìn thấy những anh em trong một
gia đình được nuôi dưỡng, giáo dục như nhau mỗi người phát triển theo thiên hướng
riêng và hình thành nên cá tính khác biệt. Cá tính và thiên hướng ấy do nghiệp
làm nhân tố phát động, cho nên hơn bảy tỷ người trên hành tinh này, số phận
không ai giống ai.
Đa
số dân tộc trên thế giới vẫn duy trì niềm tin về sự luân hồi chuyển kiếp. Niềm
tin này tựa như một thứ trực giác bản năng của con người. Nhiều bậc thánh triết
cũng rao truyền học thuyết về sinh mạng kéo dài sau khi chết. Từ thời viễn cổ đến
nay có thuyết linh hồn chuyển thế và thuyết nhục thân biến thể, như giáo nghĩa
bí mật được người Ai Cập duy trì, học thuyết của Pythagore, Empedocles, Platon,
Plotin, Pascal… và một số tín ngưỡng của
người châu Phi. Nhiều nhà tư tưởng hiện nay cũng đề xướng học thuyết về
quá trình kéo dài mạng sống sau khi chết.
Trong
luận tạng Phật giáo thuộc ngữ hệ Pali thời kỳ đầu đề cập đến “ Hữu phần lưu”.
Trong các sách chú thích đời sau, đặc biệt là Thanh tịnh đạo luận đã tiến hành
giải thích: Hữu phần lưu chính là “ dòng sinh mạng” thuộc về tiềm thức . Xuất
phát từ dòng sinh mệnh nên nguyên lý của luân hồi được lý giải thấu đáo. “Hữu
phần lưu” là tiền đề để giải thích về thuyết luân hồi, nghiệp, ký ức kiếp trước…nhưng
mãi cho đến nay, hàm nghĩa cơ bản của nó vẫn chưa chưa được các học giả phương
Tây nhận thức và lý giải đầy đủ. Hữu phần hoặc Hữu phần lưu mặc dù không hoàn
toàn mang tính chất tương đồng nhưng rất gần gũi với khái niệm linh hồn hoặc hạ
ý thức mà các nhà Tâm lý học hiện đại đề cập, nhưng tuyệt nhiên không giống với
thuyết linh hồn vĩnh cửu của Ki Tô giáo. Có thể nhận định ngắn gọn như sau: Hữu
phần lưu là quá trình ý thức tồn tại tiềm tàng trong dòng biến hóa vô tận của
thế giới vật lý và tâm lý. Hay nói cách khác, dòng sinh mệnh tiềm ý thức là điều
kiện tất yếu cho tất cả mạng sống xuất hiện. Tất cả các dấu ấn và kinh nghiệm đều
lưu trữ trong tiềm thức ấy. Hoặc nói khái quát hơn, sự biểu hiện của tiềm ý thức
mang hình tượng quá khứ, hình ảnh ký ức lưu trữ sâu kín bên dưới hiển ý thức.
Các nhà Duy thức học Phật giáo gọi là Hữu phần lưu tức là thức A-lại-da, tức
kho tàng chứa đựng. Rất nhiều thiên tài xuất chúng thành công trong cuộc đời đều
xuất phát từ những biểu hiện của tiềm ý thức này.
Dòng
sinh mạng tiềm ý thức hay còn gọi là sự tồn tại của hữu phần lưu là tiền đề tất
yếu của tư duy chúng ta. Giả sử tất cả những kinh nghiệm bản thân về sự vật nội
tại và ngoại tại, như những điều được thấy, được nghe, được cảm nhận, được xúc
chạm, được suy nghĩ,… nếu không dùng một phương thức ngoại lệ nào đó để ghi nhớ
lại ở một chỗ nào đó, và giả sử các phương thức trong hệ thống thần kinh cực kỳ
phức tạp thì chúng ta không thể ghi nhớ gì được. Chúng ta sẽ bị xóa sạch tất cả
mọi dữ liệu được ghi nhận từ những giây phút trước đó, cũng không biết tình trạng
tồn tại của các sự vật hoặc sinh vật khác, không biết cha mẹ, thầy cô, bạn bè
chúng ta là ai, thậm chí không thể tư duy, vì tư duy là yếu tố chịu sự quyết định
bởi ký ức đã từng kinh nghiệm trước đó. Trong trường hợp này, tâm thức chúng ta
hoàn toàn rỗng rang giống như một tờ giấy trắng, thậm chí vẫn chỉ là một khoảng
trống so với tâm lý của phôi thai trong kiếp sống mới.
Như
vậy, dòng sinh mạng tiềm ý thức này- tức hữu phần lưu, có thể gọi là chủng tử
trầm tích lắng đọng từ những kinh nghiệm hành vi trước đây của chúng ta, diễn
tiến từ vô thủy đến hiện tại và cho đến mãi về sau. Cho nên cái mang tính chất
nội tại của con người và chúng sinh khác chính là dòng sinh mạng tiềm ý thức mà
xưa nay chúng ta vẫn chưa khám phá được hết. Ấn tượng hay công năng được lưu trữ
trong tiềm ý thức hay trong hữu phần lưu để dẫn sinh ra kết quả tương lai, Phật
giáo gọi là nghiệp lực.
Ý
niệm về nghiệp vận hành theo nhân quả không những có nguồn gốc từ Ấn Độ cổ đại,
xuất hiện trong các tín lý căn bản của Ấn Độ giáo, Phật giáo, Kỳ na giáo, đạo
Sikl mà còn được nói đến trong Thánh
kinh Thiên chúa giáo : “ Thiên chúa không để cho người ta nhạo báng đâu ! Thật
vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều
xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt hư nát. Còn ai gieo Thần khí mà
gieo điều tốt, thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời. Khi làm
điều thiện, chúng ta đừng nản chỉ, vì đến mùa chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn
lòng” “ mắt đền mắt, răng đền răng”. Mối quan hệ nghiệp nhân và quả báo trong
tư tưởng Ấn Độ cổ đại tương tự sự cân bằng trong phương trình phản ứng hóa học,
hoặc tương đương năng lượng được bảo toàn trong hệ thống khép kín của vũ trụ.
Nếu
tư duy theo nguyên lý dịch chuyển của khoa học hiện đại để suy diễn về trạng
thái tồn tại của vạn vật thì nghiệp như một thứ năng lượng được bảo toàn. Năng
lượng được phát ra thông qua hành vi, ngôn ngữ, suy niệm của một chúng sanh
không bao giờ mất đi, mà nó sẽ được chuyển từ cơ thể này sang cơ thể khác, từ đời
này sang các đời khác về sau. Tuy nhiên, đối với thế giới vật chất, năng lượng
thay đổi trạng thái tồn tại của nó, tức được truyền đi từ vật này sang vật thể
khác là hiện tượng vật lý người ta có thể đo đạc được, nhưng năng lượng hoặc
năng lực của ý chí, của tâm linh, tức nghiệp, được truyền đi như thế nào, thay
đổi ra sao và được bảo toàn như thế nào để hình thành nên kết quả của nó khi điều
kiện thành thục, thì chúng ta khó có thể suy diễn theo lộ trình nguyên lý của
thế giới vật chất. Đến thời điểm hiện tại, các nhà khoa học trên thế giới chưa
thể khẳng định rằng mình có thể nhận thức được toàn vẹn sự vật hiện tượng trong
vũ trụ, mà họ chỉ nhận thức và lý giải được một phần rất nhỏ của sự vận hành vạn
vật trong thế giới mênh mông này. Những vấn đề mang tính vật chất mà khoa học
hiện đại còn chưa giải quyết được hết thì những vấn đề về tâm thức, hoặc tâm
linh tiềm ẩn sâu kín trong các cảnh giới chúng sanh khác biệt khó có thể trắc
lượng bằng công cụ đo đạc và các quan năng con người. Tuy nhiên, cánh tay không
phải là mặt trăng nhưng nhờ vào cánh tay chỉ hướng mà người ta có thể thấy được
mặt trăng. Ngôn ngữ không phải là thực tại nhưng nhờ ngôn ngữ diễn đạt mà chúng
ta có thể thấy được một phần của chân lý. Nhìn vào số 0, chúng ta sẽ không thấy
gì, nhưng xuyên qua số 0 chúng ta sẽ nhìn thấy được tất cả.
Ý nghĩa gốc của nghiệp
(karma) là hành động, cho nên bất kỳ hành động (action) nào cũng có thể dẫn đến
một lực phản động (reaction) tương ứng. Chẳng hạn, ném quả bóng vào tường với một
lực thế nào thì quả bóng sẽ dội lại với một lực tương ứng thế đó, dùng tay bẻ
cong cành cây với một lực khá mạnh thì cành cây sẽ bật trở lại với sức mạnh
tương ứng, nhún chân trên mạn thuyền để lấy sức nhảy vào bờ thì chiếc thuyền bị
dịch chuyển xa bờ tương ứng với lực nhún… Theo cách hiểu thông thường, khi một
người gây hại cho người khác như thế nào thì lực gây hại đó cũng tác động trở lại
với chính chủ thể gây ra. Như vậy, đối với thế giới vật chất, lực tác động và lực
xảy ra đồng thời. Nó phù hợp với Định luật thứ 3 cuả Newton : “ Khi vật A tác động
lên vật B một lực, thì vật B cũng tác động lại vật A một lực. Hai lực này có
cùng giá trị, cùng độ lớn, nhưng ngược chiều ”.
Nghiệp nhân là các
hành vi thiện hay bất thiện được tích lũy trong đời này để cho ra kết quả trong
đời sau và nhiều đời sau nữa khi điều kiện thành thục. Thế nhưng, hành vi tạo
nghiệp của con người thuộc lãnh vực tinh thần, là phạm vi hoạt động của ý thức,
tức lực phát ra từ sức mạnh ý chí bởi sự đam mê, ưa thích hay ghét bỏ, thù hận
các đối tượng và các kết quả không hoàn toàn xảy ra đồng thời, thậm chí nghiệp
nhân gậy tạo và nghiệp quả nhận lãnh cũng không tương ứng về hình thức. Chẳng hạn,
ông A gây hại cho ông B, có thể ông B không phản ứng tức thì mà đợi một thời
gian lâu sau đó mới trả thù, có khi đến đời con và đời cháu; một người phạm tội
sát nhân, quả báo không đến liền tức thì hoặc quả báo đến không tương xứng, mà
nó đến trong kiếp sau hoặc nhiều kiếp sau nữa, hoặc hình thức của quả báo khi
nhận lãnh khác hẳn với hình thức khi gây tạo.
Chẳng hạn, ông A phạm tội giết người nhưng ông A không bị người khác giết
lại, mà có thể bị pháp luật tử hình ( tuy đối tượng trả thù bị thay đổi nhưng kết
quả tương xứng với nghiệp nhân); hoặc bị phạt tù khổ sai, bị phạt tiền hay bị
xã hội lên án (hình thức của kết quả bị thay đổi so với nghiệp nhân). Vì ý thức
hay ý chí con người không phải là vật có hình thể để chiếm trọn một khoảng
không gian nào nhất định nên lực của nó không có phương như lực của vật có hình
thể.
Động cơ chính của việc
tạo khởi tạo nghiệp là ý hoặc ý thức. Ý khởi động nghiệp thông qua chức năng của
nó là tư tâm sở (cetana), từ này được
dùng trong tiếng Anh là volition (ý chí) hoặc free will (ý chí tự do). Ý chí
chính là sự quyết định thực hiện hay không thực hiện mang tính chọn lựa thông
qua hành vi và lời nói, và ý chí này là lực phát động tiến hành tạo nghiệp.
Trong tâm lý học Phật
giáo, khi sáu căn (cơ quan cảm giác) tiếp xúc với sáu trần (đối tượng bên
ngoài) sẽ sinh ra sáu thức (chức năng nhận biết). Tất cả sáu thức đều có hoạt động
tác ý, tức trạng thái cảnh giác, lưu tâm. Sáu thức này là chủ thể của các hoạt
động cảm giác, cảm nhận, tư duy, phán đoán và quyết định chọn lựa; tức bao gồm
các chức năng thọ, tác dụng lãnh nạp ba cảnh khổ, vui, không khổ không
vui, tưởng, tác dụng tưởng tượng, phán đoán sự vật, tư, tác dụng
tạo tác các nghiệp. Đây là những yếu tố có mặt trong tất cả các hoạt động của
sáu thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức) mà Duy
thức học Phật giáo gọi là Đại địa pháp. Trong đó, tư ( cetana) được đa số các học giả Phật giáo phương Tây đồng
nhất với từ ý chí (volition) hoặc ý muốn (will). Nghiệp có nghĩa là ý chí hoặc
ý muốn.
Khi nói đến nghiệp được
tạo tác bởi hành động, lời nói có sự tham gia của ý chí, chúng ta cũng cần nói
rõ thêm khái niệm và chức năng của tâm.
Tâm do gốc động từ cit
hay cint, nghĩa là tích chứa, tích lũy, tư duy, suy tưởng. Tâm là cái tích tập,
như kinh Hoa nghiêm nói : “ Tích tập danh tâm”. Như vậy, tâm tích tập cái gì ?
Nó tích tập những kinh nghiệm đời sống, những gì đã từng trải, bằng hành động
và suy nghĩ, nó tích lũy lại thành tâm. Tâm đó chính là nghiệp, là hành vi,
hành động của con người. những gì mà con người làm, nói năng, suy nghĩ, hoặc
thiện, hoặc bất thiện, nó không bao giờ mất nó thay đổi trạng thái tồn tại.
Nghiệp là nguồn năng lượng được tích lũy trong kho chứa gọi là tâm, biểu hiện
ra ngoài bằng hành vi của thân và khẩu, hướng thân và khẩu đến mục tiêu theo hướng
được xác định bởi lực đẩy ban đầu từ tâm. Chỗ tồn tại của nghiệp là nương trên
sắc thân của đời này. Khi sắc thân này tan rã thì ngay lập tức nó sẽ xuất hiện
nơi sắc thân khác thích hợp làm chỗ nương tựa để tồn tại. Như vậy, nghiệp quá
khứ (tức tâm tích lũy) kết hợp với sắc thân hiện tại, mà ta thường gọi là gene
di truyền, cả hai cùng biến đổi để trở thành một sự sống mới.
Như vậy, nghiệp tồn tại
ở đâu và chuyển dịch từ đời này sang đời khác bằng cách nào ?
Bất cứ hành vi nào được
thực hiện với ý định gây lợi hay hại cho các chúng sanh khác, và hành vi ấy nhất
định sẽ dẫn đến kết quả ở đời sau và nhiều đời sau nữa, thì hành vi ấy được gọi
là nghiệp đạo, khi ý thức bị tác động bởi các đối tượng bên ngoài hay sự phản ứng
tâm lý bên trong, nó quan sát và suy nghĩ rồi đi đến quyết định chọn lựa phải
làm gì. Quyết định này trực tiếp điều khiển thân và miệng hoạt động với ý đồ
thiện hay bất thiện. Khi mục đích nhắm đến được thực hiện, thì ngay trong khoảnh
khắc ấy, nghiệp đạo được hình thành. Nó định hướng hoặc định hình cho kết quả
trong tương lai. Ý thức hay ý muốn có năng lực vô biên, có thể chọn lựa hoặc
quyết định bất kỳ thứ gì mà nó muốn. Hoạt động của ý muốn tiếp diễn tạo thành
dòng chảy liên tục. Do thường xuyên lặp lại nên ý chí quyết định càng ngày càng
tăng trưởng. Dòng chảy liên tục của ý chí thay đổi một cách vi tế, cho đến một
thời điểm huân tập cao độ thì nó đủ năng lực điều khiển mọi cử động của thân và
miệng. Mặc dù ý thức hoặc ý chí như vậy có năng lực tự tại nhưng nó không phải
là nhân tố tạo nghiệp trực tiếp, mà thông qua ý định phát khởi của ý chí thì
thân và miệng tạo nghiệp. Thân, miệng tạo nghiệp sẽ tác động trở lại đối với
tâm. Như vậy, tiến trình từ khi ý chí phát động cho đến khi đạt đến mục đích cuối
cùng thì gọi là nghiệp đạo, như trong luân Tỳ bà sa nói : “ý chí ( tư cetana)
chính là nghiệp”. Con đường mà ý chí hoạt động để đạt đến mục đích cuối cùng của
nó, gọi là nghiệp đạo.
Mọi chúng sanh đều có
khát vọng sinh tồn, Phật giáo gọi đó là ái, nói cho đủ hơn là khát ái. Khát vọng
này, đối với loài người thì nó là yếu tố thuộc tâm thức, vì con người có ý thức,
nhưng đối với loài sinh vật chỉ có mạng căn và thân căn thì nó thuộc về bản
năng sinh tồn, nhờ bản năng sinh tồn mà loài vật tự động vươn đến những dưỡng
chất phù hợp để tồn tại. Xét về bản chất, khát vọng sinh tồn đó là yếu tố dị thục,
di truyền của nghiệp đời trước kết hợp với gene di truyền của cha mẹ hiện tại.
Ái là yếu tố phát triển từ tâm lý và vật chất ( danh sắc ). Trong duyên khởi 12
chi phần thì thức là yếu tố để hình thành nên danh sắc. Thức ở đây là nghiệp
quá khứ, kết hợp với tinh cha trứng mẹ mà hình thành nên một hợp thể dị thục
không thể tách rời. Khi hợp thể tâm lý và vật chất của đời hiện tại tan rã thì
sự sống chấm dứt nhưng năng lực của chúng vẫn còn lưu lại cho đời sau. Chính
năng lực này là hạt giống, được xem như là nghiệp được tích lũy. Nếu hạt giống
không được tưới tẫm thì không thể phát triển để nẩy mầm. Cũng vậy, hạt giống
nghiệp nếu không được tưới tẫm bởi nguồn nước khát ái thì sẽ không nẩy mầm
thành sự sống. Do khát ái mà mọi sinh vật cần chiếm hữu và tích lũy, và từ tâm
lý này mà diễn ra một chuỗi quá trình tạo nghiệp thiện hay bất thiện. Tích lũy
để tạo thành, duy trì đời sống này và đồng thời cũng dự tính cho tương lai, một
đời hoặc nhiều đời sau. Nếu hành động vì mục đích sinh tồn mà không gây lợi ích
hay làm tổn hại đến mình và chúng sanh khác thì không cấu thành nên nghiệp đạo,
mặc dù được tưới tẫm bởi ái.
Trong nhận thức thường
nghiệm, có một chủ thể tâm lý của các hoạt động nhận thức mà người ta gọi là
ngã. Ngã là chủ thể của ký ức và cũng là chủ thể của tái sinh. Phật giáo không
công nhận có một tự ngã tồn tại, vì nó chỉ là khái niệm xuất phát từ ảo ảnh về
chuỗi tương tục của tâm thức. Để dễ dàng mường tượng về quá trình hoạt động của
ký ức, các luận giả của bộ phái Phật giáo giả thiết rằng, trong nhận thức con
người, các uẩn tạo thành ảo tưởng về ngã, các uẩn này sinh diệt tương tục.
Nhưng bên dưới hiện tượng sinh diệt này tồn tại các uẩn mà chúng ta không thể
nói là gián đoạn hay thường hằng. Đối với một sự kiện, một biến cố hay một hiện
tượng mà thường xuyên lặp lại thành thói quen, thói quen này tạo thành một năng
lực. Khi nhận thức một đối tượng bằng mắt, nó được truyền thông tin qua mắt,
sau đó đối tượng này biến mất nhưng nó lưu lại hình ảnh trong ký ức. Khi nhớ lại,
đối tượng này được truy lục từ ký ức vốn đã lưu trữ thành ấn tượng thói quen mà
chẳng phải đối tượng từ ngoài đưa vào như trước kia, nhưng nó đồng loại với đối
tượng trước kia. Như vậy cái ta thấy trước đó và cái ta nhớ lại trong hiện tại,
mặc dù cả hai không đồng nhất về tự thể nhưng do tính chất đồng loại và tương tự
nên gây một ảo giác cả hai là một.
Trong tâm lý học, có
hai loại ký ức: ký ức ngắn hạn diễn ra trong vài giây đến chừng một phút, và ký
ức dài hạn không hạn chế thời gian. Ký ức do thấy và nghe chỉ là ký ức tạm thời,
chỉ diễn ra trong hiện tại, vì nhận thức bởi mắt và tai không hoạt động trong
quá khứ và tương lai. Nhưng những hình ảnh được thấy và âm thanh được nghe có
thể được ý thức ghi nhận và lưu trữ trong thời gian dài. Nếu xác định được nơi
lưu trữ của ký ức thì chúng ta cũng có thể biết được nơi tích lũy của nghiệp.
Ấn tượng được lưu trữ,
chúng ta thường gọi là ký ức, mà Duy thức học Phật giáo gọi là tập khí (vasana)
và quá trình mã hóa thông tin để lưu trữ được gọi là huân tập (bhavana). Tập
khí là công năng được lưu trữ để dẫn sanh ra kết quả trong tương lai. Nó còn có
tên gọi là chủng tử (bija), tức hạt giống, có khả năng sinh ra các hiện tượng vật
chất và tinh thần. Như vậy, công năng được lưu trữ trong thức a-lại-da để đến
khi nhân duyên thành thục thì sẽ cho ra kết quả tương ứng.
Nơi mà nghiệp lưu trữ,
theo Thượng tọa bộ thì đó là hữu phần thức, còn theo các nhà Du già hành tông
thì đó là a-lại-da thức. Thức này có hai tác dụng: Duy trì thân có căn và thế
giới tự nhiên. Tức một phần của nó vốn là chủng tử lắng đọng từ cộng nghiệp hòa
tan với các thức a-lại da khác để duy trì sự tồn tại của thế giới, như mặt trời,
mặt trăng, tinh tú, đất đai, sông núi…để có thể mình và người khác cùng thụ dụng,
gọi là tướng chung. Một phần còn lại là các chủng tử trầm tích lắng đọng từ biệt
nghiệp kết hợp cơ thể chúng sanh để duy trì sự sống của mỗi cá nhân, gọi là tướng
riêng. Khi thân này và thức a-lại-da đến hết kỳ hạn kết hợp nhau thì thân thể sẽ
trở về với đất, nước, lửa, gió, còn thức a-lại-da tức khối lắng đọng trầm tích
của nghiệp sau khi tan rã thân này, nó sẽ gắn kết ngay với thân khác, để tiếp tục
đời sống khác trong vòng xoay chuyển bất tận. Giống như trái xoài rơi rụng xuống
đất, phần vỏ, thịt và hạt của trái xoài đều bị tan rã, phân hủy và kết hợp với
các vi sinh vật để trở thành đất, hay nước, rồi chúng kết hợp với đất, nước
khác để làm dưỡng chất cho cỏ cây, hoa lá khác tiếp tục sinh trưởng. Riêng mầm
giống trong hạt xoài cũng biến chuyển, phân rã khỏi các thứ kia để kết hợp cùng
với đất, nước, ánh sáng mà nảy mầm, sinh trưởng thành cây xoài và ra hoa kết quả.
Vòng luân chuyển này xoay vần bất tận.
Theo định nghĩa căn bản
, tất cả mọi hành vi đều dẫn đến một kết quả nào đó nhất định : hoặc thiện hoặc
ác, hoặc vô ký. Hành vi mang tính chất thiện sẽ dẫn đến kết quả được cảm thọ
vui, hành vi mang tính chất bất thiện sẽ dẫn đến kết quả được cảm thọ khổ, hành
vi mang tính chất vô ký sẽ dẫn đến kết quả được cảm thọ không khổ không vui.
Các hành vi động thái sinh hoạt thường ngày, như đi, đứng, nằm ngồi, các thao
tác luyện tập, các hoạt động nghệ thuật, võ công, họa vẽ, ca hát…không bị thúc
đẩy bởi tham, sân, si hay vô tham, vô sân, vô si, mà chúng chỉ là tập quán,
không dẫn đến kết quả dị thục là vui hay khổ trong đời này và đời sau, gọi là
vô ký. Tuy nhiên, bước đi bình thường là bản năng thường tình không tạo nghiệp,
nhưng bước đi để thực hiện mục đích sát nhân hay trộm cướp, đi như vậy là có sự
tiến hành của nghiệp đạo bất thiện về sát hại hoặc trộm cướp. Vẽ tranh hoặc tạc
tượng Phật với tâm cung kính, để tôn thờ trang nghiêm, khiến mình và người phát
khởi tâm hoan hỷ thì hành vi này sẽ được tác động bởi ý chí tương ứng với tâm
thiện, sẽ đến thiện quả, đáng khen ngợi. Còn luyện tập võ nghệ với mục đích
nâng cao thể chất, hoặc vẽ tượng Phật để thưởng ngoạn, trang trí, buôn bán đổi
chác, những thao tác này thuộc về công xảo, nên thuộc về loại vô ký. Nhưng
trong các kinh, đức Phật thường giới hạn ý nghĩa về nghiệp trong một phạm vi hẹp,
những hành vi nào không mang tính chất thiện hay bất thiện và không dẫn đến kết
quả dị thục thì hành vi ấy không được gọi là nghiệp.
Nói chung đi đứng nằm
ngồi, tập luyện thể thao, họa vẽ ca hát được xem như là cử chỉ hay hoạt động tự
nhiên tạo thành thói quen của thân thể hay lời nói trong đời hiện tại. Chúng có
thể là những ký ức dài hạn nhưng chỉ có giới hạn trong đời này, khi thân thể
tan rã thì loại ký ức này cũng mất đi. Chúng là nghiệp vô ký, không dẫn đến quả
dị thục. Việc luyện tập thể thao hay luyện tập ca hát đơn thuần chỉ là mục đích
duy trì sức khỏe, làm đẹp cơ thể, thưởng ngoạn giải trí mặc dù bị tác động bởi
khát ái, tức khát vọng sinh tồn hay bản năng sinh tồn, nhưng chúng không thành
nghiệp đạo, vì không gây ích lợi hay tổn hại cho mình và cho các chúng sanh
khác để dẫn sinh hậu quả tồn tại cho đến đời sau.
Không phải tất cả mọi
cảm thọ trong đời hiện tại mà một chúng sinh gặp phải đều do nghiệp dẫn sinh,
vì nghiệp chỉ là một trong những nguyên nhân dẫn đến khổ thọ trong hiện tại.
Trong kinh Sivaka, du sĩ Sivaka hỏi đức Phật rằng : “ Thưa tôn giả Gotama, có một
số Sa môn, Bà la môn thấy và nói như sau : ‘ Tất cả những cảm giác gì mà con
người cảm nhận, hoặc cảm nhận vui, cảm nhận khổ, hay cảm nhận không khổ không
vui; tất những cảm nhận ấy đều do nhân đã làm trong quá khứ. Ở đây, Tôn giả
Gotama nói như thế nào ? ”
Đức Phật không chấp nhận
mọi thứ mà con người cảm nhận khổ hay vui trong đời này đều là kết quả của quá
khứ. Vì vậy, Ngài khẳng định quan điểm trên của các Sa môn, Bà la môn đều là tà
thuyết. Vì có tám nguyên nhân dẫn đến cảm nhận khổ trong đời này, như cơ thể
không điều hòa, hoặc mang vác nặng, hoặc bị thời tiết trái mùa, hoặc bị giặc cướp
tập kích thình lình…Cho nên, không phải tất cả những tai họa hoặc cảm nhận
không hài lòng xảy ra trong đời đều do nghiệp dẫn sinh mà có thể do chúng ta bất
cẩn, hoặc tự làm hại, hoặc kẻ khác hại, hoặc đương đầu với những thứ mà khả
năng bản thân bất kham, hoặc đến từ những nguyên nhân khác.
Từ việc tìm hiểu sơ bộ
về hiển ý thức, hạ ý thức hay tiềm ý thức của Tâm lý học ở phần đầu, chúng ta dần
dần thâm nhập vào các hiện tượng tâm lý trong Duy thức học Phật giáo. Mặc dù luận
tạng A-tỳ-đạt-ma phân tích các tầng sâu của tâm thức con người khá chi tiết
nhưng tiến trình hình thành nên sự nhận thức, ký ức, tích lũy nghiệp đều diễn
tiến theo ba phạm trù, đó là tâm, ý và thức. Cái được chứa trong tâm là nguồn
năng lượng, mà Duy thức học gọi là chúng tử, hạt giống, hạt năng lượng. Những hạt
giống năng lượng này tồn tại trong trạng thái sinh và diệt qua từng khoảnh khắc,
tạo thành một hình ảnh như dòng thác liên tục chảy. Những hành vi của thân và
khẩu chỉ là những vận động tự nhiên, không mang giá trị đạo đức, không xác định
thiện hay ác. Nhưng khi có sự điều khiển của tâm hướng lợi hay hại thì lúc này
hành vi của thân và miệng mới nhuốm màu thiện hay bất thiện, ta gọi là nghiệp
thiện và nghiệp bất thiện. Hành vi ấy tác động trở lại tâm và biến đổi nó. Đó
là sự tích lũy của nghiệp.
Tâm có ba tầng : 1. Tầng
biểu hiện bên ngoài, như hoạt động của ý thức cùng năm giác quan; 2. Tầng trung
gian, hoạt động luôn luôn chấp ngã, là thức mạt-na; 3. Tầng đáy, là thức a-lại-da,
nhận thức của nó là duy trì mối quan hệ tồn tại của thân, tâm và thế giới.
Chúng ta không nhận thức được tâm là như thế nào mà chỉ biết được những biểu hiện
thông qua hoạt động của nó, gọi là tâm sở. ( ví như trong một quốc gia có :
Vua, quan và dân : Tâm, ý và thức. Ông vua giữ sự tồn tại của đất nước, vua như
thức A-lại –da, quan như thức mạt-na, còn dân như thức thứ sáu (sáu giác quan).
Tâm là sự tích tập, sự
tích lũy những kinh nghiệm. Mà kinh nghiệm là hoạt động của nghiệp, nghiệp tạo
ra thế gian, nhưng chúng ta không thể thấy được, không thể hiểu được tâm cấu tạo
như thế nào, mà chỉ nhìn qua hiệu quả, tức là tác dụng mà nó gây ra trong mọi sự
vật tồn tại ở đời này.
Ý là phạm trù hoạt động
của tư tưởng, tư duy, những hoạt động của tâm lý như suy lường, ước lượng, phán
đoán… Nói chung, ý là hoạt của một cái tôi, tức chủ thể chấp ngã. Trong nhiều
tín ngưỡng tôn giáo, cái tôi hay bản ngã được hiểu là linh hồn nằm trong thân,
hoặc nó to bằng thân, hoặc nó nhỏ bằng hạt cát. To bằng thân vì khi nhổ một sợi
lông thì toàn thân đau đớn, khi hồn lìa khỏi xác thì xác chết nằm trơ không hay
biết gì; nhỏ như hạt cát vì khi nhổ sợi tóc trên đầu hay châm mũi kim ở chân
thì cả hai cùng đau một lúc, chứng tỏ linh hồn vận chuyển rất nhanh trong cơ thể,
Phật giáo không thừa nhận có một linh hồn tồn tại như vậy.
Thức là thứ nhận biết
được đối tượng, Chúng ta có thể kinh nghiệm và chứng minh được bằng hoạt động của
sáu thức: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Đây là những hoạt động nhận thức thường
nghiệm bằng các giác quan. Trong khi đó, tâm và ý thức thuộc về thức siêu nghiệm,
tức không thể nhận biết bằng các giác quan thường ngày.
Thế giới được hình
thành như thế nào, tốt hay xấu, đều được tích lũy bởi tâm, được chứa đựng trong
tâm. Tâm ở đây chính là thức a-lại-da , là kho tàng chứa đựng tất cả các chúng
tử và hiện hành thiện bất thiện, và vô ký. Vì vậy, trong các kinh điển Nguyên
thủy, đức Phật thường dạy: “ Chúng sanh là kẻ thừa tự của nghiệp”.
Nghiệp và nghiệp lực
như vậy quả thật không thể suy lường hết được công năng và sự biểu hiện của nó.
Nghiệp vận hành theo quy luật nhân quả, nhưng không thể hiểu một cách giản đơn
như câu nói “ gieo nhân nào gặt quả đó” được, mà nó vận hành liên quan đến quá
trình nhận thức, hành vi, ngôn ngữ kết hợp với thân thể vật lý và yếu tố tâm lý của chúng sanh nói chung và con người
nói riêng. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không vướng bận cấu nhiễm,
đức Phật đã nói với Bà la môn Niganthaputta Saccaka trong Đại kinh Saccaka.
“ Ta biết rõ rằng chúng
sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất
hạnh đều do hành nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời
nói và ý nghĩ, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp tà kiến những
người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa
ngục. Còn những chúng sanh nào làm những thiện hành về thân, lời nói, và ý
nghĩ, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chính kiến, tạo các nghiệp theo chính
kiến, những vị này sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú,
cõi trời, trên đời này”.
Tóm lược : Qua các
trình bày trên tiêu đề về Định luật của nghiệp. Định nghĩa về nghiệp, nguyên
nhân khiến con người khác biệt và bất bình đẳng, các nghi vấn và giải đáp về
nghiệp, sự vận hành của nghiệp, cách phân loại nghiệp theo chức năng, kết quả
thời gian, không gian trong kinh tạng. Phạm trù của nghiệp mênh mông bát ngát
không thể diễn tả hết được, nhưng với đề mục ngắn gọn này, người đọc có thể nắm
bắt được nội dung về nghiệp, chứa đựng nhiều đề mục quan trọng để chúng ta hiểu
được cách vận hành của nghiệp. Giúp người đọc xác định mục tiêu để chọn lựa
hành vi của mình, tránh gây tạo nghiệp bất thiện, giúp hành giả định hướng cảnh
giới an lành cho cuộc sống hiện tại và mai sau, và nhiều đời sau và tiến đến mục
tiếu giải thoát giác ngộ.
Hầu mong đem ánh sáng
chân lý của đức Phật soi rọi chốn nhân gian để xóa tan bức màn vô minh và tà kiến.
Nguyện đem tình thương và hạnh phúc được đong đầy trong tâm hồn những sinh linh
mang dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn trên hành tinh này luôn luôn được an
lạc và hạnh phúc.
Trích
từ tập “Định luật của Nghiệp ” Việt dịch:
Thích Hoằng Trí.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét