Nhận định về tác phẩm: “TIÊN PHẬT VẤN ĐÁP”
Của HT Bích Liên- Thích Trí
Hải
Thích nữ Lệ Nhiên
Cuối thế kỷ XIX, tình hình chính trị rối ren, cộng thêm nhiều nguyên nhân
khác nhau làm cho Phật giáo Việt Nam ngày một suy vi. Đứng trước tình hình này,
các bậc cao tăng thạc đức luôn trăn trở cho vận mệnh Phật giáo nước nhà, họ bàn
bạc với nhau phương thức phục hưng Phật giáo, cùng nhau vạch kế hoạch chuẩn bị
cho công cuộc chấn hưng Phật giáo, cũng chính là chấn hưng các giá trị truyền thống
dân tộc. Chư vị tôn túc Phật giáo ra sức kêu gọi các nhà nghiên cứu Phật học
phiên dịch kinh điển từ chữ Hán sang chữ Quốc ngữ, biên soạn sách Phật học bằng
chữ Quốc ngữ cho Tăng Ni, Phật tử học tập, nghiên cứu Phật học dễ dàng hơn. Hưởng
ứng lời kêu gọi này, Hoà Thượng Bích Liên Thích Trí Hải (
1876- 1950 ) thọ 74 tuổi, đã phiên dịch và sáng tác rất nhiều tác phẩm bằng Quốc
ngữ. Trong số đó, tác phẩm “Tiên Phật vấn đáp”được ngài sáng tác bằng Quốc ngữ
nhằm phổ biến đến Tăng Ni, Phật tử cùng thực hiện phong trào chấn hưng Phật
giáo bằng phương châm được tác giả nhắm đến là loại trừ những gì không thuộc Phật
giáo, chỉ giữ lại những gì của Phật giáo. Tức là tách Phật giáo ra khỏi những tín
ngưỡng khác.
Tác phẩm “Tiên Phật vấn đáp”của Hoà thượng Bích Liên
Trí Hải sáng tác bằng chữ Quốc ngữ được đăng liên tục và trọn vẹn trên tạp chí
Từ Bi Âm từ kỳ 11 đến kỳ 17. Kỳ 11 được
phát hành vào ngày 1-6-1932 và kỳ 17 là kỳ cuối cùng của tác phẩm này, được
phát hành vào ngày 1-9- 1932.
Tác phẩm này được kết cấu theo kiểu hỏi đáp gồm 14 câu hỏi và trả lời về
các khía cạnh của đạo Phật và đạo Tiên, được chia ra bốn vấn đề chính:
Phần đầu: Tổng quan về đạo
Tiên và đạo Phật.
Phần hai: Trả lời cho câu
hỏi: Tại sao trong thế gian có nhiều người muốn tu Tiên hơn tu Phật.
Phần ba: Cho biết đạo Phật
và đạo Tiên rộng hẹp như thế nào, giáo lý ra sao và kết quả vị tu chứng như thế
nào.
Phần bốn: Trả lời cho thắc
mắc, tại sao đạo Phật cao thượng mà người đời nay ít ai thực hành theo.
Vì tác phẩm chứa nội dung khá lớn
nên trong phạm vi bài này, người viết chỉ điểm sơ một vài nét chính của đạo
Tiên, đạo Phật rồi từ đó làm rõ vì sao đạo Phật cao thượng mà người đời nay lại
ít người thực hành theo và làm rõ dụng ý của tác giả đề cập đến trong tác phẩm.
Mở đầu tác phẩm “Tiên Phật vấn đáp”, Hoà
thượng Bích Liên-Trí Hải có nói: “Trí có cạn có sâu, còn đạo có tà có chánh,
sâu cạn tại người, tà chánh khác mối. Như muốn thoát nẻo luân hồi, thì phải lựa
đường xu hướng ”. Ở đây, tác giả muốn nói sự hiểu biết của một con người sâu
hay cạn là do ta quyết định. Tức là, người muốn có một sự hiểu biết sâu xa thì
phải do nơi sự tìm tòi học hỏi mà có được, càng chăm chỉ học tập bao nhiêu thì
sự hiểu biết của chúng ta càng sâu bấy nhiêu; ngược lại, nếu chúng ta không tìm
tòi học hỏi thì sự hiểu biết sẽ nông cạn. Còn đạo thì có tà có chánh, nhưng chánh
tà ở đây không phải là do con người quyết định mà do nơi cội nguồn phát xuất của
đạo. Thế nên, chúng ta muốn đi theo đạo chánh hay về đường tà thì tự chính nơi
ta tự chọn lấy một hướng mà đi chứ không ai chọn giúp ta cả. Vậy đâu là đạo chánh?
Đâu là tà? Hoà thượng
Bích Liên đã khẳng định một câu chắc chắn
rằng: “Đạo chánh là đạo Phật”.
Vậy muốn biết vì sao tác giả lại
khẳng định một cách chắc chắn như thế thì không còn cách nào khác chúng ta phải
quay trở về nguồn gốc của đạo phật để tìm hiểu.
Đạo Phật khai sáng từ một
con người bình thường như những con người khác đó là Thái tử Tất-đạt-đa, nhưng
ngài đã xuất gia và tìm ra con đường chân lý thành Phật hiệu là
Thích-ca-Mâu-ni. Đức Phật ở đây chỉ cho con người không có si ám: “Là vị hữu
tình không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn
loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho
loài Trời và loài Người”.
Không còn si ám là sự thấy
biết tường tận bằng trí tuệ có được nhờ tu tập thiền định và tư duy quán chiếu.
Đức Phật thấy biết nguyên lý duyên sanh, Vô thường, Vô ngã của vũ trụ vạn hữu.
Ngài thấy được sự thật về cuộc đời thông qua giáo lý Tứ đế, bao gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Sự thấy biết
của Đức Phật không phải là nhận thức có được từ học tập, kinh nghiệm đây là kết
quả của quá trình tu tập thiền định. Ngài hướng tâm tư duy, quán chiếu và trực
nhận chân lý. Chính sự giác ngộ này đã dẫn đến đoạn diệt hoàn toàn vô minh, phiền
não lậu hoặc, khiến Ngài từ phàm phu chuyển thành bậc Thánh giả thoát, chấm dứt
con đường sanh tử luân hồi.
Con đường mà Thế Tôn đi là
con đường chánh đạo, giáo pháp được Đức Phật chứng ngộ là chân lý của thế gian.
Ngài như người dựng đứng lại những gì bị xô ngã, chỉ rõ những gì bị che mờ, hướng
dẫn chúng sanh đi trên con đường chánh. Ngài dùng nhiều phương tiện để giáo hoá chúng sanh quay về với bản tánh sáng suốt trong mỗi chúng
ta.
Điều này được nêu rõ bằng
lời tán thán Đức Phật trong kinh Tương ưng như sau:
“Thật vi diệu thay, Tôn giả
Gotama Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống,
phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những kẻ lạc hướng, hay đem đèn
sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh
pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích ”.
Sau khi Đức Phật chứng ngộ,
với giáo lý duyên sinh, Tứ đế, vô thường, nhân quả… Ngài vì thương tưởng chúng
sanh đang ngụp lặn trong luân hồi đau khổ nên quyết định lên đường giáo hoá chúng sanh, vì an lạc của chúng sanh, vì thương tưởng cho
đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người mà Ngài không quản ngại
khó khăn, cần mẫn hoằng hoá cho đến ngày cuối cùng của cuộc
đời. Nói chung hệ thống Kinh-Luật-Luận đã chỉ rõ cho con người thấy được phương
pháp tu tập thoát khổ, hướng đến giác ngộ giải thoát và khẳng định được đạo phật
là đạo chánh.
Còn
về đạo Tiên, xét về mặt đạo đức thì đạo Tiên vẫn hướng con người đến đời sống tốt
đẹp. Bởi, họ cũng là những người tu tập lìa xa đời sống trần tục tìm đến con đường
thoát tục.
Dẫu vậy, đạo Tiên không thể
giải quyết được vấn đề sanh tử của một kiếp người. Họ chú trọng đến vấn đề tu
hành để có thể đi mây về gió, những người tu Tiên tìm mọi cách để được trường
sinh bất tử: “Đạo giáo tin rằng, thần tiên là có thực. Thông qua quá trình tu
luyện có thể trở thành tiên. Thần tiên có cuộc sống tiêu dao tự tại, trường
sinh bất tử. Tiên nhân chính là những bậc chân nhân tu luyện mà thành. Nội dung
quan trọng nhất của người đắc đạo thành tiên thông qua sự tu hành của bản thân
mà được trường sinh bất tử”.
Thế nhưng sự thật của cuộc
đời thì mấy ai được sống mãi mà không già, không chết. Ví như, Đức Phật là một
bậc giác ngộ chân lý, là đấng đạo sư của muôn loài mà bị luật vô thường chi phối:
“Nhanh chóng làm sao, Thế Tôn diệt độ! Đau đớn làm sao, con mắt của thế gian sắp
tắt! Chúng ta từ nay mãi mãi mất mát!”.
Hoặc có Tỳ kheo vật vã buồn khóc, lăn lộn kêu ca, không tự kiềm chế được, khác
nào như rắn bị đứt làm hai khúc, lăn lộn ngắc ngoải, không biết đi về đâu.
Phật bảo: “Này các Tỳ kheo,
các ngươi chớ ôm lòng ưu bi như vậy. Từ trời đất đến người và vật, không có cái
gì sanh ra mà không kết thúc. Muốn các pháp hữu vi không bị biến dịch, thì
không thể nào được. Trước đây Ta đã từng dạy ân ái là vô thường, có hiệp hội tất
cá chia ly. Thân này không phải của mình, mạng này không ở lâu được”. Đức Phật
đã chỉ ra sự thật của vạn hữu nhân sinh là vô thường, khổ, vô ngã. Mọi sự trên
đời đều bị chi phối bởi quy luật này thì hà cớ gì phải bỏ cả cuộc đời để tìm
thuốc, luyện linh đơn…
Chính vì sự tìm cầu này, đạo
Tiên đã không đi đến được con đường giải quyết khổ đau mà còn làm cho con người
dấn thân từ khổ đau này đến khổ đau khác trong cuộc đời này; “Người xưa cho rằng,
trong vũ trụ tồn tại những loại dược liệu kỳ diệu, khi nạp vào cơ thể có thể
khiến con người trường sinh bất tử, gọi là tiên dược. Tương truyền trên biển có
núi Bồng Lai Tam Thần, trên núi đó có các vị thần tiên và tiên dược. nếu như có
thể xin được loại thuốc này mà uống sẽ được trường tồn cùng trời đất. Do vậy,
các vị hoàng đế như Tề Uy vương, Tề Tuyên vương, Yên Chiêu vương, Tần Thuỷ Hoàng, Hán Vũ đế kế tiếp nhau sai người ra biển để tìm
tiên dược. nhưng tất cả đều thất bại”.
Nếu thật sự có thuốc trường
sinh bất tử thì hà cớ gì mọi người tìm không ra? Họ mãi miết đi tìm những thứ
không tồn tại trên cõi đời này để rồi chuốc lấy bao thất bại, khổ đau, thậm chí
mất mạng…
Giáo lý đạo Phật dạy cho mọi
người tu tập để giải quyết khổ đau ngay hiện tại chứ không phải đi tìm một thế
giới thần tiên đâu xa. Đức Phật chỉ cho chúng sanh biết mọi sự trên đời đều bị
chi phối bởi luật vô thường, không có thứ gì sinh ra mà không mất đi, thế thì
làm gì có phương thuốc nào cho con người uống để được trường sinh bất tử? Hoà thượng Bích Liên thấy được sự hạn chế trong cách tu cũng
như kết quả đạt được của đạo Tiên hướng đến, nên ngài mới khẳng định một cách
chắc chắn rằng: “Tiên không bì đặng Phật”.
Đạo Phật cao thượng như vậy
mà người đệ tử của Phật lại không thực hành theo những lời dạy của Phật. Họ cứ
rong ruổi mãi với những danh lợi của thế gian, ít người hiểu được giáo lý Đức
Phật để thực hành khiến cho đạo pháp ngày một suy vi. Những người được xem là
trưởng tử Như Lai, là những người đại diện cho Đức Phật để truyền bá Chánh pháp
nhưng thương thay họ lại như những người mù rờ voi, chính họ không hiểu được
Chánh pháp thì lấy gì truyền dạy người khác. Hoà thượng
Bích Liên Trí Hải nhắc đến vấn đề này qua câu hỏi thứ 13 trong tác phẩm Tiên Phật
vấn đáp như sau:
“Hỏi: Đạo Phật cao thượng như vậy, mà lâu nay hạnh giới của
những người tu hành có thể hiệp vào giáo lý hay không?
Đáp: Than ôi! Phải được như vậy thì Phật giáo đâu có đến nỗi
suy đồi như thế nầy. Phật dạy người xuất gia, trước phải ngộ tánh Tỳ lư, rồi sau mới tu hạnh Phổ Hiền. Như chưa
ngộ mà tu thì đâu có đặng lẽ ấy.
Hoà thượng Bích Liên than thở rằng: đạo Phật cao thượng mà người
đời nay ít người thông hiểu giáo lý của Phật. Âu cũng do cái sự thất học mà ra,
nếu người tu Phật chịu tu học theo lời Phật dạy thì không đến nỗi. Đức Phật đã
dạy: người xuất gia trước hết phải tỏ ngộ phật tánh sáng suốt hằng hữu từ bao đời
trong con người ta. Sau đó, chúng ta mới thâm nhập được hạnh nguyện của Phổ Hiền
Bồ tát. Nếu không ngộ được tánh Tỳ lô thì không thể nhập hạnh Phổ Hiền. Tức là,
nếu bản thân ta chưa tu, chưa học tới nơi, tới chốn; chưa biết đâu là thể tánh
sáng suốt trong con người mình thì lấy gì mà giáo hoá chúng
sanh?.
Đứng trước tình hình này, Hoà thượng Bích Liên lại nói lên nỗi lòng của mình “Thương
thay, ngày nay ai là ngộ tánh, ai là chơn tu, rất đỗi Tam thừa chẳng biết, Tam
học cũng không, Thiền định chẳng hiểu, Tịnh độ không tin, quán tưởng không làm,
giới luật không giữ, nhức khối hồn nhiên thiệt là tội nghiệp”.
Hoà
thượng Bích Liên cho rằng, người xuất gia thời bấy giờ hiếm người tỏ ngộ Phật
tánh, lại không tu hạnh chơn chánh, đến nỗi giáo lý không biết. Chính vì giáo
lý không biết nên không đi đúng chánh đạo. Một người xuất gia mà giáo lý không
hiểu, Thiền không tu, giới luật không giữ thì hỏi sao Phật pháp hưng thịnh? Những
sự ấy cũng do thất học mà ra. Vì rằng, thời bấy giờ, thực dân Pháp cai trị nước
ta, họ thực hiện chính sách ngu dân, bắt người dân không được học chữ Hán, họ
chỉ dạy cho người dân biết những chữ cơ bản bằng chữ Quốc ngữ để người dân
không còn tiếp thu được đạo lý Thánh hiền. Họ chỉ dạy cho dân ta biết đọc, biết
viết bằng chữ Quốc ngữ để truyền dạy giáo lý Thiên Chúa.
Sống trong bối cảnh này,
người xuất gia cũng bị cuốn theo thế cuộc nhân sinh. Trong lúc chính quyền
không cho học chữ Hán mà kinh điển của Phật giáo thời bấy giờ toàn bằng chữ Hán
thì những tu sĩ cũng không hiểu nghĩa lý của kinh điển để hành trì huống hồ đem
giáo lý chỉ dạy cho người khác? Vấn đề này được tác giả Vân Thanh đề cập như
sau: “Tuy Hán học đã suy tàn mà trong các chùa thì cứ học theo kinh văn Hán tự,
bởi thế nên giáo lý của Phật chẳng làm sao phổ biến ra nhân gian ”.
Chính vì sự thất học này
mà người xuất gia không biết đâu là đúng, đâu là sai. Những người đại diện cho
Đức Phật để truyền trao mạng mạch Phật pháp lại không hiểu gì về phật pháp thì lấy
gì để truyền trao? Họ lại mượn những thứ không phải của Phật giáo để giảng dạy
cho Phật tử nhằm kiếm kế sinh nhai: “Buổi này đạo Phật chỉ còn là cầu an, cầu
siêu cúng đám vậy thôi (trừ khi ai muốn tu tại gia được am hiểu họ phải cố gắng
học tập đó là con số rất ít).”.
Một đạo Phật cao thượng
như vậy mà chính những người được mệnh danh là trưởng tử Như Lai lại làm cho nó
bị hạ thấp, không còn là một đạo Phật cao thượng như chính nó mà bị phủ lên một
lớp tín ngưỡng không mấy tốt đẹp. Từ một đạo Phật xuất thế lại chuyển thành một
đạo Phật mê tín, dị đoan, không có một chút gì là đạo Phật nguyên chất. Những tồi
bại ấy do đâu mà ra? Nếu là do sự thất học
thì có thể còn cứu vãn nỗi; đằng này: “Mấy sự tồi bại ấy bởi thất học, thì chẳng
nên thâm trách làm chi, ngặt vì một nỗi tà sư ngoại đạo thấy vậy thừa cơ mượn
Phật mà làm danh, vốn không nhằm về đạo nào mà diễn thuyết om sòm, và không hiểu
về lý gì mà hành vi lộng lạc, xúi những kẻ căn hèn trí thấp, chín lỗi mười lầm,
vì chán ngán thầy tu nên tìm theo đạo khác. Không ngờ muốn lánh vực sâu mà nhảy
vào hầm lửa. Thảm thay! ”.
Hoà
thượng Bích Liên cho rằng nếu do sự thất học dẫn đến sự suy tàn của Phật giáo
thì việc ấy cũng đáng trách nhưng sự việc có thể cứu vãn. Đằng này, những người
mượn áo cửa Phật thấy vậy hùa theo sự dốt nát của Tăng sĩ thời bấy giờ để làm
ra những việc xằng bậy; không biết giáo lý cũng diễn thuyết om sòm, không có một
chút oai nghi tế hạnh của một người xuất gia khiến cho quần chúng nhìn vào thấy
bất mãn, mất niềm tin vào đạo pháp. Từ đó, quần chúng lại chạy đi tìm một niềm
tin khác để lấp đầy khoảng trống trong tâm hồn họ. nhưng than ôi! Họ tưởng đâu
bỏ cái xấu để tìm cái tốt nhưng rốt cuộc không lợi ích gì cả. Tất cả những sự
trên cũng do sự thất học dẫn đến tà ma
ngoại đạo mượn Phật làm danh hùa theo quấy
nhiễu mà ra.
Cũng
vì sợ đạo pháp diệt vong mà Hoà thượng Bích Liên Trí Hải đã
sáng tác ra tác phẩm “Tiên Phật vấn đáp” nhằm cảnh tỉnh những người con Phật
đang lầm mê lạc lối hiểu rõ đâu là nẽo chánh, đâu là đường tà để quay về với bảo
sở của chính mình. Ngài phân tích rõ ràng đâu là chánh đạo, đâu là tà sư ngoại
đạo mượn Phật làm danh để mọi người cùng suy xét:
“Chúng ta phải biết rằng đạo
Phật thật là khó học, khó làm, nên chi các tà sư xét không ra, dòm không thấu,
như ếch giếng dòm trời, người mù mất gậy, mơ mơ màng màng như người mớ ngủ, chỉ
mượn cái ảnh hưởng, và đem cái tư tưởng riêng mà bào chế lộn nhau, rồi đặt chuyện
đặt điều, đặt danh đặt hiệu, cổ động mười phương, hô hào tám hướng, một là háo
danh muốn làm thầy người, hai là tham lợi muốn cướp của chúng, ai vô duyên bạc
phước mà gặp mấy thầy ấy, thì sống đã hết nhà, còn chết thì thầy trò đều bị đọa
vào địa ngục.
“Đạo hữu ôi! Chánh đạo khó
hiểu, tà đạo dễ lầm; như muốn thoát sông mê thì phải dò cho kỹ ”
Hòa thượng Bích Liên Trí Hải cho rằng do đạo Phật cao siêu nên ngoại đạo
nhìn không ra, soi không thấu như ếch ngồi đáy giếng, như người mù mất gậy…chỉ
bày những trò yêu ma quỷ quái để mua chuộc lòng người. Những ai lỡ tin theo thì
hiện đời mất nhà, mất cửa mà chết cũng đọa địa ngục. Vậy muốn đưa mình và chúng
sanh qua bờ giác thì hàng xuất gia phải học và hành theo lời Phật dạy chớ có đi
lầm. Nhiệm vụ của một người học Phật là “thượng
cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh ”.
Cho nên, muốn đưa chúng
sanh qua bờ giác thì trước tiên bản thân ta đã qua được bờ bên kia. Theo Hòa thượng Bích Liên, việc làm thiết thực
và hiện tại trong bối cảnh đất nước chúng ta thời bấy giờ trước tiên người xuất
gia phải học thông giáo lý của Đức Phật rồi mới biết đâu là tà để loại bỏ, đâu
là chánh để nương theo. Cuối cùng, chúng ta đem giáo lý đó giáo hóa quần sanh.
Có như thế mới mong đạo pháp ngày một trường tồn, chúng sanh ngày càng an lạc,
hạnh phúc ngay trong cuộc sống hiện tại./.
Trích: Nhận định về tác phẩm
“Tiên Phật vấn đáp” của HT Bích Liên Trí Hải-Thích Nữ Lệ Nhiên - VHPG số 340- 1-3- 2020.
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét