ĐẠO LÝ
DUYÊN KHỞI
Theo
Đức Phật, không thể tìm hiểu được nguyên nhân ban đầu của đời sống hay của bất
kỳ một sự hữu nào. Trong vòng tương quan nhân quả, nguyên nhân đầu tiên là điều
không thể hiểu được. Theo kinh nghiệm thông thường, nguyên nhân trở thành kết
quả và kết quả trở thành nguyên nhân. Mọi hiện hữu đều dựa vào sự phụ thuộc và
tương quan lẫn nhau. Nguyên tắc này được gọi là Lý Nhân duyên, căn bản vận hành
là nguyên tắc về nhân quả.
“Khi cái này hiện hữu, cái kia hiện hữu. Cái
này đang sanh, cái kia cũng sanh. Khi cái này không có, cái kia không có. Cái
này đang ngưng, cái kia cũng ngưng”.
Một cái cây, cây mọc lên tuỳ thuộc vào giống,
đất, nước, độ ẩm, không khí và ánh sáng. Tất cả các hiện tượng ấy phát sinh lại
tuỳ thuộc vào một số yếu tố nhân quả không tự tác khác, là một ví dụ.
Ngọn lửa
của đèn dầu cháy do tim và dầu mà có được. Khi dầu và tim đèn hiện hữu thì đèn
cháy. Nếu một trong hai thứ đó không có thì đèn tắt, cũng là ví dụ.
Quy luật
trên đây nhấn mạnh rằng tất cả các hiện tượng trong vũ trụ đều ở trạng thái
liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau, không sinh khởi độc lập. Chính vì điều này nên
không có một cái gì trong thế giới này được xem là một thực thể trường cửu.
Nhưng bị thúc đẩy bởi động cơ tham ái nên con người thường tạo ra những giả tưởng
về sự thường- còn trong tâm nên khó có thể hiểu được rằng thế giới này là ảo ảnh,
là huyển, là không thật. Nó tương tự như một quả cầu lửa khi được xoay tít
chung quanh trong một thời gian, nó có thể tạo ra ảo ảnh của một vòng lửa.
Đối với
con người, sự sống phát sinh, hiện hữu và tiếp nối ra sao, khổ đau sinh khởi thế
nào thì Lý Nhân duyên mô tả qua sự vận hành của 12 chi phần.
- Vô
minh. Do vô minh duyên hành (những hành động thuộc ý chí hay nghiệp).
- Hành
duyên sinh thức
- Thức
duyên sinh danh sắc (hiện tượng tinh thần và vật chất).
- Danh sắc
duyên sinh lục nhập (năm giác quan và ý thức)
- Lục nhập
duyên sinh xúc
- Xúc
duyên sinh thọ
-
Thọ duyên
sinh ái
-
Ái duyên
sinh thủ
-
Thủ duyên
sinh hữu
-
Do tiến
trình của hữu duyên sinh sanh
-
Do sanh
có lão, tử, ưu bi, khổ…
Hai chi
phần trong nhóm nghiệp là hành và hữu. Hành bao gồm những thói quen, những ấn
tượng mà chúng ta tạo thành trong dòng chảy của tâm thức, qua những hành động lặp
đi lặp lại. Những ấn tượng này khởi lên và đi qua, chìm vào quá khứ; ấn tượng
đã xuất hiện nhưng chưa đi qua thuộc hiện tại và ấn tượng sẽ xuất hiện ở tương
lai. Tiến trình nối tiếp là một thiết chế khái niệm nhân quả, đặc tính vận hành
của ý thức, khi dòng vận hành này được nhận thấy rõ thì mối quan hệ nhân và quả
được xác minh. Tác dụng của ý thức là tri nhận những ấn tượng quá khứ, hiện tại
và vị lai. Ấn tượng tri giác đi qua, rơi vào tiềm thức, tích hợp thành kinh
nghiệm.
Kinh nghiệm
đến lượt nó tạo cho ý thức một thái độ nhận thức đối với tri giác mới. Nhưng do
sự tương tức của kinh nghiệm nên không tồn tại một tri giác nào hoàn toàn mới mẻ
đối với ý thức. Như vậy, đặc tính của khái niệm nhân quả hoàn toàn là khái niệm
thời gian vì đó chính là tính cách vận chuyển của ý thức, mà bản chất của nó là
kinh nghiệm, là sự tích hợp của thói quen, của ấn tượng tri giác.
Ấn tượng
tri giác hiện tại được tiếp qua ý thức, thực ra nó đã qua hình ảnh ấn tượng quá
khứ. Hiện tại như thế được chồng chất bởi kinh nghiệm của quá khứ, vì vậy hiện
thực hiện hữu ngay bây giờ và tại đây là hiện thực đã nhìn nó qua lăng kính nhân
quả, có nghĩa là hiện hữu đó đã đặt vào một khuôn mẫu cố định tại một điểm nào
đó trong không- thời gian.
Có thể
tóm lại, khi chúng ta có những ô trược, được mô tả là các bất tịnh của tâm, tức
vô minh, ái và thủ. Tâm bất tịnh này tạo hành động, và cả những hành động tạo
tác từ tiền kiếp, đưa đến sự hình thành nguồn thói quen hay còn gọi là hành
trong kiếp này, ứng với chi phần gọi là hữu. Tất nhiên hữu có liên đới phù hợp
với những ấn tượng đã có từ tiền kiếp.
Theo cách
diễn tả này thì 5 chi phần của lý Nhân duyên trong hai nhóm trược và hành động:
vô minh, ái, thủ, hành và hữu là nguyên nhân của tái sinh và đau khổ.
Trong ý
nghĩa này, Thập nhị nhân duyên, trình bày một bức tranh luân hồi có đủ nhân và
quả, có nghĩa là giải thích tiến trình của sanh và tử. Nó không nhằm trình bày
nguồn gốc tuyệt đối của đời sống, và cũng không phải là một lý thuyết tiến hoá
của thế giới vạn hữu. Các tư duy thể loại này không phù hợp với giáo lý Duyên
khởi và rơi vào lý luận vô bổ. Đức Phật và hàng đệ tử của Ngài không hề bàn đến
các câu hỏi về nguồn gốc của các hiện hữu bao giờ cả.
Theo quan
điểm của Phật giáo thì vũ trụ đang là này, là thiện thực đối với con người nên
có mối liên hệ hữu cơ không thể tách rời được. Về mặt chân tướng thì thế giới
hiện tượng cũng là duyên sanh và vô ngã nên gọi là Không tính, đương nhiên con
người cũng là Không tính.
Với kinh
nghiệm trong đời sống hàng ngày, con người sinh ra để sống với khát vọng được hạnh
phúc, hưởng được lạc thú qua 6 giác quan. Vì vậy, cái thế giới mà chúng ta đón
nhận xuất hiện qua tham ái, chấp thủ và vô minh. Đó là thế giới ảnh tượng,
không chân thật, đã bị biến dạng bởi sự can thiệp của tình cảm, của tri thức
thiên lệch và cái nhìn chao đảo.
Qua giáo
lý Duyên khởi, Đức Phật dạy rằng con người và thế giới là duyên sinh. Thế giới
đó là chân thật, nằm ngay trong chúng ta, trong hiện tại và ngay tại đây khi
chúng ta buông xả mọi tham ái, mọi chấp thủ và tịnh hoá nội tâm để không còn cuốn
theo những cuộc chơi nương dâu bãi bể, nay rày mai khác. Kinh dạy: Tâm thanh tịnh
thì thế giới thanh tịnh. Để xây dựng trạng thái nội tâm đó, con người cần phải
thực hành một đời sống giải thoát theocon đường Bát chánh đạo:
- Chánh
kiến: gìn giữ một quan niệm xác đáng về giáo lý và về Tứ diệu đế.
- Chánh
tư duy: suy nghĩ đúng đắn và có mục đích đúng đắn.
-
Chánh ngữ:
Không nói dối hay phù phiếm.
-
Chánh
nghiệp: Tránh phạm giới luật
- Chánh mệnh:
Tránh các nghề nghiệp mang lại giết hại như đồ tể, buôn bán vũ khí, thuốc phiện…
-
Chánh
tinh tấn: Phát triển nghiệp tốt, trừ nghiệp xấu.
-
Chánh niệm:
Tỉnh giác trên thân, khẩu, ý
- Chánh định:
Tập trung tâm ý đạt đến định xuất thế gian.
Trong Bát
chánh đạo, chánh kiến là bước khởi đầu có tính nền tảng, nhờ đó mới có khả năng
thẩm thấu được thực tính sự vật, mới tự chuyển hoá được toàn bộ cách suy nghĩ
và các hành động của mình. Vậy ai đã phát triển chánh kiến thì người đó có khả
năng nhìn mọi hiện tượng như nó “thực là”.
Ngày nay, sống trong thời đại khoa học
và công nghệ phát triển rực rỡ cao độ nên hầu hết mọi khía cạnh của cuộc đời
con người đều bị ảnh hưởng bởi khoa học từ những suy nghĩ đến việc làm. Các ứng
dụng thực tiễn của khoa học đã giúp cho nhân loại hưởng một cuộc sống tiện nghi
tuyệt vời mà trước đó không ai dám mơ ước. Có lẽ vì thế nên ta thường nghe nói
rất nhiều về khoa học với những điều khoa
học có thể làm, nhưng lại rất ít về cái
khoa học không thể làm.
Khoa học
nỗ lực tìm hiểu thế giới bên ngoài, và
chỉ quan tâm sơ sài đến thế giới bên trong. Khoa học về tâm lý còn mức độ non
trẻ trong việc tạm hiểu nguyên nhân cơ bản của tâm trạng bất an của con người
và không làm chuyển hoá được thế giới nội tâm. Khoa học không đưa ra mục đích
có ý nghĩa cho cuộc sống, không cung cấp
những lý do rõ ràng cho kiếp sống nhân sinh, bất lực trong việc cung ứng
một cương lĩnh đạo đức cho nhân loại mà trái lại còn đốt nóng thêm ngọn lửa ái
dục của con người.
Sự bất lực
này không phải là một thất bại của khoa học, mà chính là vì khả năng và ranh giới
nghiên cứu của mình. Khoa học gồm ngành cơ bản và ứng dụng, là hiện thân của
tri thức lý thuyết và tri thức ứng dụng, nó không đặt cho mình mục đích là tri
thức chiêm nghiệm và giải thoát.
Phật
giáo, theo các triết gia lỗi lạc hiện đại, và các nhà khoa học lớn, là một tôn
giáo thích hợp nhất của xã hội khoa học hiện đại, dù rằng khoa học không phải nội dung chính trong các lời giáo huấn của
Đức Phật. Điều nhận xét này đã nói lên rằng, ngoài những giáo lý có tính chất của
nền đạo đức, vẫn còn có cả một thế giới bàng bạc cái tính cách của “kính vạn hoa” phản chiếu ảnh
tượng như thực như hư, như có như không mà con người với đầu óc thường nghiệm
khó lòng mà kiến giải, nếu không viện dẫn đến lòng xác tín.
Hoài vọng
của các thế hệ học Phật ngày nay, sinh ra và lớn lên, thừa hưởng được nhiều
thành tựu của nền văn minh khoa học và công nghệ, nhưng đồng thời chịu đựng không
ít những đổ vỡ trầm trọng của tâm thức. Hoài vọng như vậy sẽ thành tựu hoặc
không , và sự thành tựu sẽ như thế nào là một chuyện khác, tuỳ thuộc vào cách
quan niệm.
Vì vậy,
dù cho khoa học vẫn còn những sắc màu cám dỗ đối với trí năng con người về những
chân lý khách quan mà trí năng của con người có thể vươn tới được. Tuy nhiên nó
cũng đã gieo những áo tưởng vào khả năng
tính của trí năng, và dần dần theo thời gian, nó không còn giữ được thể giá như
ngày xưa, do những giới hạn từ bản chất bên trong của nó. Với những dụng cụ
tinh vi có độ chính xác cao, các nhà khoa học có thể nhìn thấy từ các thiên hà
xa xôi cho đến thế giới hạ nguyên tử. Nhưng với trạng thái tinh thần, giấc mơ,
ý tưởng, hy vọng, lo âu của ông ta thì thế nào?
Rất nhiều
câu hỏi đại loại như thế. Xã hội con người đang phải đương đầu với hàng loạt
các vấn đề nan giải không thể giải quyết được chỉ bằng các phương pháp của khoa
học, và cũng có những vấn đề về con người mãi mãi vượt ra ngoài khả năng tìm kiếm
của khoa học.
Bất luận
từ vị thế nào, hoàn cảnh nào, con người hiện thân như một gã cùng tử trong kinh
Pháp Hoa, luôn luôn trôi nổi trong biển khổ nghiệp thức. Gia bảo đang có đó,
nhưng vẫn chưa tìm thấy dù tháng ngày rong ruổi miệt mài mà sở nguyện vẫn
còn xa vời vợi. Vì sao thế? Bởi vì nói
theo ngôn ngữ Phật giáo, con người hiện hữu đang bị ràng buộc trong sự chiêu cảm của nghiệp lực, của những chiều kích thông tục
về vật chất, thời gian, không gian và tương quan nhân quả một chiều.
Dù cho một
số khái niệm mới mẽ nhất của nền vật lý
hiện đại, vật lý vi mô hiển hiện trong các trang kinh xưa, cho phép chúng ta
nghĩ rằng các tương đồng này mở đường cho khoa học tìm đến đạo Phật. Đây quả thật
là một trợ duyên đối với những ai thường hay đọc kinh và thường hay mơ màng
hàng giờ trên những trang kinh “Thế gian pháp, tức Phật pháp” là một xác tín.
Niềm xác tín của các thế hệ tu học Phật qua những gì mà đức Phật giảng dạy,
giáo hoá đã đem đến một thành tựu quá lớn lao, hơn những gì ta gọi là xác thực
chỉ là xác thực trong sự tương ứng của nghiệp cảm, nghĩa là còn chịu tác động của
vô minh trên tâm thức. Cái khát vọng và đòi hỏi sự xác thực chính là sự thôi
thúc của mong manh về những gì được gọi
là xác thực.
Đã trải
qua một thời gian khá dài, vật lộn với đời sống, đem tâm trí mình chao đảo
trong những suy niệm triết học, nghiền
ngẫm những thành tựu của khoa học để rồi sau cùng, mò mẫm tìm đến mạch pháp ẩn
tàng, trải nghiệm lý tính tự thân, mở lối cho tâm trí đã từng bị chi phối bởi
những kiến giải khoa học.
Đạo Phật
hiện thân như một con đường sau cùng thênh thang huyền nhiệm, trong khi các ngả
đường khác dường như rơi vào bế tắc. Và cũng như tự bao giờ, những trang kinh mời
gọi con người đi tới thâm nhập, để tỉnh thức, bằng con mắt HUỆ trước màng vô
minh dày đặc, giữa những quay cuồng điên đảo của cuộc sống. Cánh cửa vào đạo từ
đó cũng sẽ mở rộng vững chắc để chúng ta trở về với một tâm thái mùa xuân trong
chân lý cõi bình an.
Chân lý
cõi bình an nội tại là một đời sống hạnh phúc thực thụ, bắt nguồn từ sự tịnh hoá nội tâm, vượt lên
trên thế giới cảm xúc nhị nguyên, không dong ruổi theo những khát vọng bên
ngoài. Lúc bấy giờ ta sẽ dễ dàng chấp nhận cuộc đời với bao nhiêu chìm nổi,
thiên hình vạn trạng bể dâu của tồn sinh mộng ảo mà không hề thấy cái gì vướng
bận trong tâm./.
(Trích: NSGN số225 -
12-2014 - Đặng Công Hanh)
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét