NĂM CẤP ĐỘ TRONG PHẬT GIÁO
Thích Trung Định
Phật giáo khi nhìn bên ngoài chúng ta thấy có quá nhiều kiểu
cách, mô thức như thể không có tổ chức chỉn chu. Đây cũng là những nhận định
chung của đại đa số mọi người, kể cả một số nhà nghiên cứu. Tuy nhiên khi tìm
hiểu kỹ, chúng ta thấy bởi Phật giáo quá rộng lớn, phủ trùm, bao gồm Phật giáo
tín ngưỡng, Phật giáo bác học, và Phật giáo của con đường thực tập tâm linh, do
vậy cần phải phân định cấp độ để thấy được sự lớn lao của Phật giáo như thế
nào. Đồng thời nhằm chấn chỉnh những nhận
định phiến diện về Phật giáo từ một số người, kể cả giới trí thức. Ở đây, chúng
tôi phân chia Phật giáo ra năm cấp độ đó là :
1/ Phật giáo đại chúng : Phật
giáo đại chúng là Phật giáo dành cho đại đa số mọi người thuộc mọi tầng lớp xã
hội. Phật giáo đại chúng bao gồm cả Phật giáo gắn liền với các tín ngưỡng dân
gian, phong tục tập quán, văn hóa vùng miền.
Người đến chùa đủ mọi thành phần, mang theo căn nghiệp, tập khí thường
tình của họ. Người thiếu phúc cầu phúc, người thiếu sức khỏe cầu sức khỏe, người
hiếm muộn con cái cầu tự, người mong cầu danh vọng địa vị cầu danh vọng địa vị.
Có những em bé, những cụ già có thể không hiểu gì về đạo Phật nhưng cũng đến
chùa vì họ có cảm tình với đạo.
Trong kinh Pháp hoa đề cập đến chúng đương cơ và chúng kết duyên, thì Phật
giáo đại chúng là chúng kết duyên. Họ chỉ biết ăn chay, niệm Phật, bỏ ác làm
lành như vậy là đủ đối với họ. Có thể thấy Phật giáo đại chúng như thể hiện
toàn bộ nghiệp và nghiệp quả của mỗi chúng sanh, mang tính phổ quát mà ai cũng
có thể đến chùa để hành lễ và cầu nguyện. Phật giáo đại chúng đáp ứng nhu cầu số
đông, mang tính phổ quát, có thể gọi là Phật tử ngoài cổng chùa.
2/ Phật giáo học thuật : Từ trong Phật giáo đại chúng, bắt đầu có
những người chịu khó tìm hiểu nền minh triết
trong giáo lý Phật giáo, dần dần hình thành nên một Phật giáo học thuật.
Có năm cấp độ học thuật đi từ Nhân thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa,
Bồ tát thừa và Phật thừa.
Nhân thừa có các pháp học đưa đến sự thành tựu về tư cách đạo đức làm người.
Thanh văn thừa có các pháp học và thực hành đưa đến thành tựu phạm hạnh,
đưa đến các qủa vị giải thoát.
Duyên giác thừa là hệ giáo lý chú trọng về sự tự giác tự ngộ. Những bậc
Thánh giả Duyên giác ra đời không gặp Phật, tự mình ý thức về khổ và tự mình tu
tập giác ngộ sự thật về khổ qua Mười hai chi duyên khởi.
Bồ tát thừa là hệ giáo lý bao gồm
cả Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa
và Duyên giác thừa, nhưng lại phát triển ý thức tự giác, tự ngộ lên một
tầm cao và rộng, ấy là ngoài tự giác còn phải nổ lực giác tha, ngoài tự ngộ phải
phát khởi tâm Bồ đề để độ tha và làm cho chúng sanh cũng được giác ngộ với sự
thực hành mười ba-la –mật hay sáu ba-la-mật.
Phật thừa là điểm quy hướng của các thừa gồm : Nhân thiên
thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ
tát thừa. Nên, Phật thừa còn gọi là Nhất
thừa.
Trong
Phật giáo học thuật có tính chọn lựa, gạn lọc và trạch pháp. Có nhiều cấp độ học
thuật trong Phật giáo. Ở hàng nam nữ cư sĩ Phật tử, có những lớp tu học giáo lý
cơ bản đến chuyên sâu. Phần lớn các lớp tu học giáo lý đều do quý Tăng, Ni và
cư sĩ Phật tử có trình độ học Phật đảm trách. Đối với người tu sĩ, Phật giáo học
thuật thể hiện rõ qua các trường Phật học từ trung cấp đến đại học và sau đại học.
Thông qua học thuật, hành giả hiểu rõ các yếu chỉ của lời Phật dạy, phá trừ tà
kiến cố chấp, loại trừ các tệ nạn mê tín dị đoan, chánh tín Phật pháp để ứng dụng
lời dạy của Phật vào trong cuộc sống hàng ngày.
Trong
Phật học, Phật giáo chú trọng đến Tam vô lậu học giới, định và tuệ. Hành giả cần
phải có giới học, định học và tuệ học. Kẻ theo đuổi giải thoát đạo cần học kỷ ba học, đó là tăng thượng giới học,
tăng thượng tâm học, tăng thượng tuệ học. Có giới học, có tăng thượng giới học.
Có định tâm học, có tăng thượng tâm định học.
Có tuệ học, có tăng thượng tuệ học. Đây là ba pháp căn bản trên con đường tu tập. Khi có giới học, định học và tuệ học
người tu học Phật bước thêm một bước nữa đó là tu giới, tu định và tu tuệ để
thành tựu đạo nghiệp.
3- Phật giáo tổ chức : Có thể nói rằng không có một tôn giáo nào có
quy củ, tổ chức như Phật giáo. Trong Tam tạng, kinh, luật, luận thì luật tạng có những quy định một cách chi
tiết.
Cấu trúc của Luật tạng cho thấy hệ thống tổ chức trong Tăng đoàn là rất
chặt chẽ. Người Phật tử tại gia có Tam quy, ngũ giới, thập thiện giới, người xuất
gia có giới luật của người xuất gia. Trong luật cón có các trường hợp khai,
giá, trì và phạm được quy đinh một cách rõ ràng. Thông qua Tạng luật, Tăng đoàn
được sắp xếp có một hệ thống tổ chức quy củ, nề nếp đưa đến thanh tịnh và hòa hợp.
Ngoài cấu trúc tổ chức trong Tăng, Phật giáo còn có các tổ chức từ hội,
đoàn, Giáo hội. Việc quy định phẩm trật trong hàng ngũ Tăng như được quy định trong Nội quy Ban Tăng sự,
việc tính đếm hạ lạp, phân chia thứ bậc đều được quy định rõ ràng trong luật tạng.
Do tính tổ chức quy mô và bài bản như thế nên trong Phật giáo luôn giữ được sự ổn
định và phát triển. Giới luật giữ sự ổn định trong Tăng đoàn và đưa đến sự
thanh tịnh và hòa hợp.
4- Phật giáo thực nghiệm: Từ
Phật giáo đại chúng đến Phật giáo học thuật và Phật giáo tổ chức đó mới chỉ là
bên ngoài, chưa phải bản chất thật sự của Phật giáo, Phật giáo thực nghiệm là
trí giả nội chứng, nghiên cứu thực nghiệm. Bởi chỉ có học thuật thôi mà không có thực nghiệm nội chứng thì không phải Phật
giáo. Đức Phật thường dạy, tu là phải học và học thì phải thực hành. Nếu tu mà
không học thì tu mù, học mà không tu là đảy đựng sách.
Trong kinh đức Phật ví người tu mà không hành, không thực nghiệm thì như
cái muỗng để trong tô canh không biết mùi vị ngon dở của tô canh. Người có
hành, tức có thực nghiệm trải nghiệm thì như cái lưỡi nếm vị của tô canh biết sự
ngon dở của nó. Như nhơn ẩm thủy, lãnh noãn tự tri. Như người uống nước nóng lạnh
tự biết. Người tu cũng vậy, phải thực hành lời dạy của đức Phật một cách thấu
đáo để cảm nhận được hương vị của sự an lạc giải thoát.
Nếu tu mà chưa nếm trải hương vị của sự an lạc giải thoát thì chưa phải là sự tu hành chân chính. Phật giáo thực nghiệm
là yêu cầu hành giả đến để thấy biết chứ không phải đến để mà tin. Niềm tin chỉ
là phương tiện ban đầu, sự thấy biết như thật mới thật sự là giá trị nội chứng
trong tu học.
Đạo Phật không phải là một tôn giáo theo nghĩa những chân lý thần khải
không thể kiểm điểm mà chỉ có thể tiếp nhận bằng đức tin. Đạo Phật trước hết là
những phương tiện chỉ dẫn thực nghiệm tâm linh để khám phá thực tại. Kinh sách
có giá trị như những đồ biểu hướng dẫn và phương pháp thiền quán có giá trị như
một con tàu đưa người hành giả tới bờ hiểu biết và để thực hiện sự hiểu biết ấy
trong sự sống bản thân và sự sống xã hội.
Chữ
Budh có nghĩa là hiểu biết do đó có chữ Buddha, người hiểu biết, và sau này chữ
Buddhism, con đường của sự hiểu biết. Hiểu biết đây không phải là cái hiểu biết
sách và kinh điển mà là bản thân của chính thực tại hiện rõ dưới khả năng trí
tuệ bát nhã, chỉ có thể đạt đến do công phu tu tập thiền quán.
Theo nguyên tắc đạo Phật, một cá
nhân nào đó khi muốn bước vào con đường thực nghiệm, phải khảo sát những nhận
thức mà đạo Phật xem như là căn bản, rồi
khi đã chấp nhận những nhận thức ấy thì kiểm điểm lại nguyên tắc thực hành rút
ra từ những nhận thức kia. Khi đã kiểm nhận kỷ
lưỡng rồi, cá nhân ấy mới bước vào con đường thực nghiệm với thái độ
cương quyết nhưng hết sức tỉnh táo, khách
quan. Nếu sự thực nghiệm không mang lại
kết quả thì phải bắt đầu trở lại, và nếu quả thực phương thức đề nghị không thích hợp thì phải bỏ đi để chọn một phương
thức khác.
Đạo
Phật không phải là một nền triết học, bởi vì đạo Phật không có ý định miêu tả
và giải thích thực tại bằng những hệ thống tư tưởng dựa trên căn bản suy luận
và khái niệm. Đạo Phật cho rằng trên một căn bản như thế, công việc miêu tả và
giải thích thực tại là một công việc
không thể thực hiện được, chỉ có thể bằng
thực nghiệm tâm linh, diệt trừ cố chấp, vô minh và phát triển trí tuệ bát nhã
thì con người mới trực nhận được chân lý thực tại.
Nói đến thực nghiệm tâm linh là
nói đến nền tảng của căn bản của đạo Phật.
Bởi vì đạo Phật cho rằng thiếu sự tiếp xúc của con người và những nguyên lý mầu
nhiệm của thực tại thì mọi hình thái của sự sống phải mang tính cách khổ đau và
tàn tạ. Thế cho nên thời nào thiếu chứng ngộ thiếu sự khám phá thì ở thời ấy
giáo pháp suy mạt, và sự sống nghèo khổ.
Những nơi nào, có những con người đạt đạo, sẽ có sức sống tràn trề rạt
rào và thấm nhuần trong mọi sinh hoạt xã hội. Ở nơi người đạt đạo, tỏa chiếu
nghệ thuật linh động của sự sống, nghệ thuật ấy soi sáng cho đường lối nhân
sinh của địa phương và thời đại. Mọi sinh hoạt xã hội cần được xây dựng trên
cái nhìn bao quát và khế hợp căn cơ của
người đạt đạo. Cho nên đạo Phật không những chỉ là thực nghiệm tâm linh mà lại
còn là sự thể hiện trên cuộc sống những nguyên lý linh động đạt tới do công
trình khám phá thực tại của những thực nghiệm ấy. ( sự có mặt của La ma
người Tây Tạng và Thiền sư Nhất Hạnh người Việt Nam ở các nước Tây
phương đã thay đổi sự nhận thức của họ và cách sống nơi xứ sở ấy ).
5- Phật giáo chứng ngộ : Sau thực nghiệm là sự chứng ngộ. Chứng ngộ
là mục đích cuối cùng của sự tu tập theo Phật giáo. Chứng ngộ là sự trải nghiệm
giải thoát an lạc thực sự là sự khai mở tuệ giác, sự thể nhập pháp lạc, niết
bàn tịch tịnh. Có bốn cấp độ chứng ngộ trong thiền đó là : sơ thiền, nhị thiền,
tam thiền và tứ thiền.
Chứng ngộ sơ thiền là do ly dục ly các bất thiện pháp, chứng và trú thiền
thứ nhất một trong trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm có tứ.
Chứng đạt nhị thiền là vị Tỳ kheo làm cho tịnh chỉ tầm và tứ… chứng đạt
và an trú thiền thứ hai, nội tỉnh, nhất tâm, không tầm, không tứ với hỷ lạc do định sanh..
Chứng đạt tam thiền là chấm dứt sự bám víu vào nhị thiền, hành giả tập
trung tâm ý để đạt đến tam thiền, một trạng thái có vẻ cao thượng hơn vì có lạc
và nhất tâm không bị ảnh hưởng dao động của hỷ. Hành giả tái lập lại định trên
đề mục thiền của mình với mục đích vượt qua nhị thiền.
Chứng đạt tứ thiền là khi định sâu hơn nữa, vi tế hơn nữa, thì ngay cả an
lạc cũng vượt qua, tâm hành giả có thể đi thẳng vào định không cần qua tầm và tứ,
hỷ, lạc, chỉ còn chỉ thiền nhất tâm. Vì nhất tâm ở đây kiên cố hơn nhất tâm
trong các bậc thiền trước nên tâm hoàn toàn bất động, hoàn toàn vô cảm đối với
thế giới bên ngoài. Vì vậy trong tâm tứ thiền có yếu tố xả luôn xuất hiện bên cạnh
nhất tâm, kinh dạy : “ lại nữa, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ
ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm,
thanh tịnh ”.
Trong sự chứng ngộ, kinh điển mô tả có bốn quả vị tu chứng, gọi là tứ
Thánh quả, đó là : Thánh quả Dự lưu ( Tu đà hoàn ) là bậc Thánh đầu tiên trong
bốn Thánh quả. Thánh quả này được gọi là đã “Mở con mắt của Pháp ”, chứng đắc
pháp nhãn, tức là nhận ra rằng bất cứ điều gì sanh ra đều sẽ hoại diệt ( vô thường
). Niềm tin của họ trong giáo pháp thực sự sẽ là không thể lay chuyển hay gọi
là “ bất hoại tín”. Bậc Thánh này cũng được gọi là Thánh quả “ Thất lai”, tức
còn bảy lần sanh tử mới chứng Thánh quả A La Hán. Vị ấy đã đoạn trừ ba kiết sử
đầu là : thân kiến, nghi và giới cấm thủ.
Thánh quả Nhất lai là quả vị thánh
thứ hai trong tứ thánh quả. Sao gọi là nhất lai? Bởi vì thánh quả này phải còn
trở lại một lần sanh tử nữa mới chấm dứt khổ đau, đạt đến quả vị vô sanh. Những
ai đoạn tận ba kiết sử như trong trường hợp của Thánh quả Dự lưu, và làm muội
lược hai kiết sử tiếp theo, đó là dục và
sân, được gọi là Thánh quả Nhất lai ( Tư đà hoàn ), Thánh quả Bất lai ( A Na
hàm ) – là Thánh quả thứ ba, vị ấy đã đoạn trừ hoàn toàn năm hạ phần kiết sử,
sau khi thân hoại mạng chung sẽ được tái sanh cõi Phạm thiên, và không bao giờ
tái sanh nữa.
Đức Phật dạy : “ Vị Tỳ kheo đã đoạn
dứt năm hạ phần kiết sử, thành vị hóa sanh, nhập niết bàn tại đây, không còn trở
lại thế giới nầy nữa”. Sau khi phá luôn năm kiết sử cuối cùng, tức hữu ái, vô hữu
ái, mạn, trạo hối và vô minh, một vị A- na -hàm sẽ chứng A-la-hán , nghĩa là đạo
đức đã trở thành tuyệt đối hoàn hảo. Không một thần Thánh thiên tử nào có thể
tìm thấy lỗi lầm của một vị A-la-hán nữa.
Ngoài bốn thánh vị tu chứng, trong
Phật giáo còn có Bồ tát và Phật đạo. Bồ tát thì chứng thập trú, thập địa, bất
thối Bồ tát. Phật thì chứng tam minh, lục
thông và Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác
đồng thời thành tựu mười danh hiệu : Như Lai,
Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh
túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn.
Như vậy, Phật giáo tu chứng là kết quả cuối cùng của một lộ trình trên
con đường thực tập tâm linh. Người tu học cần phải trải nghiệm sự chứng ngộ trong các cấp độ ấy. Trong hành thiền
hay trên con đường đoạn tận các phiền
não kiết sử thì hành giả cần đặt mục tiêu
của sự chứng ngộ trong Phật pháp, đó là mục đích tối thượng, mục đích sau cùng
trong Phật giáo.
Tóm lại năm cấp độ trong Phật giáo cho thấy sự to lớn, bao trùm và đa dạng
của Phật giáo. Hiểu đúng các khía cạnh của Phật giáo là hiểu rõ năm cấp độ này.
Thông qua đó Phật giáo giải thích toàn bộ những hiện tượng sự vật từ bản chất đến
tướng trạng. Dưới nhãn quan của Phật giáo, nhân sinh và vũ trụ đều là do nhân
duyên. Do đó những ai vội vàng đánh giá một khía cạnh nào đó của Phật giáo thì
đó chỉ là võ đoán, phiến diện. Năm cấp độ ấy cho thấy sự toàn diện, chỉn chu của
đạo Phật như thế nào.
Đạo Phật- một tôn giáo, một con
đường sống tỉnh thức vô cùng cần thiết cho thế giới loài người trong hiện tại
và tương lai./.
Trích : VHPG-15-7-2020- số 348- Thích Trung
Định
—T–
0 nhận xét:
Đăng nhận xét