THỂ HIỆN LÒNG TÔN KÍNH PHẬT
Là đệ tử Phật, tức chúng
ta đang bước trên con đường chuyển mê khai ngộ, cải ác quy thiện, hằng hướng đến
sự an lạc giải thoát. Người theo đạo Phật muốn đi trên con đường đó ắt phải có
sức mạnh tinh thần vững chải để cải đổi những tâm niệm, hành vi, ngôn ngữ sai lầm
trở thành chân chính. Một trong những nguồn năng lượng nuôi dưỡng sức mạnh tinh
thần ấy chính là lòng tôn kính Phật.
Đức Phật là nhân vật có thật trong lịch sử, người đầu tiên đạt được quả vị
giác ngộ và hướng dẫn con đường giác ngộ đó cho chúng sanh. Trên thế giới, trước
khi Thái tử Tất –đạt-đa thành Phật thì quả vị giác ngộ chỉ có ở truyền thuyết
và đức tin, chưa có một vị tu sĩ, đạo sĩ hay người nào đạt đến quả vị này. Nhận
thức về Đức Phật, chúng ta cần ghi nhận rằng Phật giáo là một tôn giáo không có
Thượng đế, và Đức Phật không phải là đấng tối cao có quyền năng ban phước giáng
hoạ cho người khác. Đức Phật trong Phật giáo là một con người
được sinh ra trong đời, lớn lên trong đời, và bằng chính nỗ lực trí tuệ cá
nhân, Ngài đã chứng đắc quả vị giác ngộ, thành phật. Đức Phật hoàn toàn bình dị,
Ngài không hề nắm giữ bất cứ thứ gì mang tính thần khải, thiêng liêng, siêu nhiên
thuộc về một thế giới khác. Không có ai trao quyền cho Ngài một thông điệp mang
tính cách linh thiêng, siêu nhiên hay thuộc về một thế giới khác hơn là cái thế
giới này. Cho nên trong Phật giáo, nếu tin Đức Phật là những thế lực đó thì gọi
là tà kiến, sai lầm. Đức Phật chỉ quan tâm đến những gì thật đơn sơ của hiện thực
mà không hề chờ đợi những ước mơ và hy vọng xa vời, nên giáo lý của Ngài mang
tính thiết thực, có lợi ích ngay trong đời sống hiện tại. Đó là điểm khác biệt
cụ thể về mặt tư tưởng giữa Phật giáo và các tôn giáo khác.
Sự khác biệt giữa Phật với
chúng sanh là ở sự giác ngộ chân lý, giác ngộ rồi là Phật, chưa giác ngộ, còn
mê lầm là chúng sanh. Tuy nhiên, cuộc đời và những lời giáo huấn của Ngài vô
cùng kỳ diệu, vượt lên tất cả các quan niệm của đời thường nên người đời sau đã
xem Ngài như một đấng thiêng liêng, cao vời trong trái tim họ (thậm chí là tối
cao trong tất cả các thần linh). Đặc biệt là những lúc họ yếu đuối, nguy nan, khủng
hoảng nhất, Ngoài ra, sự ngộ nhận Đức Phật là một thần linh, đấng siêu nhiên,
hay lực lượng linh thiêng… còn xuất phát từ sự đánh đồng đạo Phật với tín ngưỡng
bản địa. Trước khi Phật giáo xuất hiện,
nước ta đã có các tôn giáo và tín ngưỡng đa thần, nên khi đạo phật du nhập vào
buộc phải uyển chuyển, hài hoà với tôn giáo, tín ngưỡng bản
địa và chấp nhận một số thần linh trong sinh hoạt tôn giáo của đạo Phật, nên đến
nay nhiều tín đồ vẫn còn ngộ nhận Phật giáo là tôn giáo đa thần và xem Đức Phật
là đấng siêu nhiên vượt lên các thần linh khác.
Cần phải nhận thức đúng đắn rằng
Đức Phật là bậc giác ngộ với đầy đủ phước đức và trí tuệ, nên nhân loại xưng
tán Ngài là Như Lai, Thế Tôn, bậc Đạo sư. Ngài có tấm lòng từ bi rộng lớn đối với
tất cả chúng sanh. Ngài không chỉ tìm kiếm Niết bàn cho riêng mình mà còn chỉ dạy
cho người khác thực hành theo, Ngài có đủ khả năng để giúp người khác hiểu rõ,
thực chứng điều đó. Nói vậy không có nghĩa Đức Phật có thể ban cho người khác sự
giác ngộ, Ngài chỉ có thể chỉ dạy cho chúng sanh thấy một con đường, và những
ai muốn được giác ngộ thì phải tự mình bước đi trên con đường đó, chẳng ai có
thể làm được việc ấy giúp mình cả. Vì thế đạo Phật còn được gọi là đạo tự giác
(tự mình giác ngộ). Có thể nói, thông điệp
“Tất cả mọi người đều có khả năng giác ngộ”mà Đức Phật gửi đến cho con người và
cuộc đời là một thông điệp đầy niềm tin và tính nhân văn, đặt nền móng cho sự tồn
tại và phát triển lâu dài của Phật giáo cho đến ngày nay.
Vì hiểu về Đức Phât nên chúng ta phát khởi niềm tin Ngài là bậc thầy tối
cao của sự thanh tịnh, trí tuệ và lòng từ bi, là người xứng đáng để nương tựa;là
người có thể hướng dẫn con đường thực tập hướng đến an vui, hạnh phúc mà tối hậu
là giác ngộ và giải thoát. Đồng thời, chúng ta dành cho Ngài một tình cảm
thiêng liêng, một lòng tôn kính và ngưỡng mộ như một người cha hiền cao thượng.
Tuy nhiên, sự kính ngưỡng này không phải là sùng kính mà nó giống như lòng tôn
trọng và hiếu kính đối với cha mẹ, nên các phật tử thường không thích xưng mình
là tín đồ, mà thích xưng mình là đệ tử, Phật tử, tức người học trò, người con của
Đức Phật.
Từ sự hiểu biết, niềm tin và tình cảm vào Đức Phật, chúng ta phát nguyện
quy y Ngài, học hỏi đức hạnh, thực hành theo những lời chỉ dạy của Ngài để mong
muốn có được trí tuệ, an lạc, hạnh phúc và một ngày nào đó cũng đạt được quả vị
giác ngộ, giải thoát như Ngài. Những hành vi đó được biểu hiện cụ thể trong đời
sống như sau:
Tại gia đình: Chúng ta thỉnh tượng
Đức Phật về thờ tại gia đình để hàng ngày chiêm ngưỡng, cúng dường, lễ bái. Tuy
nhiên, chúng ta không nên quan niệm rằng cúng dường Phật để cầu Ngài ban ơn, lễ
bái Ngài để cầu Ngài giáng phước, xoá tội. Sở dĩ chúng ta
thờ Phật vì nghỉ nhớ đến ân đức và trí tuệ của Ngài đã tìm ra con đường giác ngộ
cho nhân loại, nên cúng dường Phật là để phát khởi thiện tâm, lễ bái Phật là để
tỏ lòng khát khao giải thoát giác ngộ. Ngay cả khi chúng ta lễ Phật sám hối
cũng không có nghĩa cầu Phật tha tội mà đó là nhờ Phật làm đối tượng để phát khởi
tâm ăn năn hối cải từ đó xây dựng tâm tánh ngày một hiền thiện hơn.
Bên cạnh đó, việc thờ Phật còn có ý nghĩa sống và hành động theo lời Phật
dạy, tức xem phật là tấm gương sáng soi chiếu cho chính mình, người thân của
mình để noi theo, học tập theo. Cuộc đời Đức Phật chứa đựng vô vàn những bài học
quý giá mà chúng ta có thể áp dụng cho bản thân cũng như giáo dục gia đình
mình, như lòng hiếu thảo, tình thương yêu, tinh thần kiên cường, ý chí dũng mãnh,
khả năng uyên bác, học hỏi các kinh sách viết về Đức Phật, chúng ta sẽ tìm thấy
những hình ảnh tươi đẹp, chấn động tâm khảm và những bài học làm thay đổi cả cuộc
đời chúng ta.
Tại các cơ sở Phật giáo: Các cơ sở Phật giáo gồm
chùa, tổ đình, tịnh xá, thiền viện, tu viện, tịnh viện, tịnh thất, niệm phật đường.
Ở những nơi này, để tỏ lòng tôn kính Đức Phật chúng ta thường thực hành một số
việc như sau:
Thứ nhất tụng kinh: Tụng là
đọc một cách thành kính những lời Đức Phật đã dạy trong kinh điển. Những lời
giáo hoá trong ba tạng kinh điển của Phật đều là những lời
sáng suốt do lòng từ bi và trí tuệ của bậc giác ngộ nói ra. Vì thế, chúng ta
chí tâm trì tụng, học hỏi kinh điển, sau đó suy xét, nghiền ngẫm và quyết tâm
thực tập sẽ được nhiều lợi ích cho mình, cho gia đình và những người chung
quanh. Người Phật tử được khuyên nên thực tập phước huệ song tu thì việc tụng
kinh được xem như một phần của sự tu huệ vậy.
Thứ hai: lễ lạy cúng dường: Cúng dường có nghĩa
là cung cấp và nuôi dưỡng. Tuy Phật đã nhập diệt, nhưng chúng ta vẫn cúng dường
Phật: hương thơm, đèn sáng, hoa tươi, trái cây, nước để hình dung Đức Phật vẫn
còn sống và dạy dỗ chúng ta tu học. Ngoài ra, việc cúng dường xây dựng các cơ sở
Phật giáo, thỉnh tượng cúng chùa, đức chuông, ấn tống kinh sách hoặc cúng vào
thùng phước sương đều được xem là cúng dường phật. Bởi đó là việc để người phật
tử tỏ bày sự biết ơn Tam bảo cũng như hoằng dương đạo phật, làm cho đạo phật
ngày thêm huy hoàng và trang nghiêm. Đây được xem là một phần trong các cách thức thực hành tập
tu phước vậy.
Thứ ba: Tìm hiểu về cuộc đời Đức Phật: Phật dạy: “Ai tin Ta mà không hiểu
Ta tức là huỷ bàng Ta” chúng ta theo Phật mà không hiểu biết
về con người và cuộc đời Đức Phật thì niềm tin và sự tôn kính của mình chưa được
sâu sắc, vững chãi. Chúng ta học giáo lý của Ngài mà không hiểu rõ đời sống của
Ngài, thì sự tu học của ta còn phiến diện, thiếu sót, thậm chí có thể hiểu sai
và hành động sai lời Phật dạy. Bởi lẽ, cuộc đời Đức Phật chính là những biểu hiện
giáo lý của Ngài. Vậy nên là đệ tử Phật, chúng ta cần phải tìm hiểu về cuộc đời
Đức Phật và giáo lý của Ngài để áp dụng làm phong phú và thăng hoa đời sống của
chính mình.
Ngoài xã hội: Nếu việc thực tập
giáo lý được diễn ra trong ba môi trường: gia đình, cơ sở phật giáo và ngoài xã
hội thì việc thể hiện tôn kính Đức Phật cũng được diễn ra ở ba môi trường như
thế. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào tính chất đặc thù của mỗi môi
trường mà các hành động tôn kính được biểu hiện khác nhau. Ngoài xã hội, chúng
ta chú trọng đến ba việc: Ca ngợi công hạnh Đức Phật, khuyến khích mọi người đặt
niềm tin vào Đức Phật và bảo vệ hình ảnh Đức Phật.
Thứ nhất ca ngợi Đức Phật: Hoằng pháp là nghĩa vụ
thiêng liêng của mỗi người Phật tử và ca ngợi Đức Phật trước một người, nhiều người
hay cộng đồng người đúng thời điểm cũng là góp phần hoằng dương Phật pháp. Ca ngợi
Đức Phật trước người khác là việc làm không hề đơn giản mà vô cùng nghệ thuật,
khéo léo, đặc biệt là trước những người chưa được thuần thục, những người chưa
biết Phật pháp. Khi chúng ta ca ngợi Đức Phật đúng thời điểm, đúng hoàn cảnh sẽ
tạo cho người khác sự thích thú, cảm mến Đức Phật, nhờ đó họ phát sinh cảm tình
với đạo phật mà phát tâm quy y. Ngược lại, chúng ta không khéo léo, tế nhị sẽ bị
cho là khoa trương, truyền giáo, đôi khi khiến người khác sinh lòng khó chịu,
sinh tâm phản cảm, thậm chí họ càng phản ứng gay gắt trước mặt mình. Do đó,
chúng ta cần khéo dùng ngôn từ ca ngợi Đức Phật để dẫn dắt họ quay về với Đức
Phật thì phước báo cũng rất lớn.
Thứ hai: khuyến khích mọi người đặt niềm tin vào Đức Phật: Là một Phật tử chúng ta không chỉ
biết tự độ mà còn phải biết độ tha. Bản thân chúng ta đã được tưới tẩm bởi năng
lượng an lạc, nếm trải được vị cam lồ thanh lương từ đạo phật. Chúng ta cảm nhận
được sự an vui, hạnh phúc, may mắn khi làm đệ tử Đức Phật, thế nhưng quanh ta
biết bao nhiêu con người, số phận không may mắn, họ chưa đủ duyên lành như ta.
Thiết nghĩ chúng ta cần phải phát khởi lòng từ bi, học hạnh Bồ tát góp phần đem
phật pháp đến với họ, để họ cảm nhận được sự lợi lạc, an vui như ta. Do đó,
chúng ta cần tạo phương tiện gần gũi, dùng ngôn từ khéo léo giúp cho người khác
sinh tâm hoan hỷ, phát khởi niềm tin vào Đức Phật, từ đó quay về nương tựa Ngài hằng lìa khổ được an vui. Đây cũng là việc
làm khiến cho phật pháp ngày một hưng thịnh, xã hội ngày càng thanh bình hơn.
Thứ ba, bảo vệ hình ảnh Phật: Đức Phật là nhân vật được tôn thờ, tôn kính không chỉ ở tín đồ mà còn
có hàng triệu con người trên thế giới. Là phật tử, chúng ta là con của Phật cần
ý thức sẵn sàng bảo vệ hình ảnh thiêng liêng đáng tôn kính
của “người cha” trước sự xúc phạm, xuyên tạc của các đối tượng, thế lực với dụng
ý kiếm lợi hoặc mục đích không tốt. Đức Phật là hiện thân của Tam bảo, vì thế,
bảo vệ Đức Phật tức là bảo vệ Đạo Phật,
bảo vệ giáo pháp và Tăng đoàn.
Tóm lại, nhận thức, thái độ và
hành vi đối với Đức Phật là ba mặt biểu hiện lòng tôn kính Đức Phật trong đời sống (gia đình, cơ sở phật giáo, xã hội) của phật
tử. Khi chúng ta có một trình độ nhận thức nhất định về Đức Phật, có tình cảm
sâu sắc đối với Ngài, chúng ta sẽ dễ dàng khắc phục trở ngại, khó khăn để thực
tập giáo pháp của Ngài; thậm chí sẵn sàng hy sinh cả lợi ích
cá nhân để thực hiện giáo pháp ấy. Và chúng ta chỉ có thể nổ
lực hành động như vậy khi thật sự đặt niềm tin vào Ngài. Đây là một thực tế
không còn bàn cãi. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, nếu sự tôn kính và sự nương tựa Đức
Phật để mong cầu những niềm vui thế tục và hy vọng Ngài ban phát cho những niềm
vui ấy, điều này hiếm thấy trong kinh điển phật giáo mà chỉ có ở tín ngưỡng
nhân gian. Trái lại, sự tôn kính và nương tựa vào Đức Phật để rồi từ đó xây dựng
đời sống an lạc, mưu cầu giác ngộ, giải thoát thì điều này không có kinh điển
nào trong Phật giáo là không đề cập. Do đó, bên cạnh sự tôn kính Đức Phật,
chúng ta cần xây dựng cho mình nhận thức đúng đắn, niềm tin sâu sắc để việc tu
tập trở nên phù hợp với con đường chánh đạo mà Đức Phật chỉ dạy./.
Trích: Thể hiện lòng tôn kính Phật: Thích Không Tú – VHPG số 318- 1-4-2019.
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét