TÂY DU KÝ VÀ PHONG THẦN
Sư phụ, nghe ngài phân tích
nhận định truyện Bạch Xà, con cảm thấy rất có lý. Hiện tại con còn vài vấn đề
muốn thỉnh giáo sư phụ: Tây Du Ký là bộ truyện trứ danh rất được quần chúng ưa
thích, đã dựng thành phim và được bao người hoan nghinh…
Nhưng hồi nhỏ xem phim, con
cảm thấy Đường Tăng quá khiếp nhược, yếu đuối… vì sao Bồ tát Quan Âm lại bảo
Tôn Ngộ Không bái ông làm thầy? Hơn nữa, ngài còn truyền chú cần Cô cho Đường
Tảng để trị kẻ chuyên “phạt ác dương thiện” như Tôn Đại Thánh? Đường Tăng không
tài giỏi hơn, sao có thể giáo hóa đồ đệ chứ? Câu chuyện này theo quan điểm Phật
giáo phải giải thích như thế nào đây?
Hòa thượng Diệu Pháp đáp:
– Tôi cho rằng nếu hiểu
Phật pháp, thì nên giải thích Tây Du Ký như thế này:
Như trong sách đã nêu, bản
thân Đường Tăng theo pháp Tiểu thừa, cho nên Bồ tát Quan Âm mới hóa hiện
thành một lão Hòa thượng, chỉ điểm, mách cho Đường Tăng nên đi Tây phương bái kiến
Phật tổ, xin thỉnh kinh Đại thừa.
Đường đi Tây Thiên thỉnh
kinh thực tế là con đường mà ngài Huyền Trang tu hành, tự độ và độ người. Nhưng
đường tu không bao giờ bằng phẳng, luôn có đầy gian nan hiểm trở.
Ba đồ đệ đi theo Đường
Tăng, là đại diện cho ba loại ác tập: tham, sân, si, của mỗi chúng sinh.Trư Bát
Giới đại diện cho người tham dục trầm trọng: tham tài, tham sắc, tham danh,
tham lợi, tham ăn, tham ngủ… vì vậy mới bắt ông giữ tám giới, hàm ý rằng chỉ có
giữ giới mới dập tắt tham dục; chỉ có giữ giới mới hoạch đắc trí huệ, cho nên
gọi là Ngộ Năng.
Tôn Ngộ Không là đại diện
cho những kẻ hành sự có trách nhiệm bổn phận, có tài, nhưng khí sân rất lớn!
Ban tên Ngộ Không, chính là báo cho những dạng người này phải hiểu rõ đạo lý:
“Tất cả vô thường, vạn pháp giai không”.
Còn Sa Ngộ Tịnh là chỉ
những người thực thà phúc hậu nhưng ngu si, vì không hiểu rõ Phật pháp, nên tạo
nhiều tội nghiệp (ăn thịt sát sinh), ông từng ở sông Lưu Sa chuyên ăn thịt
người mà sống. Đặt tên Ngộ Tịnh là muốn ông tu tịnh hạnh (hạnh thanh tịnh) nếu
muốn thoát ly tam giới thì cần phải từ bi, bất sát.
Đường Tăng thân là sư phụ,
xem tứ đại giai không, chẳng bị tài sắc danh lợi quyến dụ, tuy không giỏi tài
phép như các đệ tử, nhưng những phút giây ở sát bên bờ vực sinh tử, đối
diện với chuyện sống chết, ông vẫn xem nhẹ và tuyên bố:
“Thà tiến lên một bước
hướng Tây phương mà chết, chứ quyết chẳng lui về để được sống” – gặp lúc Ngộ
Không phá giớt sát, chẳng vâng lời thầy nên ông buộc phải niệm chú cẩn Cô… điều
này hàm ý rằng: dùng giới luật để câu thúc, khiến y cải tà quy chính.
Đường Tăng không thề đằng
vân giá võ, không thể biến hóa, chỉ biết nhất tâm niệm Phật, hàm ý rằng: “Mục
đích tu hành không phải để cầu thần thông”.
Còn xem Ngộ Không dù thần
thông quảng đại, gặp lúc yêu quái có tài phép quá giỏi, chẳng phải y cũng thúc
thủ hết cách sao? Nhưng cuối cùng thì tà không thể thắng chánh!…
Gặp lúc sinh mệnh nguy hiểm
Đường Tăng nhất tâm niệm Phật, Bồ tát Quan Thế Âm chắc chắn sẽ yểm trợ cho
phùng hung hóa cát, giúp Đường Tăng biến nguy thành an. Vả lại một số yôu quái
Ngộ Không đối phó không nổi, đa số đều là thị giả các thánh nhân hoặc là các
súc vật thuộc hạ của họ tác quái…
Đây phải giải thế này: Chư
Bồ tát, tiên nhân vì muốn giúp đỡ Đường Tăng sớm chứng thánh quả nên cố tình
chế ra chướng ngại…
Tất cả đều là thử thách
khảo nghiệm, xem ổng ứng phó làm sao? Đường Tăng ngay nơi cửa ải sinh tử, cũng
chưa bao giờ trách Bồ tát Quan Thế Âm đã xúi ông đi lấy kinh!
Tôn Hành Giả có thể cỡi mây
đi mười vạn tám ngàn dặm, thế mà chẳng ra khỏi bàn tay Phâật tổ NhưLai.
Nếu nhà Phât muốn đem Kinh Điển Đại Thừa giao cho Đường Tăng,
thì điềnày quá dễ dàng, chẳng phải Ngài chỉ cần nhấc tay một cái là
xong ngay hay sao? Hoặc giả, cứ cho Tôn Ngộ Không đi lấy Kinh thì cũng giảm bớt
rắc rối vậy?…
Thế nên, bộ Tây Du Ký này
cảnh báo cho chúng ta biết là: Tu hành rất gian nan, trong một đoàn thể
học Phật, luôn có đủ hạng người như thề cầu đạo. Đoàn thể Phậ
giáo chính là một lò trui luyện vĩ đại “kiêm thu tinh súc” tiếp thu thâu
tóm tấ cả…..
Phật pháp là chí cương, không
gì có thể phá vỡ, Phật pháp cũng chí nhu, không gì có thể chia cắt…. Chỉ cần
mọi ngườluôn bảo trì cháh niệm tu hành, thì có thể cùng dựng đạ nghiệp.
Cho nên, trải qua muôn ngàn năm gian nan nguy hiểm rồi, cuối cùng bốthâyầ trò
cũng gặp Phật tổ. Nhưng đế lúc vào “Tàng Kinh Các” lấy
sách lại gặp chướng ngại, đây ngụ ý nói rằng: ” Chỉ cầ chưa thành
Phật thì vẫn còn vô minh”, cũng giải thích rằng: “Chịu buông xả, thì mới có thể
được”.
Trên đường về, tất cả
kinh Phật đều bị rơi xuống nước, cuối cùng chỉ còn lại sáu chữ “Nam mô A
Di Đà Phật! Trong “Kinh Kim Cang” Phật cũng từng nói qua: “Nếu nói
Như Lai có thuyết pháp tức là báng Phật”đồng thì cũng ám chỉ: vào thời
mạt pháp sau này, tất cả văn tự Kinh thư từng có sẽ dần tiêu mất, đầu tiên
là “Kinh Lăng Nghiêm…đến cuối cùng chỉ còn sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật!”
mà thôi.
Thực ra kiểu giải thích này
của ta chỉ là cố gắng “sửa cong thành thẳng”, bất đắc dĩ phải làm như vậy.
Chứ thực tế thì “Tây Du Ký”
và “Phong Thần” là hai tác phẩm được thành hình bắt nguồn từ sự tương tranh
giữa Phật giáo và Đạo giáo, do đôi bên công kích nhau mà có.
Gần đây, Ngài Hư Vân – ngôi
sao Bắc Đẩu Thiền tông – đã từng giải thích về lai lịch hai bộ truyện này như
sau:
“Năm đó ở Bắc Kinh Hòa
thượng Bạch Vân giảng “Đạo Đức Kinh” nơi Bạch Vân Tự, rất nhiều đạo sĩ chạy đến
nghe rồi xin gia nhập Phật môn đổi làm Hòa thượng, khiến các đạo sĩ tại Trường
Xuân Quán bất bình, nên thưa kiện lên quan…
Triều đình muốn hóa giải
mâu thuẫn giữa hai bên nên ra lệnh cho Trường Xuân Quán (của Đạo sĩ) đổi thành
Chùa Trường Xuân, còn Chùa Bạch Vân (của các Sư) phải đổi thành Bạch Vân Quán.
Các đạo sĩ không phục, bèn
viết ra bộ tiểu thuyết Tây Du Ký, mục đích là để mạ lỵ Phật giáo, vì vậy người
xem Tây Du phải có trí tuệ và mắt sáng, nếu hiểu rõ hoàn cảnh lịch sử lúc đó
thì sẽ nhìn ra chân tướng ngay.
Điều lợi hại nhất là, trong
tiểu thuyết miêu tả Đường Tăng thỉnh kinh xong, khi về đến Thông Thiên Hà, thì
toàn bộ kinh Phật đều rơi xuống sông bị mất chữ hết, cuối cùng chỉ còn lưu lại
sáu từ “Nam mô A Di Đà Phật!” Đây chính là bọn họ muốn nói: toàn bộ công trình
phiên dịch kinh Phật của ngài Huyền Trang là giả hết.
Đáng tiếc là thế nhân sau
này lại ngộ nhận và cuồng nhiệt lầm tin vào Tây Du Ký, khiến cho chuyện Tây Du
Ký thực sự của ngài Huyền Trang bị chôn vùi, bị xuyên tạc, mai một…
Để đối phó với tiểu thuyết
Tây Du Ký, bên Hòa thượng cũng “đáp lễ” lại, họ viết ra “Phong Thần Bảng” để mạ
đạo sĩ. Nhìn theo quan điềm này thì sẽ nhận ra trong truyện chỗ chỗ đều là… mạ
đạo sĩ!
Chẳng hạn như nói đạo sĩ tu
tiên tất nhiên có công phu, nhưng thảy đều lần lượt bị đao tru tiên hành hình.
Người xem hai bộ tiểu
thuyết này, nếu không hiểu rõ bối cảnh lịch sử Phật giáo và Đạo giáo tương
tranh ngày ấy, thì sẽ ngộ nhận, lầm cho giả là thiệt!
Vì vậy, đọc sách cần phải
sáng trí, khéo nhìn rõ đúng sai, giỏi phân biệt tà – chính…
Chú
thích: Xin
hãy đọc lời giảng giải, khai thị của ngài Hư Vân. Còn trong đây chỉ là lời giải
của Hòa thượng Diệu Pháp. Ngài còn đề nghị chúng ta nên đọc kỹ “Kinh Lăng
Nghiêm, để có đủ trí tuệ và con mắt sáng giỏi phân biệt chánh, tà; phải, quấy…
chúng ta nên đọc nhiều tác phẩm do chính chư đại đức cao tăng sáng tác, mới có
thể khai mở trí tuệ cho mình.
]
0 nhận xét:
Đăng nhận xét