ĐÔI LỜI CHIA SẺ VỀ THIỀN
Thiền là Pháp môn tu không thể thiếu khi nói đến đạo Phật, nói đến
đạo Phật là người ta liên tưởng đến Thiền, vì Đức Phật Thích Ca thành Phật chứng
đạo từ tu Thiền mà nên. Tu thiền đã có
trước thời đức Phật xuất hiện ở đời, ban đầu Phật đi tu đều tu với các bậc thầy
tu thiền. Đức Phật thọ giáo tu thiền với các bậc đạo sĩ, ngài đã đạt được những
cấp bậc của thiền, được các bậc đạo sư xác nhận là thiền sinh xuất sắc ngang
hàng với các bậc thầy tổ. Nhưng đức Phật không hài lòng với các lối tu thiền và
chứng đạt thiền nầy. Vì vậy đức Phật mới rời bỏ các bậc thầy mình để đi tu
riêng một mình, tự mình tu thiền tìm ra con đường khác. Vì đức Phật nhận thấy
con đường tu thiền của các bậc thầy này không rốt ráo, không chấm dứt được sự
khổ đau cho chính mình, và cũng không cứu giúp cho chúng sanh ra khỏi con đường
khổ đau sanh tử.
Vì thế Đức Phật tự tu, tự chứng tìm ra con đường khác, và đức Phật
sau 49 ngày đêm thiền quán các pháp đều do duyên sanh, và đức Phật đã giác ngộ
được tự tánh của mình qua phương pháp “quán duyên sanh” từ đó. Mọi sự mọi vật
trên đời này đều do duyên sanh, duyên sanh nên không thật. Không thật thì tự
tánh nó rỗng không. Tánh rỗng không, gọi là Tánh Không, Tánh không là Phật
tánh, là tự tánh ai cũng sẵn có. Nên Phật mới nói “ lạ thay tất cả chúng sanh
ai cũng đều có tự tánh nầy, Ta là Phật đã thành chúng sanh là Phật sẽ thành”
Từ đó Đức Phật là người đầu tiên khám phá ra “ Tự Tánh” sẵn có nơi
mọi người, mọi người có sẵn Tự tánh thì có khả năng thành Phật, ví như mọi người
có sẵn bột ai cũng có khả năng làm nên bánh là vậy. Và từ đó Phật đã khai thị
cho mọi người tu tập chứng đạt được Tự tánh của mình. Trong kinh chúng ta nghe
có nhiều vị đã chứng được sơ quả hay nhị quả v.v.. là chứng được Tự tánh của
mình, chứng Tự tánh hay thấy Tánh ý nghĩa như nhau. Thấy tánh không phải có cái
Tánh để thấy, mà nhận thấy Tánh rỗng không của mọi pháp, tánh rỗng không, không
sanh không diệt, không sạch không nhơ v.v nó hằng hữu trong mọi thời gian không
gian.
Hành giả tu tập thiền đạt
đến trạng thái rỗng không này, tâm không khởi vọng tưởng, nó ở trạng thái thanh
tịnh, lúc đó tâm an lạc vô biên, một sự an lạc không có một sự an lạc nào so
sánh bằng trạng thái an lạc của sự thực tập thiền đạt được sơ thiền hay nhị thiền.
Người ta ví trạng thái an lạc của tâm của cấp sơ thiền nó hạnh phúc an lạc gấp
16 lần so với sự hưởng thọ dục lạc của người nam và người nữ; đến cấp nhị thiền
nó an lạc gấp đôi thành 32 lần. Nhưng có điều bất cập và nguy hiểm cho khi tâm ở
trạng thái này, vì quá an lạc nên không muốn thoát ra khỏi cái trạng thái nầy, ở
mãi trong đó không thoát ra được, đam mê trong trạng thái đó, không thoát ra,
không tiến lên được. Người ta gọi là “ nước chết” của thiền là vậy. Người mà đạt
trạng thái an lạc do thiền tập đem lại, họ không còn mơ tưởng, vợ, hay chồng,
con, của cải vật chất, danh vọng địa vị gì cả. Trên đời ta thường thấy nhiều
nhân vật có tài sản, có gia đình, có danh vọng mà từ bỏ đi tu là những vị này đạt
được trạng thái thanh tịnh của thiền nên đối với họ mọi sự hạnh phúc của trần
gian đối với họ không là gì cả, nhỏ nhoi và không thanh tịnh là vậy. Nhưng nếu
đắm chìm trong trạng thái an lạc đó thì lại càng nguy hiểm nữa.
Vì thế tu thiền rất khó, không lạc vào thiền của ngoại đạo, thiền phàm
phu, thì cũng “ chết” trong trạng thái thiền thanh tịnh . Thiền mà đạt được tự
tánh chân thật của mình, thì thấy rõ bản chất thật của tâm và cảnh thì không bị
nhốt trong “nước chết”. Vì thế tu thiền phải chọn lựa một vị thầy thấu tõ được
con đường thiền thì nên theo mà tu tập, bèn không phải chọn pháp tu khác.
Nếu tu tập đạt được tự tánh thì cơ may không bị sai lạc, nhưng tu để
đạt được tự tánh cũng không đơn giản, vì hằng ngày chúng ta luôn sống với tâm vọng
tưởng, điên đảo làm sự sống, vì thế để nhận ra tự tánh sẵn có của mình là việc
rất khó.
Nếu tu thiền ngộ được tự tánh, làm chủ được sự sống chết, vui buồn
thì không lo sợ lạc vào “ nước chết” bằng không thì việc tu chỉ đem lại sự hạnh
phúc trong một đời còn việc ra khỏi sanh tử thì chưa bảo đảm lắm. Vì thế các bậc
thiền sư Trung Hoa phần lớn tu thiền còn kiêm Tịnh độ, vì hướng về Tịnh độ có sự
bảo trì của Phật Di đà, nên hành giả tu không lo sợ bị sai đường lạc hướng. Do
sự bảo hộ của Phật Di Đà nên mọi hành giả tu dù còn nghiệp báo hay đã hết nghiệp
báo, còn phiền não hay hết phiền não, ai cũng có dự phần sanh về cõi Tịnh, tiếp
tục tu cho đến thành chánh giác không còn thối đoạ.
Nếu hành giả nào muốn
chắc chắn không đứng lại con đường sanh tử, thì nên Thiền Tịnh song tu thì an
toàn hơn. Vì sống trong thời mạt pháp này Thiền Tịnh song tu là phương pháp duy
nhất dễ tu dễ thành nhất, ai ai cũng có thể thực hiện được.
Chúng ta nên biết, Phật
có đủ trí tuệ quán xét, mọi sự mọi vật, chánh tà một cách rõ ràng phân minh,
còn chúng ta chưa có đủ trí tuệ như Phật, nên tu thiền để đạt được giải thoát
sanh tử, ra khỏi đường mê làm chủ được sanh tử, ngàn người có được hai ba. Vì
thế tu Tịnh dễ hơn tu thiền làvậy ./.
{
LÀM SAO CHẤM DỨT KHỔ ĐAU VÀ TẠI SAO CÓ KHỔ ĐAU
Chúng
ta thường nói rằng học Phật để giải thoát.
Nhưng giải thoát khỏi cái gì ? Ai cũng biết giải thoát khổ đau, vì ai
cũng đang và vẫn đã tiếp tục trải nghiệm khổ đau. Tại sao có khổ đau ? Chúng ta
có thể trả lời là do vô thường, có sống chết, được mất … Nhưng các bậc Thánh và
Đức Phật các Ngài cũng sống trong vô thường, cũng chịu định luật của tự nhiên vật
lý là sinh, lão, bệnh, tử, trong cái thời gian bị tiêu hoại chính nó và không
gian giới hạn, chia cắt, các bậc Thánh vẫn kinh nghiệm không có thời gian (vĩnh
cửu) không có không gian ( vô tận). Nghĩa là có kinh nghiệm giải thoát, Niết
bàn ? Khổ đau, sanh diệt, sanh tử không
phải là một thực tại khách quan. Cùng một thực tại mà bậc Thánh tâm thanh tịnh
thì chứng nghiệm Niết bàn, và chúng sanh, chúng ta với tâm không thanh tịnh thì
chứng nghiệm khổ đau, sanh tử. Sự khác biệt trong kinh nghiệm tuỳ nơi tâm thức
mỗi người “Tuỳ kỳ tâm tịnh, tức Phật độ tịnh”
(tuỳ tâm thức thanh tịnh mà sống được cõi Phật thanh tịnh). ( Kinh Duy Ma Cật). Khổ đau, sanh tử, do tâm thức sanh ra, do tâm
bị ô nhiễm, như kinh nói, do mắt nhặm (bịnh) mà thấy tóc rủ trước mặt, thấy ra
mặt trăng thứ hai, do đi trên đò nên thấy bờ chạy. Cho nên giải thoát là giải
thoát cái tâm thức ô nhiễm đó. Tất cả mọi
thực hành của Phật giáo đều để làm cho tâm thức được thanh tịnh, được tịnh hoá,
để cho những ô nhiễm phiền não, những che chướng ( phiền não chướng và sở tri
chướng) bị loại bỏ khỏi Như Lai tạng, để Phật tánh hiển lộ hoàn toàn. Bởi thế,
sự hiểu biết cái tâm thức nhiễm ô này, cái tác nhân tập khổ đau là rất quan trọng
trong đạo Phật.
Giải thoát khỏi tâm thức nhiễm ô, hay tịnh
hoá tâm thức nhiễm ô nghĩa là giải thoát khỏi tư tưởng. Bởi vì toàn bộ tâm thức
do tư tưởng hợp thành, những dấu vết thói quen nhiễm ô nằm trong A lại da thức
hay thức căn bản cũng là những dấu vết của tư tưởng, không có tư tưởng thì
không có cái mà chúng ta gọi là tâm thức. Tư tưởng- tức ý thức- là cái chúng ta
có thể dễ dàng “ làm việc” với nó trong toàn bộ tám thức- năm thức giác quan, ý
thức, mạt na thức và a lại da thức – đó cũng là quan điểm của phái Duy Thức.
Nhưng tại sao lại phải giải thoát khỏi tư tưởng, ý nghĩ ? Trong hiện trạng của
chúng ta, tư tưởng lấn át toàn bộ tâm thức và chúng ta hoàn toàn lệ thuộc, làm
nô lệ cho nó, trong khi bản chất của nó thì hữu hạn, sanh diệt liên tục và tạo
ra những điều sau đây khiến chúng ta càng lúc càng lún sâu vào vòng hữu hạn,
nghĩa là vòng sanh tử:
- Tư tưởng tạo ra một cái tôi giả tạo,
chính cái tôi vô minh này là đầu mối cho sanh tử luân hồi.
- Tư tưởng tạo ra nghiệp, là động cơ, sức
mạnh của sanh tử luân hồi.
- Tư tưởng tạo ra những giới hạn giả tạo
là chủ thể- đối tượng, khi đã có chủ thể và đối tượng, tức thì khoảng cách giữa
chúng và thời gian, không gian cũng được tạo ra. Tư tưởng là giới hạn, nếu ta
luôn luôn sống trong tư tưởng thì chúng ta luôn luôn bị giới hạn.
Tư
tưởng chấp sự vật có hiện hữu độc lập, tự thân, nói theo ngôn ngữ Phật giáo là
chấp có tự tánh, chấp thực trong khi thực tế thì tất cả đều duyên sanh tương
thuộc, biến dịch trong từng sát na, không có tự tánh, vô tự tánh, hay đều là
tánh Không. Vì sự chấp thực đó mà tư tưởng
cứ liên hồi khởi lên để diệt mất, liên hồi nắm bắt để tạo thành một dòng tư tưởng
tương tục không dễ gì cắt đứt.
Giải
thoát khỏi tư tưởng tức là giải thoát khỏi toàn bộ những gì hữu hạn, khỏi cái
không gian và thời gian hạn hẹp của cá thể. Tư tưởng nghĩ đến cái ở đây của
mình và liên tưởng đến cái ở kia, nó tạo ra khoảng cách đây-kia, tức là không
gian riêng của nó. Nó tạo ra thời gian của riêng nó khi tự cho là đang đứng ở
cái hiện thời, nghĩ đến cái đã qua để tạo thành quá khứ, nghĩ đến cái chưa đến
và tạo thành tương lai; càng nghĩ nhiều thì thời gian càng xuất hiện nhiều,
càng có thực. Sự tương tục của tư tưởng đã tạo ra sự tương tục của thời gian.
Và khi tư tưởng chìm lặng, thời gian biến mất, không có tương lai và quá khứ,
lúc ấy hiện tại là cái rỗng rang vô hạn, lúc ấy chỉ có cái không có thời gian,
cái hiền tiền vượt ra ngoài tư tưởng.
Tư
tưởng cứ nối tiếp nhau để tạo nên dòng tương tục của tâm thức tạo nên sanh tử.
Như thế làm sao để cắt đứt dòng tư tương tục này, làm sao để thấy thật tánh của
tư tưởng là thế nào, hay nói như kinh Tứ Thập Nhị Chương, làm sao “ rõ tâm, đạt
đến nguồn gốc để được gọi là Sa môn”?
Theo Đại toàn thiện (Dzoychen) của Tây Tạng, cái thật tánh của tâm thức,
cái không có thời gian, không có không gian ấy nằm trong khoảng không giữa hai
tư tưởng, khoảng hở giữa hai tư tưởng là cánh cửa mở vào nguồn gốc của tâm thức.
Lục Tổ Huệ năng cũng nói như vậy : “Niệm
trước chẳng sanh tức Tâm, niệm sau chẳng diệt tức Phật” ( Pháp bảo Đàn kinh). Nói cho dễ hiểu là Tâm
hay Phật là cái thực tại chẳng sanh chẳng diệt nằm giữa niệm trước và niệm sau.
Đó là phương pháp thiền của Phật giáo.
Thiền
định của Phật giáo là con đường để giải thoát khỏi tư tưởng trói buộc. Vượt lên
khỏi những tư tưởng như những đám mây ngổn ngang che lấp bầu trời vô hạn, chúng
ta tiếp cận với không gian vô cùng của tâm thức, tiếp cận với “ bổn lai diện mục”
của chúng ta. Khi đó, nói theo Kinh Lăng Già, chúng ta vượt khỏi tâm, ý, ý thức
để là một với thực tại. Thiền sư Vô Ngôn Thông nói ; “ Đất tâm nếu không, thì mặt
trời tuệ tự nhiên chiếu sáng” ( Tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu).
Tóm
lại, mục đích của sự tu tập là để giải thoát khổ đau, Khổ đau tạo ra do tâm thức nhiễm ô tạo nên
cái giả ngã. Từ giả ngã sanh ra chấp thủ có thời gian, không gian, có người có
ta v..v tạo nên nghiệp. Nghiệp là động lực lưu chuyển và duy trì tư tưởng khiến
cho tâm thức mê mờ không nhận chân được thực tại. Như mây mù che khuất không thấy
được mặt trời và bầu không gian vô tận.
Vậy sự tu tập để có giải thoát ra khỏi khổ đau là cách chấm dứt dòng tư
tưởng của tâm thức. Vì thế các phương thức tu tập của Phật giáo đều cùng một mục
đích là cắt dứt dòng tư tưởng nhiễm ô trả lại tâm thanh tịnh. Khi tâm trở về gốc
tịnh rồi mọi khổ đau đều chấm dứt, lúc đó tự tánh sẽ hiện bày. Giống như mặt trời
xuất hiện, mây tan bóng tối không còn. Tự
do tự tại sẽ hiện tiền không tìm cầu mà có./.
{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét