BIỂU TƯỢNG HOA SEN TRONG KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO
Hoa
sen là loại thực vật thuộc túc căn thảo
( nẩy mầm từ củ năm trước). Chỉ mọc ở đầm lầy nước đọng, hoặc ao hồ, toả hương thơm nhẹ nhàng, hoa thường nở vào mùa hạ, màu sắc rất
đẹp đẽ tao nhã. Dù sinh ra và lớn lên trong bùn nhơ nước đọng nhưng hoa cực kỳ
thanh khiết. Từ thời xưa người Ấn Độ rất quý loại hoa này.
Đặc
tính của hoa sen trong kinh điển :
Hoa sen có bốn đặc tính :
Thơm dịu, tinh khiết, mềm mại, đẹp đẽ . Được dùng để ví với bốn đức tính : Thường,
Lạc, Ngã, Tịnh, của Pháp giới Chơn như.
Trong
Mật giáo, hoa sen được dụ cho trái tim ( nhục đoàn tâm) của con người, để biểu
thị ý nghĩa chúng sanh vốn có tâm trong sạch như hoa sen, tức là tịnh Bồ đề
tâm. ( Kinh Trung A Hàm quyển 23).
Tại Ấn Độ có nhiều loại hoa
sen, nhưng trong kinh điển Phật giáo thường đề cập đến năm loại. Hoa sen trắng âm dịch Phân Đà Lợi Ca- Bạch
liên. Hoa sen xanh âm dịch là Ưu Bát La- Thanh liên. Hoa sen hồng âm dịch Bát Đầu
Ma- Hồng liên; Hoa sen vàng âm dịch Câu Vật Dầu – Hoàng liên và loại hoa sen
xanh khác.
Một trong những kinh điển
tiêu biểu của Đại thừa nói về hoa sen là Diệu Pháp Liên Hoa, vi diệu Pháp của Phật
như hoa sen trắng lớn. Thế giới của kinh
Pháp Hoa là Liên Hoa Tạng Thế Giới hay còn gọi là Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế
Giới Hải. Cổ Côn Pháp Sư nhà Thanh có câu thơ rằng : “ Nhất thanh Phật hiệu vi
vi tụng, thất bảo Liên Hoa đại đại khai”
( một tiếng niệm Phật thầm thì tụng,
hoa sen bảy báu dần dà nở ).
Theo Luận Đại Trí Độ quyển
8, sở dĩ hình tượng Phật, và Bồ Tát không ngồi trên giường, trên ghế mà ngồi
trên hoa sen vì những lý do sau đây :
-
Vì giường, ghế là chỗ ngồi của người thế tục .
2- Phật và Bồ tát muốn thị hiện
thần lực, ngồi trên hoa sen mềm mại thơm sạch mà không tổn hại đến hoa. 3- Vì trang nghiêm toà diệu
Pháp. 4- Các hoa khác đều nhỏ, riêng hoa
sen to lớn, có hương thơm tinh khiết.
Kinh Niết bàn, nói Đức Phật
là “ Đấng trượng phu trong loài người, là hoa sen trong loài người, là hoa Phân
đà lợi”. Phân đà lợi là tiếng Phạn Hán dịch là Bạch liên hoa. Hoa sen trắng
trong loài người. Vì hoa sen trắng tinh khiết không chút bợn nhơ, quý hiếm nên
được dùng làm đức hiệu của Phật.
Căn cứ theo kinh Trừ cái chướng Bồ tát sở vấn quyển 9,
hoa sen sinh ra từ bùn nhơ, nhưng không nhiễm mùi bùn mà lại có hương thơm vi
diệu lan toả, làm cho người nhìn thấy sinh tâm vui mừng,
nên dùng để ví dụ cho mười thiện pháp tu hành của Bồ tát. Đó là :
1/ Lìa tất cả ô nhiễm : Bồ tát tu hành, thường
dùng trí tuệ quan xét các cảnh, chẳng sinh tâm tham đắm, tuy ở trong dòng sanh
tử vẩn đục mà không bị nhiễm ô, ví như hoa sen mọc trong bùn mà chẳng dính bùn.
2/
Không chung đụng với những pháp xấu ác : Bồ tát tu hành diệt ác sanh thiện, giữ
gìn ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh, không cùng chung với bất cứ điều xấu ác
nào, ví như hoa sen chẳng hề dính một giọt nước bùn nhơ.
3/
Giới hương đầy đủ : Bồ tát tu hành, kiên trì giới luật, có thể diệt trừ nghiệp
ác của thân, khẩu cũng giống như hương thơm có thể đánh tan khí ô uế, ví như
hương thơm vi diệu của hoa sen lan toả, khắp nơi đều nghe
biết.
4/
Bản thể trong sạch : Bồ tát tuy sống trong năm cõi trược ác, nhưng nhờ giữ giới,
nên thân tâm được thanh tịnh, ví như hoa sen tuy sinh ở trong bùn nhơ mà thể
tánh tự nhiên thanh khiết.
5/-Nét
mặt tươi tắn, vui vẻ : Tâm của Bồ tát thường vui với thiền định, các tướng tròn
đầy, khiến cho người thấy sinh tâm hoan hỷ, ví như hoa sen khi nở, ai thấy cũng
đẹp lòng.
6/
-Mềm mại mịn màng : Bồ tát tu hạnh từ thiện, nhưng đối với các pháp cũng không
ngưng trệ trở ngại, nên thể tính thường thanh tịnh, nhu hoà,
không thô xấu, ví như hoa sen mềm mại, trơn láng.
7/-
Người thấy đều an lành : Bồ tát thành tựu thiện hạnh, hình tướng trang nghiêm
vi diệu, người thấy đều được tốt lành, như hoa sen đẹp đẽ,
thơm ngát, người thấy hoặc nằm mộng đều được an lành.
8/- Hoa nở tròn đủ : Bồ tát tu hành viên mãn,
công đức đầy đủ, phúc trí trang nghiêm, ví như hoa sen khi nở bày cả gương và hạt.
9/-
Thành thục thanh tịnh : Diệu quả của Bồ
tát viên mãn thành thục, nên trí tuệ phát sáng, có thể làm cho sáu căn của người
thấy nghe đều được thanh tịnh, ví như hoa sen đã nở rộ, nếu mắt thấy màu hoa,
mũi ngửi hương hoa, thì các căn khác cũng được thanh tịnh.
10/- Mới sinh ra đã được nghĩ tưởng đến : Bồ tát mới
sinh ra, trời người đều vui vẻ hộ trì, vì biết chắc Bồ tát có khả năng tu tập
thiện hạnh, chứng quả Bồ đề, ví như hoa sen khi mới mọc lên, tuy chưa thấy hoa,
nhưng mọi người đều nghĩ rằng sẽ có hoa sen.
Hình tượng hoa sen
trong Tịnh độ
tông : Đặc biệt, hình tượng hoa sen đóng
vai trò quan trọng trong Tịnh độ tông Phật giáo. Tịnh độ tông là tông phái nguyện
cầu vãng sanh về cõi Tịnh độ Cực lạc của Phật A Di Đà. Tông phái tuân theo ý chỉ
do hoa sen khai thị, cầu được vãng sanh vào cõi Hoa Sen. Liên tông bảo giám tự ( Đại chính tạng
…) của ngài Ưu Đàm Phổ Độ chép “ Ngài Huệ Viễn tổ sư thời Đông Tấn, nhân vì
nghe pháp sư Di Thiên giảng kinh Bát nhã, bỗng nhiên đại ngộ…rồi
ngài tới sống ở núi Lư Sơn, cùng các cao tăng triều sĩ kết duyên tu hành. Ngài
nói rằng, có rất nhiều tam muội trong các môn, nhưng công hạnh cao mà dễ tiến
thì chỉ có pháp môn niệm Phật là đứng đầu, vì thế ngài lập ra Bạch liên xã,
chuyên niệm Phật cầu vãng sanh. Hoa sen
tượng trưng cho y Báo của cõi Cực lạc Tịnh độ, vì thế tông Tịnh độ cũng có tên
riêng là Liên tông, Liên môn.
Người nào tu hành niệm Phật,
vãng sanh vào cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà đều được hoá
sanh từ trong hoa sen, giống như thai mẹ, nên gọi đó là Liên thai. Theo Liên
tông bảo giám, quyển 8 chép : “ Được sinh vào cõi Tịnh độ, thì nhập vào bào
thai hoa sen này, được hưởng các niềm vui thích”.
Quán thứ 7 trong 16 phép
quán thuộc Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật là Quán toà hoa sen,
tức là quán tưởng Phật A Di Đà ngồi trên toà hoa sen. Lại
theo Chín phẩm vãng sanh, người vãng sanh Tịnh độ ngồi trên hoa sen bảy báu,
người sắp lâm chung thấy được chư Phật và Bồ tát cầm đài sen đến đón rước. Như
thượng phẩm thượng sinh, Bồ tát Quan Âm tay cầm đài kim cang, và Bồ tát Đại Thế
Chí đi đến trước mặt người ấy, Phật A Di Đà phóng đại quang minh chiếu khắp
thân hành giả, cùng chư Bồ tát đưa tay ra nghênh đón. Đài kim cang ở đây nói, tức
là đài hoa sen bằng báu kim cang. Cũng có phân biệt tử kim đài, kim liên hoa,
liên hoa đài, thất bảo liên hoa, bảo liên hoa, sinh trong hoa sen mà được tiếp
dẫn…
Quán
kinh sớ ( Đại chánh tạng 37, 295 hạ ) của ngài Nguyên Chiếu nói : “ Nên biết
hôm nay tâm nhớ nghĩ đến Phật, quả đức và tướng tốt ắt đã đầy đủ, thai sen nhen
nhúm từ tâm ấy, dần tự chứng đắc bồ đề, chứ không do người khác mà được”.
Kinh
Quán vô lượng thọ thì ví hành giả niệm Phật như hoa phân đà lợi. Hoa phân đà lợi
là hoa sen trắng, loài hoa tôn quý nhất trong các loài hoa, nên người niệm Phật
là người đáng quý nhất trong loài người. Theo phần Tán thiện nghĩa trong Quán
kinh sớ, Đại sư Thiện Đạo thuộc tông Tịnh độ đời Đường cho rằng : Hoa phân đà lợi
là loài hoa đẹp đẽ, tuyệt vời, ít nở, giống như người niệm Phật là người đẹp, tốt,
là bậc thượng thượng, người ít có và người tuyệt với nhất trong loài người.
Hoa Phân đà lợi được gọi là
Đại bạch liên. Hoa sen trắng lớn này có 5 đặc tính :
1/
Mùi thơm lan xa; 2/ Một khóm một hoa, 3/ Hoa và hạt đồng thời , 4/ Không nhuốm
mùi bùn nhơ, 5/ Ong mật ưa thích vây kín.
Phép
quán thứ 5 trong 16 phép quán được nói trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, tức quán
tưởng tám ao nước công đức trong cõi Tịnh độ Cực lạc, được tạo thành từ bảy thứ
báu, báu ấy nhu nhuyễn, như châu như ý vương, phân làm mười bốn nhánh. Mỗi một
nhánh được làm bằng bảy báu diệu sắc, vàng ròng làm kênh, dưới kênh đều có kim
cương nhiều màu sắc làm cát dưới đáy. Trong mỗi ao có sáu mươi ức hoa sen bảy
báu, mỗi hoa sen tròn to bằng mười hai do tuần. Nước ma ni chảy rót vào giữa
hoa, từ trên xuống dưới. Âm thanh ấy vi diệu lạ kỳ, diễn thuyết pháp âm Ba la mật,
không, vô thường, vô ngã, lại còn có tán thán tướng hảo của chư Phật. Như ý
châu vương, phóng ra ánh sáng sắc vàng vi diệu, hòa với tiếng chim êm tai nhiều
sắc trăm báu, thường khen ngợi niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng.
Kinh
Quán vô lượng thọ Phật nói : “ Xưng niệm
danh hiệu Phật, trừ bỏ được tội sinh tử trong tám mươi ức kiếp. Lúc mệnh chung,
có thể thấy được hoa sen vàng lớn như mặt trời hiện ở trước mắt người ấy”.
Trong niệm Phật khởi duyên Di Đà quán kệ trực giải (Vạn Tục Tạng
62, 1195) có đoạn phát nguyện được dùng trong thời khóa công phu hằng ngày tại
các tự viện Phật giáo : “ Nguyện sanh Tây
phương Tịnh độ trung, Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu, hoa khai kiến Phật ngộ vô
sanh, Bất thối Bồ tát vi bạn lữ” ( Nguyện
sanh về Tây phương Tịnh độ, chín phẩm hoa sen là cha mẹ, hoa nở thấy Phật đắc
vô sanh, Bồ tát bất thối là bạn đạo).
Lại hoa sen bên Tịnh độ Cực
lạc là y vào sự thành tựu chính giác của đức A Di Đà Như Lai mà có, cho nên gọi
là hoa chính giác. Tịnh độ luận chép: “ Như Lai Tịnh hoa chúng, Chánh giác hoa
hóa sinh”. Chỉ cho hoa sen, tức dùng hoa sen để thí dụ chính giác của Phật. Sự
chính giác của Phật đã thoát ly các phiền não tạp nhiễm, quả trí sáng láng,
cũng như hoa sen đã nhô lên khỏi bùn nhơ, trong sạch mầu nhiệm, vì thế đươc
dùng làm thí dụ. Lại hoa sen ở cõi Tịnh
độ Cực lạc cũng gọi là hoa Chính giác.
Từ những tính chất thanh tịnh,
tinh khiết của hoa sen, có thể biết, Đức Phật và chư vị Bồ tát được ví như hoa
sen, người tu hành cũng tương tự như thế. Không chỉ riêng những người tu hành Tịnh
độ mới là hoa sen trong loài người, mà tất cả những ai có tâm từ bi yêu thương
giúp đỡ mọi người, sống không uổng phí với tinh thần phụng sự cho xã hội, cống
hiến cho nhân loại chính là “ hoa sen giữa đời”. Ngay cả khi không trở thành
người thành đạt, người thanh cao hay giàu sang phú quý, chỉ cần chúng ta luôn
làm tròn trách nhiệm của những người con hiếu thảo, người cháu kính nhường, người
công dân tốt, người yêu nước, người mến mộ đạo Phật…cũng đều là những đóa hoa
thanh khiết giữa cuộc đời. Trong ta luôn lan tỏa hương thơm dịu nhẹ của phẩm đức
và nhân cách, luôn dùng tất cả tri thức, trí tuệ và tinh thần để phục vụ nhân
sinh, ví như hoa sen đã dân hiến cho đời từ củ, ngó, tơ, lá, đài, nhụy, cánh, hạt
và cả hương thơm nữa, chẳng lưu giữ lại gì riêng mình. Để cuộc sống trở nên ý
nghĩa, đầy màu sắc, thi vị hóa và giá trị hóa, mỗi chúng ta đều nên học theo phẩm
đức của hoa sen với tinh thần “ dấn thân phụng sự nhưng không bị trần tục hóa”,
sống đúng với sứ mệnh thiêng liêng của một người con Phật như câu : “ Phù dung
hàm bao, liên hoa tương phù, hà diệp thư triển, thịnh mãn dương quang, nhất hoa
nhất diệp kiến Như Lai . Hộ sinh hộ tâm,
tâm tịnh độ tịnh, tích phúc tích duyên, tự lợi lợi tha, nhất tâm nhất niệm tế hữu
tình”.
( Ngậm nụ phù dung, nương theo sen đóa, lá hoa
bung nở, ánh nắng ngập tràn, mỗi hoa mỗi lá thấy Như Lai . – Hộ người giữ tính, tâm tịnh cõi tịnh, quý
phúc tiếc duyên, tự lợi lợi người, từng tâm từng niệm cứu hữu tình.)
( Trích : Hình tượng hoa sen trích từ kinh điển
Phật giáo- của Đ Đ Thích Quảng Lâm -
VHPG số 410- ngày1-7-2023)
{]{
Kẹt vào văn chương, vướng vào chữ nghĩa, kẻ thiền khách trở nên lạc lõng
bơ vơ. Biết chứng nghiệm sự thật và hiểu thấu căn cơ, người xuất gia cần vững
vàng và khôn khéo.
Cuộc
sống sẽ có những chuyện không vừa ý sẽ gặp phải những chuyện không vừa ý thuận
lòng, nếu không thể xem nhẹ bỏ qua, bạn sẽ sống trong phiền phức và mõi mệt.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét