CHƯƠNG 6
Chúng ta thu nhận được gì từ tất cả những
trích dẫn này về mạch sống thiền ? Cái gì là cách biểu hiện bên ngoài hay là
cách hành xử lưu xuất từ vô niệm ?
Câu
nói lừng danh nhất của Mã Tổ là “ Tâm
chính là Phật” ( Tâm tức Phật ). Quả thực, những tư tưởng cốt yếu đều được đề
xướng bởi tất cả các Thiền sư trước thời của Ngài, nhưng Mã Tổ lại bổ sung thêm
: Bình thường tâm là đạo. Trong tiếng Trung Hoa Tâm vừa có nghĩa là ý tưởng vừa
có nghĩa là tâm linh, và dù nó có ý nghĩa là ý tưởng hay tâm linh, trong trường
hợp này, nó đều có nghĩa là trạng thái tâm thức mà ta có được trong mọi ứng xử
thường ngày khi chúng ta đang sống, như ánh sáng mặt trời vẫn chiếu soi trên mọi
điều công chính cũng như bất công, như hoa huệ ngoài đồng nở ra với toàn thể vẻ
đẹp huy hoàng của nó, dù không được ai chiêm ngưỡng. Chữ Tâm trong tâm bình thường,
như thể là không tương ứng với khái niệm tâm lý học về tinh thần hay tâm linh,
đúng hơn, đó là trạng thái của tâm. Trong đó không có một ý thức đặc biệt nào về
những hoạt động riêng tư của nó; một trạng thái khiến ta liên tưởng đến cái mà
các triết gia gọi là “ Trực giác siêu việt”. Cụm từ này tương ứng với thuật ngữ
mà tôi gọi là vô niệm, hoặc vô tâm, trong chương trước.
Khi
Mã Tổ và các Thiền sư thượng thủ khác tuyên bố “Tâm chính là Phật”, không có
nghĩa đó là một dạng linh hồn ẩn nấp dưới
vùng sâu kín của ý thức, mà đó là một trạng thái vắng bóng ý thức, theo
như tâm lý học, là cái đồng hành với mọi biểu hiện ý thức hoặc vô ý thức của
tâm, là tố chất của Phật tính.
Hiểu
được khẳng định ngôn của Mã Tổ bằng ánh sáng này thì luận giải của Cảnh Sầm và
Đại Châu Huệ Hải trở nên dễ hiểu. “ Khi tôi buồn ngủ, tôi ngủ, khi tôi muốn ngồi,
tôi ngồi; hoặc là “ Khi đói thì ăn, khi mệt thì ngủ” hoặc là “ Mùa hạ thì tìm đến
nơi mát mẻ, mùa đông lạnh thì tìm đến lò sưởi”. Đây chẳng phải là những hành xử
hằng ngày của chúng ta hay sao ? Chẳng phải là những hành động một cách tự
nhiên, lưu xuất từ tự tâm, không cố gắng và không chủ ý hay sao ?
Những
vị tăng đang đói trong chuyện Bách Trượng và Quy Sơn cũng vậy, họ hành xử theo
cách tự phát nhất. Họ minh họa sinh hoạt thực tiễn của mình như là điều mà các
Thiền sư mong được chứng kiến. Thế nên với Hy Vận, khi từ giã huynh đệ mình là
Hoằng Bá, sư đội chiếc nón rơm lên đầu và chẳng cần ngoảnh lại, sư đã hành xử
như những vị tăng đang đói, khi nghe tiếng trống báo giờ ăn, họ buông tất cả dụng
cụ họ đang làm việc rồi đi đến trai đường. Cũng như sư Vân Tế đáp “ Dạ” khi
nghe thầy mình là Nam Tuyền gọi. Tiếng mõ đánh lên, không gian vang lừng âm
thanh. Đây chẳng phải là “ sinh hoạt hằng ngày”, hoặc như Mã Tổ và Nam Tuyền muốn
nói “ tâm niệm hằng ngày của chúng ta” hay sao ?
Từ
sáng đến chiều, chúng ta bận rộn với hết việc này đến việc khác, và “ làm như
thế vì ai ? ”. Bách Trượng đáp “ có một kẻ muốn như thế”. Nhưng kẻ ấy ở đâu
? Đại sư này như muốn nhắm đến mọi động
thái của chúng ta, đã khiến cho ta bận rộn, nhưng sự lờ đi công việc của “ người
giữ nhà”, gã ấy có mặt khắp nơi, nhưng không thể xác định ở đâu, y ở trong vô
trú. Phật thân hiện hữu khắp pháp giới
và thị hiện trong toàn thể vạn hữu. Thân ấy vận hành, cảm ứng tùy duyên, nhưng
không bao giờ rời khỏi tuệ giác Bồ đề.
Đây
là giáo lý phổ biến của Phật giáo Đại thừa được truyền bá từ Ấn Độ . Khi “ tuệ
giác bồ đề” được địa phương hóa thì ông chủ vô trú khiến chúng ta giữ nhà cho
ông đã được nhận diện. Những thuật ngữ như “ giữ nhà”, “ sống đời sống hàng
ngày”, “ những tâm niệm trong sinh hoạt thường nhật”… đã mang cho tinh thần Thiền
trở nên mật thiết hơn với chúng ta. Vô niệm dường như không nằm ẩn quá sâu
trong tâm thức thường nhật của chúng ta.
Thiền
sư Thiện Hội ở Giáp Sơn, người đã ngộ ý chỉ Thiền nhờ cú đẩy xuống sông của Thiền
sư Hoa Đình Thuyền Tử một cách không thương xót. Thiện Hội có một chú thị giả
khi Thần Hội trú trì một tự viện, dạy chú đệ tử mình đi hành cước các nơi. Chú
đến nhiều đạo tràng, tiếp kiến nhiều Thiền sư nhưng không hội được ý chỉ thiền.
Trong lúc ấy, thầy của chú là Thiền sư Thiện Hội đã nổi tiếng trong việc tiếp nhận và dạy đồ chúng. Chú liền
trở về. Gặp thầy, chú thưa : Hòa thượng
có nhiều chuyện kỳ đặc như vậy, sao trước đây chẳng dạy cho con ?
Thiện Hội đáp : Khi con còn ở đây với
ta, khi con nấu cơm thì ta nhóm bếp, khi con bưng dọn thì ta dỡ chén. Có khi nào
ta cơ phụ con đâu ? Lời nói này giúp
cho chú thị giả ngộ đạo.
Người
ta cũng kể một câu chuyện tương tự về Sùng Tín, người kế tục Đạo Ngộ. Đức Sơn Tuyên Giám ở xứ Thục vốn là một giảng
sư lỗi lạc về kinh Kim Cương trước khi mắt
Sư được mở ra trong chân lý Thiền. Đến khi là một thiền sư có uy tín, Sư nổi tiếng
với lối vung gậy đánh đệ tử khi có người đến xin học thiền. Tên của Sư thường gắn
với tên Lâm Tế người thường hét lên mỗi khi có người đến hỏi thiền. Câu nói bất
hủ của Đức Sơn là: “ nói được, ba mươi gậy, không nói được, ba mươi gậy”. “ Nói
được” hầu như thuật ngữ của Thiền, có
nghĩa là bất kỳ một lời nói hay cử chỉ nào nó bật ra ngay tức thì, được xem là
dữ kiện trung tâm của thiền. “ Cho một gậy” trong trường hợp này có nghĩa dù mọi
biểu hiện thế nào đi nữa cũng đều không thích hợp cả. Nói tóm lại, theo Đức
Sơn, Thiền là một triết học phủ định tuyệt đối, trừ phi người nào có nội quán
hoàn toàn thấu triệt về phép biện chứng phủ định- xác định này, thì người ấy vẫn
chưa có quyền nói một lời gì về thiền cả.
Long
Nha hỏi : Khi con dùng lưỡi kiếm Mạc-da toan chém đầu thầy thì thầy sẽ làm sao
?
Đức
Sơn đưa đầu ra trước chờ. Long Nha nói : Đầu thầy rơi rồi!
Sư mỉm cười. Sau, Long Nha đến Động
Sơn thuật lại việc ấy. Động Sơn hỏi: Ông ấy nói gì ? – Ông ấy chẳng nói gì cả.
Long Nha đáp :
Động
Sơn bảo : - Chớ bào Đức Sơn không nói, đem đầu lão ta ra đây xem ! Long Nha biết lỗi mình, xin sám hối.
Có người thuật lại cho Đức Sơn nghe
chuyện này, Sư nói:
- Cái lão Động Sơn đã biết xấu, gã ấy
( Long Nha) đã chết lâu rồi, ích lợi gì mà cố cứu ?
Có vị tăng hỏi: “ Giác là thế nào ?”
Đức Sơn đáp :Đừng có tung bụi quanh
ta.
Có vị tăng hỏi : Phật là ai ?
Đức Sơn đáp :- Là một lão Tỳ khưu ở Tây
Vực
Một hôm Đức Sơn thượng đường giảng
pháp. Sư nói :
- Khi các ông hỏi, là đã phạm lỗi; khi
các ông không hỏi, là các ông mắc tội phỉ báng.
Một
vị tăng đứng ra lễ bái, Sư liền đánh. Vị tăng thưa :
- Con chưa thốt ra lời, sao Hòa thượng
đánh con ?
- Nếu ta đợi ông mở miệng thì chuyện
đã qua rồi.
Sư cho vị thị giả đi tìm Nghĩa Tồn.
Khi Nghĩa Tồn đến, Sư hỏi :
- Đúng là tôi vừa sai người đi tìm
Nghĩa Tồn. Có ích gì khi ông đến đây ?
Nghĩa Tồn không đáp được.
Khi thấy một vị tăng đến gần Đức Sơn
bèn đóng cửa lại. Vị tăng đến gõ cửa : Sư hỏi -
Ông là ai ?
Vị sư đáp : Tôi là sư tử.
Sư mở cổng, vị tăng lễ bái sát đất. Thấy
vậy, Sư bèn cưỡi lên cổ ông ta và nói :
Súc
sinh, sao dám lãng vãng quanh đây !
Đức Sơn bị bệnh, một vị tăng đến thăm.
Ông ta hỏi :
- Có ai không bệnh chăng ?
- Có một người. Vị tăng hỏi tiếp : Ai là người không bệnh ?
Sư kêu lên : Ôi ! Cha ơi !
Đến đây, có lẽ nào chúng ta lại không có được
những tin tức về “ bình thường tâm là đạo” hay chăng ? Chúng ta không dõi theo
được những dấu tích khởi tưởng của vô thức
mà nó đáp ứng hầu như theo “ bản năng” đối với yêu cầu của hoàn cảnh hay chăng
?
Một
hôm , Sư dạy chúng : “ Trong việc học Phật,
không cần thiết phải biết nhiều về cuộc bàn luận về Thiền diễn ra trước mắt các
ông, cũng chẳng cần nhặt nhạnh các câu cú từ trong kinh luận rồi xem đó như là
biểu hiện của đạo vô thượng. Hãy để việc luận bàn những đề tài cho những kẻ ghiền
chất tri giải. Chỉ có thông minh linh lợi không thôi không đủ để đương đầu với
sanh tử. Nếu các ông thực sự muốn thâm nhập chân lý thiền, hãy thực hiện điều ấy
trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, khi nói năng, im lặng hay khi làm mọi việc trong
đời sống hằng ngày. Khi làm được việc đó rồi, hãy xem xét thêm mình đang thực
hành giáo lý của vị nào, hoặc mình đang tham cứu bộ kinh nào ”
14/5 – 2023
(trích
tập)THIỀN VÀ PHÁP MÔN VÔ NIỆM
LUẬN
GIẢI VỀ PHÁP BẢO ĐÀN KINH
CỦA
LỤC TỔ HUỆ NĂNG
Nguyên
tác: The Zen Doctrine of No-Mind
D.T
Suzuki biên soạn
Chrismas
Humphreys biên tập & giới thiệu
Bản
dịch Việt: Thích Nhuận Châu
THIỀN TÔNG TRUNG HOA
- Thiền Ấn Độ và Thiền tông Trung Hoa
:
1- Giới thiệu khái quát về Thiền định.
Phật giáo Ấn Độ chỉ có Thiền định mà chưa có
Thiền tông “Thiền” tiếng Phạn là “
Dhyana” Trung Quốc dịch âm là Thiền na, dịch ý là “ tịnh lự” hay “ tư duy tu”
nhằm diễn đạt sự an trú nhất tâm, tịnh tâm quán tưởng, làm cho thân tâm được an
lạc hoặc thể ngộ chân lý. Đây là một phương pháp thực hành đặc biệt trong triết
lý tôn giáo Ấn Độ cổ đại. Trong Phật giáo Thiền là phương pháp tu hành chủ yếu
và không thể thiếu trong đời sống xuất gia của một người tu sỹ. Trước khi thành
đạo, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi tĩnh tọa dưới cội cây Bồ đề quán chiếu các
pháp nội ngoại, hàng phục ma quân, và sau đó chứng được đạo quả. Phương pháp
tĩnh tọa và quán chiếu đó được gọi là “ Thiền” trong “ Thiền” còn được
phân thành bốn giai đoạn, đó là Sơ thiền,
Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền, tức trong quá trình tu tập thiền, hành giả chứng
đắc lần lược bốn cấp độ khác nhau .
Về
sau thuật ngữ này được nâng cao thành “ Thiền định” “ Định” tiếng Phạn gọi là “ Samadhi” dịch ân
là “Tam ma địa” dịch ý là “ Tam muội” là một trạng thái tinh thần mà tâm chú ý
vào một cảnh và không bị tán loạn. Trong Đại thừa Nghĩa Chương quyển 13 có nói
về đặc điểm “ Tâm trụ nhất duyên, xa rời các tán loạn”. Vì vậy ở Trung Quốc thiền
còn được gọi là “ chỉ”. Đây chính là sự ảnh hưởng và hấp thụ triết học Phật
giáo Ấn Độ cổ đại, nên từ đó thiền tông bắt đầu thành lập và trở thành một tôn
giáo thực tiễn ở Trung Quốc.
Như vậy “ Thiền” là tư duy hay quán chiếu, và
“ Định” là trạng thái tĩnh tâm, hai yếu tố này tạo thành một phương pháp tu tập
trọng yếu trong thiền tông. Trong tôn giáo cổ đại Ấn Độ cũng như Phật giáo cổ đại
Ấn Độ, thường kết hợp “ Thiền” và “ Định” Lại với nhau, không tách rời. Cho nên
“ Thiền định” của Phật giáo có nghĩa là thông qua việc tu tập tư duy và quán
chiếu mà đạt đến tâm thuần khiết thanh tịnh, tức là đạt đến cảnh giới chứng đắc
trong Phật giáo.
Phật giáo Ấn Độ rất chú trọng tu tập
Thiền định. Một trong giáo lý cơ bản của Phật giáo nguyên thủy là “ Tám chánh đạo”,
thì chi thứ tám là Chánh định, tức chỉ Thiền định hay tiến trình tu tập Chánh
kiến, hướng dẫn hành giả tu tập đi vào Thiền định, đạt đến trạng thái tâm cảnh
thanh tịnh vô lậu. Phật giáo Đại thừa chủ trương tu tập “ Sáu ba la mật”. thì
Thiền định cũng là một phần trong sáu pháp Ba la mật đó. Ngài Long Thọ và Đề Bà
sáng lập học pháp Trung Quán cũng yêu cầu thông qua phương pháp tu tập Thiền định
để chứng nhập Bát nhã chánh trí, bát bất
duyên khởi và thực tướng các pháp. Trong thời kỳ đầu phiên dịch kinh điển Phật
giáo ở Trung Quốc thì kinh điển liên quan đến Thiền là một bộ phận rất quan trọng,
trong đó đa số là kinh sách trình bày phương pháp và kinh nghiệm tu tập về Thiền
định.
Cho
dù Phật giáo Ấn Độ chú trọng tu tập Thiền định và liên quan đến lý luận Thiền học
cũng rất phong phú, nhưng chưa hình thành một hệ thống Thiền tông có một thế giới
quan, phương pháp thực tiễn và nhận thức luận một cách hoàn chỉnh. Đợi đến khi
thiền được truyền đến Trung Quốc, thì hệ thống Thiền tông mới hình thành và
phát triển hùng hậu, cuối cùng có được một kết quả rất to lớn. Thiền tông lập
cước, tồn tại độc lập và phát triển có hệ thống trong các tông phái Phật giáo Đại
thừa tở Trung Quốc.
2- Sự cống hiến của Thiền sư Huệ
Năng.
Theo lịch sử văn học Thiền tông thì tổ
sư khai sáng tông phái nà là Bồ Đề Đạt Ma, người Nam Ấn, tổ sư thứ 28 của Phật giáo Ấn Độ. Lúc
này Phật giáo Ấn Độ chỉ có Thiền học mà chưa có Thiền tông, vì vậy truyền thuyết
lưu truyền câu chuyện đốn ngộ của tổ Ca Diếp ở hội Linh Sơn, đức Phật “ niêm
hoa thị chúng” không ai hiểu được ý đức Phật, chỉ tổ Ca Diếp mỉm cười, từ đó
phương pháp khai thị “ dĩ tâm truyền tâm” ra đời. Tổ Ca Diếp thọ nhận “ Chánh
pháp nhãn tạng” từ đức Phật và trở thành tổ đầu tiên khai sáng Thiền Tây Thiên.
Ngài đem sự lĩnh ngộ Phật pháp truyền thừa ở Ấn Độ 27 đời và đến tổ Đạt Ma là đời
thứ 28. Đây là truyền thuyết về nguồn gốc của Thiền, được truyền thừa từ đức Phật
Thích Ca, và từ đó tôn chỉ của thiền được mệnh danh là “ Giáo ngoại biệt truyền”.
Nhưng ở Trung Quốc, sự sáng lập Thiền tông của tổ Đạt Ma thực sự là một cống hiến
có thật.
Những truyền thuyết xung quanh tổ Đạt Ma ở
Trung Quốc cực kỳ sinh động, đã trở thành điển cố hoặc thành ngữ lưu truyền
trong thiền lâm và cả trong nhân gian, như “ Đạp thủy phùng dương”, “ Chiết vi độ giang”, “ Diện bích cửu niên”,
“ Chích lý Tây quy” ( Xem ngũ đăng hội
nguyên). Ngoài ra, cuộc đàm thoại giữa tổ Đạt Ma và vua Lương Võ Đế, được truyền
tụng trong thiền môn như một công án, hay một phong cách riêng của Thiền tông.
Theo sử sách ghi chép thì tổ Đạt Ma đến Trung Quốc truyền thiền pháp vào thời Bắc
Ngụy, đặc sắc thiền pháp của ngài là “ an tâm”, để đạt được “ an tâm” hành giả
phải thực hành “ bích quán” hay “ tâm như bích lập”, nghĩa là tâm an định vững
như vách núi. Phương pháp thiền Bích Quán nhằm mục đích đưa người tu thiền khế
hợp với Phật tánh chân như.
Thiền pháp Đạt Ma dựa vào tư tưởng Phật
tánh hay Như Lai tạng của Lăng già kinh. Tư tưởng Lăng già kinh cho rằng chúng
sanh có đầy đủ Phật tánh, đồng nhất chân tánh với chư Phật, chỉ cần chuyên tâm
“ diện bích” quán chiếu, diệt trừ tạp niệm mà được định; do được định mà phát
huệ, thì có thể chứng ngộ Phật tánh hay Như Lai tạng, hòa nhập vào cảnh giới của
Phật đà.
Theo lịch sử truyền thừa, Đạt Ma truyền
tâm ấn cho Huệ Khả, khi Huệ Khả đứng sâu trong tuyết lạnh, chặt tay cầu pháp (
Xem Đường pháp lâm Huệ Khả bi hoặc Cảnh Đức truyền đăng lục quyển ba). Từ đó Huệ
Khả trở thành tổ thứ hai. Huệ Khả truyền cho Tăng Xán, Tăng xán truyền cho Đạo
Tín và Đạo Tín truyền cho Hoằng Nhẫn.
Ngũ tổ Hoằng Nhẫn theo học với tổ Đạo
Tín suốt ba mươi năm, đắc tinh hoa tư tưởng Thiền học của Đạo Tín. Sau đó trở về
Hoàng Mai nay thuộc huyện Hoàng Mai, tỉnh
Hồ Bắc), và từ đó Thiền học ở đây được gọi là “ Đông Sơn Pháp Môn”. Tổ Hoằng Nhẫn
chú trọng thiền pháp “ Nhất Hạnh Tam Muội”, tức lấy pháp giới ( chân như, thực tướng) làm đối tượng quán
sát và hành tướng duy nhất của thiền định.
Nếu nói rằng thiền Đạt Ma chủ trương
chuyên tâm tọa thiền và hành trì hạnh đầu đà, trên thực tế thiền của tổ Đạo Tín
và tổ Hoằng Nhẫn đã thể hiện lối thiền nhận vận tự nhiên, tự do hoạt dụng. Qua
hai thời đại, tổ Đạo Tín và tổ Hoằng Nhẫn đã hướng dẫn nhiều tăng tục quy y. niệm
Phật, tập thiền, làm cho thiền Đạt Ma mở rộng phát triển, thanh danh đại chấn.
Đến đây Thiền tông Trung Quốc chính thức thành lập, đặt một nền móng khá ổn định
và vững chắc.
Trong lịch sử Thiền tông, Huệ Năng được xưng
là Lục tổ (Tổ sư thứ 6), thực tế Lục tổ mới chính là người sáng lập nên thiền
tông Trung Quốc. Huệ Năng sau khi “ đắc pháp kệ”, được ngũ tổ Hoằng Nhẫn ấn chứng,
mật truyền thiền bát, suy tôn Lục tổ. Nhưng nhìn kĩ chúng ta sẽ thấy được thiền
pháp của Đông Sơn Pháp Môn đã được truyền thừa 16 năm, nhưng đề phòng mưu hại,
Huệ Năng sống đại trà trong dân chúng,
có lúc làm nông, có lúc theo nhà buôn giúp việc, tiêu thanh nặc tích ở nhiều dị
bang, sau đó xuôi về chùa Pháp Tánh ở Nam Hải (nay là Quảng Châu), nghe pháp sư
Ấn Tông giảng Niết bàn kinh, trong đại chúng đang tranh luận “ gió động” hay “
cờ động”, Huệ Năng cao thanh bảo rằng : “ không phải gió động, không phải cờ động
mà là do tâm động”. Ấn Tông thật bất ngờ khi nghe Huệ Năng phán như vậy, biết
đây là đại khí, triệu tập đại chúng, thế phát thọ giới cho Huệ Năng làm Tăng.
Huệ Năng bây giờ mới chính thức công khai thuyết pháp, đại hoằng Thiền tông.
Sau đó ngài đi về chùa Bảo Lâm ở Tào Khê, khai giảng pháp hơn 30 năm, sáng khởi
nên “ Đốn ngộ pháp môn” lưu truyền ở phương Nam. Trong lúc đó, một cao túc của
Hoằng Nhẫn là Thần Tú, hoạt động truyền bá ở phương Bắc, chủ trương “ Tiệm ngộ
pháp môn”. Lúc bấy giờ người ta thường xưng tụng “ Nam Bắc dị tông”, nhưng thực
tế thì Thiền đốn ngộ ở phương Nam của Huệ Năng thế lực càng lớn mạnh, dần dần
phủ trùm lên cả phương Bắc, tạo thành thiền phái chủ lưu trong Thiền tông Trung
Quốc.
Từ phương diện “ đắc pháp kệ” của Huệ
Năng, chúng ta có thể thấy được Huệ Năng đã tiếp nhận tư tưởng “ Duyên khởi
tánh không” của Bát nhã kinh và tư tưởng “ Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật
tánh” của Kinh Niết bàn. Đây là tư tưởng của Phật giáo Đại thừa, cho rằng Phật
tánh bản hữu và tâm tánh bản tịnh, nhưng do vì tâm chúng sanh thường sinh khởi
vọng niệm, che lấp chân như bản tánh, không nhận chân được Phật tánh vốn có của
mình, vì vậy cần dập tắt vọng niệm, khí trừ trần lao, thể nhận bản tâm, trực kiến
bản tánh, như vậy là có thể “ kiến tánh thành Phật”.
Thuyết “ đốn ngộ” của Huệ Năng cho rằng,
thành Phật có thể lĩnh ngộ trong một sát na nhất tâm, chứ không cần phải tu
hành lâu dài. Đây là sự phủ nhận triệt để hình thức chuyên tu ngồi thiền truyền
thống mà Thần Tú đã kế thừa, rồi đem toàn bộ tiến trình tu tập quy kết trong “
đốn ngộ”, “đơn đao trực nhập, trực liễu kiến tánh”. Thật là táo bạo !
“ Kiến tánh” và “ Đốn ngộ” là cương
lĩnh đặc sắc của thiền pháp Huệ Năng hay Tào Khê Pháp Môn, thể hiện sự canh tân
táo bạo và có một ý nghĩa cực kỳ to lớn trong lịch sử phát triển Phật giáo
Trung Quốc. “ Minh tâm kiến tánh” là sự dung hội giữa tư tưởng Không tông ( chủ trương nhất thiết giai
không) và Hữu tông ( chủ trương Phật tánh là thực hữu) của Đại thừa Phật giáo Ấn
Độ, tư tưởng học thuyết “ Tâm tánh” của Nho gia, và học thuyết “ Chủ tịnh” của
Đạo gia truyền thống Trung Quốc. Từ đó Thiền tông càng thích hợp với văn hóa bản
địa và nổi trội hơn những tông phái khác của Phật giáo, tiềm ẩn một năng lực tồn
tại vững chãi ở Trung Quốc. Còn chủ trương “ đốn ngộ thành Phật” của Thiền tông
giải tỏa những suy biện triết học phiền toái của Phật giáo, giản tiện công phu
tu tập của các pháp môn truyền thống, như niệm Phật, tụng kinh và tọa thiền của
lịch đại tổ sư tương truyền. Hơn nữa, Thiền tông còn có thể dễ dàng phổ cập
trong thiên hạ bá tánh, đồng thời cũng có thể thu hút được các hạng trí thức
thượng tầng. Đó là lý do thiền “ đốn ngộ ” ở phương nam dễ dàng thay thế thiền
“ tiệm ngộ” ở phương bắc của Thần Tú, về sau còn hưng thịnh và phát triển vượt
trội hơn các tông phái Phật giáo khác.
Tóm lại, thiền Huệ Năng thông qua sự khẳng
định tự tánh thanh tịnh, phương pháp dị hành giản tiện, bốn oai nghi đi đứng nằm
ngồi đều là thiền; dựa vào sự chứng ngộ chủ quan của bản thân để thực hiện lý
tưởng tôn giáo của mình. Huệ Năng đã kế thừa “ Đông Sơn Pháp Môn” của Tứ tổ Đạo
Tín và Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, truyền bá rộng rãi, từ đó đem thiền pháp truyền vào
quần chúng và dung hòa vào đời sồng sinh hoạt hằng ngày, làm cho Thiền tông trở
thành một đại biểu lý tưởng phật giáo ở Trung Quốc.
3-
Một hoa năm cánh : Theo Cảnh Đức
truyền đăng lục quyển ba chép rằng, Khi
sơ tổ Đạt Ma truyền “ Chánh pháp Nhãn Tạng” và bình bát làm ấn tín cho Huệ Khả,
tổ đã nói bài kệ : “ Ta đến từ Tây thổ,
truyền pháp cứu mê tình; một hoa nở năm cánh, kết quả tự nhiên thành”
Hoàng Đình Kiên đời Tống viết bài phú Ngư Gia Ngạo, trong đó có câu “ nhất
hoa ngũ diệp”. “ Nhất hoa” nghĩa là ở trên hội Linh Sơn, đức Phật Thích Ca đưa
một cành hoa thị chúng, tổ Ca Diếp mỉm cười lĩnh ngộ, đức Phật truyền “ Chánh
pháp Nhãn Tạng” trải qua 28 đời, tổ Đạt Ma tương thừa, truyền
bá vào Trung Quốc, đây là nguyên sơ của Thiền tông . “ Ngũ diệp” có nghĩa là
khi lục tổ Huệ Năng khai sáng dòng thiền Tào Khê, sau này phát triển thành năm
thiền phái nữa ở Trung Quốc, đây là những phái thiền phát triển. Do vậy, “ Nhất
hoa ngũ diệp” ( Một hoa năm cánh) chỉ cho sự truyền thừa của Thiền tông, chia
thành năm chi phái, phát triển hưng vượng ở Trung Quốc. Từ đó ý nghĩa này được
dùng như một thành ngữ điển cố trong văn học Thiên tông Trung Quốc.
Trải qua sáu thế hệ, thiền pháp của sơ
tổ Đạt Ma được truyền thừa đến Lục tổ Huệ Năng, Lục tổ cải cách và sáng lập “ Đốn
Ngộ Pháp Môn”. Các đệ tử của Huệ Năng tiếp tục tương truyền, chấn hưng thiền
pháp “ đốn ngộ” vượt hẳn thiền “ tiệm ngộ”
của Thần Tú dần trở thành một thiền phái chính của Thiền tông Trung Quốc.
Sau đời Lục tổ Huệ Năng, Thiền tông tiếp tục
phát triển và phân thành hai thiền phái của Nam Nhạc Hoài Nhượng và Thanh Nguyên Hành Tư. Trong đó phái Nam Nhạc
Hoài Nhượng phân thành Quy Ngưỡng và dòng Lâm Tế, phái Thanh Nguyên Hành Tư lại
phân thành dòng Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. Ở đây đã chỉ rõ ý nghĩa bài kệ
tổ Đạt Ma đã nói với Huệ Khả, “ một hoa” nở “ năm cánh”, trong lịch sử Thiền
tông gọi là năm phái thiền hay Ngũ Gia Thiền.
Năm phái thiền này tương tục xác lập,
vì vậy lúc này Thiền tông Trung Quốc đã đi vào giai đoạn đỉnh cao. Vào thời của
Ngũ Gia Thiền, Thiền tông Trung Quốc bắt đầu du nhập vào Nhật Bản.
Trong Thiền tông có một câu chuyện nổi
tiếng là “ Mài gạch làm gương” ( Ma chuyên tác cảnh). Chuyện kể rằng, Mã Tổ Đạo
Nhất đến cầu pháp với Nam Nhạc Hoài Nhượng, hoát nhiên đại ngộ. Đạo Nhất sau đó
rời Nam Nhạc, đi về phía Giang Tây truyền đạo, khai sáng dòng thiền Hồng Châu
hay còn gọi là Giang Tây, và Đạo Nhất được xưng là “ Chúa Giang Tây”, Dòng thiền Hồng Châu là sự phát triển lớn của thiền Huệ Năng, vấn đề “ thành Phật” càng đề
cập trực tiếp và phương pháp thực hành thiền càng giản dị, ngoài ra còn hấp thu
triết học chủ nghĩa tự nhiên của Lão Trang, khiến cho Thiền tông tiến thêm một
bước thiền hóa Trung Quốc.
Hoài Hải là một cao đồ của Đạo Nhất, ngài
là một thiền sư để lại một cống hiến rất lớn trong sự nghiệp phát triển đối với
thiền Hồng Châu. Hoài Hải chế định “ Thiền môn thanh quy”, sau này hậu thế xưng
là “ Bách Trượng thanh quy”. Ngài đã đóng góp một thành quả to lớn cho sự phát
triển Thiền tông trên toàn bộ địa hạt Trung Quốc, thể chế hóa quy định của Thiền
tông. Từ đó thiền sư tu tập độc lập giữa các tông phái Phật giáo khác trong
tòng lâm, thiết lập một phương thức sinh hoạt đặc sắc riêng biệt, và trở thành
nếp sống sinh hoạt tu tập ròng kiểu Trung Quốc.
Kể từ khi Đạo Nhất hoằng truyền thiền
pháp Hồng Châu ở Giang Tây, thì một môn đệ cao túc của Thanh Nguyên Hành Tư là
Thiền Thiên kết am hoằng thiền ở chùa Hằng Sơn thuộc tỉnh Hồ Nam, và cũng được
tôn xưng là “ Chúa Hồ Nam” hay “ Thạch Đầu Hòa Thượng”. Thiền phong của Thiền
Thiên rất sắc sảo, khiến nhiều học tăng nể sợ, nên khi nhắc đến Thiền Thiên thì
người ta lập tức nói “ Thạch Đầu đường trơn” ( Thạch Đầu lộ hoạt), nghĩa là
tham học với Thiền Thiên rất khó như đường trơn dễ té vậy. Thiền Thiên còn sáng
tác một tiểu phẩm thơ năm chữ là Tham đồng khế, lấy tư tưởng Hoa Nghiêm
nhập thiền, đây là sự kết hợp tư tưởng giữa hai thiền phái bắc và nam trong thiền
phái của Thiền Thiên. Tác phẩm này tuy ngắn nhưng rất có giá trị, phản ảnh sự
phát triển tư tưởng của Thiền tông.
Thiền Huệ Năng phát triển lớn rộng khắp Trung
Quốc cũng nhờ vào hai “ đại sỹ” là “
Chúa Giang Tây” và “ Chúa Hồ Nam” từ đó giáo đoàn phương nam ngày càng
phát triển, xu thế tu thiền ngày càng thịnh hành. Thiền sư thực hành và áp dụng
thiền vào cuộc sống thường nhật một cách êm ái dịu dàng mà khế ngộ được diệu lý
cao siêu. Thiền sư Hoài Hải chủ trương “ vừa làm nông vừa hành thiền”, xem lao
động chấp tác là việc làm của tăng chúng trong tòng lâm, vì vậy đã thúc đẩy cuộc
sống tòng lâm vốn khô khan nay trở nên hùng hậu và hứng thú. Tóm lại, một cảnh
giới mới và một thiền phong mới tạo ra thành một bản giao hưởng tương ánh giữa
Thiền tông và non xanh nước biếc của Trung Quốc.
Từ một môi trường thuận lợi, Thiền
tông tha hồ phân lập phát triển, tương tục thai nghén tinh ba của thiền yếu,
hình thành nên Ngũ Gia Thiền.
Quy Ngưỡng tông – Đây là thiền phái do
hai môn đệ của Hoài Hải là Linh Hựu và Huệ Tịch sáng lập. Linh Hựu sống ở Quy
Sơn thuộc Đàm Châu, nay thuộc huyện Ninh Hương, tỉnh Hồ Nam; Huệ Tịch sống ở
Ngưỡng Sơn thuộc Viên Châu. Nên về sau tông phái này được thành lập, lấy tên của
hai ngọn núi để đặt tên, gọi là Quy Ngưỡng tông. Đây là một tông phái thiền
thành lập và phát triển sớm nhất trong Ngũ Gia Thiền.
Quy Ngưỡng tông tương thừa thiền phong
của Bách Trượng Hoài Hải, chia thế giới là “ ba chủng sanh”, tức là “ tưởng
sanh”, “ tướng sanh”, “ lưu chú sanh”, và cho rằng “ ba chủng sanh” luôn nhiễm
đầy trần cấu, cần phải tẩy trừ mới có thể thành phật, “ đắc tự tại”. Về mặt tu
hành, Quy Ngưỡng tông cho rằng vạn vật hữu tình đều có Phật tánh, tùy duyên ngộ
đạo, khắp nơi đều có thể minh tâm kiến tánh, làm người thì có thể ngộ đạo thành
Phật.
Lâm Tế tông – Đây là một thiền phái do
đệ tử tái truyền của Hoài Hải là Nghĩa Huyền sáng lập. Sau khi Nghĩa Huyền thọ ấn
khả với Hoàng Bích Thiền Vận, ngài đến Trấn Châu ( nay thuộc Trấn Định, tỉnh Hà
Bắc) thành lập Lâm Tế thiền uyển, người tham học rất đông, thiền pháp quảng bá
hưng thịnh ở phương bắc và hình thành Lâm Tế tông.
Lâm Tế tông kế thừa thiền phong phái Hồng
Châu của Mã Tổ Đạo Nhất sáng lập, phái này lấy tư tưởng “ Tứ tân chủ”, “ Tứ liệu
giản” và “ Tứ chiếu dụng” làm phương châm truyền giáo, hướng dẫn người học thiền
“ đơn đao trực nhập”, ý chí kiên trực. Đây là một nét đột phá trong Thiền tông.
Thiền sư truyền thiền của phái Lâm Tế, dùng tiếng hét đột xuất hoặc cái đánh bất
ngờ trong quá trình tham thiền, để thiền sinh tỉnh ngộ. Thiền pháp Lâm Tế không
chấp thủ và câu nệ vào các hình thức Phật giáo truyền thống, có như vậy mới phá
hết thảy các phiền não ràng buộc. Đây là một trường phái mới đại biểu cho xu hướng
thiền phát triển trong lịch sử Thiền tông Trung Quốc sau đời Huệ Năng.
Phong cách tự do, hoạt bát và buông xả của thiền
Lâm Tế phát huy một hiệu quả rất tuyệt vời, đơm hoa kết trái, trở thành một thiền
phái lớn mạnh nhất trong thiền lâm. Đến đời nhà Tống, thiền Lâm Tế phát triển
và phân lập thành hai dòng thiền, đó là
Hoàng Long và thiền Dương Cơ. Sau đó thiền Lâm Tế dần dần được truyền vào Nhật
Bản và trở thành thiền phái chính trong Thiền tông Nhật Bản.
- Tào Động tông- Đây là một thiền phái
phát triển từ dòng thiền của Thanh Nguyên Hành Tư, trải qua đời Thạch Đầu Thiền
Thiên, thì hai thầy trò Động Sơn Lương Giới và Tào Sơn Bản Tịch cùng nhau lập
nên tông phái nầy.
Tào Động tông phong thừa kế học thuyết
“ Hồi hỗ” trong tác phẩm Tham đồng khế của Thiền Thiên, lập nên thuyết “ Ngũ vị”,
tức năm giai đoạn hay cảnh địa để hướng dẫn các thiền tăng tham học. Thuyết “
Ngũ vị” dùng tư tưởng “ Ngũ vị quân thần” làm cơ sở để giải thích mối quan hệ
giữa sự lý và thể dụng để nói rõ ý nghĩa “ lý sự bất nhị” và “ thể dụng vô ngại”.
Thiền pháp của Tào Động tông rất tinh
tế, ngôn hạnh tương ưng, uyển chuyển tùy cơ lợi vật, ngôn từ tinh tế và lợi lạc,
vì thế uy thế và ảnh hưởng của Tào Động tông trong Ngũ Gia Thiền không nhỏ, chỉ
sau Lâm Tế tông. Khi Thiền tông phương nam ở giai đoạn đông đủ, thì thiền Lâm Tế
và thiền Tào Động cũng bắt đầu du nhập vào Nhật Bản, tạo thành hai sắc thái thiền
chủ yếu trên quốc đảo này.
Vân Môn tông – Đây cũng là tông phái
được truyền thừa từ dòng thiền Thanh Nguyên Hành Tư, truyền qua bốn đời, đến đời
thiền sư Văn Yển ở núi vân Môn tại Vận Châu
( nay thuộc huyện Nhũ Nguyên, tỉnh Quảng Đông) truyền thiền thuyết giáo ở
đây và sáng lập nên Vân Môn tông.
Vân Môn tông nổi tiếng với thiền pháp
“ Vân Môn tam cú” tức “ Hàm cái càn khôn”, “ Tuyệt đoạn chúng lưu” và “ Tùy phá
trục lăng”. Đây là ba phương tiện hướng dẫn thiền tăng của Vân Môn tông. Tông
này cho rằng Phật tánh phổ biến khắp vạn hữu, chân lý bất khả danh thuyết, vận
dụng thủ pháp tiềm mật để khai thị người học, làm cho họ ngọ đạo. Thực tế đây
là một tông phong rất tinh tế và ẩn mật, đưa người học thiền đến cùng tột của
nghi nạn, và rồi khéo tạo cho họ một cơ hội ngộ đạo. Vân Môn tông từng thịnh
hành một thời ở triều đại Bắc Tống, sau đó tông phong cải biến và dung hợp với
thiền phái khác.
-
Pháp Nhã tông – Thiền phái này cũng bắt nguồn từ hệ phái Thanh Nguyên Hành Tư,
do Thanh Lương Văn Ích sáng lập. Sau khi Văn Ích viên tịch, chúa Lý Cảnh của
triều Nam Đường truy phong sắc hiệu là “ Đại Pháp Nhãn Thiền Sư”, nên về sau
tông phái này có tên Pháp Nhãn tông.
Pháp
Nhãn tông ảnh hưởng tư tưởng Hoa Nghiêm tông, đề xướng Thiền giáo thống nhất, tức
nội bộ Phật giáo cần phải dung hợp, vì đương thời trong Thiền tông có nhiều
tranh biện đả phá. Văn Yển đề xuất tư tưởng “ lý sự bất nhị, quý tại viên
dung”, tức “ ngộ thiền” chính là “ viên dung”. Sau một hậu duệ đời thứ ba của
Văn Yển là Diên Thọ, tuyển soạn bộ Tông cảnh lục gồm một trăm cuốn, nhấn mạnh
việc học tập kinh điển, nhờ vậy mới thấu hiểu được lý “ viên dung”, từ đó nhận
chân được Phật, Bồ tát và chúng sanh đều có Phật tánh thanh tịnh, bình đẳng
không phân biệt.
Sau đời Tống Trung Diệp, Pháp Nhãn tông suy yếu
dần, nhưng ngược lại từ đời Diên Thọ, Pháp Nhãn tông được truyền vào Triều
Tiên, hoằng dương rộng rãi bên kia bờ sông Áp Lục.
Như vậy Ngũ Gia Thiền tương tục xác lập
suốt thời mạt Đường Ngũ Đại. Một hiện tượng văn hóa đáng chú ý ở đây là : Đường
Võ Tông hủy diệt Phật giáo, đốt phá hơn bốn mươi ngàn ngôi chùa, cưỡng bức
260.000 ngàn tăng ni hoàn tục, tịch thu ruộng đất thường trụ, đem chuông tượng
đồng về triều đình đúc tiền. Đây là lần thứ ba Phật giáo Trung Quốc gặp thảm nạn,
nguyên lực tổn thương trầm trọng. Đến thời vãng Đường, nông dân đứng dậy khởi
nghĩa, tập đoàn quân phiệt hỗn chiến, cuối cùng mười nước trong Ngũ Đại phân
chia cát cứ. Tháng ngày chiến loạn, thời đại tang thương cũng mang lại nhiều ảnh
hưởng trong Phật giáo, các tông phái suy yếu hoặc di chuyển đến các nước lân cận,
hoặc ngưng trệ, không còn khí thế và cảnh tượng phồn thịnh bách hoa tề khai như
ở giai đoạn Tùy Đường. Thế nhưng, trong những tháng ngày loạn lạc và “ pháp nạn”,
Thiền tông vẫn phát triển và còn đạt đỉnh cao của lịch sử. Cho dù lệnh bài Phật
hủy pháp của hoàng đế, khởi nghĩa của nông dân, hay quân phiệt hỗn chiến, đều
không trở ngại sự phát triển của Thiền tông. Tại sao ? Xin trả lời là :
(1) Thiền tông dần mở rộng phạm vi truyền
giáo, gia tăng phật giáo hóa Trung Quốc. Thiền tông không chỉ hấp thu tư tưởng
Lão Trang và những bộ phận Huyền học đời Ngụy – Tấn, mà còn thâm nhập nội bộ hệ
thống tư tưởng Nho giáo. Vì vậy, khi thời đại nhà Đường suy yếu, Thiền tông vẫn
được các tầng lớp sỹ đại phu tôn sùng, phong trào học thiền thịnh hành, nguồn
nhân lực được Thiền đào tạo rất đông, cho nên các tông phái khác của Phật giáo
không thể so sánh được. Do đó, đương lúc chiến tranh loạn lạc, Thiền tông có sẵn
một phạm vi hoạt động rộng sâu, tự nhiên có thể có được những tác dụng bảo hộ rất
lớn và an toàn. Phạm vi hoạt động và tác dụng bảo hộ tuy rất tự nhiên và vô
hình, nhưng đó lại là một sức mạnh tồn tại tiềm tàng vô cùng to lớn, do vì Thiền
tông đã thẩm thấu và bắt rễ vào trong hình thái tư tưởng ý thức của Trung Quốc.
(2) – Thiền tông đã mở rộng giáo tuyến
và phạm vi truyền bá nên đã đào tạo được một đội ngũ nhân lực hùng hậu. Khi Phật
giáo đang thịnh hành thì cũng tồn tại các hình thức bài Phật hủy pháp, dưới áp
lực này, các tông phái Phật giáo khác không thể không cải biến một vài phương
pháp để tồn tại, rồi nâng cao hình thức phát triển, mà trong đó sự cải biến và
phát triển của Thiền tông mới có thể gánh vác vận mệnh của Phật giáo. Nhờ vậy,
mà các tông phái khác dựa vào đó để tồn tại, ảnh hưởng hình thức tu học, thậm
chí hòa nhập vào Thiền tông. Trong đó tư tưởng tam giáo hợp nhất “ Hoa Nghiêm Thiền” quả Quế Phong Tông Mật, rồi
đến Vĩnh Minh Diên Thọ đề xướng những đặc điểm thiền pháp kiêm hành như Thiền
giáo hợp nhất, Thiền tụng vô ngại, Thiền tịnh đồng tu, Thiền giới đều trọng. Những
xu hướng cải biến trong Phật giáo như thế từ đời Ngũ Đại cho đến đầu đời Tống đều
ảnh hưởng Thiền tông rất rõ nét. Chính những điều này đã làm cho Thiền tông
ngày càng được củng cố, vô hình trung hình thành nên một đội ngũ nhân lực hùng
hậu.
Ngoài ra, khi cuộc chiến loạn thời
vãng Đường xảy ra ở vùng thuộc phía Bắc, còn bên phía nam sông Trường Giang thì
tương đối ổn định, nơi đây vốn là khu vực thịnh hành Thiền tông thời thịnh Đường.
Hơn nữa, một số tầng lớp văn nhân học sỹ và tín đồ Phật giáo di cư về phía nam
lánh nạn. Họ hội nhập vào đội ngũ Thiền tông, tạo thành một sức mạnh tổng hợp
trong Thiền tông.
(3)- Phong trào “ vừa làm nông vừa
hành thiền” trong Thiền tông đã làm cho kinh tế chùa chiền đi vào ổn định. Từ Mã Tổ Đạo Nhất đến Bách Trượng Hoài Hải lần
lượt hoàn thiện phương tiện “ Nông Thiền hóa” khiến cho kinh tế Thiền tông đáp ứng
nhu cầu tự cung tự cấp. Ngược lại, kinh tế của các tông phái khác hoàn toàn phụ
thuộc vào sự ủng hộ của tầng lớp quan lại, vì vậy khi gặp “ pháp nạn” hay chiến
tranh loạn lạc thì cũng suy yếu và đình đốn. Thiền tông ngược lại dựa vào sinh
hoạt lao động và chấp tác tự lực tự cường của tăng chúng trong thiền lâm, cho
nên trong hoàn cảnh gian nan chiến loạn, Thiền tông vẫn giữ vững quyền chủ động
sinh tồn. Như vậy chủ trương “ bình thường tâm là đạo” và “ uống trà ăn cơm tùy
thời qua” của Thiền tông bỗng phát huy diệu dụng. Quả thật đây là một điều kiện
tất yếu của kinh tế thiền lâm đã duy trì và ủng hộ Thiền tông phát triển toàn
diện.
Theo như trên đã trình bày, từ Thiền Ấn
Độ cho đến Thiền tông Trung Quốc, pháp mạch tương thừa và phát triển một cách
rõ ràng mạch lạc không khó để nhìn nhận. Tuy Thiền tông mang một sứ mệnh lịch sử
từ câu chuyện ở “ Linh Sơn Hội Thượng”, đức Phật “ niêm hoa thị chúng” tổ Ca Diếp
“ phá dung vi tiếu” lĩnh hội ý chỉ của đức Phật, thọ nhận “ Chánh pháp Nhãn Tạng”,
thực tế là một quá trình trí tuệ của Thiền học Ấn Độ và mấy thời đại ưu tú của
các thiền sư Trung Quốc, nỗ lực tiêu hóa, dung hợp với tư tưởng Lão Trang, huyền học đời Ngụy Tấn
và tư tưởng truyền thống Trung Quốc, để hình thành nên hệ thống Thiền tông Phật
giáo. Vì vậy quê hương của Thiền tông là ở Trung Quốc.
Trong
lúc năm thiền phái ở Trung Quốc là Ngũ Gia Thiền đang triển khai mạnh mẽ, thì
quốc gia phía đông Trung Quốc là Nhật Bản, xứ sở hoa anh đào, Phật giáo bắt đầu
hưng khởi và đang trên đà phát triển. Thế rồi Thiền tông “ động độ” hình thành
theo tiến trình tất yếu của lịch sử./.
Trích
từ tập: THIỀN NHẬT BẢN, Liangxiao Hong. Bản dịch:Thích Thiện Chánh. Nxb Thuận
Hóa.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét