GIÁC NGỘ LÀ GÌ?
Trong Phật giáo từ hay dùng là từ Giác ngộ, mà hỏi ra giác ngộ là gì? ít
ai trả lời cho rốt ráo. Vẫn biết giác ngộ
là một điểm đặc thù của đạo phật so với các tôn giáo khác, vì đối với các tôn
giáo khác họ dùng từ thần khải, như Ấn Độ giáo, Ky Tô giáo, Hồi giáo, sự cứu rỗi
con người là đặc ân của Thượng đế, không cần gì đến giác ngộ…
Nhưng thật ra giác ngộ là gì chứ?.. có chắc những người theo Phật giáo
chúng ta hiểu rõ giác ngộ hay không? Và liệu có hiểu giống nhau về giác ngộ?
Định
nghĩa giác ngộ: Giác ngộ là một từ Hán-Việt, có nghĩa là: tỉnh ra mà hiểu
rõ. Giác có nghĩa là: tỉnh dậy. Tiếng
Pali và Sanskrit là: bodhi ( phiên âm là
bồ đề ) Bodhi cũng như Buddha phát xuất từ tiếng gốc bud, là: hiểu biết.
Giác ngộ, bodhi là nhờ ở
trí tuệ ( hay trí huệ ) Bát –nhã, là sự hiểu biết không phải bằng trí thức, lý
luận, mà bằng sự cảm nhận sâu xa, bằng kinh nghiệm sống trực tiếp. Do đó, giác
ngộ cũng còn gọi là tuệ giác.
Sự giác ngộ của Phật sau 49 ngày đêm thiền định dưới gốc cây bồ đề. Còn
giác ngộ của các thiền sư do miên mật với công án đến lúc chín mùi, khi gặp các
tình huống đột nhiên chứng ngộ được tự tánh, như nghe tiếng trống, tiếng của cục
đá chạm vào gốc cây, hay tiếng gọi, tiếng hét, cái véo mũi, hoặc bợp tai, hoặc
câu hỏi bất ngờ mà các vị thiền sư hốt nhiên giác ngộ.
Trong Thiền tông có những từ nói về
giác ngộ, như “tiểu ngộ”, “đại ngộ”, “tiệm ngộ”, “đốn ngộ”, “triệt ngộ”. Như chủ
trương “tiệm ngộ”của thiền sư Thần Tú dòng thiền Tào Động, (phía Bắc). Chủ trương
“đốn ngộ”của Tổ sư Huệ Năng dòng thiền Lâm Tế (phía Nam).
Giác ngộ có đồng nghĩa với giải thoát hay không?
Một lầm lẫn thông thường là sự lẫn lộn giác ngộ với giải thoát, tức là tưởng
lầm rằng một khi đã giác ngộ rồi thì tự nhiên sẽ giải thoát. Thật ra, khái niệm giải thoát đã có trước Đức
Phật, và rất phổ biến trong văn hoá Veda và Upanishad tại Ấn
Độ. Theo truyền thống này, giải thoát là ra khỏi vòng sanh tử luân hồi. Trong
khi đạo phật, giải thoát chủ yếu là giải thoát khỏi sự khổ đau do phiền não, lậu
hoặc.
Giáo lý đạo Phật gồm có:
1/ Bốn sự thật thánh thiện: (tứ thánh đế), là khổ, nguyên nhân của khổ, sự
diệt khổ và con đường diệt khổ. Nói gọn: Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
2/ Ba dấu ấn của sự vật: (tam pháp ấn), là vô thường, vô ngã và khổ; và
ba Duyên khởi, là sự tương quan, tương duyên, tương hữu giữa mọi sự vật.
Đó là những sự thật mà Ngài đã giác ngộ và giảng dạy. Phải hiểu rõ những
sự thật này thì người tu mới theo đó mà tu tập, theo con đường chánh tám nẻo,
thuộc ba môn tu học là: giới, định, huệ. Phải hiểu rồi mới thực hành được. Như
vậy, phải giác ngộ rồi mới giải thoát.
Giác ngộ rồi xong hết, hay có nhiều mức giác ngộ?
Đạo Phật cũng quan niệm rằng có nhiều mức độ giác ngộ, cũng như có nhiều
mức độ giải thoát. (giải thoát từng phần, giải thoát cứu cánh) (phần chứng Niết
bàn, hữu dư y Niết bàn, vô dư y Niết bàn).
Càng thực hành, hành giả càng hiểu sâu hơn, cũng như càng tiến xa, người ta càng
thấy rõ hơn con đường đi. Cho đến khi đạt được giác ngộ, giải thoát hoàn toàn.
Vì thế cho nên trên con đường tu tập,
con người thánh thiện phải tuần tự đi qua tám giai đoạn đạo/quả: bắt đầu từ Nhập
lưu, tức là “đi vào dòng sông”, sau đó tới “Tư đà hàm”, “chỉ trở lại một lần”,
rồi tới A Na hàm “không bao giờ trở lại”, và cuối cùng A la hán, tức là giải
thoát hoàn toàn.
Giác ngộ theo đạo Phật nguồn gốc. Giác ngộ như vậy là hiểu một
cách sâu xa, thấu triệt giáo pháp, là những sự thật khám phá ra và giảng dạy bởi
Đức Phật Thích Ca. Triết lý của Đức Phật
là một triết lý thực tiễn, một triết lý hành động nhằm áp dụng vào cuộc sống,
chứ không phải để suy luận, biện luận trên những khái niệm siêu hình. Tất cả những
câu hỏi siêu hình, về “thế giới vô biên hay hữu hạn, linh hồn sau khi chết sẽ
đi về đâu v.v... gọi là hoài nghi.., đều bị Ngài gạt bỏ hay trả lời bằng im lặng.
Đạo Phật nguồn gốc không bao giờ đề cập đến những vấn đề bản thể, và được xem bởi
các nhà triết học Tây phương như một hiện tượng luận. Đức Phật chỉ quan tâm đến một hiện tượng là
hiện tượng khổ đau. Như trong kinh Trung bộ: “Như Lai chỉ dạy có một điều: sự
khổ đau và sự chấm dứt khổ đau”.
Giác ngộ theo Đạo Phật Đại thừa: Trong khoảng năm thế kỷ đầu Tây
lịch, phong trào Đại thừa, với xuất hiện của nhiều bộ Kinh và Luận mới, đã mang
lại nhiều đổi thay so với đạo Phật nguồn gốc, trong đó có quan niệm về giác ngộ.
Đầu tiên, cùng với sự thay thế lý tưởng A la hán bằng lý tưởng Bồ tát,
giác ngộ cũng trở thành mục đích chính yếu so với giải thoát. Và quan trọng hơn nữa là đối tượng giác ngộ.
Giác ngộ là hiểu trọn vẹn, thấu triệt sự thật, nhưng đó là sự thật nào?
Dựa trên quan điểm của Long Thọ:
“Giáo lý của Đức Phật được giảng theo hai sự thật: “sự thật theo quy ước- tục đế”và
“sự thật tối hậu – chân đế”. Các Tổ Đại thừa cho rằng có một sự thật tuyệt đối
và đặt mục đích là đạt được sự thật tuyệt đối đó.
Đồng thời họ cũng dựa trên khái niệm
trong đạo Phật nguồn gốc gọi là “sự thật như là”để tạo nên khái niệm Chân như,
chỉ định sự thật tuyệt đối, không thể diễn tả, nghỉ bàn, mà chỉ có thể gọi
là “như là”.
Như vậy, một số khái niệm đã được triển khai trong các kinh Đại thừa là:
tự tánh, Phật tánh, Như Lai tạng, Pháp giới, cùng với A lại da thức của trường
phái Duy Thức. Tất cả đồng nghĩa với sự thật tuyệt đối, bao gồm luôn cả Chân
như và Không; Không tánh, và kèm theo một phương trình đặc biệt là “Chân không diệu
hữu”.
Nhưng quan niệm có một tự tánh, một thực thể biệt lập, thường còn, như vậy
là đi ngược lại với quan điểm (không có tự tánh) của Đức Phật và của Long Thọ,
đồng nghĩa với “không”, “vô ngã”và
“duyên khởi”.
Có thể nói rằng theo Đại thừa, giác ngộ đã trở thành mục đích chính yếu,
tức là đạt được sự thật tuyệt đối, nhận ra phật tánh trong mình (“kiến tánh
thành Phật”) và thể nhập với Pháp giới, Chân như.
Kinh nghiệm giác ngộ
trong các tôn giáo khác:
Trong các tôn giác khác thần khải cũng đã có nhiều trường hợp rất gần với
kinh nghiệm giác ngộ trong đạo Phật, với những biểu hiện rất giống nhau.
Đó là những kinh nghiệm gọi là “xuất thần” xảy đến cho các nhà tôn giáo
hay tín đồ “thần bí”, khi họ bổng nhiên nhìn thấy, nghe thấy, hoặc giao tiếp với
Thượng đế hay thần linh.
Bên Ky tô giáo có nhiều nhân vật nổi tiếng do kinh nghiệm thần bí, và đa
số đã được phong Thánh sau đó, như các Thánh Paul, Augustin….kể lại một buổi tối
đầy cảm xúc khi ông bỗng thấy lòng tràn ngập Thượng đế dưới mọi ánh sáng chan hoà.
Trong Ấn Độ giáo và Yoga, kinh nghiệm thần bí được gọi là Samadhi (khác với
samadhi, định, trong đạo phật), là giai đoạn thứ tám và cuối cùng của
astanga-yoga, và được xem là sự hoà nhập làm một với “tuyệt
đối”hay Brahman.
Về phía Do Thái giáo, có một ngành thần bí tên là Kabbale, và về phía Hồi
giáo, cũng có ngành Soufi với những buổi cầu nguyện, ca múa tập thể, tạo điều
kiện cho kinh nghiệm thần bí.
Nói chung, kinh nghiệm thần bí là những trạng thái tâm thức đặc biệt, đột
ngột xuất hiện trong một thời gian ngắn ngủi, gây cảm xúc mạnh mẽ (sợ hãi hoặc
vui sướng tột độ ), với cảm tưởng liên kết với một sức mạnh siêu nhiên, hoặc hoà đồng cùng vũ trụ, không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ
thông thường, và để lại một ấn tượng tâm lý sâu đậm.
Khoa học thần kinh đã cho biết gì về giác ngộ.
Dựa trên những tiến bộ về chẩn đoán hình ảnh và thăm dò chức năng não bộ,
hai nhà khoa học thần kinh Andrew và Eugene dAquili ( Đại học Pennsylvania,USA
) đã làm một thí nghiệm trên một số sơ Ky tô giáo dòng Franciscan trong khi cầu
nguyện, và một số sư Tây Tạng trong khi ngồi thiền định.
Mỗi khi cảm thấy xuất hiện những hiện tượng phi thường gọi là “thần bí”,
thì họ liền ra dấu hiệu, và một FET-scan não được thực hiện ngay tức khắc. Kết
quả cho thấy đúng lúc đó có một thay đổi quan trọng trong sự vận hành não bộ:
đó là sự ngưng hoạt động đột nhiên của một vùng não gọi là vỏ đỉnh sau, là một
vùng liên quan tới “chức năng định hướng cơ thể trong không gian”. Điều đó giải
thích tại sao các sơ Franciscan cũng như các sư Tây Tạng mô tả kinh nghiệm “xuất
thần”hay “giác ngộ”của mình như một cảm tưởng lạ lùng, với cơ thể nhẹ nhỗm bồng
bềnh, không còn ranh giới với chung quanh, và tan biến hoà
đồng cùng vũ trụ. Các tác giả gọi trạng thái đó là “kinh nghiệm đồng nhất tuyệt
đối”, và đề nghị lập nên một ngành khoa học mới tên là “Thần kinh Thần học”.
Hiện nay, các nhà tâm lý học và khoa học thần kinh đặt các kinh nghiệm “xuất
thần”hay “giác ngộ”này trong khuôn khổ các “trạng thái thay đổi tâm thức”. Còn
gọi là “trạng thái tâm thức không bình thường”, chúng bao gồm nhiều trạng thái
khác nhau, ý thức hay vô thức, nhưng không ở trong tình trạng tỉnh thức bình
thường.
Một số xảy ra một cách tự nhiên,
theo sinh lý, như khi ngủ mơ, một số gây nên bởi bệnh tật, như các loại hoang
tưởng, do một tổn thương não, động kinh, hoặc gây nên bởi thuốc men, ma tuý, nấm hoặc thảo dược… Một số gây nên bởi những điều kiện đặc
biệt, như thôi miên, lên đồng, và thiền định, cầu nguyện, quán tưởng như đã
nói.
Các biểu hiện cũng như cơ chế sinh
lý bệnh học của các trạng thái tâm thức này rất linh tinh, cho nên không thể đồng
hoá một cách giản lược kinh nghiệm “giác ngộ”hay “xuất thần”với
những rối loạn thần kinh, hoang tưởng gây nên bởi bệnh tật hay ma tuý, thảo dược. Hiện nay các nghiên cứu khoa thần kinh trong
các lãnh vực này mới chỉ là sơ khởi, còn phải chờ đợi thêm nhiều hiểu biết
trong tương lai.
Kết luận: Như vậy, sự giác ngộ của Đức Phật
Thích Ca có được là do thiền định dưới gốc cây Bồ đề mà thành. Các tổ sư, thiền
sư vừa thiền định vừa tham chiếu công án mà có sự giác ngộ, nhưng mức độ giác
ngộ của các Tổ sư thiền sư không cao bằng sự chứng ngộ của Phật. Sự giác ngộ
hay chứng ngộ của đạo Phật có là do từ nội tâm phát xuất ra do công phu tu tập
mà thành. Các đạo khác họ dùng từ thần khải, hay sự cứu rỗi của Thượng đế, hay
hiệp thông với Thượng đế, thần linh. Đạo Phật hướng vào nội tâm mà khai thác
phát huy tiềm năng sẵn có của mỗi người, các tôn giáo khác
hướng ra bên ngoài tiếp nhận sự cứu rỗi của Thượng đế, thần linh.
Theo đạo Phật giác ngộ là hiểu được, cảm nhận được một cách sâu xa Giáo
pháp, để rồi từng bước một, tinh tấn tu tập trên con đường giải thoát khổ đau.
Sự giác ngộ Chân lý tuyệt đối, tối hậu, thường hằng bất biến là ở tại nơi tự
tâm, chứ không đâu xa./.
Trích: Giác ngộ là gì? – Trịnh
Đình Hỷ- VHPG số: 339-15-2-2020.
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét