DẪN NHẬP
Thiền Phật giáo bắt nguồn từ Phật Thích Ca truyền
thừa từ Ngài Ca Diếp. Sự truyền thừa làm tổ thiền kế thừa tại Ấn Độ có 27 vị, vị
thứ 28 là Đạt Ma Tổ sư không kế thừa ở Ấn
Độ mà qua Trung Hoa làm Tổ kế thừa. Từ Phật Thích Ca đến Ca Diếp – Bồ đề Đạt Ma
và Lục Tổ Huệ Năng. Hai nhân vật nổi bật trong lịch sử Thiền Trung Hoa là Bồ đề
Đạt Ma và Huệ Năng.
Đệ
nhất tổ Ca Diếp truyền thừa từ ý chỉ Thiền từ Phật Thích Ca qua sự kiện niêm
hoa vi tiếu. Trong một hội chúng đức Phật đưa cành hoa lên, cả đại chúng không
ai hiểu chuyện gì, nhưng chỉ có duy nhất một ngài Ca Diếp nhận biết và mỉm cười.
Đức Phật xác nhận Ca Diếp là người nhận lãnh được ý Thiền. Đức Phật nói : Nay
ta trao cho Ca Diếp “Chánh pháp Nhãn tạng,
Niết bàn Diệu tâm. Thật tướng Vô tướng”.
Lúc đó Phật 78 tuổi, còn Ngài Ca Diếp 79 tuổi,
hơn Đức Phật một tuổi, là thời cơ truyền “ bí mật thiền tông” cho vị tổ
thứ I. Vào một buổi sáng mùa xuân, của thời giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tại núi
Linh Thứu. Đức Phật tập họp đông đảo đồ chúng, tay phải Đức Phật cầm cành hoa
sen đưa lên, Ngài ngó từ phía bên phải sang bên trái, từ gần đến xa, mọi người
ai cũng đều ngơ ngác, không biết chuyện gì, riêng Ngài Ca Diếp mỉm miệng cười,
Đức Phật hỏi ngài Ca Diếp : Tất cả mọi người không ai cười, sao ông lại cười ?
Ngài Ca Diếp trình thưa với Đức Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn, nhờ Đức Thế Tôn
tay cầm cành hoa sen đưa lên, nên con đã nhận ra tánh thấy chân thật rõ ràng của
con, nên con mừng quá, nên con mỉm cười.
Đức
Phật hỏi Ca Diếp ông thấy như thế nào ?
Ngài Ma Ha Ca Diếp không trả lời thấy như thế nào,
mà Ngài trình thưa cùng Đức Phật bài kệ 44 câu như sau :
Ý
Phật con đã nhận ra
Tánh thấy, thấy được qua luân hồi
Bao
năm khổ hạnh con thôi
Sống
với tánh thấy, luân hồi màng chi
-Hoa
sen nhận được tức thì
Niết
bàn thanh tịnh tìm chi mệt người.
Phật
ôi con đã ngộ rồi
Thấy
trong thanh tịnh, là nơi quê nhà
-Phật
tánh con đã nhận ra
Khi
thấy ý thấy vượt xa muôn trùng
Tánh
thấy hết sức lạ lùng
Muôn
đời ngàn kiếp, lạ lùng mới hay
-Thiền
thanh tịnh đức Phật chỉ bày
Hôm
nay thật sự nhận ngay tánh mình,
Nhận
được con chỉ lặng thinh
Nở
nụ cười vui lắm Phật ôi
-Trước
kia Phật dạy con “ thôi”
Mà
thôi không được, luân hồi con đi
Hoa
sen con thấy tức thì
Tự
nhiên dứt hết, không chi nói lời
Nụ
cười thay thế chữ “ thôi”
Để
trình Đức Phật đôi môi thay lời
Linh
Sơn con đã rõ lời
Thiền
thanh con biết, luân hồi dứt ngay
Trước
huynh đệ con trình bày
Môn
Thiền thanh tịnh, khó ai nhận liền
Mấy
ngàn người bỏ tư riêng
Dụng
công tìm kiếm khắp muôn sơn lâm
Nhờ
con lặng lẽ âm thầm
Bất
ngờ nhận được, không lầm chuyển luân
Hôm
nay thật sự con mừng
Mừng
vì sanh tử đã dừng với con
Linh
sơn con quyết lòng
Giữ
môn thiền học thường còn thế gian
Hễ
ai muốn hết gian nan
Chỉ
cần thanh tịnh mới sang quê nhà
Lòng
con xin nói hết ra
Cảm
ơn Đức Phật , con xa luân hồi
Thanh
tịnh kỳ diệu Phật Ôi
Chỉ
cần thanh tịnh luân hồi bỏ con
Nay
con kính nguyện lòng son
Truyền
môn thiền học được còn mai sau.
Ngài
Ma Ha Ca Diếp trình lên Đức Thế Tôn bài kệ 44 câu mà Ngài đã đạt được “ bí mật
thiền tông” nhân ngài nhận thấy cành hoa sen trên tay đức Phật. Và Đức Phật xác
nhận Ngài Ca Diếp là tướng quân trong chánh pháp, lúc Phật còn tại thế tăng
chúng đều tu thiền qua các pháp thiền Tứ niệm xứ (quán: tâm, pháp, thân, thọ )
để khai mở trí tuệ chứng đạt các pháp thiền. Từ đó các pháp thiền được duy trì
truyền thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bồ đề Đạt ma xuất thân từ Ấn Độ qua
Trung Hoa là vị tổ thứ 28. Ngài đến Trung Hoa khai mở pháp Thiền ngài trở thành
vị Sơ Tổ của Trung Hoa, truyền đến đời thứ 6 thì hết truyền. Sắc thái Thiền của
Trung Hoa bên ngoài thì có khác so với sự tu tập thiền ở Ấn Độ, nhưng với tinh
thần thiền bên trong thì trước sau như một không thay đổi . Cốt tủy của Thiền
là “ vô
ngôn” là không lời nói, vì sao không lời nói, vì “ tự tính” không thể dùng lời nói mà diễn tả được, và nếu diễn tả được
bằng lời nói, hay chữ nghĩa thì không phải là tự tính. Lúc ban đầu Phật truyền
tâm ấn cho Ngài Ca Diếp bằng cử chỉ tay
cầm cành hoa sen đưa lên, không dùng lời nói, Ngài Ca Diếp nhìn thấy bèn ngộ nhận
ra tự tính của mình. Phật hỏi Ca Diếp ông thấy như thế nào, Ngài Ca Diếp cũng
không trả lời cái thấy như thế nào chỉ nói bài kệ là mình đã vui được thoát khỏi
luân hồi nhận ra tự tính của mình.
Thiền
Trung Hoa cũng tiếp nhận ý chỉ thiền “ vô ngôn” mà khai mở tự tánh cho đệ tử,
rõ nét qua các cuộc đối đáp và hành xử của các Thiền sư Trung Hoa như : đánh, đá,
hét, đạp v.v…không dùng lời nói, hoặc nói những lời nghe qua không thấy liên
quan gì đến câu hỏi. Như ngài Triệu Châu cầm con mèo hỏi trong chúng, ai nói
con mèo này có Phật tánh hay không, không ai trả lời, chiều lại Triệu Châu nói
với một vị tăng lúc mai không có mặt trong chúng về việc con mèo có Phật tính không.
Vị tăng này nghe vậy cuối xuống lấy chiếc dép để trên đầu rồi đi ra. Triệu Châu
hài lòng cho câu hỏi của mình có câu đáp trả. Triệu Châu xác nhận vị tăng này
lãnh hội được ý chỉ thiền. Hay có vị Thiền sư đưa ra câu hỏi bảo đệ tử trả lời,
nếu trả lời được cũng bị 30 gậy, không trả lời được cũng bị 30 gậy.
Những
ngôn ngữ và các hành xử của Thiền sư gây bất ngờ, gây cú sốc cho đệ tử, từ đó đệ
tử mới “ ngộ” ra “ tự tính” của mình .
Chủ yếu mục đích của Thiền là làm cho người tu tập ngộ nhận được tự tính của
mình. Ngộ được tự tính của mình rồi thì tương đương với thành Phật. Chơn tánh hay tự tánh, phật
tánh của mỗi người, bị che lấp, bị ngủ quên, nay gặp minh sư đánh thức tự tánh
người đệ tử dậy, thì không còn là người mê muội nữa. Vì thế tu thiền không dùng
ngôn ngữ, không tụng đọc, không lễ lạy là vậy. Kinh Pháp Hoa nói Đức Phật ra đời
là một đại sự nhân duyên duy nhất, là làm cho chúng sanh nhận ra Phật tánh của
mình, chỉ cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật. Tri kiến Phật là Phật tánh,
chơn tánh, là tự tính sẵn có của mỗi người ai cũng có, ai cũng đầy đủ, nhưng bị
trần lao phiền não che chướng nên không thấy được mà thôi. Cũng như mặt trời chân tính, do mây che nên
không tỏ sáng mà thôi. Tự tánh, chơn tánh con người xưa nay vẫn vậy, không thêm
không bớt, không mất, không còn. Tự tánh con người không diễn tả bằng ngôn ngữ
được, nên thiền chỉ nhận được qua tâm thức mà thôi.
Tư
tưởng thiền Trung Hoa từ thời Huệ Năng khác hẳn với sắc thái thiền Ấn Độ là khởi
nguyên của nó. Cội nguồn tư tưởng thiền được trải dài từ sự chứng ngộ của Đức
Phật ngồi dưới cội cây Bồ đề cho đến đời Đạt Ma, từ đó thiền lan truyền khắp
vùng Viễn Đông và thiền đã mang lại nhiều kết quả. Tuy trải qua hơn 1000 năm
nhưng tinh túy của thiền vẫn còn giữ được bản chất của nó.
Tư
tưởng thiền của Huệ Năng ra đời gây chấn động giới học Phật trong thời của
ngài, trước ngài không có vị tăng nào gây được sinh khí lôi cuốn trực tiếp quần
chúng như thế. Những bài pháp của Huệ Năng biểu lộ trực giác tâm linh của Ngài,
do vậy các pháp ấy vô cùng sống động, ngôn ngữ rất trong sáng và đầy chất uyên
nguyên. Vì thế các học giả đón nhận Huệ Năng theo cách chưa từng có. Huệ Năng
là một vị tăng chưa chính thức là người trong tăng chúng, chi tiết về cuộc đời
ngài chỉ là một người công quả trong chùa với nhiệm vụ giã gạo, bữa củi, không
được học, được đọc tụng như những người khác. Nhưng Huệ Năng lại nắm bắt được ý
chỉ thiền truyền trao từ Ngũ Tổ. Huệ Năng đến với Ngũ tổ lúc 34 tuổi, Thần Tú
đã 70 tuổi, giữa Thần Tú và Huệ Năng cách nhau 30 tuổi. Thần Tú là tướng quân
trong thiền viện dưới sự chỉ dạy của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, là người thông thạo
kinh điển và sự tu tập, nhưng lại không nắm được ý chỉ thiền. Trong khi Huệ
Năng đến chùa mới 8 tháng mà đã lãnh hội được ý thiền. Hai trạng thái tâm lý giữa Huệ Năng và Thần
Tú cách xa nhau về tuổi tác và trình độ tu học. Huệ Năng quê mùa không biết chữ,
không biết viết, ở chùa một thời gian ngắn, thế mà Ngài đã ngộ ra tự tánh của
mình ngay khi gặp Ngũ tổ, còn Thần Tú ở chùa cả đời mà không nhận ra được tự
tính, cho nên việc kế thừa ngôi vị tổ rơi vào tay Huệ Năng.
Huệ
Năng không được thông báo cho biết sự kiện này, vì Huệ Năng là người cư sĩ quèn
làm công quả dưới nhà bếp chùa. Nhưng Hoằng Nhẫn chắc hẳn đã chọn ra mức độ chứng
nghiệm tâm linh từ Huệ Năng, nên phải có hy vọng một ngày nào đó bằng cách này
hay cách khác, điều ngài tiên đoán về Huệ
Năng sẽ được hiển bày.
Quan
niệm nguyên ủy của Huệ Năng đương nhiên là khước từ tất cả văn chương và toàn bộ
ngôn từ, vì tâm có thể lãnh hội bằng tâm một cách trực tiếp không qua trung
gian. Sự kiện xuất hiện của Huệ Năng trong buổi bình minh lịch sử của Phật giáo
Thiền Trung Hoa vẫn có một ý nghĩa siêu việt, và Đàn kinh được xem như là một
tác phẩm bất hủ, và kinh đã quyết định tiến trình tư tưởng Phật học ở Trung Hoa
trong suốt nhiều thế kỷ cho đến nay.
Tư tưởng của Thần Tú tương phản với tư tưởng của
Huệ Năng, vì sự khác biệt khuynh hướng, giữa hai thượng thủ này, giúp cho người
học thiền xác định rõ ràng bản chất của thiền hơn trước đây. Hoằng Nhẫn có 12 người
đệ tử rất giỏi cự phách mà lịch sử thiền ghi lại, nhưng Huệ Năng và Thần Tú thì
vượt trội hơn hẳn những người khác. Sau đó thiền chia thành hai tông, Thiền Nam
tông và thiền Bắc tông.
Bài kệ của Thần Tú ::
Thân thị Bồ đề thọ
Tâm
như minh cảnh đài
Thời
thời cần phất thức
Vật
sử nhạ trần ai
Nghĩa : Thân
là cây Bồ đề
Tâm
như đài gương sáng
Luôn
siêng năng lau chùi
Chớ
để nhòm bụi trần
Bài kệ của Huệ Năng :
Bồ
đề bổn vô thọ
Minh
cảnh diệc phi đài
Bổn
lại vô nhất vật
Hà
xứ nhạ trần ai
Nghĩa : Bồ đề vốn không cây
Gương
sáng không cần đài
Xưa
nay không một vật
Lầy
gì để bụi bám ?
Cách
tu của Thần Tú dạy cho đệ tử là quét bụi, hướng dẫn nhập định, qua sự tập
trung, thanh tịnh ý bằng cách an trú tâm trên một niệm duy nhất. Thần Tú cũng
như các Thiền sư khác, thừa nhận tâm hiện hữu và công nhận rằng tâm này phải được
tìm thấy từ bên trong bản tâm của mỗi người chúng ta, tâm ấy được thừa hưởng mọi
đức tính của chư Phật. Thực tế chúng ta không nhận ra được tâm nầy, vì tập khí
của chúng ta quen đuổi theo ngoại cảnh, khiến cho ánh sáng chân tâm bị lu mờ
đi, phương pháp Thần Tú khuyên mọi người nên quán chiếu bên trong bằng cách tỉnh
tu. Điều này hoàn toàn tốt cho chừng mực nào đó, nhưng Thần Tú vốn không có sự
thể nhập siêu hình, nên phương pháp trên phải chịu sự thiếu sót nầy.
Giáo
lý của Thần Tú dạy cho đệ tử dựa trên ba học giới, định, huệ là Không làm các
việc ác là Giới; vâng làm các việc lành là Huệ;
tự thanh tịnh tâm là Định.
Còn
giáo lý của Huệ Năng cũng từ trên ba học giới định huệ, nhưng đi sâu vào nội
tâm, tự tánh hơn. Huệ Năng nói : Bản tâm
tự nó không bệnh đó là tự tánh Giới; Tâm tự nó không loạn, đó là tự tánh Định;
Tâm tự nó không si mê, đó là tự tánh Huệ.
Tam
học của Thần Tú thuộc về hữu vi dành cho căn cơ bậc thấp, còn tam vô lậu học của Huệ Năng thuộc vô vi dành
cho căn cơ bực thượng, hàng có trí siêu tuyệt. Khi ngộ được tự tánh nầy rồi
không cần dựng lập tam học nữa .
Tự
tánh vốn không bệnh, không loạn, không si mê, mỗi niệm đều từ trí tuệ siêu việt
( Bát nhã trí) , mỗi niệm trong ánh sáng trí tuệ quán chiếu này thường vượt qua
mọi sắc tướng. Do vậy, nên chẳng dựng lập tất cả pháp. Đốn ngộ nhận ra ngay liền
tự tính nầy, chẳng phải nhận thức qua từng thứ lớp mà được, đây là lý do của việc
không dựng lập.
***
-
0 nhận xét:
Đăng nhận xét