Thứ Hai, 16 tháng 6, 2025

NGHIỆP CỦA ĐẠO PHẬT TRONG VĂN HOÁ VIỆT NAM

 

            NGHIỆP CỦA ĐẠO PHẬT TRONG VĂN HOÁ VIỆT NAM

          Thuyết Nghiệp bắt nguồn từ đâu? Không ai rõ cả, nhưng vào thời Đức Phật, thuyết nghiệp đã được chấp nhận rộng rãi, hầu như bởi tất cả các tôn giáo và triết học ở Ấn Độ (trừ phái Duy vật ra). Thuyết nghiệp như là đáp án lô-gich duy nhất, có sức thuyết phục nhất đối với mọi bất công, sai biệt trong đời sống của con người. Theo các nhà Ấn Độ học như Zimmer và Basham người Đức đều cho rằng là ngay trước khi người Aryan  vào Ấn Độ, những người thổ dân Dravidien vốn đã có các khái niệm về nghiệp, yoga, luân hồi, giải thoát… Trong bài này trình bày đôi nét về thuyết nghiệp của đạo Phật và sự ảnh hưởng của nó trong văn hoá Việt Nam để người đọc có thể tìm hiểu thêm thuyết nghiệp của đạo Phật trong tâm thức của người Việt.

          Nghiệp Pali gọi là Kamma hay từ Sanskrit Karma, Hán dịch là Nghiệp, có nghĩa là “hành động”, “làm”. Nhưng theo thuyết nghiệp của đạo Phật, nó có một nghĩa đặc thù: nó chỉ cho “hành động có tác ý”, chứ không phải tất cả mọi hành động. Nghiệp của đạo Phật không có tính chất cơ giới và định mệnh luận. Nó đề cao ý chí tự do của con người, đề cao nỗ lực bản thân. Thuyết nghiệp của đạo Phật tạo ra tính bình đẳng cho tất cả mọi người và chúng sinh. Mỗi người là chủ nhân của nghiệp, là từa tự của nghiệp. Mỗi người tự tạo ra nghiệp, vẽ nên cuộc đời mình và thọ lãnh những gì mình đã tạo ra. Đạo Phật cho rằng, nghiệp dù là nghiệp thiện hay nghiệp ác chỉ có thể hình thành trên cơ sở động cơ tâm lý của đương sự, tức là có dụng tâm của đương sự mà Phật giáo gọi là tác ý.Nói cách khác, tác ý chính là nghiệp, nếu không có tác ý thì không có nghiệp.

          Như vậy, đạo Phật xem nghiệp là bất định, tức là có thể thay đổi  được theo chiều hướng tốt hay xấu tuỳ theo đương sự tạo nghiệp. Nếu đương sự tạo ra nhiều nghiệp lành, nghiệp thiện thì nghiệp này có thể giúp cải tạo đời sống của đương sự theo chiều hướng tốt. Ngược lại, đương sự tạo ra nhiều nghiệp ác, nghiệp dữ thì nghiệp sẽ huỷ diệt đời sống của đương sự.

          Theo GS Minh Chi, đạo Phật đề cập tới hai loại nghiệp quan trọng quyết định hướng tái sinh và cuộc sống của chúng sinh đó là dẫn nghiệp và mãn nghiệp.

          Dẫn nghiệp: còn gọi là tái sanh nghiệp, là nghiệp dẫn dắt, quyết định hướng tái sinh của chúng sinh vào một trong sáu cõi: Trời, người, A tu la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. (Trời, người, a tu la:  ba cõi thiện. Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh: ba cõi ác). Đây là loại nghiệp có cường độ rất mạnh.

          Mãn nghiệp: hay còn gọi là năng trì nghiệp, là nghiệp sai biệt làm cho mọi chúng sanh có sai biệt không ít thì nhiều; không có hai con người giống nhau hoàn toàn (do nghiệp của họ tạo ra không hoàn toàn giống nhau). Mãn nghiệp giải thích được tại sao ở đời này có người hạnh phúc, người bất hạnh, người giàu sang, kẻ nghèo hèn, người có uy tín nói ra ai cũng tin, người nói rất hay nhưng không ai tin, người có dung nhan đẹp đẽ, kẻ có thân hình xấu xí, có người mới sinh ra mắc phải những dị tật, hay những chứng nan y khó chữa v.v…Tất cả những sai biệt đó, tuy cùng là một thân phận con người, nhưng do họ tạo nghiệp trong quá khứ, ngay cả hiện tại khác nhau cho nên chịu thọ nghiệp khác nhau.

 Ngoài ra đạo Phật đề cập tới một số loại nghiệp khác như: Năng tiêu nghiệp, là loại nghiệp tuỳ vào tình hình mà có thể tốt hay xấu! Chẳng hạn như, một người được hưởng phước báo, sống trong một gia đình giàu sang, nhưng người này không lo học hành, không giữ lối sống đạo đức mà ngược lại chỉ biết ăn chơi trác táng, phá sản, rốt cuộc trở thành kẻ nghèo, đi ăn xin. Nghiệp mà anh ta đã tạo ra như vậy là loại tiêu nghiệp tiêu cực. Ngược lại, có người sinh ra trong một gia đình nghèo nàn, phải lao động cực khổ, nhưng anh ta cố gắng làm việc, học hành, sống lối sống đạo đức, giúp người khác. Kết quả, anh ta vươn ra khỏi cảnh nghèo, có uy tín, có học vấn, được mọi người tôn trọng. Nghiệp mà người này tạo ra như vậy là năng tiêu nghiệp tích cực.

Năng huỷ nghiệp là loại nghiệp được con người tạo ra trong đời sống quá khứ hay hiện tại, có cường độ rất mạnh có thể huỷ đi dẫn nghiệp một cách bất ngờ. Nó giải thích được là vì sao con người chết đột tử hay chết bất đắc kỳ tử như chết vì thiên tai, chết vì tai nạn, chết vì chiến tranh. Năng hủy nghiệp tiêu huỷ thân phận người ngay khi người đó đang còn sống bình thường. Sách Phật thường ví con người giống như chiếc đèn dầu đang cháy. Khi nào chiếc đèn cạn dầu, cháy hết bấc là lúc thọ mạng người ấy đã hết. Năng huỷ nghiệp tác động như một cơn gió thổi tắt vụt ngọn đèn, tuy đèn còn nhiều dầu và chưa cháy hết bấc như những trường hợp con người chết đột tử, cuộc sống đột ngột chấm dứt. Sách Phật thường nói có năm trường hợp con người tạo ra nghiệp cực ác phải lãnh hậu quả là bị đoạ vào cõi địa ngục sau khi mạng chung như giết cha, giết mẹ, giết một vị A la hán, cố ý làm thân Phật chảy máu, phá hoà hợp Tăng chúng.

Cộng nghiệp: là loại nghiệp  chung được tạo ra của cùng một nhóm người, một cộng đồng, một loại chúng sanh hay nhiều loại chúng sanh cùng phải chịu chung hoàn cảnh. Chẳng hạn, một dân tộc bị chiến tranh liên miên, bao nhiêu người phải cầm vũ khí ra chiến trường mà giết hại lẫn nhau. Hoàn cảnh mà cả dân tộc ấy đang phải chịu cảnh chiến tranh đó là cộng nghiệp, tức nghiệp chung cho mọi người trong cộng đồng dân tộc đó.

Biệt nghiệp: là loại nghiệp riêng biệt của từng chúng sanh, nghiệp này không ai giống ai. Chẳng hạn, người thân của chúng ta chịu bệnh tật giày vò rất đau khổ, chúng ta muốn chia sẻ nỗi đau khổ đó với họ nhưng không làm được.

Cận tử nghiệp: Người gần chết không đủ sức hành động bằng thân, thậm chí bằng lời nói, do đó nghiệp của đương sự khi sắp mạng chung là ý nghiệp, được tạo ra bằng ý nghĩ của họ. Nghiệp này có cường độ rất mạnh, có thể định hướng tái sanh của đương sự ở tương lai.

Cận tử nghiệp là rất mạnh, Kinh Pháp cú có nhiều ẩn dụ về nghiệp rất hay:

“Không trên trời dưới biển

Không lánh vào động núi

Không nơi nào trên đời

Tránh được quả ác nghiệp”

“Không trên trời, giữa biển

Không lánh vào động núi

Không chỗ nào trên đời

Tránh khỏi tay thần chết.”

 Ảnh hưởng của thuyết nghiệp trong văn hoá Việt Nam.

Đạo Phật được truyền vào nước ta khoảng đầu Tây lịch, đến nay đã hơn 2000 năm. Dưới thời phong kiến, từ vua chúa, quan lại đến người bình dân, từ các tác phẩm văn thơ bác học đến các tác phẩm  văn học nhân gian đều nhốm màu Phật giáo. Có nhà nghiên cứu còn cho rằng chính đạo Phật đã góp công lớn trong việc chiến thắng quân Mông Nguyên ba lần sang xâm lược nước ta. Thuyết nghiệp nó có ảnh hưởng sâu rộng trong tâm thức của người Việt Nam. Từ nghiệp thường dùng trong giao tiếp hằng ngày của mọi người Việt,  nếu thấy ai có hoàn cảnh khó khăn, thương tâm như tai nạn, hoàn cảnh éo le, người ta thương buông câu nói tội nghiệp để tỏ ý thương hại cho người đó, nó thành thói quen, nhưng ít ai quan tâm đến nguyên nghĩa của từ tội nghiệp ban đầu có nghĩa là gì. Tội nghiệp có nghĩa là nghiệp có tội. Nghiệp của những người lúc trước làm ra nhiều tội lỗi cho nên bây giờ họ mới chịu hậu quả xấu, gặp báo ứng ngày nay.  Từ nghiệp được nhà thơ Nguyễn Du  nói trong truyện Kiều về nghiệp như các câu:

“Số còn nặng nghiệp má đào

Người dầu muốn quyết trời nào đã cho” (câu 997-998)

Sư rằng: “Song chẳng phận gì,

Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều” (câu 2679 -2680)

“Xét trong tội nghiệp Thuý Kiều,

Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm” (câu 2681 -2682)

“Đã mang lấy nghiệp vào thân,

Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”  (câu 3249 -2680)

Thuý Kiều còn nặng nghiệp má đào, cho nên dù Kiều có muốn quyên sinh, chết đi cho xong cũng không được vì Trời chưa cho. Chữ Trời ở đây ta hiểu như là chữ Nghiệp, Nghiệp chưa trả hết thì không thể xong việc được. Trời có nghĩa là nghiệp báo thì mới hiểu đúng theo chữ Nghiệp của Phật giáo nói đến, chứ không phải Trời hiểu theo nghĩa của Thiên chúa giáo. Nghiệp của Thuý Kiều trả chưa hết nên chưa thể chết được. Nàng Kiều phải tiếp tục sống để trả cho hết  “nghiệp má đào”. Xét trong tội nghiệp Thuý Kiều là câu nói của nhà sư Giác Duyên cho nên câu này mang nghĩa từ nguyên (tội nghiệp là nghiệp có tội hay nghiệp mang tội lỗi mà kiếp trước Thuý Kiều đã gây ra). Đã mang lấy nghiệp vào thân, thì cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa, vì nghiệp là do bản thân mình tạo ra, có trách được ai. Trách trời cũng vô ích vì trời không thể giúp được gì.

Câu nói của nhân gian đã phổ biến của người Việt “gieo gió gặt bão” chính là thuyết nghiệp báo của nhà Phật đã thấm sâu vào văn hoá dân gian Việt Nam. Trung Hoa có câu cách ngôn: “Tích thiện chi gia tất hữu dư khương, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương”. Nghĩa là: Một nhà tích chứa điều tốt sẽ có thừa điều lành; một nhà tích chứa điều ác tất có nhiều điều dữ. Câu tư tưởng này không thuộc về đạo Phật nhưng nghĩa lý rất tương đồng với nghiệp, nghiệp báo.

Người đời thường nói “lời nói gió bay”, Đạo Phật không cho rằng như vậy, vì là lời nói cũng là dạng tạo nghiệp (khẩu nghiệp), cho nên không thể xem thường được. Ta thấy trong đời sống thường ngày, nhiều trường hợp lời nói tuy trên hình thức gió thổi đi mất nhưng người nói nhiều khi phải trả giá ngay tức khắc, có khi là bằng mạng sống của mình vì hành vi khẩu nghiệp của mình. Hay một lời nói tốt đẹp có thể cứu được mạng người, hoặc mang lại hạnh phúc, an lành cho người khác thì chúng ta không thể không cẩn thận khi phát ngôn.

Nghiệp được ghép với một từ nữa chỉ cho kết quả của hành động trong từ ngữ nhà Phật rất nhiều như: nghiệp duyên, nghiệp chướng, nghiệp bảo, nghiệp đạo, nghiệp lực, nghiệp quả, nghiệp nợ, thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp .v.v.

“Tiền sanh nghiệp chướng có dầy

Cho nên trời mới đem đày nhân gian

                                                         (Quan Âm Thị Kính)

“Ăn rau ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay”

                                      (Trần Nhân Tông- Cư trần lạc đạo phú)

“Nghiệp nợ kết dày, chướng tội thêm thẳm”

                                          (Lời tựa quyển Thiền uyển tập anh)

   Dẫn chứng một số câu về nghiệp, nghiệp báo cho thấy thuyết nghiệp của đạo Phật ảnh hưởng rất sâu rộng trong tâm thức của người dân Việt Nam. Người Việt dù ít hay nhiều cũng ý thức về nghiệp báo luân hồi, ý thức được cái mình đang làm, đang nói hay đang suy nghĩ có ảnh hưởng như thế nào đến bản thân mình, bà con, người thân hay mọi người xung quanh mình nên nghiệp có tác dụng giáo dục nhất định.

Một số nhận xét về thuyết nghiệp.

Điều gì giải thích được muôn vàn sai biệt của thế giới này? Chỉ có thuyết nghiệp mới giải thích được.Thật sự, trên thế gian này không có hai người giống hệt như nhau, thậm chí những cặp sinh đôi có hình tướng giống hệt nhau nhưng tính cách, sự suy nghĩ cũng có cái khác biệt không ít thì nhiều.  Đó là do nghiệp của họ tạo ra không giống nhau. Mỗi suy nghĩ, hành động nho nhỏ hơi khác nhau thì đã tạo ra những nghiệp khác nhau rồi.  Cũng nhờ vào thuyết nghiệp mà chúng ta có thể giải thích được những trường hợp mà khoa học hiện nay chưa làm được.

Thuyết nghiệp của đạo Phật không mang tính quyết định luận như các tôn giáo và triết thuyết Ấn giáo chính thống;  cũng không có  tính cơ giới, máy móc như đạo Jain, mà trái lại, thuyết nghiệp của đạo Phật rất năng động, tích cực. Nó còn có chỗ cho ý chí tự do của con người. Đề cao con người, con người chỉ có thể tạo nghiệp khi có dụng tâm. Thuyết nghiệp của đạo Phật cho ta những bài học quý giá và sâu sắc. (Theo tổng kết của GS Minh Chi):

Một là, thuyết nghiệp của đạo Phật dạy cho chúng ta bài học nhẫn nại và bình thãn. Một việc gì không may xảy ra cho chúng ta ở đời sống này đều chỉ là một sự trả giá công bằng cho một nghiệp bất thiện của quá khứ mà chúng ta đã làm từ trước. Ngược lại, nếu gặp may, chúng ta cũng không quá vui mừng mà mất hết tỉnh táo.

Hai là, nghiệp là niềm tin và nỗ lực tối đa. Niềm tin vào thuyết nghiệp của đạo Phật thúc đẩy chúng ta làm việc hết mình, sống hết mình vì lý tưởng cao cả đó.

Ba là, thuyết nghiệp giúp ta sống tỉnh táo và có tinh thần trách nhiệm. Người tin vào thuyết nghiệp biết rằng mỗi phút giây mình sống đều tạo ra nghiệp qua suy nghĩ, lời nói và việc làm. Chúng đều có tác động đến bản thân, gia đình và xã hội trong hiện tại và tương lai.

Hiểu biết như vậy, chúng ta sống đầy tinh thần trách nhiệm với những ý nghĩa, lời nói và hành động của mình dù là cái nhỏ nhất, chúng cũng giúp chúng ta cải tạo bản thân, cải tạo gia đình và xã hội, đem lại lợi ích thiết thực cho mọi người.

Nói tóm lại, thuyết nghiệp của đạo Phật nếu được phổ biến rộng rãi sẽ có tác dụng giáo dục quần chúng rộng rãi. Người tin theo thuyết nghiệp của đạo Phật sẽ hạn chế được những hành vi, lời nói, ý nghĩ sai trái hại người, hại chính bản thân mình; thuyết nghiệp khuyến khích con người làm việc thiện, nói lời tốt đẹp, tích cực, nghĩ thiện…sẽ có tác dụng cải tạo xã hội rất lớn. Ngoài ra, thuyết nghiệp của đạo Phật còn rất gần gũi, thậm chí giải thích được những ưu tư mà khoa học hiện đại không thể cung cấp một sự giải thích thoả đáng được ./.

 (Trích  Nguyệt san GN 225-12-2014. Võ Văn Thành)

{]{

NGHIỆP CỦA ĐẠO PHẬT TRONG VĂN HOÁ VIỆT NAM Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét