TRUNG ĐẠO VÀ DUYÊN KHỞI
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều
trong Phật giáo. Tùy duyên mà Trung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng kỳ thực
chỉ là trình bày từ thô đến tế, còn thực chất thì không khác. Mặt tùy duyên nói đó chính là thứ đang hiển thị
cái gọi là Trung đạo. Đây chính là tinh thần chủ đạo của Phật giáo. Không phải
vì nó xa lạ với đời sống thường nhật, chỉ vì người đời không ý thức được nó mà
thôi. Phật giáo, là phần giáo có khả năng đề cập đến chỗ thâm sâu nhất của
Duyên khởi. Thành nói đến Duyên khởi mà bỏ qua mặt Trung đạo thì nghĩa Duyên khởi
không có chỗ quy về, thực lý không hiển bày được. Nói đến Trung đạo mà không hiển
được mặt Duyên khởi thì nghĩa Trung đạo không có chỗ triển khai, lợi ích thiết
thực không có. Thấy giáo lý của Phật chia chẻ hay hỗn tạp là do không thấy được
mặt tương quan giữa Duyên khởi và Trung đạo.
Duyên khởi là gì ?
Duyên khởi,
là pháp hiện khởi nhờ vào duyên. Pháp không thể tự sinh khởi, khởi được là nhờ
nương vào các pháp khác (duyên), nên nói Duyên khởi. Được hiển thị rõ ràng và dễ
hiểu qua câu : “ Cái này có thì cái kia
có. Cái này sinh thì cái kia sinh. Cái này không thì cái kia không. Cái này diệt
thì cái kia diệt ”. Vạn pháp ở thế gian đều hình thành và mất theo quy luật
ấy. Nói theo khái niệm bản thể và hiện tượng thì Duyên khởi chỉ cho mặt hiện tượng
của pháp.
Cái này có thì cái kia có… là muốn nhấn
mạnh có một mối tương quan mật thiết giữa pháp này với pháp khác trong sự tồn tại
cũng như sinh khởi của nó, pháp không thể độc lập tự khởi hay tồn tại. Cái này không thì cái kia không…cũng muốn
nhấn mạnh có một mối liên hệ mật thiết giữa giữa pháp này với pháp khác trong sự
hoại diệt của nó, pháp không thể độc lập hoại diệt. Nói chung, pháp sinh khởi
hay hoại diệt đều có điều kiện, không phải tự nhiên. Việc này có thể kiểm nghiệm
trong thực tế. Vì Duyên khởi là quy luật chi phối vạn pháp ở thế giới này.
Trong kinh Pháp bảo đàn, Lục tổ đưa ra 36
phép đối như trời cùng đất, sáng cùng tối, sắc cùng vô sắc….chính là muốn hiển
thị mặt Duyên khởi của pháp ở dạng đơn giản nhất. Lục tổ dạy : “ Giả như có người
hỏi sao gọi là tối thì đáp rằng : Sáng là nhân. Tối là duyên. Sáng mất tức là tối.
Dùng sáng để hiển thị tối. Dùng tối để hiển thị sáng. Qua lại làm nhân cho nhau
thành nghĩa Trung đạo ”. Trời và đất, sáng và tối v.v… là những cặp nhị biên
phân biệt. Chúng đối nhau nhưng là duyên làm thành nhau. Nói sáng là nhân, là
muốn nói sáng là duyên làm nên tối. Nói tối là duyên, là muốn nói tối là nhân
làm nên sáng. Cách dùng như vậy không chỉ hiển thị cho thấy sáng và tối không
có tự tánh riêng mà ngay cả nhân, duyên, quả cũng không có tự tánh riêng. Tùy
duyên mà nhân có thể thành quả, quả có thể thành nhân. Cả hai đều có thể gọi là
duyên. Tất cả không lìa tâm, chỉ do nhân đối đãi mà hiện khởi. Vì thế, tướng tối
hay sáng ấy không thể hiển thị cho cái gọi là thực tướng của sáng và tối. Không
thể, thì cũng không thể trụ vào hai tướng ấy mà nhìn thấy thực tướng. Phải lìa
hai tướng ấy mới có thể thấu được thực tướng. Đó là nghĩa Trung đạo. Nên nói “
Qua lại làm nhân cho nhau thành nghĩa Trung đạo ”.
Trung đạo là gì ?
Trung đạo là âm Hán. Y từng chữ mà dịch
thì “ trung” là giữa, “đạo” là đường. Với nghĩa đó thì “ Trung đạo” là đường giữa,
hay dịch thoát chút là Đạo là trung dung như Đạo trung dung của Khổng Tử. Song
với Phật giáo, “ trung” nếu chỉ dừng ở nghĩa “ giữa” như điểm giữa hai đầu, hay
thái độ vừa phải của Đạo trung dung, thì không thể nào diễn tả được hết nghĩa
mà Trung đạo của Phật giáo muốn nói. Xin nghe đối đáp giữa Tăng nhân với sư Triệu
Châu thì rõ .
Đang
tham thiền, Triệu Châu bảo :- Sáng thì chưa sáng, nói tối thì sắp sáng, ông ở
bên nào ?
Tăng thưa : - Không ở hai đầu.
Trung đạo không thuộc nhị biên
phân biệt, không có chỗ nơi, nên khi Triệu Châu nói sáng, nói tối, Tăng trả lời
“ Không ở hai đầu”, Không ở hai đầu tức, tức không chỉ có sáng có tối mà với tất
cả nhị biên phân biệt, thảy đều không trụ. Sinh tử và Niết bàn, đạo và tục,
sanh và diệt, có và không v.v… thảy đều không trụ.
Triệu
Châu hỏi tiếp :- Vậy ở khoảng giữa ?
-
Tăng thưa : - Nếu ở khoảng giữa liền ở hai đầu.
Theo đây thì “ giữa” không phải là Trung
đạo. Bởi vì khi xác định được điểm giữa, thì nhất định phải có hai đầu mới xác
định được điểm giữa ấy. Đó là lý do Tăng trả lời : “ Nếu ở khoảng giữa liền ở
hai đầu”.
Triệu
Châu trả lời : - Dù thế ấy vẫn không ra ngoài ba câu.
Tăng
trả lời :- Con sai sử được ba câu.
Triệu
Châu nói :- Sao không nói sớm.
“ Dù thế ấy”, là lời nói chấp nhận. Tuy
vậy, vẫn còn lỗ hổng. Vì thuyết thông, tâm chưa hẳn đã thông. Lý tột, sự chưa hẳn
tột như lý. Nên nói “ Vẫn không ra ngoài ba câu”. Nhưng Tăng không phải là kẻ
chỉ có cơm cháo qua ngày, nên “ Con sai sử được ba câu”. Tức, thuyết thông mà
tâm cũng thông. Lý tột mà sự cũng được như lý.
Như vậy, nếu hiểu Trung đạo một cách tổng
quát là “ Không rơi vào nhị biên phân biệt, lìa mọi chấp trước, chỉ tùy duyên
mà hiện khởi” thì nghĩa Trung đạo có thể đáp ứng được cả hai mặt, phương tiện
và cứu cánh.
Vì có phần
phương tiện, nên vẫn cho phép hiểu “ Trung đạo” theo nghĩa “ giữa” được hiểu ở đây không mang tính chất cố định,
chỉ mang tính chất tùy duyên. Bởi tướng của pháp chưa từng dừng trụ nên “ giữa”
cũng không dừng trụ ở một mốc cố định nào. Có thể nương vào thí dụ sau để hiểu
về nghĩa “ giữa” muốn nói đây. Thí dụ này cũng giúp ta hiểu được mối tương quan
giữa Trung đạo và mặt Duyên khởi của pháp.
Một con đường,
hai bên là hố sâu. Dù con đường vòng vo thế nào, nếu bạn không dịch chuyển ra
ngoài khoảng giữa con đường ấy, bạn sẽ luôn an toàn. Giáo pháp của đức Phật
cũng mang tính Trung đạo như thế. Chỉ là tùy bệnh cho thuốc. Với ai đi lệch về
bên trái, nguy cơ sẽ lọt hố, chư Phật nói
“ Về bên phải ! ” Ai đi lệch về bên phải, nguy cơ sẽ lọt hố, chư Phật
nói “ Về bên trái”. Về bên phải hay bên
trái rồi mà đi hơi quá, nguy cơ lọt hố, thì chư vị lại ngăn việc ấy lại. Điều
đó cho thấy, trái hay phải không nhất thiết luôn là vậy, chỉ tùy duyên của
chúng sanh mà lập. Với người xan tham keo kiệt thì dạy bố thí. Bố thí thành tập
rồi thì không dạy bố thí nữa. Với kẻ sống buông lung và sân hận thì dạy giữ giới
cùng nhẫn nhục. Với kẻ giữ giới và nhẫn nhục đã thuần thục thành tập rồi, thì dạy “ Giữ giới cùng nhẫn nhục / chiêu tội chẳng
chiêu phước / Muốn biết không tội phước
/ Chẳng trì giới nhẫn nhục ” để ngộ nhập
chân thể vô trụ. Bởi thứ gì mình tập rồi đều là nhân của chấp trước. Chấp trước
thứ gì tức là trụ vào thứ ấy. Khó thể nhập chân thể vô trụ. Vì thế trong Pháp bảo
đàn kinh, Lục tổ dạy tạo thiện nghiệp mà không chấp trước vào thiện nghiệp. Tập
cũng chính là nhân của khổ. Không phải khổ của Phân đoạn sinh tử thì cũng là khổ
của Biến dịch sanh tử. Còn tập là còn luẩn quẩn trong hai loại sanh tử đó, vì
thế cần lìa hết mọi chấp trước.
Đó là lý do vì sao trong Phật giáo thấy
có nhiều tông phái khác nhau, kinh luận cũng không ít, mà có khi lại thấy lời dạy
của Phật Tổ trái nhau. Là do giáo pháp của Phật chỉ là thuốc, tùy bệnh của
chúng sanh mà lập.
Cái này có thì cái kia có, nên có bệnh
là có thuốc, thuốc phù hợp với bệnh. Người bình thường không cho uống á phiện,
nhưng người bị ung thư ở giai đoạn đau quá, có khi cũng phải dùng á phiện để cứu
họ. Người cơ tương ứng với niệm Phật thì không thể vào thiền mà có kết quả. Người
có cơ tu thiền thì không thể dạy họ trì chú. Thành “ thống nhất” nói chung
trong Phật giáo không phải là quy tất cả về một pháp là Thiền hay Tịnh hay Mật.
Không được mà cũng không thể. Chúng sinh có bao nhiêu cơ thì có bao nhiêu tông
phái tương ưng. Chỉ là tông nào làm tốt nhiệm vụ tông đó, không ai xâm phạm ai,
thì chỗ thống nhất ắt tự hiển lộ. Đó là điều làm lợi ích cho chúng sinh. Việc
này cũng có điều kiện của nó, là dù phương tiện khác nhau thế nào, sự chỉ dạy
cũng không ra ngoài tinh thần mà phật đã nói trong các kinh luận. không thì
không còn là con của Phật và pháp của Phật.
Cái này không thì cái kia không, nên bệnh
hết thuốc cũng bỏ, không nói Tiểu thừa, Đại thừa v.v… Lên bờ rồi, không vác
thuyền theo.
Đó là nghĩa
Trung đạo được hiển thị ở mặt tùy duyên.
Với nghĩa
trung dung, kinh luận Phật giáo cũng nói đến nhiều. Trung đạo trong trường hợp
này mang nghĩa thông thái quá cũng không bất cập.
Luận để thấy
mối tương quan
Lìa nhị biên
phân biệt là Trung đạo. Không phải có không phải không, không phải sinh, không
phải diệt v.v…là Trung đạo.
Vạn pháp ở thế
gian đều y duyên mà tồn tại, y duyên mà hoại diệt, nên không có tự tánh của
riêng nó. Không có tự tánh thì không thể nói có, nên “ không phải có”. Tuy
không phải có, nhưng đủ duyên thì mọi thứ hiện bày đầy đủ như hiện nay đang thấy,
nên “ không phải không”. Không phải có, không phải không, là nghĩa Trung đạo.
Nhân sinh và
thế giới đều do những nghiệp nhân đã huân tập trong tạng thức, đủ duyên mà biến
hiện ra, như bóng hiện hình trong gương, không có tự thể riêng, tâm chân thật
chính là tánh, nên nói “không phải sinh”. Sinh đã không thật sinh thì diệt cũng
chẳng thật diệt, nên nói “không phải diệt”. Không phải sinh, không phải diệt,
là nghĩa Trung đạo.
Tạm luận như
thế để thấy mối liên quan giữa Trung đạo và Duyên khởi. Như vậy, là pháp Duyên
khởi thì không thể có, không thể không, không thể sinh, không thể diệt…ấy là
nghĩa Trung đạo.
Trung đạo
với nghĩa thực tướng :
Nghĩa này được
tìm thấy trong các kinh luận Đại thừa hơn là trong hệ A-hàm. Nó được thể hiện
rõ nhất trong câu nói của Lục tổ khi gặp Thượng tọa Minh: “ Không nghĩ thiện,
không nghĩ ác, cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh ? ”.
Thượng tọa Minh
và Lục tổ đều ở trong pháp hội của Ngũ tổ. Khi nghe tin y pháp đã về phương Nam
thì Thượng tọa Minh đuổi theo. Đến nơi, tuy thấy y mà không thể nhấc lên được,
mới thưa với Huệ Năng: “Tôi vì pháp mà đến không phải vì y”. Huệ Năng bảo: “Ông
nếu vì pháp mà đến thì nên dứt sạch các duyên, chớ sinh một niệm”. Thượng tọa
Minh theo đó mà làm. Giây lâu Tổ mới nói “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái
gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh ”. Thượng tọa Minh ngay câu nói đó
liền đại ngộ.
Bản
lại diện mục là bộ mặt xưa nay của chúng sanh. Chúng sanh, tùy nghiệp nhân huân
tập mà thay hình đổi dạng trong sáu đường, nhưng dù thay đổi thế nào thì vẫn
luôn tồn tại một thứ không thay đổi mà Tổ gọi là bộ mặt xưa nay. Xưa hay nay, bộ
mặt ấy vẫn như thế. Bộ mặt ấy không thuộc nhị biên phân biệt, nên ngay nơi cái
thể Trung đạo mà Tổ nêu ra, Thượng tọa Minh nhận lại.
Trung đạo với
nghĩa thực tướng, còn thể hiện rõ qua Bát nhã tâm kinh khi nói về tướng không của
các pháp. “ Tướng không của các pháp
không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không tăng, không giảm…” Nói về thực tánh mà lại nói
tướng không, là muốn nói tướng của cái tánh không ấy không rơi vào nhị biên
phân biệt, không thuộc sở biết cũng không phải là năng biết. Nói tướng, mà tướng
ấy phải lìa mọi tướng ( ngay cả tướng không) thì mới gọi là thấu được tướng ấy.
Tuy lìa mọi tướng mà nó lại là nền tảng, từ đó hiện khởi các tướng cũng như các
cặp nhị biên phân biệt, nên các cặp nhị biên phân biệt không lìa tánh ấy mà có,
nhưng tánh ấy không phải là các cặp nhị biên. Vạn pháp cũng hình thành tương tự
như thế. Không phải, nhưng do vô minh mà triển chuyển và huân tập. Huân tập rồi
thì bị chính cái lực huân tập ấy dẫn chạy trôi lăn theo có và không v.v... Trên
cái có và không ấy, lại tiếp tục gây tạo các nghiệp thông qua ba nghiệp thân,
khẩu, ý. Giờ muốn đưa chúng sanh ngộ nhập lại tánh thể ấy thì phải lìa các ác
nghiệp, lìa chấp trước vào thiện nghiệp. Nói chung là lìa mọi chấp trước nhị
biên.
Một khi tâm
chúng sinh lìa được mọi chấp trước, dù chỉ trong sát na, thì ngộ lại được phần
chân thể này. Ngộ thì đồng chư Phật, nhưng tùy tập khí được thanh lọc mà giác
có cạn sâu, nên ngộ rồi còn phần thể nhập.
Tùy tập khí được tiêu trừ mà phần thể nhập có cạn sâu. Đây là lý do Bồ tát có đến
năm mươi mấy vị. Kiến tánh rồi còn phải trải qua Thập địa mới thành Phật. Chân
như cũng được phân thành mười loại. “ Tuy
trong Sơ địa đạt được hết thảy. Nhưng mười thắng hạnh để chứng đạt chân như
chưa viên mãn. Để viên mãn mười thắng hạnh này, mà lập ra mười loại chân như”,
là do phần thể nhập có cạn sâu.
Kinh Lăng già
tâm ấn nói về thực tướng vạn pháp ở mức độ chi tiết hơn : “ Sinh là bất sinh, thường là vô thường, tướng là vô tướng, trụ dị là
phi trụ dị, đoạn là bất đoạn v.v..” Bất sinh là trả lời câu hỏi của ngài Đại
Huệ khi hỏi “ Thế nào là sinh ? ”. Phi trụ dị, là trả lời câu hỏi “ Thế nào là
trụ dị ?” v.v… 108 câu hỏi đều được Thế Tôn trả lời bằng cách dùng bốn từ vô, bất,
phi, ly phủ định tất cả. Thiền sư Hàm Thị gọi là “ Chỉ thẳng pháp môn Đệ nhất nghĩa rộng lớn vi diệu, lìa nói, bặt chứng”.
Chính là đang nói về thực tướng của sinh, trụ, dị, đoạn, thường v.v…
Thực tướng ấy
cũng chính là tánh thể Chân như nói trong luận Đại thừa Khởi tín. Khi nói đến “như
thật không”,luận Đại thừa Khởi tín ghi
: “ Tự tánh chân như chẳng phải tướng có,
chẳng phải tướng không, chẳng phải tướng chẳng không…”. Có, không, vừa có vừa
không, chẳng có chẳng không là các kiến chấp của người đời đối với vạn pháp ở
thế gian này. Tùy tâm thức của từng người mà người thấy thế giới này là có, người
thấy thế giới này là không, người thấy thế giới này vừa có vừa không, người thấy
thế giới này không có không không v.v…Ngoài cái thấy của phàm phu, còn lại thường
được hình thành từ quá trình thiền định. Tùy chủng tập của từng người mà tướng
cảnh giới hiện ra, rồi hình thành nên các loại kiến chấp này. Như người mù sờ
voi, tùy tay sờ voi mà hình thành nên quan niệm của mình về voi, chưa thấy trọn
được voi, nên các tướng ấy không phải là thực tướng của vạn pháp. Vì thế nói “
Tự tánh Chân như chẳng phải tướng có, chẳng phải tướng không v.v…” Tự tánh Chân
như lìa các tướng ấy, cũng có nghĩa tâm thức của hành giả phải lìa các tướng ấy
mới thấu được tánh Chân như, thực tướng của vạn pháp.
Với Trung luận,
Bồ tát Long Thọ mở đầu bằng bài kệ bốn câu:
Không
sinh cũng không diệt
Không thường cũng không đoạn
Không đến cũng không đi
Không một cũng không khác
Tuy chỉ bốn
câu nhưng tóm kết hết thảy mọi pháp ở thế gian. Cũng là nói về thực tướng của vạn
pháp không rơi vào phân biệt đối đãi.
Sinh là trạng
thái của tâm phàm phu. Diệt là trạng thái của tâm Nhị thừa. Không trụ vào sinh
cũng không trụ vào diệt thì thực tướng của vạn pháp hiển bày, chính là tâm Chân
như nói trong luận Đại thừa Khởi tín,
tướng không nói trong Bát nhã tâm kinh.
Tất cả đều lìa tâm ấy mà có. Đó là nghĩa Trung đạo mà Trung luận muốn hiển bày.
Trong Duy Ma
Cật sở thuyết kinh, phẩm Vào pháp môn không hai, Chư vị Bồ tát tùy sở ngộ của
mình mà trình pháp. Vị thì nói : “Sinh tử,
Niết bàn là hai. Nếu thấy được tánh của sinh tử thời không có sinh tử, không buộc,
không mở, không sinh không diệt, hiểu như thế là vào pháp môn không hai”. Vị
thì nói : “ Sắc và không là hai. Sắc tức là không. Không phải sắc diệt rồi mới
không. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Thức và không là hai. Thức tức
là không. Chẳng phải thức diệt rồi mới không. Tánh thức tự không. Thông hiểu
pháp đó là vào pháp môn không hai” v.v… Và kết thúc bởi sự im lặng khó nghĩ
bàn của Bồ tát Duy Ma Cật. Trung đạo trong trường hợp này chính là vào pháp môn
không hai, mà hiển thị tột cùng của nó là “ Ngôn ngữ đạo đoạn.Tâm hành xứ diệt”
Trung đạo
nói ở mặt phương tiện :
Nói Trung đạo
ở mặt phương tiện là nói những gì thuộc Trung đạo nhưng không ở phương diện thực
tướng.
Chư vị Nhị thừa,
tuy chưa thấu được thực tướng các pháp, nhưng trong quá trình tu hành và thực
chứng, cũng không lìa Trung đạo. Việc này được ngài Xá Lợi Phất xác chứng trong
kinh Pháp Hoa, ở phẩm Thí dụ như sau: “ Các
vị hữu học và vô học đây cũng đều đã tự rời
chấp ngã cùng chấp có, chấp không v.v…”. Hàng Nhị thừa thấy rõ pháp do nhân
duyên sinh, nên không rơi vào chấp có và chấp không của ngoại đạo, không thấy
pháp là có hay là không nữa, nhưng vẫn thấy có lý Nhân duyên chi phối tất cả, vẫn
thấy có sinh tử để ra, Niết bàn để nhập, chưa nhận ra được thực tướng của sinh
tử và Niết bàn, nên Trung luận mới có các bài Phá nhân duyên, Phá pháp, Phá Niết
bàn v.v…
Trong phẩm An
Lạc Hạnh, kinh Pháp Hoa, Phật cũng dạy chư Bồ tát quán tướng như thật không của
tất cả pháp là “ Chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thối, chẳng chuyển, như như
không có thật tánh, chẳng sinh, chẳng xuất, chẳng khởi, chẳng danh, không tướng
v.v…”. Tuy đoạn khinh nói về thực tướng, nhưng là dạy hàng Bồ tát quán tướng
các pháp như vậy, do nhấn mạnh ở mặt quán này mà ở đây liệt vào nghĩa phương tiện.
Cũng có thể tìm thấy nghĩa Trung đạo
như vậy nay trong các kinh thuộc hệ A Hàm.
Trong Tăng nhất
A hàm tập 1 phẩm Hữu vô, Phật dạy : “ Nên
biết có hai kiến chấp này. Thế nào là hai ? Đó là hữu kiến và vô kiến. Các Sa
môn và Bà la môn nào đối với hai kiến chấp ấy, đã học tập, tụng đọc… thì đấy chẳng
phải là Sa môn và Bà la môn… Còn với Sa môn
và Bà la môn nào đối với hai kiến chấp ấy, tuy đã tụng đọc nghĩ nhớ, nhưng biết
xả bỏ thì đó là Sa môn biết giữ hạnh Sa môn, Bà la môn biết giữ hạnh Bà la môn,
tự thân thủ chứng, sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập v.v… Thế nên, này các Tỳ
kheo, đối với hai kiến chấp này, chẳng nên học, chẳng nên đọc tụng, nên lìa bỏ
hẳn. Như thế, này các Tỳ kheo,nên học điều này ”. Đây là lời nói Trung đạo ở
mặt nhận thức đối với vạn pháp ở thế giới này. Phải lìa nhận thức ấy mà tu tập
và tu tập để lìa hẳn các nhận thức ấy. Trong Bát Chánh đạo, nó thuộc Chánh kiến.
Trong Tương
ưng bộ kinh, bài kinh Chuyển pháp luân, Đức Thế Tôn nói với năm Tỳ kheo : “ Này các Tỳ kheo ! Có hai cực đoan mà người
xuất gia không nên thực hành theo. Một là đắm say trong các dục- hạ liệt, đê tiện,
phàm tục- không xứng đáng bậc thánh, không liên hệ đến mục đích. Hai là tự hành khổ mình- đau khổ- không xứng đáng với
bậc thánh, không liên hệ đến mục đích. Này các Tỳ kheo ! Tránh xa hai cực đoan
này, là con đường Trung đạo do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành
trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết bàn, chính là Bát chánh đạo
”. Ở đây Trung đạo được định nghĩa là Bát chánh đạo. Bát chánh đạo là chánh kiến,
chánh tư duy, chánh ngữ v.v… là pháp dùng đối trị với tà kiến, tà tư duy, tà ngữ
v.v… Đây là Trung đạo được nói ở mặt tùy duyên. Tùy duyên của chúng sanh mà lập
pháp đối trị, như thí dụ đã nói về nghĩa “ giữa”
trong phần “ Trung đạo là gì ?” y theo Lục tổ thì chánh và tà “ qua lại làm
nhân cho nhau thành nghĩa Trung đạo”. Cùng tột chánh kiến ấy là “ Người mình
không khác. Sắc và tâm không hai. Bồ đề phiền não bản tánh không khác. Sanh tử
Niết bàn bình đẳng nhất chiếu”.
Trong các
kinh, Trung đạo cũng được đề cập đến với nghĩa trung dung, không thái quá, cũng
không bất cập.
Kinh Tăng nhất
A hàm tập 1, phẩm Địa chủ, có kể câu chuyện: Tôn giả Sona ở nơi chỗ vắng, ngày
đêm tu hành miên mật, không bỏ hai mươi pháp hạnh đầu đà, ngày đêm kinh hành
không lìa lời dạy ba mươi phẩm trợ đạo, có khi đứt chân chảy máu… nhưng tâm vẫn
không thể giải thoát khỏi các dục lậu. Tôn giả thối tâm, muốn trở về đời sống
cư sĩ, chỉ chuyên bố thí tài vật. Thế Tôn từ xa biết được tâm ấy, mới đến hỏi
Sona:
- Xưa, Thầy ở
nhà đàn có giỏi không ?
- Dạ, con đàn
giỏi.
- Nếu dây đàn
căng quá thì tiếng không đều, lúc ấy nghe có hay không ?
Bạch Thế Tôn,
không.
- Vậy dây đàn
chùng, nghe có hay không ?
- Bạch Thế
tôn, không
- Nếu dây đàn
không chùng, không căng thì thế nào
- Bạch Thế
Tôn nếu dây đàn không chùng không căng thì tiếng đàn nghe hay.
Thế tôn bảo :
Cũng vậy ! Người quá tinh tấn thì giống như trạo cử. Người hay giải đãi thì đọa
vào tà kiến. Nếu có thể ở giữa hai điều ấy thì đó là thượng hạnh. Như thế, chẳng
bao lâu sẽ thành bậc vô lậu.
Tôn giả Sona
theo đó mà thực hành. Chẳng bao lâu sau, Tôn giả chứng quả A la Hán. Và được
tuyên dương là Tỳ kheo tinh cần khổ hạnh bậc nhất. Đó là những trích dẫn từ kinh luận, để hiểu về
cái gọi là Trung đạo mang tính phương tiện.
Hệ quả rút
được từ mối tương quan.
Do Trung đạo
và Duyên khởi có mối tương quan mật thiết như vậy, nói đến Trung đạo là nói đến
Duyên khởi, nói đến Duyên khởi là nói đến Trung đạo, nên tánh không nói trong
Phật giáo không phải là tướng không đối với có, cũng không mang tính đoạn diệt,
không ngơ.
Không mà
Duyên khởi :
Không, nhưng
một khi những nghiệp nhân được huân tập trong tạng thức đủ duyên để sinh khởi
thì thân căn cũng như cảnh giới của một chúng hữu tình liền hiện ra. Đại sư Hàm
Thị nói; “ Nếu các thứ hư vọng mà có nhân
để nương thì sự tương tục của căn và thức không thể dừng”. Thành tánh địa
ngục tuy không, nhưng nếu đã tạo nhân địa ngục thì khi đủ duyên, cảnh giới địa
ngục hiện tiền. Địa ngục trở thành có với người tạo nghiệp nhân địa ngục. Thực
tướng cõi trời tuy không, nhưng gieo nhân của quả trời thì khi đủ duyên liền có
thân căn và thế giới trời. Cõi trời trở thành có với người gieo nhân cõi trời.
Hiện như thế nào thì như ngủ mê rồi mộng, tùy tâm thức lúc ngủ mà có cảnh giới
tương ưng. Mộng thì không phải thật. Nhưng khi đang mộng thì mọi thứ không phải
không. Nếu không biết đang mộng thì khổ đau hạnh phúc vẫn tồn tại. Như hiện
nay, nhân sinh đang xuất hiện với thân căn và thế giới của mình. Đều do nghiệp
nhân lưu giữ trong tạng thức biến hiện ra. Nghiệp đồng thì thế giới đồng. Nghiệp
khác thì thế giới khác. Vừa đồng vừa khác thì thế giới đồng, chủng loại đồng mà
tính tình, dung mạo và hoàn cảnh khác. Đó là lý do vì sao nói các pháp là không
mà trên sự, kinh luận vẫn dạy nhân sinh làm lành tránh ác. Tuy không, mà đủ
duyên thì hiện cảnh giới. Tuy có cảnh giới nhưng cảnh giới ấy chỉ do nghiệp tạo
thành, nên muốn thay đổi một cảnh giới, chỉ cần thay đổi các nghiệp nhân sao
cho tương ưng với cảnh giới mới. Không có cái gọi là bất di bất dịch.
Cho nên, nghe
Bát- nhã nói không thì không nên lầm tưởng các pháp là không, không có gì hết,
không thiện, không ác v.v… rồi không gìn giữ giới đức, sống buông lung theo tập
khí bao đời. Đó là chấp không, không phải thấu được tánh Không. Vì không thấu
được tánh Không, nên bỏ qua Duyên khởi của pháp ( được triển khai thành Nhân
duyên, Nhân quả). Chư vị cổ đức nói “ Bác không nhân quả” là vậy. Vì chỉ biết
không, không thấy Duyên khởi, nên thành bác bỏ nhân quả. Nên nhớ, hóa thân Phật
khi vào thế giới Duyên khởi để độ sinh vẫn chịu sự chi phối của Nhân quả. Nên Tổ
Bá Trượng nói với ông lão thân chồn rằng “ Bậc Đại tu hành không lầm nhân quả”.
Thứ hai,
Trung đạo nói ở mặt phương tiện có phần đối trị. Nghĩa là không bệnh thì thôi,
đã có bệnh nhất định phải dùng thuốc, bệnh mới khỏi. Không keo kiết thì không đặt
vấn đề bố thí, còn một khi đã có tâm keo kiết thì phải dùng bố thí để đối trị.
Không có việc “ Đi thẳng vào không, không bố thí, cũng không keo kiệt”. Đương
nhiên ở thế giới tương đối thì không có thứ gì cố định và mang tính phổ quát. Vẫn
có trường hợp đi thẳng vào được. Nhưng số đó không nhiều. Đây đang nói ở mặt đa
phần. Nếu không dùng pháp bố thí thì không biết nương đâu để xác minh là không
keo kiệt. Cái gọi là “ Đi thẳng vào không” có khi chỉ là sự bào chữa cho chủng
keo kiệt mà thôi. Tương tự, tâm không loạn động thì không cần dùng pháp đối trị,
nhưng một khi tâm đã loạn động thì nhất định phải có pháp đối trị. Không niệm
Phật thì trì chú, không trì chú thì dùng phép chỉ-quán v.v…không thể không có
pháp đối trị mà vào thẳng Trung đạo thực tướng được.
Do pháp chỉ mang tính đối trị, tức giá trị của
nó chỉ có trong duyên, không mang tính phổ quát, nên không phải khi nào nó cũng
được áp dụng cho mọi đối tượng, mọi lúc mọi nơi. Đó là lý do giải thích vì sao
giới của Phật tử tại gia là “ không sát sinh”, Trần Nhân Tông vẫn cầm quân đánh
giặc. Chỉ là tùy tâm lực và căn cơ của từng người mà tự lợi và lợi tha sao cho
phù hợp, tránh cái nhìn áp đặt. Đây là nói ở mặt dụng pháp. Đứng trên mặt nhân
quả mà nói, mọi hành tác xảy ra trên thế gian này đều không thoát được Nhân quả.
Nhân một khi đã gieo, đủ duyên sẽ trổ quả. Phật khi thành đạo rồi, vẫn bị quả
báo mã mạch và đau đầu, đều do các nghiệp nhân đã gieo từ trước, giờ đủ duyên
hiện quả. Sát sinh cũng vậy, khi đủ duyên quả vẫn phải nhận, không đủ duyên thì
không nhận, còn đủ duyên để chuyển thì chuyển.
Duyên khởi
mà không.
Trung đạo tuy
có tương quan mật thiết với Duyên khởi như vậy, nhưng không phải khi nào mặt
Duyên khởi này cũng luôn tồn tại. Nếu nó luôn tồn tại thì tướng Duyên khởi ấy
chính là tánh của vạn pháp. Nhưng không, trong phạm vi Trung đạo thực tướng, là
tự thể chân như nói trong luận Đại thừa Khởi tín, tướng Không nói trong Bát-nhã
tâm kinh, Phật tánh trong Đại bát Niết-bàn v.v…thì khi chứng được tánh thể ấy,
tất cả đều phi. Phi thiện, phi ác, phi nhân, phi quả, phi thân tướng, phi chứng
đắc, phi sở biết, phi năng biết. Chứng được tánh thể ấy, nhà thiền gọi là kiến
tánh, là thấy được cái tánh phi thiện, phi ác của mình. Nó là phần Thể đại
trong ba loại Thể đại, Tướng đại và Dụng
đại. Luận nói: “ Tuy rốt ráo không, xưa nay tự không, lìa tất cả tướng” nhưng lại
“ đầy đủ vô lượng tướng công đức”, được hiển thị đầy đủ qua ba thân là Pháp
thân, Báo thân và Hóa thân. Đó là lúc Thể, Tướng, Dụng của chư Phật hiện bày đầy
đủ.
Duyên khởi
nên cái này có thì cái kia có :
Thế giới này
xuất hiện đều theo quy luật Duyên khởi. Duyên khởi nói ở mặt đơn giản nhất là một
cặp nhị biên phân biệt. Xấu tốt, thiện ác v.v… Cho nên, hoặc là không thấy thiện
cũng không thấy ác, tức tâm đặt ở Trung đạo thực tướng. Còn một khi đã thấy có
mặt này thì mặt đối nghịch nhất định tồn tại, chỉ là ít hay nhiều, đã đủ duyên
hiện hay chưa đủ duyên hiện. Không phải hoàn toàn không có. Nếu không có thì mặt
xuất hiện đó sẽ trở thành tánh của pháp. Nhưng tánh của pháp là không, không
rơi vào nhị biên phân biệt, không tìm thấy ở mặt Duyên khởi dù Duyên khởi không
lìa tánh không mà có. Thành với thế giới Sa-bà này, thời Chánh pháp là thời
giáo pháp được ứng dụng rộng rãi, chỗ tâm chứng rộng và sâu, không phải không
có kẻ bất thiện. Đó là lý do dễ hiểu vì sao khi Phật còn tại thế, trong Tăng
đoàn vẫn xuất hiện những vị Tăng không đủ phẩm chất v.v…Tương tự, thời Mạt pháp
là thời giáo pháp của Phật không được ứng dụng rộng rãi, giáo pháp được truyền
đạt ra có khi không y như tinh thần kinh luận đã nói, huống là việc tu chứng rộng
rãi, nhưng điều đó không có nghĩa là không có người tu chứng giáo pháp của Phật.
Chỉ là thời Chánh pháp thì tu chứng nhiều, đọc học ít. Thời Mạt pháp thì đọc học
nhiều, tu chứng ít. Cũng không phải thời Mạt pháp thì không có Chánh pháp,
không có Tăng bảo v.v… Chỉ là nhiều hay ít, ẩn hay hiện, tùy phước duyên của từng
người mà gặp. Mọi thứ ở thế gian đều như thế.
Duyên khởi nên cái này diệt thì cái
kia diệt.
Với các mối
quan hệ trong xã hội như chủ với tớ, thầy và trò, chính quyền và nhân dân v.v…,
nếu muốn chúng hình thành và tồn tại lâu dài thì cần phải thấy được mối liên hệ
nhân duyên giữa chúng, rồi ứng dụng Trung đạo vào các mối quan hệ ấy thì quan hệ
ấy mới tồn tại lâu dài.
Thấy được mối
liên hệ nhân duyên là thấy có chủ mới có tớ, có tớ mới gọi là chủ, có thầy mới
gọi là trò, có trò mới thành thầy, có nhân dân mới có chính quyền, có chính quyền
mới thành nhân dân v.v…Thấy được vậy cũng có nghĩa là thấy được rằng : Không có
thầy thì không có trò, không có trò thì thầy cũng không, không có nhân dân thì
không có chính quyền, không có chính quyền thì nhân dân cũng loạn v.v…Chúng có
một mối liên hệ mật thiết với nhau như vậy. Cái này có thì cái kia có. Cái này
không thì cái kia không.
Ứng dụng
Trung đạo vào các mối quan hệ là ứng dụng Trung đạo vào đời sống thường nhật,
được khai triển ở mặt tùy duyên và trung dung.
Tùy duyên là
duyên thế nào làm cho đúng với duyên ấy. Mỗi người cần làm tốt trách nhiệm và bổn
phận của mình trong vai trò mình đang giữ. Thầy cho ra thầy, trò cho ra trò, chủ
cho ra chủ, tớ cho ra tớ v.v…Nếu không làm đúng vai trò của mình thì thầy không
còn là thầy. Thầy mất thì trò cũng mất. Trò mất thì thầy cũng tiêu. Cho nên, muốn
cho những mối quan hệ trong xã hội này trở thành tốt đẹp thì mỗi người trong mối
quan hệ đó phải tự làm đúng vai trò của mình. Không làm tròn trách nhiệm và bổn
phận của mỗi người thì mối quan hệ ấy khó mà tồn tại lâu dài và tốt đẹp. Đó là
một trong các ý nghĩa “ Pháp trụ pháp vị, tướng thế gian thường trụ ”.
Trung dung là
không đi quá giới hạn cho phép, không thiên lệch về bên nào. Như chính quyền và
nhân dân, nếu quyền lợi được thâu tóm toàn bộ vào chính quyền, nhân dân cơ cực
khổ não thì chính quyền khó mà tồn tại lâu dài. Thành cần phải có một sự trung
dung trong quyền lợi và nghĩa vụ giữa chính quyền và nhân dân, mới mong cũng cố
mối quan hệ ấy. Các bậc trị nước xưa, điển hình là thời các vua Trần, đất nước
phồn vinh, nhân dân đồng lòng, là do ứng dụng được lý Trung đạo vào việc trị nước
an dân. Vì trung dung nên mọi thứ đều phải đứng ở mức độ hợp lý. Nếu quyền lợi
nghiêng hẳn về phía chính quyền thì mối quan hệ đó không thể còn. Nếu quyền lợi
nghiêng về phía nhân dân, cũng chẳng ai còn tham gia bộ máy chính quyền. Chính
quyền không thì nhân dân cũng khó tồn tại yên bình. Cho nên, mọi thứ cần trung
dung.
Song không phải
ai cũng có thể thông được lý Trung đạo và Duyên khởi để ứng dụng cho bản thân,
gia đình và xã hội mà mang rao giảng cùng khắp. Chỉ có thể triển khai ở mặt
giáo dục và pháp luật. Đây cũng là mặt tùy duyên của pháp.
Giáo dục
không chỉ chú trọng dạy các em kỹ năng, kiến thức và chuyên môn, mà cần đẩy mạnh
vấn đề đạo đức nhân quả ngay từ khi các em còn nhỏ. Nói đến nhân quả, không một
tôn giáo nào không đề cập đến nó. Ở hiền gặp lành, ăn khế trả vàng v.v…đều là
những mẫu chuyện dạy các em cách sống thiện mang tính nhân quả. Đây là phần
giáo giúp con người tự dừng bớt tham, sân, si trong chính mình, là phần giáo rất
quan trọng. Bởi tham sân không được chuyển hóa ngay từ nhỏ thì khi đủ duyên,
không ai còn nhớ đến pháp luật mà dừng tay, mọi thứ cứ theo tập khí tham sân si
mà đi.
Pháp luật là
phương tiện giúp ổn định xã hội, góp phần giúp con người dừng bớt tham, sân
v.v…nên pháp luật muốn ứng dụng khả thi thì pháp luật ấy phải được đặt nền tảng
trên lý tùy duyên và trung dung. Tùy duyên là tùy tội, tùy người, tùy trường hợp
mà có bản án thích ứng. Nếu bản án không tương xứng với tội danh thì khó mà
ngăn trừ tội phạm, khó mà không đánh mất lòng dân. Vấn đề xử nặng hay nhẹ cần
phải được xét ở nhiều mặt, làm hại nhiều người hay ít người, cố ý hay bắt buộc,
lần đầu hay tái phạm v.v… Cố ý và tái phạm đương nhiên phải xử nặng hơn do bắt
buộc và lần đầu. Nếu mang tính cách lan rộng, ảnh hưởng đến nhiều người thì cần
phải xử nặng hơn là làm ảnh hưởng đến ít người. Như vừa rồi đây, có một đề nghị
tử hình với các quan tham. Nghe giết người mà ủng hộ là không nên, nhưng xét về
mặt lợi ích cho xã hội và cho chính bản thân quan tham, thì bản án đó là nên. Bởi
mọi bất ổn trong xã hội hiện nay hầu như đều có bàn tay của tham nhũng trong
đó. Nếu không tham nhũng thì ngân sách không thâm hụt, chi phí trợ cấp cho người
nghèo, người bệnh tốt hơn. Nếu không tham nhũng thì cờ bạc, số đề, cá độ cũng
không thể tồn tại mà nảy sinh những thành phần bất hảo. Nếu không tham nhũng
thì thực phẩm bẩn, hàng gian, hàng giả sẽ được phanh phui tận gốc v.v… Nghĩa là
tham những mà ngừa được thì mọi thứ khác có thể ngăn ngừa được. Cái này diệt
thì cái kia diệt khi chúng có mối liên quan mật thiết với nhau. Muốn ngừa được
thì giáo dục vẫn là phần quan trọng chính, nhưng pháp luật cũng phải mang tính
răn đe mạnh. Tử hình rồi thì không còn điều kiện chạy chọt, hạ án v.v…để vẫn
tính đường tham nhũng. Cho nên, pháp soạn ra cần tương ứng với duyên của nó. Nếu
không tương ưng khó mà an định được xã hội. Song pháp soạn đúng rồi, bộ phận
quan tòa đòi hỏi phải có kỹ năng chuyên môn và liêm chính ở mức tối thiểu. Không
thì dù luật có đúng cũng chẳng thể xử cho hợp lý.
Phước phần hiện
nay của người dân, là đất nước đang có sự thay đổi lớn. Song thay đổi được bao
nhiêu còn tùy thuộc vào phước phần của dân chúng không hoàn toàn nằm ở chính
quyền. Duyên khởi là vậy. Đó cũng là một trong các lý do vì sao vua Trần Nhân
Tông đi khắp nơi dạy dân chúng tu thập thiện. Cho nên, bản thân mỗi người dân cần
phải trang bị cho mình những đạo đức tối thiểu, thì việc cải tổ hiện nay mới
thành công trọn vẹn. Việc này cho thấy vai trò không nhỏ của Tăng bảo trong
tình hình hiện nay. Vì chư vị dạy người nghĩ thiện và sống thiện, mở rộng lòng
từ đối với muôn loài. Phật tử thì tùy duyên, tùy hoàn cảnh của mình mà giúp
Chánh pháp lan tỏa. Không cần nói đến phần giải thoát cao siêu, chỉ cần 5 giới cho
tốt, chỉ cần đặt mình vào hoàn cảnh của người để thông cảm và giúp đỡ v.v…thì
xã hội sẽ an bình, cảnh giới mình gặp sẽ luôn tốt đẹp. Tâm người dân nếu thiện
thì nhất định phải gặp một chính quyền đáp ứng được những mong muốn của mình.
Tâm người dân bất thiện thì khó mà gặp được một chính quyền như ý. Duyên khởi
là vậy. Nên toàn bộ kinh luận đều tập trung dạy người hành thiện.
Kết luận
.
Câu nói “ Biển
lớn chỉ có một vị mặn. Cũng vậy, pháp và luật của ta cũng chỉ có một vị là giải
thoát” đi kèm với hình ảnh Tăng chúng sống an trú trong tĩnh lặng, khiến đa phần
đều nghĩ Phật pháp tách lìa đời sống thường nhật và đưa con người xa lìa cuộc sống
này. Với cái nhìn Trung đạo Duyên khởi, ta sẽ thấy không phải như vậy. Mọi thứ
đều tùy duyên. Những gì Phật thuyết trong 49 năm hành đạo đã nói lên điều đó.
Không phải chỉ dạy nhân sinh con đường xuất thế mà Phật còn dạy nhân cách tìm
thấy hạnh phúc ở thế gian này. Tùy tâm thức ưa muốn của chúng sanh mà Phật có
pháp và luật đáp ứng mong muốn đó. Con đường xuất thế tuy được Như Lai coi trọng,
nhưng lý do chính cũng chỉ là muốn giúp nhân sinh thoát khổ. Bởi con đường xuất
thế mới có thể giúp nhân sinh thoát khổ rốt ráo, cũng giúp nhân sinh có cái
nhìn đúng đắn đối với thế giới này, không phải nhìn thế giới và con người qua
lăng kính của chính mình như hiện nay. Một lăng kính mà vì nó, đã xảy ra bao
nhiêu tai ương, hoạn nạn, khổ đau ở thế giới này.
Cái gọi là “
một vị giải thoát” đó, là giải thoát tham, sân, si. Điều đó không chỉ cần thiết
trong đời sống của người muốn xuất thế mà cả với người đi tìm hạnh phúc ở thế
gian. Không phải mọi tệ nạn hiện nay đang xảy ra trong xã hội đều do tham, sân,
si ? Do si mà không thấy được luật Nhân quả đang chi phối thế giới này, nên
tham dục xảy ra không ngừng, sân hận phát triển tối đa. Tham nhũng, thực phẩm bẩn,
hàng gian, thuốc giả v.v… đều bắt nguồn từ lòng tham và sự si muội của con người.
Cũng do tham, sân, si mà con người lao vào tà hạnh, rượu chè, cờ bạc v.v… rồi
sanh ra cướp giật, giết hại lẫn nhau. Quan không ra quan, dân không ra dân,
Tăng không ra Tăng, tục không ra tục…đều bắt nguồn từ tham, sân, si. Cho nên “
Pháp và luật của ta chỉ có một vị là giải thoát” không phải chỉ dành cho hàng
xuất thế mà hạnh phúc thế gian cũng cần đến nó.Cái gọi là thanh liêm, tiết kiệm,
chí công vô tư, vì người v.v… chính là hình thức giúp dân chừa bỏ tham, sân,
si. Tùy mức độ chừa bỏ tham, sân, si mà được an vui ít hay nhiều, xã hội theo
đó mà an bình nhiều hay ít. Mọi thứ đều tùy vào sự lựa chọn của mỗi người. Phật
chỉ là người dẫn đường.
Nói chung
giáo pháp của Phật, nhất là phần thâm sau, không chỉ đòi hỏi hành giả phải trừ
bỏ tham sân mà cần thời gian chuyên tâm cho việc tịnh tâm mới trực nhận được,
nên việc từ bỏ các tạo tác bận rộn ở đời là điều bắt buộc. Đó là lý do tại sao
chúng ta thấy có một bộ phận gần như không tham gia sinh hoạt với đời hoặc tham
gia rất ít. Song dù dưới hình thức nào thì việc lợi ích nhân sinh luôn được đặt
lên hàng đầu với người Phật tử chân chính.
Trích : Tương quan giữa Trung đạo và Duyên
khởi. của Chân Hiền Tâm. NSGN số 267- tháng 6- 2018.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét