THIỀN VÀ TỊNH
Có
Thiền không Tịnh độ
Mười
người tu chín người lạc lộ
Không
Thiền có Tịnh độ
Muôn
người tu, muôn người thoát khổ.
Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ là một thiền sư chứng ngộ thiền,
nhưng lại xiển dương Tịnh độ, ngài có đưa ra bốn bài kệ so sánh giữa Thiền và Tịnh,
gọi là “ Tứ liệu giản”. Một trong “ tứ liệu giản ” như sau :
Hữu
Thiền hữu Tịnh độ
Du
như đới giác hổ
Hiện
thế vi nhân sư
Lai
sanh tác Phật Tổ
Có
Thiền có Tịnh độ
Giống
như hổ mang sừng
Hiện
đời làm thầy người
Mai
sau làm Phật, Tổ
Không những một Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ khởi xướng xiển dương Thiền Tịnh
song tu, mà có rất nhiều thiền sư lỗi lạc cũng xiển dương Tịnh độ. Những vị đã
chứng ngộ Thiền và lại khai thị pháp môn Tịnh độ khó tin, cực lực chủ trương
Thiền Tịnh song tu, giống mạnh như hổ mà còn thêm mang sừng.
Và từ “ Tứ liệu giản” này thiền
sư Tế Năng , hiệu Nhất Hắc Tử, thuộc
dòng Lâm tế, sống vào đời Thanh, Trung Quốc, biên soạn ta tập: “ Giác hổ tập
”. Giác hổ tập nội dung ghi chép
lại những lời dạy thiết yếu của các thiền sư xiển dương Tịnh độ. Mục đích của
tác phẩm này là muốn làm cho người tu Thiền tông không còn dám khinh thường Tịnh
độ, người tu Tịnh độ không chê bai Thiền tông.
Như vậy, tổng cộng tác phẩm này đã giới thiệu về hành trạng và pháp ngữ
thiết yếu về pháp môn Tịnh độ của 59 vị tăng và tục đã chứng ngộ thiền.
Nói đến Thiền là nói đến đạo Phật,
vì Đức Phật từ khi khởi sự tu cho đến thành Chánh Đẳng Chánh giác đều từ Thiền
tập mà nên. Bây giờ các Thiền sư lại khởi xướng Thiền chuyển qua Tịnh độ vậy có
mâu thuẫn và lạc đường không?
Vì lý do gì mà các Thiền sư chuyển hướng qua Tịnh độ. Vì Thiền có nhiều lối
: Phật thiền, Đại thừa thiền, tối thượng thừa thiền, Tiểu thừa thiền, tổ sư Thiền,
ngoại đạo thiền, phàm phu thiền, rất nhiều lối tu thiền. Thiền lại có sự chứng ngộ qua nhiều tầng lớp,
như Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ
thiền. Rồi quả vị tu chứng : Tu đà hoàn, Tư đà hoàn, A na hàm, A La hán. Với
căn cơ và trình độ con người của thời đại cách Phật xa thánh tu để chứng các tầng
bậc thiền nói trên rất là khó đạt, rất dễ đi lạc vào Phàm phu thiền và ngoại đạo
thiền. Vì thế các thiền sư nhận thấy con đường tu pháp môn Tịnh độ an toàn và
không mất phần một ai, nên khởi xướng Thiền Tịnh song tu.
Tu Thiền khó tu hơn tu Tịnh mà lại dễ lạc đường nếu không có minh sư hướng
dẫn, tu để đạt đến quả vị cuối cùng phải trải qua nhiều thời gian, như Đức
Thích Ca Mâu Ni phải trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp mới thành Chánh Giác. Vì con đường
khó đi khó đến nên Phật mới phương tiện chỉ cho chúng sanh thời mạt pháp con đường
dễ đi dễ đến an toàn là vậy. Và các thiền sư cũng đã thấy cái khó và cái dễ giữa
Thiền và Tịnh nên cực lực xiển dương Thiền Tịnh song tu. Vừa tu Thiền vừa tu Tịnh,
không mất Thiền mà còn không lo sợ lạc đường lạc lối, vì sao Niệm Phật cũng là
một trong 40 đề mục của Thiền tập. Cho nên chúng ta tu Thiền không trở ngại Tịnh,
tu Tịnh không trở ngại thiền.
Kinh A Di Đà : “ Tôi nghe như vầy, bấy giờ đức Phật trú tại Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên, nước Xá vệ, cùng với
1250 vị đại Tỳ kheo nhóm họp…” Lúc ấy
không đợi đại chúng thưa thỉnh, đức Thế Tôn tự nói kinh A Di Đà. Bốn chữ “ nhất tâm bất loạn” trong kinh A Di Đà là chủ
yếu của toàn kinh. Cũng như câu “ Tùy theo tâm tịnh tức cõi Phật tịnh” trong
Duy Ma Cật.
Trong một buổi pháp thoại đức Phật đưa cành hoa sen lên và nói: “Suốt 49
năm qua, Ta chưa từng nói một lời nào”. Lúc đó, cả trăm vạn người và chư
thiên đều không hiểu được thâm ý của Phật,
chỉ có Tôn giả Ca Diếp ở gần bên mỉm miệng cười. Đức Thế Tôn liền bảo : “ Ta có
chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, nay phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp”. Từ đó đã mở đường cho con
cháu đời sau phân tông lập phái. Để rồi, người theo Thiền tông thì chê cười Tịnh độ là chấp tướng. Người tu Tịnh độ chê
Thiền là mê “ không”. Vì thương những
người chấp trước, chưa thông đạt viên tông, nên đại sư Mã Minh đã soạn Đại thừa
khởi tín luận, phân tích rõ tam tế, lục thô, nêu ý chỉ hướng về duy tâm Tịnh độ.
Các bậc tài đức lỗi lạc trong tôn môn chưa có ai phân biệt được Thiền và
Tịnh như thế nào. Vì vậy, khi thấy hàng hậu học bán tín bán nghi, mập mờ không
dứt khoát, thiền sư Tế Năng đã thâu nhập
những pháp ngữ tinh yếu chỉ dạy hướng về Tịnh độ của chư vị Tổ sư tiền bối tài
trí kiệt xuất, biên tập thành sách đặt
tên là Giác hổ tập (hổ có sừng ), mong
muốn giúp cho hành giả tu Thiền đọc sách
này thì không còn xem thường Tịnh độ, người tu Tịnh độ đọc sách này không còn
chê bai Thiền tông. Tế Năng chỉ thuật lại lời chư vị tổ sư tiền bối chứ không phải tự thân sáng tác, nhưng là một
việc đem lại lợi ích rất lớn, xóa tan nghi ngờ của hai tông. Thiền sư Tế
Năng biên soạn tác phẩm này toàn là lời
chân lý diệu. Là một ngọn đuốc sáng giữa đường tăm tối, là kim chỉ nam cho hành
giả Thiền và Tịnh.
Pháp môn Tịnh độ là một pháp dễ thực hành, dễ thành tựu, cũng là một pháp
môn khó nói, khó tin. Thế nên lúc còn tại thế, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói
kinh A Di Đà cho hàng đệ tử, vì biết trước chúng sanh trong đời mạt pháp ít người
có thể tin tưởng hướng về, cho nên Phật dẫn những lời thành thật thốt ra từ tướng
lưỡi rộng dài của chư Phật trong sáu phương, để khơi dậy niềm tin của chúng
sanh, để phá lòng nghi ngờ của chúng sanh. Phần cuối kinh vì được chư Phật khen
ngợi đức Phật mới tự nói thêm “ Nên biết ta ở trong đời ác năm trược, làm việc
khó khăn nầy, nói pháp khó tin nầy cho tất cả thế gian, là một việc rất khó ”. Đây
là những lời đức Phật tha thiết căn dặn, khuyên chúng sanh khởi lòng tin hướng
về Tịnh độ.
Pháp môn Tịnh độ có những người nghi ngờ tại sao? Vì giáo môn Tịnh độ quá
rộng lớn, mà pháp tu của Tịnh độ lại quá
đơn giản, quá dễ dàng, vì nó vừa rộng lớn mà vừa giản dị, cho nên người nghe
không thể không nghi ngờ.
Rộng lớn có nghĩa là thâu nhiếp hết tất cả căn cơ trên đến hàng bồ tát nhất
sanh bổ xứ trong địa vị Đẳng giác cũng sanh về Tịnh độ, dưới đến hàng phàm phu,
ngu phu ngu phụ, và hàng ngu si tạo tội năm nghịch, mười điều ác, nhưng lúc lâm
chung có thể niệm Phật sám hối tội lỗi, hướng tâm về Tịnh độ, cũng đều được
vãng sanh.
Giản dị nghĩa là cách tu hành không hề khó khăn vất vả, cũng không có những
nhân duyên mê ngộ sai khác. Chỉ trì bốn chữ A Di Đà Phật, nhờ đây thoát khỏi Ta
bà được vãng sanh Tịnh độ, được bất thối chuyển, thẳng đến thành Phật mới thôi.
Vì pháp môn Tịnh độ rộng lớn như thế, lại
giản dị như vậy. cho nên biết sự khen ngợi của ngài Vĩnh Minh là có chủ ý rât
sâu sắc chứ không hề quá đáng./.
( - Ngài
Vĩnh minh nói :
Có Thiền không Tịnh độ - Mười người tu chín
người lạc lộ
Không Thiền có Tịnh độ- Muôn người tu muôn người
thoát khổ.
Qua những lời này, có thể thấy chủ
trương Tịnh độ của ngài rất khoan dung. Như vậy, phải chăng thiền sư Vĩnh
Minh đã tự hạ thấp Thiền, mà quá tán
dương Tịnh độ? Điều này không phải nhỏ,
xin được giải thích như sau :
Đức Phật Thích Ca thương chúng sanh thời mạt pháp khó tu khó chứng, nghiệp
nặng phước khinh, chướng dạy huệ mỏng, khó tu tập các pháp môn khác. Nên đức Thế
Tôn phương tiện nói ra pháp môn Tịnh độ khó tin khó hiểu, mà đức Phật đã biết
trước, căn cơ của chúng sanh khó độ khó khuyên. Nên đức Phật tha thiết căn dặn
khuyên chúng sanh khởi lòng tin hướng về Tịnh độ. Nhưng vì pháp môn Tịnh độ quá
rộng, mà pháp tu lại đơn giản, quá dễ dàng. Vì vừa rộng vừa đơn giản, cho nên
người nghe bán tín bán nghi. Rộng vì thâu nhiếp hết các căn lớn nhỏ, giản dị vì
chỉ có trì bốn chữ A Di Đà Phật.
Vì pháp môn Tịnh độ quá rộng lớn và giản dị nên sự khen ngợi của ngài Vĩnh Minh là điều xác thực chứ không phải là lời quá đáng, chê Thiền
khen Tịnh độ.
Có người nghi rằng, chê Tịnh độ là chán khổ tìm vui là tiêu cực. Việc cầu
sanh Tịnh độ chỉ biết lo cho mình không quan tâm đến kẻ khác. Đây là điều không
thích hợp với sự tiến hóa của xã hội.
Câu giải nghi như sau : sống trong cõi Ta bà năm trược nầy, muốn độ người
trước phải độ mình, nếu mình chưa độ mà mong độ người khác, e rằng việc đó khó
thành. Người như thế, ví như mới thấy cái trứng mà đã muốn trở thành con gà biết
gáy là việc khó thành. Người ta tưởng đâu vừa tỏ ngộ là tập khí hữu lậu hoàn
toàn dứt sạch, liền đạt được quả bất thối
sao? Không còn phải chuyên học Phật
pháp, tu hành chứng quả sao? Như thế là ngang hàng với chư Phật , tự tại vào ra
sanh tử, không còn bị chướng duyên ngăn trở sao. Nếu quả thật như vậy thì chư đại
Bồ tát trải qua hằng sa số kiếp tinh tấn tu lục độ, vạn hạnh mới thành nên quả vị bất thối chi cho khổ mệt?
Người xưa nói : “ Bồ tát còn mê
khi cách ấm, Thanh văn còn muội lúc xuất thai ”, huống chi người thời nay giải
ngộ non kém, cạn cợt, tự cứu mình còn chưa xong. Dù cho chỗ tỏ ngộ có sâu xa,
thấy biết cao minh, hành giải tương ưng, có chí nguyện độ người, nhưng rất tiếc
là chưa chứng quả vị bất thối, lực dụng chưa đủ, mà ở cõi ác trược này hóa độ
chúng sanh cang cường, thì đây cũng là điều các bậc Tiên Thánh chưa chấp nhận. Nếu dùng chiếc thuyền không bền vững, chưa
hoàn chỉnh, không bền chắc, để đi cứu nhiều người giữa vùng biển sóng gió dữ dội
thì mình và người sẽ bị chìm, đây là điều tất nhiên. Thế nên trong kinh luận
nói rằng : “ Muốn dạo chơi nơi cửa ngục Ta bà, thì phải sanh về cõi kia, đến
khi đắc quả vô sanh nhẫn rồi mới trở lại chốn sanh tử cứu khổ chúng sanh ”. Do
nhân duyên này người tu tịnh nghiệp mới cầu sanh Tịnh độ.
Các bậc Tiên Thánh dặn dò: chưa đắc quả vị bất thối chuyển, thì không thể
liều lĩnh vào đời cứu độ chúng sanh, chưa đắc Vô sanh pháp nhẫn thì đừng bao giờ
rời Phật . Giống như đứa bé không bao giờ xa mẹ, ví như chim non cánh còn yếu
không thể rời tổ sớm. Nay ở trong cõi nước
đầy đủ bốn điều ác, bị nhân quả trói buộc, ngoại đạo tà ma, thị phi làm rối, sắc
đẹp, lời hay, mùi thơm, vị ngọt mê hoặc, duyên ác chuyện xấu thường xuyên tấn
công. Nếu không có Phật để nương tựa, thì bị cảnh duyên quấy nhiễu. Hàng sơ tâm
ngộ đạo, hiếm có mấy ai không bị thối tâm mà bỏ cuộc. Thế nên, Thế Tôn ân cần
chỉ dạy pháp môn cầu sanh về Cực lạc, thật sự có lý do. Nên nương vào đức Phật
Di Đà thì nhẫn lực dễ thành, mau chứng đắc quả giải thoát, đích thân được Phật
thọ ký, sau đó phát nguyện vào đời hóa độ chúng sanh, đến đi vô ngại.
Dù là bậc thượng căn lợi khí còn nguyện vãng sanh, huống chi các
hàng trung căn, hạ căn , vừa mới có chút tỏ ngộ đã cho là xong việc. Trong kinh
Quán Phật Tam muội ngài Văn Thù kể về nhân duyên đời trước ngài đã đắc niệm Phật
Tam muội được vãng sanh về Tịnh độ, nhân đó đức Thế Tôn thọ ký cho ngài, ông sẽ
được sanh về thế giới Cực lạc. Trong
kinh Hoa Nghiêm, ngài Phổ Hiền dùng 12 đại nguyện vương sách tấn, dẫn dắt Đồng
tử Thiện Tài cùng Hải hội đại chúng về Cực
lạc ./.
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét