Thứ Hai, 16 tháng 6, 2025

NIỆM PHẬT VÀ HÀNH THIỀN TRONG THỰC TIỄN TU HỌC

 

NIỆM PHẬT VÀ HÀNH THIỀN

TRONG THỰC TIỄN TU HỌC

                                                                                      Thích Trí Đức

           Cơ sở hình thành pháp hành Thiền Tịnh song tu.

  1/ Bối cảnh lịch sử của Phật giáo trước sự ra đời của phương pháp Thiền Tịnh song tu.

          Trên phương diện Phật giáo sử, dễ dàng nhận thấy Thiền tông và Tịnh độ tông xuất hiện trong khoảng thời gian trước và sau đời Tuỳ-Đường, từ đó pháp môn niệm Phật Thiền hình thành và liên quan đến sự phát triển pháp Thiền Tịnh song tu. Về vấn đề này, trước tiên chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa niệm Phật trong kinh điển Phật giáo Nguyên Thuỷ, cụ thể trong kinh A Hàm, kinh Tăng Chi, và trong kinh điển Đại thừa. Lúc tại thế, Đức Phật đã dạy đệ tử xuất gia, tại gia về phương pháp niệm Phật như là phương  thức quán niệm hỗ trợ cho pháp thiền định, bảo hộ đời sống an lành, đối trị mọi phiền não. Kinh A-hàm có dạy: “Thế Tôn là Như Lai, Vô sở trước, Đẳng chánh giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ,  Điều ngự sư, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Người ấy sau khi niệm tưởng Như Lai như vậy, ác tham nếu có liền bị tiêu diệt. Những pháp tạp uế, ác bất thiện, nếu có bị diệt”.  Trong Tăng chi, Đức Phật có dạy cho các đệ tử xuất gia như sau: “Có một pháp, này các Tỳ kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Phật. Chính một pháp này, này các Tỳ kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn”. Trong một lần thuyết pháp cho các đệ tử cư sĩ, Đức Phật dạy như sau:  “Bấy giờ Thế Tôn bảo  các khách buôn: “Các ông sắp vào nơi hoang mạc, sẽ gặp nhiều khủng bố, tâm kinh hoàng dựng đứng cả lông, lúc ấy nên niệm Như Lai sự: Như Lai, Ứng cúng, Đẳng chánh giác,…cho đến Phật, Thế Tôn. Niệm như vậy thì mọi khủng bố đều tiêu trừ. Lại niệm pháp sự  “Chánh pháp luật của Phật, được thấy trong hiện tại, có thể xa lìa sự thiêu đốt, không đợi thời tiết, được thấu suốt, được thân cận, duyên vào tự mình mà giác trí”. Lại niệm Tăng sự, “Đệ tử Thế Tôn thiện hướng, chánh hướng… cho đến là ruộng phước của thế gian”.  Niệm như vậy, thì mọi sự khủng bố đều được tiêu trừ”.

           Điều quan trọng  ở đây là ý nghĩa của pháp niệm Phật được Đức Phật nhấn mạnh trong hệ kinh Nguyên thuỷ, tức là trong các kinh Nikaya và A-hàm. Niệm ở đây tức quán niệm, nhớ nghĩ phẩm đức, oai lực, trí tuệ của Phật. Niệm Tam bảo Phật, Pháp, Tăng , giúp tâm an định vượt qua mọi phiền não khủng bố và hướng đến sự giác ngộ, chứng đắc Niết bàn. Phương thức tu niệm ở đây nhắm đến các hàng đệ tử Thanh văn Tăng và chúng Phật tử nói chung.

          Trong kinh điển Đại thừa, Đức Phật dạy pháp niệm Phật và giới thiệu cảnh giới Tịnh độ một cách có hệ thống. Dựa trên nền tảng đó, các Tổ sư thành lập nên Tịnh Độ tông. Vì pháp môn tu này phổ cập cho mọi tầng lớp, cho nên phát triển rất nhanh và chiếm ưu thế ngay từ khi vừa mới hình thành.

          Khi Phật giáo du nhập vào Trung Hoa, ngài Huệ Viễn (334- 416), vị Tăng sĩ hành trì pháp môn niệm Phật, được tôn xưng là Sơ tổ tông Tịnh Độ. Đến đầu thời đại nhà Đường thì ngài Đàm Loan (476-542), ra đời sau ngài Huệ Viễn viên tịch 60 năm, đã có công rất lớn trong việc phát huy phương pháp trì danh niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Đệ tử ngài Đàm Loan là ngài Đạo Xước đã nhiệt tâm tu Tịnh độ, phát triển rộng rải phương pháp trì danh niệm Phật. Ngài Thiện Đạo thời cận đại được xem là Tổ sư Tịnh độ lại là đệ tử của ngài Đạo Xước. Thiền tông và Tịnh tông lúc bấy giờ đang phát triển song hành. Ngài Đàm Loan ảnh hưởng quan niệm “Nan hành đạo” và “Dị hành đạo” của ngài Long Thọ qua các tác phẩm Tỳ bà sa: “Quốc độ Ta bà không có Đức Phật ra đời, nên siêng năng tinh tấn tu đạo mới mong đạt Thánh quả, đây mới là điều khó khăn cho nên mới gọi phương pháp khó (nan hành). Giả sử lấy nhân duyên tin Phật mà nguyện sanh Tịnh độ, như niệm Phật A Di Đà để vãng sanh cõi Cực lạc, đó chính là phương pháp dễ hành (dị hành)”. Do vậy, ngài Đàm Loan rất chú trọng pháp niệm Phật là pháp môn thiết thực và thích hợp với mọi căn cơ trong thời mạt pháp.

          Đến ngài Thiên Thai Trí Di (538-597) thuộc Thiên Thai tông, pháp môn niệm Phật cũng được nhấn mạnh. Bản thân Thiên Thai Trí Di là người tinh thông Thiền giáo, một hành giả uyên thâm kinh luận Đại thừa, có nhiều tác phẩm thiền học và luận giải, nhưng lại hết lòng hoằng dương Tịnh Độ, đặc biệt phát huy tư tưởng Thiền Tịnh. Điều này được nhận thấy qua tác phẩm “Ngũ phương tiện niệm Phật môn”.

          Trong thời kỳ đầu của Thiền tông đến đời Tổ Đạo Tín (580-651), niệm Phật danh trong Thiền tông  đã xuất hiện. Nhưng từ Tổ Đạo Tín đến Tổ Hoằng Nhẫn đã khai mở “Đông Sơn pháp môn”, chủ trương “Niệm Phật danh, linh tịnh tâm”, mục đích là nhiếp tâm, biện tâm, chứng ngộ thật tướng. Tư tưởng Đạo Tín tiếp nhận tư tưởng pháp yếu từ dòng thiền Tổ Đạt Ma, nhưng đã từng áp dụng pháp “Nhất hạnh tam muội” từ  “Văn thù thuyết Bát Nhã kinh” trong việc giáo hoá hậu học. Đạo Tín chủ trương:”Tâm niệm Phật là Phật, vọng niệm là phàm phu”. Đó là quá trình tu niệm tâm và Phật hợp nhất. Ngay thời Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, do nhu cầu tu học, ngài chủ trương quan niệm đốn tiệm song hành. Huệ Năng tiếp nhận pháp đốn ngộ, Thần Tú tiếp nhận pháp tiệm tu.

          Nội dung của pháp Nhất hạnh tam muội được Phật dạy trong kinh như sau: “Pháp giới một tướng, thể nhập vào pháp giới gọi là Nhất hạnh tam muội. Nếu có người nam, người nữ nào muốn nhập vào Nhất hạnh tam muội, nên khéo nghe pháp Bát nhã ba la mật, như pháp mà tu hành, sẽ nhập vào pháp Nhất hạnh tam muội. Như tâm duyên quán pháp giới, bất thối, bất hoại, không nghĩ bàn, không chướng ngại, không tướng trạng. Người nam, người nữ đó, muốn nhập vào tam muội này, ở tại một nơi thanh nhàn, xả bỏ tâm ý ô nhiễm, không giữ tướng trạng trong tâm, chuyên tâm một vị Phật mà xưng danh hiệu. Tuỳ theo phương vị, ngồi ngay thẳng đoan nghiêm, nhất tâm xưng niệm tương tục danh hiệu Phật, tức là trong nhất tâm niệm có thể thấy ba đời  tất cả chư Phật. Vì sao vậy? Niệm công đức vô lượng vô biên của  một vị Phật cũng đồng với niệm công đức biện tài vô lượng  của vô lượng chư Phật. Nhập  Nhất hạnh tam muội này thì thông suốt rõ ràng vô số các cõi nước chư Phật vốn không có tướng sai biệt”.

          Nhất hạnh tam muội cũng là cương lĩnh  niệm Phật chung cho hành giả pháp môn Tịnh độ, đó là niệm Phật chứng đắc tam muội (chánh định). Tư tưởng chứng đắc tam muội cũng được Đức Phật nhấn mạnh trong kinh Lăng Nghiêm, qua phẩm Đại Thế Chí niệm Phật viên thông chương. Điểm then chốt của chương này là dạy tu niệm Phật. Kinh Văn Thù thuyết Bát nhã, kinh Lăng Nghiêm và kinh Quán vô lượng thọ cũng có sự liên hệ giữa Thiền và Tịnh.

          Vào đời Đường, phương pháp niệm Phật Thiền khá được chú trọng. Bấy giờ Thiền Tăng từ tông chỉ quán tâm thủ nhất pháp kiến tánh thành Phật có xu thế vận dụng thiền chuyên niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Cho nên có phương pháp niệm Phật Thiền xuất hiện trong giới Thiền Tăng. Phương pháp này y cứ vào kinh Quán Vô lượng thọ. Các học giả nghiên cứu Trung Quốc Phật giáo sử xác nhận rằng kinh Quán vô lượng thọ là kinh điển then chốt kết nối pháp hành của Thiền tông và Tịnh Độ tông. Vì tu niệm Phật hay tu thiền, khi hành pháp niệm Phật tam muội thành tựu thì đạt được mục đích chứng ngộ.

          Tam Tạng Từ Mẫn (702), một pháp sư tinh thông kinh luận, chẳng những chủ trương Thiền Tịnh song tu, mà còn cho rằng nên vận dụng cả ba tông Thiền, Tịnh, Luật. Ông phê bình quan điểm cho rằng pháp tu Tịnh độ hướng ngoại là sai lầm. Trong tác phẩm “Vạn thiện đồng quy” của Vĩnh Minh Diên Thọ, có trích lời dạy của Tam Tạng  Pháp sư Từ Mẫn như sau: “Thánh giáo đã dạy, chánh thiền định là chế tâm một chỗ, niệm niệm tương tục, xa rời hôn mê, giữ tâm bình đẳng. Nếu bị hôn trầm thì chuyên tâm niệm Phật. Hành đạo tụng kinh, nói pháp giáo hoá chúng sanh, vạn hạnh không bỏ, đem cả sự nghiệp tu hành hồi hướng vãng sanh Tây phương Tịnh độ”.

          Thiền Tịnh tuy là hai phương pháp khác nhau nhưng mục đích cứu cánh là một, có y cứ từ kinh Lăng Nghiêm, kinh Văn Thù thuyết, Bát nhã, kinh Quán vô lượng thọ. Vĩnh Minh Thiền sư hình thành tư tưởng Thiền Tịnh song tu, qua tác phẩm “Tông cảnh lục”. Trong đó tổng hợp tư tưởng Thiền tông, Thiên thai tông, Hoa nghiêm tông, và Pháp tướng tông. Đây là bộ sách Phật học quan trọng trong  thời đại nhà Đường. Ngoài ra còn có bộ “Vạn thiện đồng quy”.

  2/ Thiền Tịnh song tu là thành quả đặc thù của Phật giáo phát triển.

          Thiền Tịnh song tu là kết quả đặc thù của Phật giáo. Đặc thù ở đây mang hai phương diện, một là nhu cầu thích ứng căn cơ người tu tập, hai là mục đích truyền giáo của các  bậc Tổ sư. Quan điểm tu học của Phật giáo Nguyên thuỷ là y cứ vào hệ kinh Nikaya và hệ kinh A-hàm, thực hành thiền quán, chứng Tứ thiền và bốn quả Thanh văn. Quả vị sau cùng là A-la-hán, thành tựu giải thoát. Khi Phật giáo truyền vào Trung Hoa, Bồ Đề-Đạt-Ma được xem là vị Tổ đầu tiên của Thiền tông. Từ Bồ Đề đến sau đời Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, Phật giáo Thiền có sự chuyển hướng. Thiền tông chủ trương bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, yêu cầu chứng ngộ thật tướng, tức thấy tánh thành Phật. Lý tưởng rất cao nhưng vai trò tiếp dẫn quần chúng  chắc chắn có trở ngại, vì tu chứng thiền đa số cần bậc đại căn cơ.

          Tịnh độ là phương tiện thù thắng, được trình bày trong các kinh điển Đại thừa như kinh A Di Đà, kinh Vô lượng thọ, kinh Quán vô lượng thọ và nhiều kinh khác. Pháp tu niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ là con đường an toàn nhất trong hành trình vượt sông sanh tử luân hồi. Ở đây cần phải hiểu rằng việc tu Tịnh độ là tin  rằng đức từ bi và bổn nguyện vĩ đại của Phật A Di Đà và mười phương chư Phật luôn hộ niệm chúng sanh niệm Phật. Tây phương Cực lạc là thế giới bổn nguyện của Phật A Di Đà, một hoàn cảnh thuận lợi cho sự chứng đắc quả vị Phật. Nếu nói đó là cảnh giới phương tiện của người tu đạo cũng có thể đúng, vì kinh dạy khi gặp Phật A Di Đà được nghe pháp âm và chứng ngộ sẽ được bổ xứ làm Phật.

          Thực tiễn có người thích tu Thiền, có người thích Tịnh độ. Nếu tu Thiền chưa chứng ngộ sợ mê lạc trong sáu đường và ba cõi thì phát nguyện niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ, có nhiều duyên lành mau chóng giác ngộ. Kinh dạy rằng, ngay cả mười phương chúng sanh thế giới biết hồi tâm niệm Phật cũng được vãng sanh, huống gì người tu Thiền.  Được chứng ngộ sau khi vãng sanh là kết quả của sự hỗ trợ giữa tự lực và tha lực, còn hơn khả năng hạn chế mà bỏ quên ở nguyện lực của Phật.

          Giáo nghĩa Tịnh độ rất thâm sâu, hàm chứa điểm cứu cánh của Thiền và Tịnh. Trong đó trì danh niệm Phật được vãng sanh, quán tưởng niệm Phật cũng được vãng sanh, cao hơn nữa là thực hành thật tướng niệm Phật chứng ngộ thật tướng ngay trong đời này và được vãng sanh tại phẩm vị cao. Thực tướng niệm Phật, hay còn gọi là chứng ngộ bản tâm, minh tâm kiến tánh, đâu khác gì  cảnh giới chứng ngộ của Thiền tông. Tuỳ theo căn cơ mà phát huy năng lực niệm Phật có thành quả sai biệt. Đây là quan điểm niệm Phật là niệm tâm. Kinh Quán vô lượng thọ, kinh Văn Thù thuyết Bát nhã, đều nhấn mạnh pháp niệm Phật tam muội. Từ cơ sở  đó, Thiền Tịnh song tu được hình thành, đó là một trong những thành quả của Phật giáo phát triển.

          Thiền Tịnh song tu là sự vận dụng giáo lý trong  quá trình tu tập có căn cứ và phù hợp các kinh luận Đại thừa. Đó là từ kinh Văn Thù thuyết Bát nhã với tư tưởng niệm Phật tam muội; kinh Quán vô lượng thọ với tư tưởng từ quán Phật mà đạt tâm Phật. Kinh Quán vô lượng thọ viết: “Vì chư Phật Như Lai là thân pháp giới vào khắp trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh, nên lúc các ngươi tâm tưởng Phật, tâm ấy tức là ba mươi hai tướng, tám mươi tuỳ hình hảo; tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật”. Từ pháp quán tưởng Phật, niệm Phật mà chứng tâm Phật và tâm ấy là Phật. Đoạn kinh trên rất quan trọng cho pháp toạ thiền quán Phật, niệm Phật. Nhưng muốn chứng tâm Phật, hay chứng thật tướng thì phải đắc niệm Phật tam muội. Ngoài ra, Tịnh độ tông chủ trương niệm danh hiệu Phật A Di Đà hướng tới vãng sanh. Mục đích vãng sanh như là lựa chọn cảnh giới thù thắng nhất trong mọi cảnh giới thuận lợi cho sự tu học giác ngộ trọn vẹn. Đó là trên căn bản tự lực và nương vào tha lực của Phật A Di Đà.

          3/ Các tôn sư tiêu biểu cho xu hướng Thiền Tịnh song tu.

          Giáo nghĩa của Tịnh độ liên quan đến Thiền và giáo lý Thiền cũng liên quan đến Tịnh. Thiền hay Tịnh cũng đặt nền tảng trên Giới-Định-Tuệ. Thiền hay Tịnh cũng quy về tại tâm. Vì sao? Vì nếu Thiền chứng ngộ tại tâm, Tịnh độ cũng có khả năng chứng ngộ thật tướng tại tâm. Nếu vãng sanh thì tâm này vãng sanh, nhưng tuỳ theo cấp độ mà có phẩm vị  cao thấp. Cho nên trên phương diện Thiền Tịnh song tu từ tâm mà luận, từ nhu cầu tu học mà triển khai thì có khác nhau do từ cách nhìn của mỗi người, chứ giáo lý Phật luôn quy về một điểm là giúp chúng sanh thoát khỏi khổ đau sanh tử.

          Thiên Thai Trí Di  (538-579) còn có biệt danh là Đại sư Trí Giả, có nhiều tác phẩm liên quan đến giáo lý Thiền và Tịnh. Cụ thể trong Ngũ phương tiện niệm Phật môn, đã luận giải về năm tiêu chí của pháp niệm Phật tam muội: “Hành giả  niệm Nam mô A Di Đà Phật, nguyện sanh cõi Cực lạc, còn gọi là pháp môn xưng danh hiệu Phật nguyện vãng sanh. Quán tưởng thân Phật, chuyên chú không tán loạn, thì sẽ thấy tướng Phật quang minh rực rỡ chiếu soi hành giả, lúc bấy giờ  tất cả tội chướng đều tiêu trừ, gọi là pháp môn quán tướng Phật diệt tội. Quán tướng Phật này là từ tâm khởi không ngoài cảnh khác, gọi là pháp môn quán các cảnh do tâm sanh. Quán tâm này, không có thực tướng mạo nắm bắt, gọi là pháp môn quán xa rời tâm và cảnh. Lúc bấy giờ, tâm hành giả hướng đến trạng thái thiền định sâu lắng, buông xả tất cả tâm thức và ý thức, nhập Niết bàn, nương vào năng lực mười phương chư Phật gia trì và hộ niệm hưng khởi trí tuệ. Hành giả ở trong nhất niệm, tịnh Phật quốc độ và thành tựu chúng sanh. Công đức tu học bốn giai đoạn trước trăm ngàn vạn phần không bằng một phần giai đoạn tánh khởi viên thông này. Vì sao như vậy? vì không còn luận ở công sức mà có diệu dụng cùng khắp, nghĩa là từ một thân mà biến thành vô lượng thân. Hành giả tuỳ duyên hành đạo, được Phật hộ niệm thấu rõ tận cùng nghĩa lý Phật pháp, thành tựu mười hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ tát. Bổn nguyện như vậy, thể nghiệm pháp vốn như vậy, tức gọi là Pháp tánh khởi viên thông”. Tóm lại, năm phương pháp niệm Phật là để chứng đắc chánh định trọn vẹn, tâm vào thiền định sâu lắng, buông xả tâm thức và ý thức, chứng nhập Niết bàn.

          Các Thiền sư đời Tống cũng tán dương Tịnh độ. Các Đại sư như Thiên Y Nghĩa Hoài, Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ (960-1297) đều chấp nhận quan niệm Thiền Tịnh song tu. Theo ngài Vĩnh Minh Diên Thọ thì Thiền Tịnh là sự phát triển hài hoà và phổ biến. Nhưng trong thực tế phát triển của Phật giáo thì vẫn có  những người nhận thức khác nhau về ý nghĩa pháp môn, thậm chí có hiện tượng đứng về Thiền chỉ trích Tịnh, đứng về Tịnh chỉ trích Thiền. Mục đích đem  đến thái độ nhất quán của đạo Phật đối với mọi thành phần tu tập, Vĩnh Minh Diên Thọ chủ trương Thiền Tịnh song tu. Thứ nhất khẳng định Thiền hay Tịnh đều là pháp môn Phật dạy. Thứ hai là khẳng định hai pháp môn đều là phương thức tu tập đưa đến sự chứng ngộ và giải thoát. Thứ ba là luận bàn pháp môn Thiền Tịnh song tu thích ứng với số đông người tu học. Bản thân Vĩnh Minh Diên Thọ là Thiền sư nhưng phát tâm hoằng dương Tịnh độ, và lý do của việc làm này được thể hiện trên lời khai thị:

                             “Có Thiền không Tịnh độ.

                             Mười người, chín lạc lộ

                             Ấm cảnh khi hiện ra

                             Chớp mắt đi theo nó.

                             Không Thiền có Tịnh độ

                             Muôn tu muôn thoát khổ

                             Vãng sanh thấy Di Đà

                             Lo gì chẳng khai ngộ?

                             Có Thiền có Tịnh độ

                             Như thêm sừng mãnh hổ

                             Hiện đời làm thầy người

                             Về sau thành Phật Tổ.

                             Không Thiền không Tịnh độ

                             Giường sắt, cột đồng lửa!

                             Muôn kiếp lại ngàn đời

                             Chẳng có nơi nương tựa”.

          Theo Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ, người tu Thiền là bậc thượng căn, có ý chí mạnh mẽ, nếu hướng về Tịnh độ tức đầy đủ hai yếu tố tự lực và tha lực thì pháp tu mau thành tựu.  Thiền Tịnh không còn là sự phân biệt mà có tính bổ sung trong lĩnh vực tu đạo giải thoát.

            4/ Quan điểm Thiền Tịnh song tu của Trần Thái Tông (1218-1277).

            Trần Thái Tông là một Thiền sư lỗi lạc vào thời nhà Trần, một giai đoạn mà tư tưởng Thiền ảnh hưởng sâu  sắc vào đời sống quần chúng, vào bình diện đạo đức, văn hoá xã hội. Mặc dù là một Thiền sư, Trần Thái Tông vẫn chủ trương pháp niệm Phật. Bên cạnh niệm Phật vãng sanh, pháp niệm Phật của Trần Thái Tông còn là sự thanh lọc tâm. Niệm Phật đưa đến trạng thái  tự thanh tịnh tâm: “Thiện niệm phát khởi, ác niệm tiêu tan, duy còn thiện niệm”. Đặc biệt, phương pháp bất nhị tướng niệm Phật là tương ưng với trực chỉ Thiền. Tức là niệm  rời xa năng sở, không có quan niệm về chủ thể và đối tượng. Quan điểm tâm tức Phật, niệm Phật tức niệm tâm: “Tâm tức là Phật, không muốn sự thêm vào, Ý niệm là bụi, không dung một điểm nào ở trong tâm ấy, ở đấy vốn trong sạch bụi nhơ, cho nên bao giờ cũng như thế không vang động gọi là như như, tức là thể của Phật. Thực thể Phật thế nào là thực thể ngã như thế, không có hai hình tướng. Hình tướng và hình tướng không có hai, yên lặng còn luôn mà không biết, thế là Phật sống”.

{]{

NIỆM PHẬT VÀ HÀNH THIỀN TRONG THỰC TIỄN TU HỌC Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét