PHẬT GIÁO ĐỒNG HÀNH VỚI DÂN TỘC
Nói đến lịch sử và văn hóa Việt Nam không thể không nói đến
Phật giáo Việt Nam. Phật giáo Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn đối với vấn đề dựng
nước giữ nước, Phật giáo có sự đóng góp, một sự ảnh hưởng rất lớn với lịch sử
dân tộc. Ngay từ buổi ban đầu thập niên 40 -43
sau công nguyên, cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị chống
giặc xâm Nguyên Mông. Trong 8 vị tướng
tài giỏi đã có 5 vị ni, có vị ni pháp danh là Phương Dung hiện nay đang thờ tại
chùa… ở Hà Nội. Như vậy Phật giáo đã có mặt ngay từ buổi ban đầu của đất nước,
gắn liền với sự tồn vong hưng thịnh của đất nước, từ đó cho đến các triều đại
Đinh, Lê, Lý, Trần đều lấy Phật giáo làm chỗ dựa, cho đến các thời đại ngày nay
sự ảnh hưởng Phật giáo luôn gắn liền với dân tộc trên mọi lãnh vực. Ngày nay Phật
giáo không những phát triển trên toàn lãnh thổ nước Việt Nam mà còn lang rộng
trên cộng đồng thế giới. Đã đến lúc Phật giáo cần một cái gì đó hơn là cái
chúng ta đang có. Phật giáo có một vai trò rất lớn đứng trên nền tảng đức tin.
Trên thế giới người ta nâng cao tầm quan trọng của Phật giáo là từ gốc độ học
thuật thuần túy. Nên gọi Phật giáo là Phật học, Phật giáo không những dừng lại ở mức nghiên cứu học thuật mà còn phải ứng dụng
vào cuộc sống. Cần phải xây dựng Phật giáo vào các chương trình giáo dục đại học
quốc gia. Phật giáo Việt Nam thời Trần nói lên tinh thần dân tộc giữ nước dựng
nước có ba điểm đặc biệt : a/ Anh hùng
dân tộc : Người đã từng đánh thắng quân Nguyên Mông. b/ Người anh hùng có lòng nhân ái : sau trận thắng
quân Nguyên, vua xóa tan tị hiềm nội bộ trong và ngoài nước. c/ Người khai sáng
thiền Phái Phật giáo Việt Nam , trúc lâm Yên tử.
Vua Trần Nhân Tông là một vị vua anh hùng dân tộc, người đã lãnh đạo cuộc
kháng chiến chống Nguyên Mông, hai lần
thắng lợi. Đế chế Nguyên Mông là một đế chế hùng mạnh nhất vào thế kỷ 13 ( chiến
thắng Bạch Đằng )
Là người anh hùng có lòng nhân ái, bao dung lợi tha trong lịch sử không
ai sánh kịp. Khi quân Nguyên Mông vào nước
ta lực lượng quân số mạnh khủng khiếp, dữ dằn làm cho quân dân ta khiếp sợ, khiến
cho một số quân tướng quan lại đã không giữ được tâm mình, đã dâng sớ xin hàng.
Sau khi chiến thắng quân Nguyên xong. Bộ lại khiên các hàm đựng sớ tâu xin hàng
lên để đề nghị trị tội các quan và tướng xin đầu hàng. Vua trả lời : Trong lúc
quẩn bách người ta có thể làm như thế này hay thế khác, chiến tranh hết rồi
không cần chấp làm gì, đem đốt hết, ta không cần đọc một cái sớ nào cả. Triều
Trần là một chính sách tập quyền nhưng rất thương dân, vì trong nội bộ có sự
hòa đồng rất cao, nên tạo nên sức mạnh mới đánh thắng đội quân hùng mạnh Nguyên
Mông.
Người con kế nghiệp là vua Trần Thánh Tông đến thăm hỏi Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn đang ốm nặng sắp gần qua đời, người có mệnh hệ gì làm cách gì để giữ
nước đây? Hưng Đạo Vương thong thả phân
tích cho vua là xưa nay ta thắng được giặc dữ là vì trên dưới đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước
góp sức vì vậy thượng sách giữ nước là do sức dân, khoan thứ sức dân. Một vị tướng
giỏi không xây thành đắp lũy, không huy động quân đội mạnh, mà khoan thứ sức
dân, tư tưởng ấy có từ vua Trần Nhân Tông.
Là vị vua sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Phật Hoàng Trần Nhân
Tông. Có lẽ cái đặc biệt nhất của Phật giáo Việt Nam so với các Phật giáo của
nước khác là Phật giáo gắng liền với sự thịnh suy của đất nước, trên mọi lãnh vực
chính trị văn hóa. Có một vị vừa là vua vừa là tướng cũng là một vị tu hành đắc
đạo. Cả hai mặt đạo và đời đều xuất sắc thành công, nên người ta tôn vinh là Phật
Hoàng Trần Nhân Tông. Vừa là vua vừa là Phật, vì có tu có chứng, hiện nay thiền
phái này thịnh hành rất đông trên mọi miền đất nước.
Người ta quan niệm Phật giáo phát xuất từ những triết lý cao xa, nhưng
không phải vậy. Phật giáo phát xuất từ nơi mỗi một con người. Hiện nay trên thế
giới xảy ra rất nhiều cuộc chiến tranh, về tôn giáo, về sắc tộc, về lãnh thổ, về
tài nguyên. Người ta nghiên cứu làm thế nào để chấm dứt những xung đột này. Phật
giáo có khả năng đáp ứng nhu cầu này. Mọi tôn giáo, mọi sắc tộc, mọi đảng phái,
chỉ cần một chữ trong đạo Phật, là chữ “ Tĩnh”. Người khi đã tĩnh rồi không còn
ai tranh chấp với ai, cho nên chữ Phật trong đạo Phật gọi là Buddha là thức
tĩnh, người thức tĩnh vậy. Ai ai cũng có khả năng quay lại với chính mình mà thức
tĩnh, chĩ cần sự tĩnh tâm trong đạo Phật là có ngay an lạc và hòa bình. Cũng
như đang chạy chỉ cần dừng lại là đã khỏe người ra, chiến tranh hay xung đột,
chỉ cần dừng lại là có ngay hòa bình.
Phật giáo và văn hóa Việt Nam có duyên rất lớn, Phật giáo không phải từ ngoài
đem vào mà Phật giáo từ trong mỗi con người chúng ta. Phật giáo không những
giúp con người an lạc mà còn góp phần vào ý nghĩa về vấn đề lớn lao hơn trong
nước và quốc tế.
Sau hai trận chiến thắng quân Nguyên Mông, phía Nam nước ta là nước Chiêm
Thành, vua là Chế Mân. Vua Chế Mân lo sợ vua quân nước ta sẽ trả thù, vì đã cho
mượn đường quân Nguyên Mông đánh quân ta từ phía nam ra, nên sau khi quân dân
ta thắng quân Nguyên xong, vua quan nước Chiêm lo sợ ngày đêm huấn luyện binh
sĩ không ngừng để chủng bị đối phó. Các trình báo của triều đình ta luôn luôn gởi
tin về tình hình căng thẳng của quân dân nước Chiêm, không biết họ chủng bị lực
lượng binh sĩ hùng hậu để đánh ta hay phòng thủ. Vua quan nước ta họp lại bàn
thảo kế hoạch đối phó bằng con đường ngoại giao. Nếu đưa quan quân qua gặp thì
chưa chắc bên Chiêm nhận lời mà họ còn lo sợ, cái non nóng bên nước Chiêm thành
căng thẳng từng ngày. Để cuộc ngoại giao suông sẻ không gây sự lo sợ cho vua
quan nước Chiêm Thành, vua Trần Nhân Tông thân hành dẫn đoàn tăng sĩ qua thăm
viếng, được sự chấp thuận và hoan hỷ của vua Chê Mân. Trong sự gặp gỡ thăm viếng
trao đổi của vua Trần Nhân Tông, bày tỏ lòng yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt
là bỏ thù nhà mến láng giếng anh em, qua sự thăm viếng và giải trình này vua Chế
Mân hạ nhiệt được cơn lo lắng, vì cảm phục đức độ của vua Trần Nhân Tông nên hiến
dâng hai châu Ô và châu Lý để làm tin, nay là tỉnh Thừa Thiên Huế và Quảng Nam.
Để đáp ứng lại tấm lòng chân thành của Chế Mân, vua Trần Nhân Tông hứa gã con
gái của mình là Công chúa Huyền Trân làm vợ Chế Mân. Như vậy hai châu Ô và châu
Lý là do sự cảm phục đức độ của vua Trần Nhân Tông, mà vua nước Chiêm dâng hiến
chứ không phải là sính lễ cầu hôn mà các sử gia đã ghi.
Qua nhiều cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, các cuộc thăm viếng, các cuộc
gặp ngoại giao với các đối tác nước ngoài phần đông đều là những nhà trí thức Phật
học, nhà tu hành đã góp phần ổn định chính trị văn hóa an ninh cho đất nước con
người Việt Nam. Phật giáo đem lại hòa bình cho đất nước, mở mang bờ cõi, làm
cho giặc lo sợ không dám dòm ngó đương đầu, mà không tốn một viên đạn, một mũi
tên, xương máu sức dân và của cải, so với cách tranh đấu bằng vũ lực súng đạn,
phải tốn sinh mạng và của cải tài nguyên thời gian. Sau chiến tranh lưu lại sự
tang thương mất mát và hận thù. Vì thế nói Phật giáo đồng hành với dân tộc là vậy.
( Tham khảo dựa theo các bài nói chuyện của TS
Bùi Hữu Dược, TT Thích Chân Quang, nhà sử học Vũ Mình Giang, Dương Trung Quốc, .. Nguyễn Khắc Thuần )
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét