HAI HẠNG BỒ TÁT
Trong kinh Phật
giáo Đại thừa mới có Bồ tát xuất hiện. Còn Phật giáo Nguyên thủy chỉ nói đến hạnh
nguyện Bồ tát của Phật Thích Ca và nhắc đến ba Đức Phật quá khứ, Phật Câu Lưu
Tôn, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni và Phật Ca Diếp. Như vậy, Phật giáo Nguyên thủy rất
giới hạn về sự hiện hữu của Phật và Bồ tát nhiều hơn là Thanh văn.
Vào kiếp quá khứ, gọi là Quá khứ Trang nghiêm kiếp, theo kinh Đại thừa
có bảy đức Phật, thay vì ba vị Phật. Đại thừa nói bảy vị : Tỳ Bà Thi, Thi Khí,
Tỳ Xá Phù, Câu Lưu Tôn, Câu Na Hàm Mâu Ni, Ca Diếp và Phật Thích Ca là gạch nối
giữa Phật quá khứ và Phật vị lai. Hơn nữa, ngoài bảy đức Phật nói trên, kinh A
Di Đà còn nói có hằng hà sa số Phật trong kiếp quá khứ và hiện tại cùng có nhiều
vị Phật trong mười phương …
Những người phát tâm Bồ đề, hành Bồ tát hạnh,
theo kinh Pháp hoa đều sẽ thành Phật, vì vậy trong đời vị lai, có rất nhiều vị
Phật không thể tưởng được, như chúng ta hành Bồ Tát đạo thì đều thành Phật, người
thành Phật trước, người thành Phật sau. Điều này cho thấy trong kinh Đại thừa mở
rộng sự hiện hữu của Phật như thế.
Kinh Đại thừa giới thiệu Bồ Tát phát nguyện
hành Bồ Tát đạo sẽ thành Phật, nhưng trong kinh Pháp hoa Đức Phật Thích Ca khẳng
định, Ngài đã thành Phật từ vô lượng kiếp và Ngài thương nhân gian mà sanh lại
nhân gian này để cứu độ chúng sanh. Vì vậy, theo kinh Pháp hoa có hai loại Bồ
Tát, từ nhân hướng quả như chúng ta tu Bồ Tát đạo thành tựu viên mãn sẽ thành
Phật. Ngoài ra còn có Bồ Tát từ quả hướng nhân sanh lại nhân gian để làm thiện
tri thức hỗ trợ chúng sanh tu hành.
Bồ Tát từ quả hướng nhân là Bồ Tát đã
thành tựu Phật quả rồi trở lại thị hiện làm Bồ Tát để trợ lý cho Phật độ chúng
sanh. Như tiền thân của Văn Thù Sư Lợi là Phật Nhiên Đăng, thọ ký cho Phật
Thích Ca thành Phật. Khi Phật Thích Ca thành Phật, Văn Thù thị hiện thân phận Bồ
Tát trợ lý cho Phật Thích Ca. Quan Thế Âm Bồ Tát là một cổ Phật hiệu là Chánh
Pháp Minh Như Lai, hiện thân Bồ Tát trợ lý cho Phật Di Đà và Phật Thích Ca để độ
chúng sanh.
Còn Bồ Tát từ nhân hướng quả là những vị Bồ
Tát chưa thành Phật, đang thực hành hạnh Bồ Tát, đến lúc công viên quả mãn mới
thành Phật. Bồ Tát Địa Tạng cũng là một vị cổ Phật đã thành Phật rồi, lại phát
nguyện làm Bồ Tát, nguyện vào nơi đau khổ nhất để độ chúng sanh. Do hạnh nguyện
như vậy mà thành danh hiệu là Địa Tạng. Địa là đất, Tạng là kho, tức là tâm của
Ngài như đất. Đất có năng lực cải hóa tất cả những thứ gì đỗ lên đất. Đồ dơ bẩn
đổ lên đất, một thời gian sau, những thứ dơ bẩn ấy đều biến mất và chuyển thành
chất màu mỡ trong đất. Bồ Tát Địa Tạng cũng vậy, chúng sanh đổ oan đổ xấu ác
lên Ngài, chẳng những không làm ô nhiễm được Ngài mà Ngài còn hóa giải được tâm
ô trược của chúng sanh trỏ thành thanh tịnh.
Vì vậy tu học theo hạnh Bồ Tát tức là
chúng ta lập hạnh Bồ Tát, khi bị người đem việc xấu ác đỗ lên ta, ta thấy chướng
tai gai mắt, khó chịu buồn phiền. Nhưng chúng ta niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng,
Ngài sẽ hóa giải phiền não này, nên tâm chúng ta được hóa giải theo. Lúc đầu
chúng ta tức giận lắm, nhưng nhờ niệm danh hiệu Bồ Tát tâm giận bớt dần và cuối
cùng thương được người đỗ xấu ác lên ta. Nghĩa là ta được Bồ Tát Địa Tạng cứu thoát khỏi địa ngục khổ đau.
Ngài Địa Tạng thường dạo xem trong địa
ngục, để xem ai cứu được thì Ngài cứu. Một hôm Ngài đến uổng tử thành, là nơi chỉ nhót toàn những người chết
trẻ, chết dưới 30 tuổi. Ngài thấy trong thành này trẻ con đông quá, đứa nào
cũng kêu Ngài cứu, Ngài liền bước vào thành và hỏi, các cháu ở trong này hãy nhớ
lại xem trong đời mình, từ khi sanh ra cho đến lúc bị xe cán chết, bị té xuống
sông chết, đánh lộn bị chết v.v.. có làm được việc thiện nào không ? hay toàn
là phá làng phá xóm ?
Trong đó có một
đứa bé hỏi Ngài Địa Tạng rằng : Thưa Bồ
Tát, con có làm được một việc thiện thôi, thì có tính được không ạ ? Con suốt đời
làm ác, nhưng chỉ có một lần, con thấy con nhện rơi xuống nước, con vớt nó lên
trên cành cây. Bồ Tát nói đó là việc thiện, nhớ trưa mai con nhện sẽ đến cứu
con. Chú bé này chờ đến giờ ngọ, có một con nhện đang thả sợ tơ xuống, bảo chú
nắm sợi dây tơ để nó kéo lên. Chú bé nắm sợ dây tơ vừa lên đến miệng thành, thì
quay đầu ngó lại, nhìn thấy đằng sau chú có một đám đông đeo theo sợi dây. Chú
nổi giận la lên rằng: Tao cứu nó, thì nó đến cứu tao, còn tụi bay không cứu nó
mà đeo theo làm chi, và chú co chân đạp mạnh họ, thế là cả chú và tất cả đều
rơi xuống lại uổng tử thành./.
Trích bài HT Trí Quảng
Báo Giác Ngộ- số : 270- 9/ 2018
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét