QUYỀN PHỤ NỮ THỜI NHÀ LÊ
Thời nhà Lê quyền lợi của
phụ nữ đã được pháp luật bảo vệ. Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều Hình luật) đã có
nhiều điểm tiến bộ so với sự phát triển
của hình luật nhiều nước trên thế giới cùng thời điểm và ngay cả đối với bộ Hoàng Việt luật lệ do Gia Long ban hành
năm 1812.
Những tiến bộ đó có thể kể trước hết ở chỗ nó bảo vệ quyền lợi đối với những
hạng người thấp bé nhất trong xã hội thời xưa như trẻ em mồ côi, người tàn tật,
người già cả không nơi nương tựa và đặc biệt đối với phụ nữ.
Coi trọng quyền hôn nhân: Trong xã hội phong kiến trước đây, quan niệm trọng
nam khinh nữ ăn sâu: “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”(Sinh một nam coi như có, sinh mười nữ coi như không), quan niệm “tam
tòng tứ đức” chi phối mọi xử sự của phụ nữ: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phu tử tòng tử” ( phụ nữ lúc còn trẻ ở nhà phải theo cha mẹ, khi lấy chồng
phải theo chồng, khi chồng chết phải
theo con ). Nhưng trong bộ luật Hồng Đức đã có nhiều điều bảo vệ quyền lợi của
phụ nữ. Quyền lợi đó được bảo vệ trước hết trong quan hệ hôn nhân.
Điều 322 trong luật Hồng Đức ghi: “Con gái hứa gả chồng mà chưa thành
hôn, nếu biết người con trai bị ác tật hay phạm tội hoặc phá tán tài sản thì
cho phép người con gái được trình quan mà trả đồ lễ, trái luật thì xử phạt 80
trượng.
Điều này đã làm cho người phụ nữ hứa hôn không bị trói buộc vào người con
trai khi không đảm bảo hạnh phúc cho người vợ sắp cưới. Cũng nên lưu ý là điều
luật này cũng bênh vực phụ nữ ở chỗ: “nếu người con gái bị ác tật hay phạm tội
thì không phải trả đồ lễ ”.
Khi
đã thành hôn, tuy trong xã hội cũ nam giới được quyền lấy năm thê bảy thiếp,
nhưng quyền lợi chăn gối của người vợ đã được pháp luật đảm bảo trong điều luật
308: “Phàm chồng đã bỏ lửng vợ trong năm
tháng, không đi lại, vợ được trình với quan sở tại và xã quan làm chứng thì người
chồng đó bị mất vợ. Nếu vợ đã có con thì cho hạn một năm. Nếu đã bị mất vợ lại
ngăn cản người khác lấy vợ cũ của mình thì phải tội biếm”.
Luật cho người vợ được kiện chồng
không quan tâm đến hạnh phúc của mình và được phép lấy chồng mới là một điều rất
hiếm thấy trong hình luật của nhiều nước thời xưa và thậm chí ngay cả nhiều bộ
luật ngày nay. “Người ta sinh ra ở đời, ai cũng có quyền sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc ”. Lời tuyên bố
bất hủ ấy được nêu lên ở bản Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của nước Pháp
vào năm 1789, trong khi bộ luật Hồng Đức đã có những điều luật đảm bảo quyền
mưu cầu hạnh phúc của phụ nữ từ thế kỷ
XV.
Coi trọng quyền thừa kế: Trong việc thừa kế tài sản, quyền lợi của phụ
nữ cũng được bảo vệ chu đáo. Điều 376 ghi: “Vợ chồng đã có con, nếu một người
chết trước, sau đó con cũng lại chết thì điền sản thuộc về chồng hay vợ còn sống.
Nếu người chồng trưởng họ không làm đúng phép thì xử phạt 50 roi, biếm một phần
tư và mất phần chia. Đúng phép nghĩa là nếu vợ chết trước thì điền sản của vợ
chia làm ba phần, chồng hai phần, thân thuộc của vợ một phần, cha mẹ vợ và chồng
mỗi bên một phần … Chồng chết trước vợ cũng theo lệ ấy”.
Trong việc chia tài sản do cha mẹ để lại thì luật quy định gái cũng như
trai. Điều 388 ghi: “Cha mẹ mất cả, chưa
kịp để lại chúc thư chia ruộng đất, thì lấy 1/20 số ruộng đất làm hương hỏa,
giao cho con trai trưởng giữ, còn thì chia cho nhau. Phần con của vợ lẽ nàng hầu
thì phải kém.”
Xã hội phong kiến theo chế độ phụ quyền, việc thờ cúng, giữ ruộng hương hỏa
thuộc về con trai nhưng trong luật Hồng Đức được bổ sung năm 1517 ghi: “Người
giữ hương hỏa có con trai trưởng thì dùng con trai trưởng, không có con trai
trưởng thì dùng con gái trưởng, ruộng đất hương hỏa thì cho lấy 1/20”. Thiết
nghĩ quyền bình đẳng của phụ nữ đối với nam giới, quyền được chia cơ sở vật chất,
có tài sản để sinh sống đã được đảm bảo không khác gì nam giới và ngay cả quyền
lợi tinh thần được thờ cúng tổ tiên ông bà cha mẹ cũng vẫn được tôn trọng, đã
nói lên trình độ văn minh của nước ta từ thế kỷ XV.
Coi trọng quyền bất khả xâm phạm thân thể: Một điều đặc biệt đáng chú ý là luật Hồng Đức đã bảo vệ quyền bất
khả xâm phạm về thân thể của phụ nữ, xử tội rất nặng những kẻ gian dâm với vợ
người khác. Điều 401 ghi: “Gian dâm với vợ người khác thì xử tội lưu đày hay tội
chết…”( lưu đày là đánh bằng trượng hay đầy đi nơi ở xa ).
Kẻ quyến rũ gái chưa chồng thì
cũng xử như tội gian dâm. Kẻ bắt mối bị xử
tội đồ hay lưu. (Đồ là đánh trượng và bắt làm việc công ích trong một thời
gian ). Luật trừng phạt rất nghiêm đối với
tội hiếp dâm phụ nữ, điều 403 ghi: “Hiếp dâm thì xử tội lưu hay chết và phải nộp
tiền tạ hơn tiền tạ về tội gian dâm thường một bậc, nếu làm người đàn bà bị
thương thì xử tội hơn tội đánh người bị thương một bậc. Nếu làm người đàn bà bị
chết thì điền sản kẻ phạm tội phải trả cho người nhà bị chết”. Bảo vệ thân thể
cho các em gái nhỏ, luật cũng xử tội rất nặng, điều 404 ghi: “Gian dâm với em
gái nhỏ từ 12 tuổi trở xuống, dù người con gái đó thuận tình, cũng xử tội như
hiếp dâm” ( nghĩa là bị lưu đày hay chết ).
Coi trọng việc sinh con: Trong thủ tục tố tụng,
luật Hồng Đức cũng chú ý bảo vệ quyền thai sản của người mẹ và trẻ sơ sinh, điểu
680 ghi: “Đàn bà phải tội tử hình trở xuống, nếu đang có thai thì phải để sinh
đẻ sau 100 ngày mới đem hành hình… Nếu khi chưa sinh con mà thi hành tội xuy (
đánh roi ) thì ngục quan bị phạt tiền 20
quan, ngục lại bị 80 trượng..”
Qua vài điều luật dẫn trên đây, chúng ta thấy
rõ những nét tiến bộ, trình độ phát triển của bộ luật Hồng Đức được áp dụng ở
nước ta từ thế kỷ XV, có nhiều điều chỉ có ở một số nước sau khi cách mạng tư sản
thành công. Việc áp dụng bộ luật thời
Gia Long với nhiều sao chép luật Mãn Thanh
(Trung Quốc xưa) đã kéo lùi nước
ta trong khuôn khổ chuyên chế, coi thường, chà đạp lên phụ nữ và phải đợi đến
sau cách mạng Tháng Tám (1945) quyền bình đẳng của phụ nữ mới dần được khôi phục.
Ngày nay cũng còn nhiều điều mà
luật pháp của chúng ta phải kế thừa, học tập để bảo vệ quyền con người cho phụ
nữ trong mưu cầu hạnh phúc và bất khả xâm phạm về thân thể./.
Trích từ: Quyền phụ nữ
thời nhà Lê: Nguyễn Hoàng Duy – VHPG số 336- 1-1- 2020.
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét