NIỆM PHẬT
VÀ HÀNH THIỀN
TRONG THỰC
TIỄN TU HỌC
Thích
Trí Đức
Cơ sở hình thành pháp hành Thiền Tịnh song
tu.
1/ Bối
cảnh lịch sử của Phật giáo trước sự ra đời của phương pháp Thiền Tịnh song tu.
Trên
phương diện Phật giáo sử, dễ dàng nhận thấy Thiền tông và Tịnh độ tông xuất hiện
trong khoảng thời gian trước và sau đời Tuỳ-Đường, từ đó pháp môn niệm Phật Thiền
hình thành và liên quan đến sự phát triển pháp Thiền Tịnh song tu. Về vấn đề
này, trước tiên chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa niệm Phật trong kinh điển Phật
giáo Nguyên Thuỷ, cụ thể trong kinh A Hàm, kinh Tăng Chi, và trong kinh điển Đại
thừa. Lúc tại thế, Đức Phật đã dạy đệ tử xuất gia, tại gia về phương pháp niệm
Phật như là phương thức quán niệm hỗ trợ
cho pháp thiền định, bảo hộ đời sống an lành, đối trị mọi phiền não. Kinh A-hàm
có dạy: “Thế Tôn là Như Lai, Vô sở trước, Đẳng chánh giác, Minh hạnh túc, Thiện
thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều
ngự sư, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Người ấy sau khi niệm tưởng Như Lai như vậy,
ác tham nếu có liền bị tiêu diệt. Những pháp tạp uế, ác bất thiện, nếu có bị diệt”. Trong Tăng chi, Đức Phật có dạy cho các đệ tử
xuất gia như sau: “Có một pháp, này các Tỳ kheo, được tu tập, được làm cho sung
mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác
ngộ, Niết bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Phật. Chính một pháp này, này
các Tỳ kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán,
ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn”. Trong một lần thuyết
pháp cho các đệ tử cư sĩ, Đức Phật dạy như sau:
“Bấy giờ Thế Tôn bảo các khách
buôn: “Các ông sắp vào nơi hoang mạc, sẽ gặp nhiều khủng bố, tâm kinh hoàng dựng
đứng cả lông, lúc ấy nên niệm Như Lai sự: Như Lai, Ứng cúng, Đẳng chánh
giác,…cho đến Phật, Thế Tôn. Niệm như vậy thì mọi khủng bố đều tiêu trừ. Lại niệm
pháp sự “Chánh pháp luật của Phật, được
thấy trong hiện tại, có thể xa lìa sự thiêu đốt, không đợi thời tiết, được thấu
suốt, được thân cận, duyên vào tự mình mà giác trí”. Lại niệm Tăng sự, “Đệ tử
Thế Tôn thiện hướng, chánh hướng… cho đến là ruộng phước của thế gian”. Niệm như vậy, thì mọi sự khủng bố đều được
tiêu trừ”.
Điều quan trọng ở đây là ý nghĩa của pháp niệm Phật được Đức
Phật nhấn mạnh trong hệ kinh Nguyên thuỷ, tức là trong các kinh Nikaya và
A-hàm. Niệm ở đây tức quán niệm, nhớ nghĩ phẩm đức, oai lực, trí tuệ của Phật.
Niệm Tam bảo Phật, Pháp, Tăng , giúp tâm an định vượt qua mọi phiền não khủng bố
và hướng đến sự giác ngộ, chứng đắc Niết bàn. Phương thức tu niệm ở đây nhắm đến
các hàng đệ tử Thanh văn Tăng và chúng Phật tử nói chung.
Trong
kinh điển Đại thừa, Đức Phật dạy pháp niệm Phật và giới thiệu cảnh giới Tịnh độ
một cách có hệ thống. Dựa trên nền tảng đó, các Tổ sư thành lập nên Tịnh Độ
tông. Vì pháp môn tu này phổ cập cho mọi tầng lớp, cho nên phát triển rất nhanh
và chiếm ưu thế ngay từ khi vừa mới hình thành.
Khi
Phật giáo du nhập vào Trung Hoa, ngài Huệ Viễn (334- 416), vị Tăng sĩ hành trì
pháp môn niệm Phật, được tôn xưng là Sơ tổ tông Tịnh Độ. Đến đầu thời đại nhà
Đường thì ngài Đàm Loan (476-542), ra đời sau ngài Huệ Viễn viên tịch 60 năm,
đã có công rất lớn trong việc phát huy phương pháp trì danh niệm Phật cầu sanh
Tịnh độ. Đệ tử ngài Đàm Loan là ngài Đạo Xước đã nhiệt tâm tu Tịnh độ, phát triển
rộng rải phương pháp trì danh niệm Phật. Ngài Thiện Đạo thời cận đại được xem
là Tổ sư Tịnh độ lại là đệ tử của ngài Đạo Xước. Thiền tông và Tịnh tông lúc bấy
giờ đang phát triển song hành. Ngài Đàm Loan ảnh hưởng quan niệm “Nan hành đạo”
và “Dị hành đạo” của ngài Long Thọ qua các tác phẩm Tỳ bà sa: “Quốc độ Ta bà
không có Đức Phật ra đời, nên siêng năng tinh tấn tu đạo mới mong đạt Thánh quả,
đây mới là điều khó khăn cho nên mới gọi phương pháp khó (nan hành). Giả sử lấy
nhân duyên tin Phật mà nguyện sanh Tịnh độ, như niệm Phật A Di Đà để vãng sanh
cõi Cực lạc, đó chính là phương pháp dễ hành (dị hành)”. Do vậy, ngài Đàm Loan
rất chú trọng pháp niệm Phật là pháp môn thiết thực và thích hợp với mọi căn cơ
trong thời mạt pháp.
Đến
ngài Thiên Thai Trí Di (538-597) thuộc Thiên Thai tông, pháp môn niệm Phật cũng
được nhấn mạnh. Bản thân Thiên Thai Trí Di là người tinh thông Thiền giáo, một
hành giả uyên thâm kinh luận Đại thừa, có nhiều tác phẩm thiền học và luận giải,
nhưng lại hết lòng hoằng dương Tịnh Độ, đặc biệt phát huy tư tưởng Thiền Tịnh.
Điều này được nhận thấy qua tác phẩm “Ngũ phương tiện niệm Phật môn”.
Trong
thời kỳ đầu của Thiền tông đến đời Tổ Đạo Tín (580-651), niệm Phật danh trong
Thiền tông đã xuất hiện. Nhưng từ Tổ Đạo
Tín đến Tổ Hoằng Nhẫn đã khai mở “Đông Sơn pháp môn”, chủ trương “Niệm Phật
danh, linh tịnh tâm”, mục đích là nhiếp tâm, biện tâm, chứng ngộ thật tướng. Tư
tưởng Đạo Tín tiếp nhận tư tưởng pháp yếu từ dòng thiền Tổ Đạt Ma, nhưng đã từng
áp dụng pháp “Nhất hạnh tam muội” từ “Văn
thù thuyết Bát Nhã kinh” trong việc giáo hoá hậu học. Đạo Tín chủ trương:”Tâm
niệm Phật là Phật, vọng niệm là phàm phu”. Đó là quá trình tu niệm tâm và Phật
hợp nhất. Ngay thời Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, do nhu cầu tu học, ngài chủ trương quan
niệm đốn tiệm song hành. Huệ Năng tiếp nhận pháp đốn ngộ, Thần Tú tiếp nhận
pháp tiệm tu.
Nội
dung của pháp Nhất hạnh tam muội được Phật dạy trong kinh như sau: “Pháp giới một
tướng, thể nhập vào pháp giới gọi là Nhất hạnh tam muội. Nếu có người nam, người
nữ nào muốn nhập vào Nhất hạnh tam muội, nên khéo nghe pháp Bát nhã ba la mật,
như pháp mà tu hành, sẽ nhập vào pháp Nhất hạnh tam muội. Như tâm duyên quán
pháp giới, bất thối, bất hoại, không nghĩ bàn, không chướng ngại, không tướng
trạng. Người nam, người nữ đó, muốn nhập vào tam muội này, ở tại một nơi thanh
nhàn, xả bỏ tâm ý ô nhiễm, không giữ tướng trạng trong tâm, chuyên tâm một vị
Phật mà xưng danh hiệu. Tuỳ theo phương vị, ngồi ngay thẳng đoan nghiêm, nhất
tâm xưng niệm tương tục danh hiệu Phật, tức là trong nhất tâm niệm có thể thấy
ba đời tất cả chư Phật. Vì sao vậy? Niệm
công đức vô lượng vô biên của một vị Phật
cũng đồng với niệm công đức biện tài vô lượng
của vô lượng chư Phật. Nhập Nhất
hạnh tam muội này thì thông suốt rõ ràng vô số các cõi nước chư Phật vốn không
có tướng sai biệt”.
Nhất
hạnh tam muội cũng là cương lĩnh niệm Phật
chung cho hành giả pháp môn Tịnh độ, đó là niệm Phật chứng đắc tam muội (chánh
định). Tư tưởng chứng đắc tam muội cũng được Đức Phật nhấn mạnh trong kinh Lăng
Nghiêm, qua phẩm Đại Thế Chí niệm Phật viên thông chương. Điểm then chốt của
chương này là dạy tu niệm Phật. Kinh Văn Thù thuyết Bát nhã, kinh Lăng Nghiêm
và kinh Quán vô lượng thọ cũng có sự liên hệ giữa Thiền và Tịnh.
Vào
đời Đường, phương pháp niệm Phật Thiền khá được chú trọng. Bấy giờ Thiền Tăng từ
tông chỉ quán tâm thủ nhất pháp kiến tánh thành Phật có xu thế vận dụng thiền
chuyên niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Cho nên có phương pháp niệm Phật Thiền xuất
hiện trong giới Thiền Tăng. Phương pháp này y cứ vào kinh Quán Vô lượng thọ.
Các học giả nghiên cứu Trung Quốc Phật giáo sử xác nhận rằng kinh Quán vô lượng
thọ là kinh điển then chốt kết nối pháp hành của Thiền tông và Tịnh Độ tông. Vì
tu niệm Phật hay tu thiền, khi hành pháp niệm Phật tam muội thành tựu thì đạt
được mục đích chứng ngộ.
Tam
Tạng Từ Mẫn (702), một pháp sư tinh thông kinh luận, chẳng những chủ trương Thiền
Tịnh song tu, mà còn cho rằng nên vận dụng cả ba tông Thiền, Tịnh, Luật. Ông phê
bình quan điểm cho rằng pháp tu Tịnh độ hướng ngoại là sai lầm. Trong tác phẩm
“Vạn thiện đồng quy” của Vĩnh Minh Diên Thọ, có trích lời dạy của Tam Tạng Pháp sư Từ Mẫn như sau: “Thánh giáo đã dạy, chánh thiền định là chế tâm một chỗ, niệm niệm tương
tục, xa rời hôn mê, giữ tâm bình đẳng. Nếu bị hôn trầm thì chuyên tâm niệm Phật.
Hành đạo tụng kinh, nói pháp giáo hoá chúng sanh, vạn hạnh không bỏ, đem cả sự
nghiệp tu hành hồi hướng vãng sanh Tây phương Tịnh độ”.
Thiền
Tịnh tuy là hai phương pháp khác nhau nhưng mục đích cứu cánh là một, có y cứ từ
kinh Lăng Nghiêm, kinh Văn Thù thuyết, Bát nhã, kinh Quán vô lượng thọ. Vĩnh
Minh Thiền sư hình thành tư tưởng Thiền Tịnh song tu, qua tác phẩm “Tông cảnh lục”.
Trong đó tổng hợp tư tưởng Thiền tông, Thiên thai tông, Hoa nghiêm tông, và
Pháp tướng tông. Đây là bộ sách Phật học quan trọng trong thời đại nhà Đường. Ngoài ra còn có bộ “Vạn
thiện đồng quy”.
2/ Thiền Tịnh song tu là thành quả
đặc thù của Phật giáo phát triển.
Thiền Tịnh song tu là kết quả đặc thù của Phật
giáo. Đặc thù ở đây mang hai phương diện, một là nhu cầu thích ứng căn cơ người
tu tập, hai là mục đích truyền giáo của các
bậc Tổ sư. Quan điểm tu học của Phật giáo Nguyên thuỷ là y cứ vào hệ
kinh Nikaya và hệ kinh A-hàm, thực hành thiền quán, chứng Tứ thiền và bốn quả
Thanh văn. Quả vị sau cùng là A-la-hán, thành tựu giải thoát. Khi Phật giáo
truyền vào Trung Hoa, Bồ Đề-Đạt-Ma được xem là vị Tổ đầu tiên của Thiền tông. Từ
Bồ Đề đến sau đời Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, Phật giáo Thiền có sự chuyển hướng. Thiền
tông chủ trương bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, yêu cầu chứng ngộ thật
tướng, tức thấy tánh thành Phật. Lý tưởng rất cao nhưng vai trò tiếp dẫn quần
chúng chắc chắn có trở ngại, vì tu chứng
thiền đa số cần bậc đại căn cơ.
Tịnh độ là phương tiện thù thắng, được
trình bày trong các kinh điển Đại thừa như kinh A Di Đà, kinh Vô lượng thọ,
kinh Quán vô lượng thọ và nhiều kinh khác. Pháp tu niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ
là con đường an toàn nhất trong hành trình vượt sông sanh tử luân hồi. Ở đây cần
phải hiểu rằng việc tu Tịnh độ là tin rằng
đức từ bi và bổn nguyện vĩ đại của Phật A Di Đà và mười phương chư Phật luôn hộ
niệm chúng sanh niệm Phật. Tây phương Cực lạc là thế giới bổn nguyện của Phật A
Di Đà, một hoàn cảnh thuận lợi cho sự chứng đắc quả vị Phật. Nếu nói đó là cảnh
giới phương tiện của người tu đạo cũng có thể đúng, vì kinh dạy khi gặp Phật A
Di Đà được nghe pháp âm và chứng ngộ sẽ được bổ xứ làm Phật.
Thực tiễn có người thích tu Thiền, có
người thích Tịnh độ. Nếu tu Thiền chưa chứng ngộ sợ mê lạc trong sáu đường và
ba cõi thì phát nguyện niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ, có nhiều duyên lành mau
chóng giác ngộ. Kinh dạy rằng, ngay cả mười phương chúng sanh thế giới biết hồi
tâm niệm Phật cũng được vãng sanh, huống gì người tu Thiền. Được chứng ngộ sau khi vãng sanh là kết quả của
sự hỗ trợ giữa tự lực và tha lực, còn hơn khả năng hạn chế mà bỏ quên ở nguyện
lực của Phật.
Giáo
nghĩa Tịnh độ rất thâm sâu, hàm chứa điểm cứu cánh của Thiền và Tịnh. Trong đó
trì danh niệm Phật được vãng sanh, quán tưởng niệm Phật cũng được vãng sanh,
cao hơn nữa là thực hành thật tướng niệm Phật chứng ngộ thật tướng ngay trong đời
này và được vãng sanh tại phẩm vị cao. Thực tướng niệm Phật, hay còn gọi là chứng
ngộ bản tâm, minh tâm kiến tánh, đâu khác gì
cảnh giới chứng ngộ của Thiền tông. Tuỳ theo căn cơ mà phát huy năng lực
niệm Phật có thành quả sai biệt. Đây là quan điểm niệm Phật là niệm tâm. Kinh
Quán vô lượng thọ, kinh Văn Thù thuyết Bát nhã, đều nhấn mạnh pháp niệm Phật
tam muội. Từ cơ sở đó, Thiền Tịnh song
tu được hình thành, đó là một trong những thành quả của Phật giáo phát triển.
Thiền
Tịnh song tu là sự vận dụng giáo lý trong
quá trình tu tập có căn cứ và phù hợp các kinh luận Đại thừa. Đó là từ
kinh Văn Thù thuyết Bát nhã với tư tưởng niệm Phật tam muội; kinh Quán vô lượng
thọ với tư tưởng từ quán Phật mà đạt tâm Phật. Kinh Quán vô lượng thọ viết: “Vì chư Phật Như Lai là thân pháp giới vào khắp
trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh, nên lúc các ngươi tâm tưởng Phật, tâm ấy
tức là ba mươi hai tướng, tám mươi tuỳ hình hảo; tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật”.
Từ pháp quán tưởng Phật, niệm Phật mà chứng tâm Phật và tâm ấy là Phật. Đoạn
kinh trên rất quan trọng cho pháp toạ thiền quán Phật, niệm Phật. Nhưng muốn chứng
tâm Phật, hay chứng thật tướng thì phải đắc niệm Phật tam muội. Ngoài ra, Tịnh
độ tông chủ trương niệm danh hiệu Phật A Di Đà hướng tới vãng sanh. Mục đích
vãng sanh như là lựa chọn cảnh giới thù thắng nhất trong mọi cảnh giới thuận lợi
cho sự tu học giác ngộ trọn vẹn. Đó là trên căn bản tự lực và nương vào tha lực
của Phật A Di Đà.
3/ Các tôn sư tiêu biểu cho xu hướng Thiền Tịnh
song tu.
Giáo
nghĩa của Tịnh độ liên quan đến Thiền và giáo lý Thiền cũng liên quan đến Tịnh.
Thiền hay Tịnh cũng đặt nền tảng trên Giới-Định-Tuệ. Thiền hay Tịnh cũng quy về
tại tâm. Vì sao? Vì nếu Thiền chứng ngộ tại tâm, Tịnh độ cũng có khả năng chứng
ngộ thật tướng tại tâm. Nếu vãng sanh thì tâm này vãng sanh, nhưng tuỳ theo cấp
độ mà có phẩm vị cao thấp. Cho nên trên
phương diện Thiền Tịnh song tu từ tâm mà luận, từ nhu cầu tu học mà triển khai
thì có khác nhau do từ cách nhìn của mỗi người, chứ giáo lý Phật luôn quy về một
điểm là giúp chúng sanh thoát khỏi khổ đau sanh tử.
Thiên
Thai Trí Di (538-579) còn có biệt danh
là Đại sư Trí Giả, có nhiều tác phẩm liên quan đến giáo lý Thiền và Tịnh. Cụ thể
trong Ngũ phương tiện niệm Phật môn, đã luận giải về năm tiêu chí của pháp niệm
Phật tam muội: “Hành giả niệm Nam mô A Di Đà Phật, nguyện sanh cõi Cực
lạc, còn gọi là pháp môn xưng danh hiệu Phật nguyện vãng sanh. Quán tưởng thân
Phật, chuyên chú không tán loạn, thì sẽ thấy tướng Phật quang minh rực rỡ chiếu
soi hành giả, lúc bấy giờ tất cả tội chướng
đều tiêu trừ, gọi là pháp môn quán tướng Phật diệt tội. Quán tướng Phật này là
từ tâm khởi không ngoài cảnh khác, gọi là pháp môn quán các cảnh do tâm sanh.
Quán tâm này, không có thực tướng mạo nắm bắt, gọi là pháp môn quán xa rời tâm
và cảnh. Lúc bấy giờ, tâm hành giả hướng đến trạng thái thiền định sâu lắng,
buông xả tất cả tâm thức và ý thức, nhập Niết bàn, nương vào năng lực mười
phương chư Phật gia trì và hộ niệm hưng khởi trí tuệ. Hành giả ở trong nhất niệm,
tịnh Phật quốc độ và thành tựu chúng sanh. Công đức tu học bốn giai đoạn trước
trăm ngàn vạn phần không bằng một phần giai đoạn tánh khởi viên thông này. Vì
sao như vậy? vì không còn luận ở công sức mà có diệu dụng cùng khắp, nghĩa là từ
một thân mà biến thành vô lượng thân. Hành giả tuỳ duyên hành đạo, được Phật hộ
niệm thấu rõ tận cùng nghĩa lý Phật pháp, thành tựu mười hạnh nguyện của Phổ Hiền
Bồ tát. Bổn nguyện như vậy, thể nghiệm pháp vốn như vậy, tức gọi là Pháp tánh
khởi viên thông”. Tóm lại, năm phương pháp niệm Phật là để chứng đắc chánh
định trọn vẹn, tâm vào thiền định sâu lắng, buông xả tâm thức và ý thức, chứng
nhập Niết bàn.
Các
Thiền sư đời Tống cũng tán dương Tịnh độ. Các Đại sư như Thiên Y Nghĩa Hoài,
Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ (960-1297) đều chấp nhận quan niệm Thiền Tịnh song
tu. Theo ngài Vĩnh Minh Diên Thọ thì Thiền Tịnh là sự phát triển hài hoà và phổ
biến. Nhưng trong thực tế phát triển của Phật giáo thì vẫn có những người nhận thức khác nhau về ý nghĩa
pháp môn, thậm chí có hiện tượng đứng về Thiền chỉ trích Tịnh, đứng về Tịnh chỉ
trích Thiền. Mục đích đem đến thái độ nhất
quán của đạo Phật đối với mọi thành phần tu tập, Vĩnh Minh Diên Thọ chủ trương
Thiền Tịnh song tu. Thứ nhất khẳng định Thiền hay Tịnh đều là pháp môn Phật dạy.
Thứ hai là khẳng định hai pháp môn đều là phương thức tu tập đưa đến sự chứng
ngộ và giải thoát. Thứ ba là luận bàn pháp môn Thiền Tịnh song tu thích ứng với
số đông người tu học. Bản thân Vĩnh Minh Diên Thọ là Thiền sư nhưng phát tâm hoằng
dương Tịnh độ, và lý do của việc làm này được thể hiện trên lời khai thị:
“Có Thiền không Tịnh độ.
Mười người, chín lạc lộ
Ấm cảnh khi hiện ra
Chớp mắt đi theo nó.
Không Thiền có Tịnh độ
Muôn tu muôn thoát khổ
Vãng sanh thấy Di Đà
Lo gì chẳng khai ngộ?
Có Thiền có Tịnh độ
Như thêm sừng mãnh hổ
Hiện đời làm thầy người
Về sau thành Phật Tổ.
Không Thiền không Tịnh độ
Giường sắt, cột đồng lửa!
Muôn kiếp lại ngàn đời
Chẳng có nơi nương tựa”.
Theo Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ, người tu Thiền
là bậc thượng căn, có ý chí mạnh mẽ, nếu hướng về Tịnh độ tức đầy đủ hai yếu tố
tự lực và tha lực thì pháp tu mau thành tựu.
Thiền Tịnh không còn là sự phân biệt mà có tính bổ sung trong lĩnh vực
tu đạo giải thoát.
4/ Quan điểm Thiền Tịnh song tu của
Trần Thái Tông (1218-1277).
Trần Thái Tông là một Thiền sư lỗi lạc
vào thời nhà Trần, một giai đoạn mà tư tưởng Thiền ảnh hưởng sâu sắc vào đời sống quần chúng, vào bình diện đạo
đức, văn hoá xã hội. Mặc dù là một Thiền sư, Trần Thái Tông vẫn chủ trương pháp
niệm Phật. Bên cạnh niệm Phật vãng sanh, pháp niệm Phật của Trần Thái Tông còn
là sự thanh lọc tâm. Niệm Phật đưa đến trạng thái tự thanh tịnh tâm: “Thiện niệm phát khởi, ác
niệm tiêu tan, duy còn thiện niệm”. Đặc biệt, phương pháp bất nhị tướng niệm Phật
là tương ưng với trực chỉ Thiền. Tức là niệm
rời xa năng sở, không có quan niệm về chủ thể và đối tượng. Quan điểm
tâm tức Phật, niệm Phật tức niệm tâm: “Tâm
tức là Phật, không muốn sự thêm vào, Ý niệm là bụi, không dung một điểm nào ở
trong tâm ấy, ở đấy vốn trong sạch bụi nhơ, cho nên bao giờ cũng như thế không
vang động gọi là như như, tức là thể của Phật. Thực thể Phật thế nào là thực thể
ngã như thế, không có hai hình tướng. Hình tướng và hình tướng không có hai,
yên lặng còn luôn mà không biết, thế là Phật sống”.
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét