ÁI
Người
sống mặc buông lung
Ái
tăng như dây rừng
Sống
đời này đời khác
Như
vượn tham quả rừng
Bàng
bạc trong kinh Phật, chữ ái được nhắc đến hầu như không thể tính đếm vì ái là cội
nguồn của sanh tử, là gốc của khổ đau mà con người phải gánh chịu; gánh chịu
cái khổ đau xuất phát tự nơi bản thân
mình, do chính mình tự tạo nghiệp, tự lãnh chịu quả báo và tự mình trôi lăn
trong luân hồi.
Tự mình làm điều ác
Tự mình sanh, mình tạo
Ác nghiệp nghiến kẻ ngu
Như kim cang nghiền báu.
Chữ
ái tìm thấy trong kinh Phật qua nhiều danh từ, biểu tượng khác nhau, nơi bốn
câu thi kệ ở đầu bài cho thấy, ái như dây leo trong rừng, thì tăng trưởng, chằng
chịt, vô số, ngoài ra còn được ví như nước, như sông ( ái hà), như biển (biển
ái dục), như mạng lưới, như bùn lầy, như tên độc, như gai nhọn, như lưỡi câu,
như mũi dao, như mật ngọt trên lưỡi dao, như chiếc bẫy nhựa…
Ái
như dây leo, mọc tràn lan, bao phủ rừng rậm, mà con người thì như con vượn tham
ăn, níu vào chuyền từ cành này sang cành khác, đời này sang đời khác không biết
khi nào dừng lại.
Ái
như dòng nước, như con sông, như biển cả cuồn cuộn sóng mà con người trầm mình
trong đó, tắm gội trong đó và chìm nghỉm trong đó. Ái như mạng lưới bao phủ,
trùm lên thân thể con người, làm kẹt tay kẹt chân, con người vùng vẫy mà không
thoát được.
Ái như vũng bùn lầy mà con người lỡ sa
chân vào và từ từ bị lún sâu, bị chôn chặt trong đó
Ái như mũi tên tẩm thuốc độc đã bắn
trúng thân thể và con người chỉ còn chờ chết cho dù có rút được tên độc nhưng
chất độc đã ngấm vào da thịt rồi, vô phương cứu chữa.
Ái như gai nhọn đâm vào tay rớm máu,
làm nhứt nhối, gây ung nhọt, cho dù thương tích chỉ một nơi mà gây khó chịu,
đau đớn như cả toàn thân khó chịu vô cùng.
Ái như lưỡi câu mà con cá đã lỡ cắn
vào thì không còn cách nào nhả ra được, số phận nằm trong tay kẻ cầm câu, trước
sau cũng lên lò lửa nước sôi.
Ái như mũi dao xuyên qua da thịt, đâm
thủng lục phủ ngũ tạng, con người trúng lao thì quằn quại, nằm dài xuôi tay chờ
chết.
Ái như mật ngọt bôi trên dao bén mà
con người thèm thuồng liếm mãi, liếm mãi, đam mê, mất sáng suốt, không còn biết
thận trọng, biết dừng lại, cho đến khi lưỡi bị con dao bén cắt, máu me thương
tích rồi mới sực tỉnh. Ôi thôi cũng trễ rồi!
Ái như chiếc bẫy trét nhựa, làm cho tứ
chi dính mắc trong đó, không làm sao nhúc nhích được, giải thoát được.
Trong kinh điển, hình ảnh, biểu tượng
của ái thường được diễn tả, được ví như trên. Cảm giác đầu tiên xâm chiếm tâm
tư chúng ta có lẽ là một nỗi khiếp sợ, rùng mình.
Hãy cùng tìm hiểu tường tận ái là gì?
Tại sao ái là cội gốc của sinh tử? Làm
thế nào để ái không tăng trưởng như dây rừng, làm thế nào để tránh rơi vào dòng
nước chảy xiết, những con sóng dữ dội của biển ái? Làm thế nào để thoát khỏi mạng
lưới, vũng bùn lầy, mũi tên độc, cây lao nhọn, mật ngọt trên dao bén, chiếc bẫy
trét nhựa với cái tên gọi thật ư đẹp đẽ thơ mộng là ái đó?
Ái, từ Hán Việt, thật ra nghĩa của nó chỉ đơn giản là
yêu, là thương, là thích. Không có gì phức tạp. Nhưng dùng trong kinh điển Phật
giáo, nói đến giáo lý nhà Phật thì ý nghĩa của ái không đơn giản như vậy và là
một thuật ngữ khá quan trọng.
Ái được dịch từ tiếng Pali là tanha,
mang ý nghĩa của sự khát ái, và bao gồm cả tham, dục, cho nên chúng ta thường gặp
cụm từ “tham ái” hay “ái dục”, đủ nghĩa hơn là chỉ dùng ái đơn lẻ.
Trong Tập đế, chân lý thứ hai mà Phật
Thích Ca đã thuyết về nguyên nhân của khổ, thì ái chính là nguồn gốc của khổ.
Nhưng ái không phải là nguồn gốc đầu tiên và duy nhất, vì theo thuyết Duyên khởi
thì mọi sự đều nương nhau mà có, do đó mà không thể tự dưng có ái, độc lập, riêng biệt xen vào “gây
chuyện” đưa đẩy con người tạo nghiệp và luân hồi. Ái xen vào là khi đã có một cái thân (danh sắc, lục nhập) và được
hỗ trợ bởi những cảm giác, cảm xúc (xúc, thọ).
Ái không chỉ là động từ yêu, động từ
thương, động từ thích. Yêu, thương, thích cái gì, điều gì mình muốn, cái gì, điều
gì hợp với mình, vừa ý mình, đem lại sảng khoái, khoái chí, thú vị, hạnh phúc
mà cũng là ghét bỏ, không ưa cái gì, điều gì mình không muốn, cái gì, điều gì
không hợp với mình, không vừa ý mình, không đem lại sảng khoái, không thú vị,
không hấp dẫn, không quyến rũ, không hạnh phúc tức là cái gì, điều gì gây khó
chịu, bực bội, không vừa lòng, gây đau khổ. Thuận hay nghịch, hai chiều trái
ngược của yêu, thương hay thích và ghét bỏ xua đổi, ruồng rẫy đều nằm trong một
vòng tay của ái mà thôi.
Dễ hiểu hơn, khi nói “tôi yêu”, “ tôi
thương”, “tôi thích” cũng như khi nói
“tôi không yêu” “tôi không thương”, “tôi
không thích”, “tôi ghét”, chp dù nói theo chiều nào cũng chỉ lá ái.
Hãy lần lần tiến sâu vào tính chất và
các hoạt động của ái và cùng đọc một đoạn kinh sau đây: “Này các Tỳ kheo, đây
là Thánh đế về khổ nhân: Chính ái dẫn đến tái sanh, do ái cấu kết với hỷ và
tham, tìm thú vui nơi này chỗ khác, tức là dục ái, hữu ái và phi hữu ái”
Như vậy, có thể nói rằng động lực thúc
đẩy ái hoạt động là sự ham muốn, khát khao hưởng thụ, hưởng thụ khoái lạc ở ba
cõi, dục giới, sắc giới và vô sắc giới.
Ở cõi dục, gồm có 11 cõi, từ địa ngục
lên đến cõi trời, trong đó có cõi người chúng ta, thì tham đắm thụ hưởng khoái
lạc đến từ thân xác, từ các giác quan, gọi là nhục dục. Mắt thì có đối tượng
hình ảnh, tai thì âm thanh, mũi thì mùi hương, lưỡi thì mùi vị, da thịt, thân
thể thì đụng chạm, xúc chạm và ý thì có tư tưởng, tư duy. Theo Phật giáo thì có
sáu giác quan, ý thức, ý căn cũng là một giác quan, do đó khoái lạc cũng có thể
đến từ ý tưởng, trí nhớ, trí tưởng tượng, khái niệm, tư duy v.v…
Đức Phật dạy có bốn thứ thức ăn nuôi
dưỡng con người gồm:
Đoàn thực: Thức ăn vật chất nuôi dưỡng cái thân vật lý
như cơm, cá thịt, trái cây, rau quả…Tức
là thứ gì có thể nuốt qua miệng, đưa vào bụng và nuôi được thân thể tồn tại,
tránh khỏi sự chết.
Xúc thực: Các giác quan tiếp
xúc với các đối tượng sẽ phát sinh ra những cảm giác, cảm thọ. Thí dụ mắt thấy
hình ảnh đẹp thì vui, hài lòng, thích thú. Da thịt được vuốt ve, mơn trớn thì
thấy dễ chịu …Khi có được cảm giác làm cho vui thích, sung sướng thì gọi đó là
lạc thú, ngược lại những cảm giác nghịch, không đem lại vui sướng, thích thú mà
gây khó chịu thì gọi là khổ thọ.
Và có những cảm giác bình thường, chẳng
sướng chẳng khổ được gọi là xả thọ. Cảm giác hay cảm thọ cũng nuôi dưỡng con
người như một thức ăn vật chất. Con người đeo đuổi cuộc sống nhờ có cảm giác
sung sướng, hạnh phúc, khoái lạc, nếu có cảm giác khổ, đau đớn thì cũng tìm
cách tranh đấu để loại trừ và hướng tới cái gì đem lại lạc thú. Nếu chẳng có cảm
giác khổ hay sướng, con người cũng không thể
đứng yên một chỗ mà phải truy tìm cho được nơi nào đem lại khoái lạc mới
chịu dừng.
Tư niệm thực: Tư lường, nhớ, suy nghĩ về những gì có thể
suy nghĩ được, các điều thiện cũng như bất thiện, cùng nuôi ý chí mạnh mẽ muốn
sống, muốn tồn tại, muốn tăng trưởng, tiếp tục sinh tồn, tai sinh.
Thức thực: Sự nhận biết, hiểu biết. Nhờ trung gian là các giác quan mà
nhận ra các đối tượng của giác quan. Nhận ra rồi nhưng không dừng ở đó mà thường
khởi lên sự phân biệt, phán đoán và thường là sai lầm, chủ quan, không chính
xác, không đúng với chân lý.
Nơi cõi Sắc, hay cõi thiền định, gồm
16 cõi, không có thân xác như phàm trần, sự tham ái liên hệ đến tư tưởng, chấp
thường, khát khao sự trường tồn, vĩnh hằng.
Nơi cõi Vô sắc, gồm có 4 cõi, sự tham
ái liên hệ đến tư tưởng chấp đoạn, chết là hết, khát khao sự thụ hưởng trong thế
giới vô hình.
Cho dù ở cõi nào, có hay không có cái
thân vật chất, mà vẫn còn khát khao thụ hưởng khoái lạc cho dù thật vi tế, thì
vẫn còn ái.
Con người được nuôi dưỡng bằng bốn loại
thức ăn như trình bày ở trên, và trung gian của bốn thức ăn này mà ái khởi lên
lòng tham, tham ái, nên nói tính chất của ái là sự dính mắc. Như keo, như sơn,
chạm vào thì dính. Dính vì có một đối tượng hấp dẫn, quyễn rũ, gây cuốn hút,
gây thèm thuồng. Hoặc dính vào mà xua đuổi, ghét bỏ. Một lực gì, một năng lượng
nào đó toả ra làm tâm mình “xiêu, choáng váng, mê mẩn”, gọi là ngã lòng, mềm
lòng, hay là được kích thích, gây hứng thú, phấn khởi, hăng hái, tạo năng lượng
mới, có thể tích cực mà cũng có thể tiêu cực. Dính vào rồi thì lại không dừng ở
đó mà thường khởi lên ham muốn. Nên một khi có ái thì có tham, thường được gọi
chung là tham ái hay ái dục. Tham, cũng là dục, đẩy mạnh nỗi khát khao, mơ tưởng,
ao ước, vọng tới, phóng tới, hướng tới, ngưỡng tới, với tới, vồ lấy, chụp lấy .v.v..
và như thế là xuất phát nơi ái sẽ có sự đuổi bắt để đạt cho được đối tượng làm
khao khát, làm mơ tưởng, làm ao ước, làm xiêu lòng, làm choáng váng, làm mê mẩn,
làm hứng thú...Nếu chỉ khao khát ái tình nam nữ, khoái lạc nơi thân xác thì gọi là tình dục hay dục tình. Có khao khát mới
mong muốn được thoả mãn khao khát đó.
Một điều cần đáng chú ý là nơi ái, mà tham hay dục đã khởi
lên rồi thì thường kéo theo sân và si. Trong trường hợp nghịch chiều thì nổi
sân hận, tức giận và có thể đưa đến những hành động mù quán, không đúng, không
phải, không thuận theo đạo đức luân lý.
Nhưng trong trườn hợp thuận chiều, hợp ý, hợp nhãn cho dù không khởi
lên sân hận mà khởi lòng da diết, đắm đuối, đam mê cũng không đem lại bình an
trong lòng, mà phát sinh ra sự lo âu sợ hãi sẽ bị mất đi cái đối tượng đem lại
sự thích thú, hài lòng. Cho dù có đắm mình, tràn trề trong hạnh phúc, vẫn lo lắng
để giữ cho bền lâu cái đối tượng này. Từ sự lo âu, rất dễ dàng phát khởi sân và
si nếu gặp trở ngại cho sự giữ gìn, sở hữu đối tượng mình đang đeo đuổi. Rất dễ
thấy điều này khi bạn đang khởi lòng yêu ai đó. Tâm của bạn vừa sung sướng vừa
lo âu, không gì chắc chắn bạn sẽ sở hữu đối tượng. Bạn sẽ cảm thấy ai cũng là
tình địch của bạn. Bạn ghen tuông vô cớ, thêu dệt đủ điều. Đau khổ đã phát sinh
rồi. Và có thể có những hành động sai
trái nữa. Nghiệp xấu ác phát xuất từ tham sân si mà gốc cũng từ ái mà ra cả.
Ái có mặt trong sáu căn: Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ căn, Thiệt căn Thân
căn và ý căn phối hợp với sáu trần tạo ra nhiều phiền não tội chướng.
Trong kinh thường nói: “Lục căn, lục trần
vọng tác vô biên chi tội”, tất cả đều phát xuất từ “Ái” mà ra. Mắt thấy sắc,
tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi, Lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý phân biệt. Hai
phần lục căn và lục trần gọi là Danh và Sắc tức vật chất và tinh thần. Danh là
phần tinh thần Sắc là phần vật chất. Sáu giác quan tiếp xúc với sáu trần phát
sinh ra Ái, cái ta ưa thích, yêu thương, quý mến, quyến luyến, hay ngược lại
ghét bỏ, chối từ, xua đuổi. Nghe một bản nhạc hay, ngắm một bức tranh đẹp, hay đọc những lời văn
bóng bẩy hợp ý mình thì hài lòng, sung sướng, ngược lại, không đúng với sở
thích của mình thì chê bai, chỉ trích, chán ghét, tránh ra. Đằng nào thì ái
cũng mang tính ô nhiễm, không thanh tịnh với sự chấp trước như vậy.
Căn cứ trên bốn thức ăn nuôi dưỡng con
người, ngoài thứ thức ăn thô ra là vật chất thông qua năm giác quan, như ăn uống,
xem, nghe, ngửi, nếm, đụng chạm, con người còn khao khát những gì không thuộc vật
chất mà thuộc về tinh thần như tư tưởng, lý tưởng, lý thuyết, triết thuyết, quan điểm, khái niệm và tôn giáo, khao khát
đi tìm chân lý, cầu giải thoát…
Lắm khi những ham muốn vật chất cũng
hoà lẫn vào với những ham muốn tinh thần. Thí dụ, ham muốn tiền của, tài sản để
cung phụng cho cái thân được nhiều tiện nghi hơn, được nhiều điều kiện hơn để
ăn ngon, mặc đẹp, xem, nghe với những phương tiện tuyệt xảo nhất cũng là lòng
tham muốn được quyền lực, được thấy mình hơn kẻ khác, có thể làm chủ và điều
khiển kẻ khác. Điều này đem lại sự tự mãn, thích thú, khoái lạc với tinh thần.
Người biết hướng thiện, có thể cũng
tham cầu vật chất, của cải nhưng lại biết bố thí, giúp đỡ người nghèo khó, thì
qua hành động vị tha này cũng đạt được cảm giác tự mãn, thích thú, khoái lạc
nơi tinh thần không khác người kia. Cảm giác nơi thân hay nơi tinh thần thì có
thể giống nhau nhưng quả báo thì sai khác.
Từ nơi ái có thể phát xuất khát khao
điều ác, bất chính, không đạo đức cũng như khác khao điều thiện, chân chính, hợp
đạo đức. Thiện và ác luôn có mặt cùng lúc, chỉ là con người biết lựa chọn,
nghiêng về bên nào. Tuy nhiên, có cái điều thật vi tế, cần nhận ra: Khao khát
ác thì tự nhiên sẽ ghét thiện và ngược lại cũng thế, khao khát thiện thì sẽ
ghét ác. Nơi một con người bình thường như phàm phu chúng ta, thử quan sát, thí
dụ ta quan sát làm việc thiện, bố thí, cúng dường mà thấy kẻ khác keo kiệt, bủn
xỉn, không cùng một suy nghĩ như mình thì tự nhiên sinh ghét, không ưa, không
muốn gần gũi với kẻ đó. Ngay nơi bậc làm cha mẹ, hay thầy giáo, thấy con cái
hay học trò, đứa nào siêng năng, cần cù, dễ bảo thì thương và đứa nào ngỗ nghịch,
lười biếng, khó dạy thì ghét. Ái luông mang lòng thương ghét, bỉ thử, phân biệt,
không bình đẳng.
Hãy phân tích tiếp: Một khi tâm tham
ác nổi lên thì nó sẽ dẹp trừ ngay nếu có thiện căn cản đường, không cho thụ hưởng,
tiếp tục tiến trình sở hữu, chiếm đoạt. Cũng thế, tâm thiện nổi lên cũng có thể
dẹp trừ ác tương tự như vậy. Trong thực tế cho thấy, những kẻ làm ác, không ngần
ngại loại trừ, bỏ tù, giết hại, những kẻ làm thiện cản đường hoạt động của
chúng thì đối lại những kẻ tranh đấu dưới danh nghĩa thiện cũng có thể hành động
ác như thế để chận đứng tai hoạ của phe ác đối lập. Vậy, thiện ở đây chưa hẳn
là thiện chân chính. Thiện, ác phát sinh từ vô minh thì luôn luôn có những phản
ứng, đối đáp như vậy. Đây chính là tâm phân biệt, không bình đẳng. Tâm phân biệt
này còn được xem là vọng tâm. Không phải là bản tâm chân thật, thanh tịnh của
chân tâm.
Như vậy, xét theo vọng tâm, thì câu
nói của Mạnh Tử “Nhơn chi sơ tánh bổn thiện” và câu nói của Tuân Tử “Nhơn chi sơ tánh bổn ác” xem ra cả
hai đều đúng!
Cái tâm phân biệt, không bình đẳng, có
thiện, có ác, điều động ái để yêu, ghét, lấy, bỏ đem về, xua đuổi…đúng ra bắt
nguồn từ vô minh, vậy chúng ta thử tìm hiểu vô minh là gì?
Vô minh chính là cái trí hay cái tâm bị
mờ ám, không thể thấy chân lý, thấy sự thật như sự thật, hiển hiện một cách
minh bạch, rõ ràng, do đó mà lấy những gì là vọng, là giả làm chân, làm thật.
Nơi vô ngã mà chấp ngã là vô minh. Nơi vô thường mà chấp thường là vô minh, nơi
khổ mà chấp lạc là vô minh, nơi bất tịnh mà chấp tịnh là vô minh. Không thấy được
Tứ thánh đế, khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường đưa đến sự diệt
khổ là vô minh. Chấp thường, chấp đoạn là vô minh. Chấp có, chấp không là vô
minh. Chấp ta, chấp người là vô minh. Chấp chủ thể, chấp khách thể là vô minh.
Chấp thiện, chấp ác là vô minh…còn nhiều, nhiều nữa. chỉ cần vướng vào một chữ
chấp là vô minh.
Lại tiếp tục phân tích: điểm mấu chốt
đã thôi thúc ái hợp với tham, dục tiếp tục lộ trình, tiến tới chấp thủ, hữu
cũng là vì chấp ngã, thấy có cái tôi chắc
thật từ nơi cái thân vật chất và muốn bảo vệ nó, nuôi dưỡng nó, gom góp, tích
luỹ về cho nó, muốn nó trưởng thành, trường tồn mãi.
Nếu không chấp ngã thì sẽ không có ái,
kéo theo tham, dục hay sân, si gì hết, đồng thời không tạo nghiệp và chịu nghiệp
quả.
Sự hình thành của con người hay một kiếp
sống qua mười hai nhân duyên, một dây xích nối nhau thành vòng tròn, vận chuyển
từ vô minh sang hành (vọng tưởng) thì được xem như là nhân của quá khứ, không
thể thay đổi. Từ thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ (Cái thân vật chất và tâm
lý) thì được xem như là quả hiện tại và cũng không thể thay đổi. Đến ái, thủ, hữu
(lòng yêu thích hay ghét bỏ, và sự đuổi bắt, nắm giữ, làm sở hữu) là nhân hiện
tại. Chính nơi cái nhân này mà quyết định cái quả vị lai là sanh, lão và tử. Có
thay đổi được gì chăng là nơi cái nhân hiện tại ái, thủ, hữu mà thay đổi. Điểm
này tối quan trọng! Sự tu hành nhắm vào sự chuyển đổi hướng đi của ái, dứt bỏ
tham, dục, không khao khát tìm cầu, không đeo đuổi, buông bỏ, không nắm bắt, phủi
tay, không thủ, không hữu, không còn vướng sân, si, phiền não, không còn thấy
ngã phải che chở, nuôi dưỡng, nuôi ý chí tái sinh, tồn tại, tích luỹ, tăng trưởng,
trở thành, không phân biệt, không bỉ thử, thì cũng từ đó chận đứng dòng luân hồi
sanh tử.
Tự tại là phá được ngã chấp, ái, thủ
và hữu. Do đó, Bồ tát trở lại sanh tử mà không “hề hấn” gì, lại còn làm vô lượng
lợi ích cho chúng sanh mà không gì chướng ngại, ngăn ngại. Làm mọi việc mà như
không hề làm việc gì. Vô tác. Không còn tạo nghiệp và chịu nghiệp báo nữa.
Cuối cùng, diệt được ái đồng nghĩa với
diệt được ngã chấp và phá tan vô minh.
Phá ngã chấp không phải là điều dễ
dàng. Do mang một cái thân vật chất nên dễ bám vào đó, cho là tôi, là ngã,
nhưng khi cái thân vật chất tan rã, tâm thức chấp ngã vẫn còn và tiếp tục tìm một
cái thân khác do đó mà có tái sinh và luân hồi.
Chấp ngã hay ý thức về ngã, về cái tôi
luôn có mặt để thúc đẩy, điều động ái, “xúi giục” ái hợp tác với tham để làm
thoả mãn cái thân vật chất cùng với cái
phần tinh thần của ngã. Cũng nơi
ý thức này mà quay chiều ngược lại,
không nghe lời ái, không tham, không dính mắc, không bị quyến rũ bởi bất
cứ đối tượng nào của các giác quan (đoàn thực, xúc thực) cũng như ý tưởng (tư
niệm thực, thức thực) thì tất cả ái sẽ tự khô kiệt, diệt tận, không làm nhân
cho nghiệp và quả tái sanh cho tương lai.
Như Đức Phật đã từng dạy về Niết bàn: “Đó là sự xa lánh
trọn vẹn và sự tận diệt chính cái ái ấy. Đó là sự rời bỏ, sự khước từ, sự thoát
ly, và sự tách rời ra khỏi tâm ái dục”.
Thoạt nghe qua thì dường như quá giản
dị! Chỉ cần chối từ ái, không nghe theo lời mời mọc của ái, không thoả mãn khát
khao thụ hưởng của ái, không tham đắm bất cứ một thức ăn nào, không để cho dây
ái mọc như rừng, không để tuông chảy như sông, như biển, dòng nước ái, không để
cho lưới ái trùm lên, trói buộc, không để bị sa vào bùn lầy của ái, không để
cho chất độc của ái ngấm vào thân thể, không để cho gai nhọn của ái đâm thủng
vào thịt da, không để cho mũi dao của ái gây thương tích tử vong, không để cho
mật ngọt của ái trên ngọn dao bén làm đứt lưỡi, không để cho bẫy nhựa của ái
làm dính mắc khó lòng tháo gỡ, thì lúc đó thực sự là giải thoát, thực sự an lạc.
Tuy vậy, mà không gì khó hơn là diệt
ái! Khó là vì đã huân tập lâu đời lâu kiếp những chủng tử gốc của tham sân si.
Những chủng tử này vẫn còn sức sống vô cùng mạnh mẽ. Phàm phu chúng ta, loài hữu
tình nặng nợ trần ai, đắm đuối vì tình, khổ luỵ vì duyên nợ, biết khi nào mà gỡ
cho ra khỏi vòng tay của ái! Có chăng chỉ
là mong tiến từng bước, từng bước nhỏ mà thôi. Cứ mỗi tham dục được bỏ đi
Một niềm hạnh phúc đến liền khi
Người nào muốn hưởng tròn an lạc
Phải bỏ mọi tham dục tức thì.
Đức Phật đã chỉ dạy ra con dường để
thực sự giải thoát, an lạc, hạnh phúc, đó là con đường đoạn diệt ái, đoạn diệt tham dục, cho dù khó làm nhưng chỉ
cần cố gắng “Cứ mỗi tham dục được bỏ đi” để được “Một niềm hạnh phúc đến liền
khi” cũng đủ cho phàm phu chúng ta nên
hăng hái và tinh tấn ./.
(Trích:
NSGN số 232- /2015- Lê Khắc Thanh Hoài)
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét