Thứ Sáu, 13 tháng 1, 2023

MƯỜI CÁCH TẠO PHƯỚC LÀNH

 

MƯỜI CÁCH TẠO PHƯỚC LÀNH

          Làm thế nào để tạo phước ? Có 10 cách sau đây để tạo phước cho mình  :

1/ Bố Thí – 2/ Giữ giới – 3/ Thực hành thiền – 4/ Tôn trọng người- 5/ Phát tâm giúp người- 6/ Hồi hướng phước lành – 7/ Hoan hỷ với phước lành của người khác- 8/ Giảng giải giáo pháp- 9/ Nghe pháp – 10/ Chuyển tà kiến thành chánh kiến .

           Đây là cách tạo phước lành căn bản nhất. Bố thí vật chất là những việc làm như cho cơm người đói, cho thuốc người đau…Bố thí được Đức Phật tán thán vì đây là đức hạnh nền tảng và vì chính bố thí giúp người thực hành pháp này giảm đi tâm tham ái- tên thủ phạm xây dựng ngôi nhà khổ đau, vì Ngài gọi tham ái là tâm nhiễm ô.

          Nếu ai thiếu đi các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống và người nào đáp ứng được sự thiếu hụt này tạo nên sự bố thí tài vật. Người cư sĩ tại gia cúng dường lên chư  Tăng Ni ( cách nói trang trọng và tôn kính khi bố thí cho người xuất gia ) bốn loài vật dụng thiết yếu đến người xuất gia. Đó là y áo, thức ăn, chỗ trú ngụ và thuốc trị bệnh. Nhờ đó, người bố thí tích lũy được nhiều phước lành.

          Người bố thí thức ăn là người ban tặng cho người nhận năm phần phước lành : sống lâu, sắc tốt, yên vui, sức mạnh và trí tuệ. Theo đó, trong tương lai, người bố thí ấy sẽ có đủ năm phần  phước lành : sống lâu, sắc tốt, yên vui, sức mạnh và trí tuệ này. Thêm vào đó, người ấy sẽ được năm phần phước lành nữa là : có uy tín ảnh hưởng lớn đến mọi người, thân cận người hiền trí, có danh tiếng tốt đẹp được truyền rộng ra, tự tin chứ không sợ hãi, rụt rè và sau khi mạng chung, được tái sanh về cõi trời.

          Hành động tốt hay xấu tùy thuộc vào sự tác ý trong quá trình tạo nghiệp, cũng như vậy, trong bố thí, tác ý mới là quan trọng chứ không phải là hành động bên ngoài.

          Ở đây, tác ý thiện phát khởi nơi người bố thí trong ba thời (a) trước khi bố thí tâm vui vẻ, (b) trong khi bố thí tâm tịnh tín, và (c) sau khi thực hiện bố thí xong, nhớ lại việc mình làm với tâm hoan hỷ. Làm được như vậy mới có thể tạo phước lành trong bố thí.

           Giới hay đức hạnh . Giới là nền tảng cho toàn bộ sự thực hành con đường Thánh tám nhánh ( Bát Thánh đạo ), thêm vào đó, giới là yếu tố đầu tiên của ba môn học, gọi là Giới, Định và Tuệ.

          Việc tuân giữ 5 hoặc 8 hay nhiều hơn các nguyên tắc đạo đức, một người tạo nhiều phước lành cho mình. Những ai sống đức hạnh sẽ có cuộc sống hạnh phúc và viên mãn trong hiện tại cũng như trong tương lai. Người có đức hạnh không sợ hãi, vì người ấy không làm việc gì xấu ác, sai trái với mình và người khác. Người ấy không ân hận, không cảm thấy tội lỗi hay tự trách mình; do đó người đức hạnh cảm thấy hoan hỷ, an lạc và hạnh phúc. Người ấy thành tựu định và huệ để thấy các pháp đúng với bản chất như thật của chúng. Thêm vào đó, người ấy có được năm phần phước lành khác : người giữ giới, sống theo giới luật sẽ có tiền của dồi dào và sống siêng năng cần cù, có tiếng tốt đồn xa, không sợ hãi và bối rối, đến lúc lâm chung tâm không bấn loạn và sau khi mạng chung sẽ được sanh về cõi trời.

          Căn bản là tất cả những hành động xét về phương diện đạo đức được chia làm ba loại : hành động của thân, hành động của lời nói và hành động của ý. Không giết hại sinh mạng, không trộm cắp và không tà dục là hành động thuộc về thân. Hành động về lời nói có bốn phương diện : Không nói sai sự thật, không nói lời thô ác, không nói lời đơm đặt gây chia rẻ và không nói lời nhảm nhí vô ích.

          Cuối cùng là hành động về ý gồm có không tham lam, không sân giận và không tà kiến. Nếu không giữ giới hay sống theo chuẩn mực đạo đức, sự tiến bộ về mặt tâm linh của con người rất hạn chế.

          Giới hay chuẩn mực đạo đức trong mỗi trường hợp rõ ràng là hướng đến sự đoạn trừ các hành động xấu ác. Tự hổ thẹn ( tàm) và lo sợ người khác biết hành động xấu ác của mình ( quý ) : là nguyên nhân gần nhất để giúp cho việc giữ giới. Bởi vì khi tàm và quý có mặt, chuẩn mực đạo đức được phát huy và duy trì, còn khi vắng mặt tàm và quý, các chuẩn mực đạo đức cũng không được phát huy và duy trì.

          Nói một cách khác cụ thể hơn, có hai loại giới: giới thế gian và giới xuất thế gian. Tất cả các giới đưa đến quả báo hữu lậu thuộc giới thế gian. Giới thế gian đưa đến đời sống tốt hơn trong tương lai và đây là một điều kiện để thoát khỏi những khổ đau trong luân hồi sanh tử. Giới đưa đến quả báo vô lậu gọi là giới xuất thế gian. Giới xuất thế trực tiếp đưa đến giải thoát mọi khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử.

          Ở đây một lần nữa, tác ý thiện khởi lên nơi người giữ giới như một cách tạo phước lành về phương diện đạo đức hay đức hạnh.

Thực hành thiền hay phát triển tâm linh :

 Đây là lãnh vực phong phú nhất để tạo phước lành. Có hai loại thiền, là thiền chỉ ( samatha) nghĩa là phát triển khả năng tập trung (samadhi) và thiền quán ( vipassana) nghĩa là trí tuệ (panna). Một hành giả có thể phát triển thiền chỉ trước rồi sau đó phát triển khả năng quán chiếu, hoặc dùng chánh niệm để từ đó phát triển khả năng quán chiếu.

 Như mục đích hướng đến của thiền định, cả hai loại thiền đều có sự trải nghiệm của quán chiếu và phát triển trí tuệ. Một hành giả thực hành thiền để an tịnh những lậu hoặc thô ở trong tâm và phát triển tâm đạt đến trí tuệ chân thật trí tuệ không phải do học từ sách vở mà có. Đó là loại trí tuệ có thể giúp hành giả chứng đạt Niết bàn.

Một người có thể chọn tâm rộng lượng hoặc giới hạnh của chính mình chẳng hạn để làm đề mục hành thiền, trong tình huống đó, tâm người ấy không bị tham, sân và si chi phối; tâm đạt đến sự thuần chân. Do vậy, khi vị ấy ngăn chặn được những chướng ngại tâm lý (nivarana), những chi phần của thiền định sanh khởi và vị ấy có thể đạt đến trạng thái cận định (upacara-samadhi ). Và nếu người ấy không thể chứng đạt trạng thái thiền cao hơn, ít nhất vị ấy cũng hướng đến một cuộc sống an lành hạnh phúc.

Sự anh tịnh hay thiền định đem lại ba phước báu : tái sanh về cảnh giới an lành có cuộc sống hiện tại hạnh phúc và tâm an tịnh- đây là điều kiện tiên quyết của tuệ quán bằng cách thanh lọc tâm, loại trừ năm loại chướng ngại tâm lý làm ngăn cản sự phát triển tâm linh, đồng thời chứng đạt bốn bậc thiền siêu thế và giải thoát tâm để một người có thể thấy các pháp đúng như chúng đang là, như Đức Phật dạy “ Người nào có định tâm, người ấy có thể thấy pháp như thật”.

Tác ý thiện phát khởi nơi người có thực hành thiền trên đề mục như hơi thở vào hơi thở ra hoặc quán kasina chẳng hạn, và chứng đạt thiền bằng con đường thiền tịnh chỉ, hoặc tác ý thiện phát khởi nơi người thực hành thiền trên các đối tượng, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và các cảm thọ cũng như các tâm cảnh đều vô thường ( anicca) khổ (dukkha) và vô ngã ( anatta) thông qua con đường tuệ quán. Tất cả những tác ý hoặc xu hướng như vậy là những cách tạo phước lành trong thiền định.

Tôn kính hay cung kính  ( apaciti) :

Tôn kính là cách tạo phước lành có thể tìm thấy trong các hành động như đứng dậy nhường chỗ và mời cha, mẹ, anh, chị hay người lớn tuổi ngồi vào chỗ của mình, mang giúp hành lý cho người ấy, cung kính chào hỏi, nhường lối đi… hay nói chung là tôn trọng cảm xúc, quyền lợi, tài sản và cuộc sống của người khác, ứng xử với người trong tinh thần tôn trọng, tôn kính và quý trọng; không có thái độ bất kính, sỉ nhục hay ngắt lời khi họ đang nói; kiềm chế tâm mình để không xúc phạm, mua chuộc hay lôi kéo ai. Ngày nay người ta ít thực hiện phép tắc cung kính.

Trong kinh Na Tiên vấn đáp có 12 hạng người không tôn trọng, tôn kính người khác : người tham ái vì có tâm tham ái chi phối, người sân vì có tâm sân chi phối, người si vì có tâm phân vân do dự  chi phối, người kiêu ngạo vì có tâm kiêu ngạo chi phối, người không có đức hạnh cao quý vì không thể phân biệt đúng sai hay dở, người quá cứng cỏi, không ngoan ngoãn nhu thuận, người hạ liệt vì tâm trí tán loạn, người xấu ác vì tánh ích kỷ, người hận thù vì ôm lòng hận thù đau khổ, người tham lam vì không chế ngự được tâm tham, người chỉ biết đến tài lợi trong kinh doanh vì họ chỉ biết đến cái lợi cho mình .

Rõ ràng rằng, ngược lại với hạng người trên, người cung kính và tôn trọng biết nuôi dưỡng tâm mình để ngày càng phát triển ( và nhờ đó tích lũy phước lành ), vì thái độ sống cung kính, vị ấy cắt dứt các lậu hoặc của kiêu căng, thay vào đó là các đức hạnh, nhân cách tốt đẹp. Tôn trọng những bậc Trưởng lão và Tăng là những điển hình về phương diện tôn kính. Sự tôn trọng của một vị tân Tỳ kheo dành cho các Tỳ kheo lớn hơn cũng không ngoài tinh thần tôn trọng này.

Ở đây, một lần nữa xác quyết rằng, tác ý thiện khởi nơi người có biểu hiện của lòng tôn kính, tôn trọng người khác đây là cách để tạo phước qua việc tôn trọng người khác.

Hồi hướng phước lành : Hồi hướng phước lành là một cách tạo phước cần được hiểu trong trường hợp một người thực hành bố thí hoặc cúng dường chẳng hạn, rồi chuyển phần phước này vào phần phước lành chung, rằng “ mong đem phước lành này hồi hướng như vậy, như vậy ” hoặc  “ mong đem phước lành này hồi hướng khắp pháp giới chúng sanh  ! ”

Như vậy, vấn đề phước lành này chuyển qua người khác liệu có mất đi đối với người đã chuyển phần phước ấy không ?. Tuyệt nhiên không. Ví như một ngọn đèn dầu, khi nó được mồi sáng cho tất cả những ngọn đèn dầu khác, không vì thế mà ngọn đèn ban đầu bị lu mờ đi. Ngược lại, ánh sáng của ngọn đèn ban đầu càng tỏa sáng nhiều hơn với sự góp sáng của ngàn ngọn đèn dầu kia. Cũng như thế, khi chuyển phước đi, phước lành của người ấy không hề bị suy giảm, ngược lại, phước ấy lại càng nhiều hơn.

 Chuyển phước đến người đã mất là cách hồi hướng phước lành. Như vậy, Đức Phật tuyên bố rằng, một trong những bổn phận của người con đối với cha mẹ đã qua đời là hồi hướng phước lành đến người đã mất .

Hoan hỷ với phước lành của người khác.

Hoan hỷ với phước lành của người khác là cách tạo phước cho bản thân. Tùy hỷ ở đây được hiểu là tâm hoan hỷ khi thốt ra lời “ ồ làm như vậy tốt quá, hay quá ! ” khi người khác chia phước với ta, hoặc khi thấy họ làm nhiều việc phước lành khác. Đây cũng là một trong bốn tâm vô lượng, tâm hỷ vô lượng vây.

Giải thích hay giảng dạy kinh pháp :

Nếu người giải thích hay giảng pháp với tâm tham cầu vật chất hay danh tiếng, “ như vậy họ sẽ biết ta là một pháp sư ” thì việc giảng dạy giáo pháp này không đem lại một chút phước lành nào cả. Tuy nhiên, nếu một người đạt đến sự giải thoát khỏi khổ đau, không để khổ đau chi phối, và họ đem những trải nghiệm bản thân để giải thích hoặc giảng dạy cho người khác pháp mà bản thân vị ấy đã thuần thục, thì đây là cách tạo phước lành trong việc giảng giải giáo pháp.

Một điều đáng ghi nhận rằng Đức Phật tuyên bố, trong các loại bố thí, bố thí pháp là cao thượng nhất. Nói cách khác, một người có thể mở con mắt pháp cho người khác bằng cách giải thích, giảng dạy, diễn pháp cho người ấy hiểu, thì đây là món quà lớn nhất và cao cả nhất dành cho tất cả.  Thật ra, Đức Phật từng dạy rằng, nếu một người chăm sóc cha mẹ bằng cách cõng cha và mẹ trên vai trọn đời cũng không thể nào đền đáp công ơn của cha mẹ. Cách duy nhất có thể đền ơn cha mẹ là giảng dạy giáo pháp và đưa cha mẹ an trú  trong Chánh pháp. Ngay cả ngài Xá Lợi Phất, bậc đã chứng A la hán, khi thấy mình không còn khỏe nữa, trước khi nhập Niết bàn, ngài trở về nhà, giảng giải Phật pháp cho cha mẹ ngài  và giúp mẹ chứng đạt giải thoát rồi ngài mới vào Niết bàn.

Một người có thể dâng cúng chư Tăng với bốn vật dụng thiết yếu trong cuộc sống như y phục, thức ăn, thuốc men trị bịnh và chỗ  trú ngụ với những thứ tốt nhất. Thế nhưng đó cũng chưa phải là bố thí tối thượng, mà để cho họ hiểu giáo pháp với một bài kệ bốn câu thôi vẫn được tán thán là món quà tối thượng và cao quý nhất trong tất cả loại bố thí.

Như vậy bố thí pháp nghĩa là giảng dạy và giải thích giáo pháp cho người khác, đưa người ra khỏi con đường mê lầm sai lạc, đưa họ về con đường chân chính và chỉ cho họ hiểu đâu là đạo đức, thêm vào đó, tổ chức các buổi thảo luận giáo pháp, viết và in sách luận về giáo pháp… cũng là cách bố thí pháp vậy.

Nghe pháp : Nếu một người nghe pháp mà phát khởi ý nghĩ rằng “ như vậy họ đưa ta đến đau khổ ” thì việc nghe pháp ấy chẳng đem lại lợi ích gì cả. Tuy nhiên, nếu một người nghe pháp mong mình và mọi người khác có được lợi ích nghĩ rằng “ việc nghe pháp như vậy đem lại nhiều lợi ích cho ta ”, thiện ý này là cách tạo phước lành khi nghe pháp vậy.

Chuyển tà kiến thành chánh kiến : 

Thiện ý giúp người điều chỉnh nhận thức theo con đường chân chính là một cách tạo phước lành. Thật ra, hiểu biết chân chánh là đặc điểm đích thực của tất cả mười cách tạo phước lành trình bày ở trên đây. Vì chỉ với chánh kiến, một người mới có thể tạo nhiều phước lành, trong bất cứ phước lành  nào làm được đưa đến kết quả viên mãn nhất đều được làm với nhận thức chân chính, đúng đắn, bằng không thì đưa đến kết quả ngược lại. Đây là lý do Phật dạy : “ Với hiểu biết của ta, ngoài chánh kiến, không có pháp nào khác mà nhờ pháp ấy các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi, các pháp thiện đã sanh khởi được nuôi dưỡng  tăng trưởng và hoàn thiện ”.

Theo Đức Phật có hai loại chánh kiến: chánh kiến hữu lậu và chánh kiến vô lậu. Hiểu biết rằng bố thí cúng dường là tốt, rằng tất cả hành động tốt và xấu đều đưa đến quả báo tốt và xấu tương ứng với những gì đạo tạo, đó là chánh kiến hữu lậu, vì mặc dù còn phải chịu sự chi phối của các lậu hoặc, đây là các việc làm tạo phước lành, đưa đến quả báo tốt đẹp ở thế gian. Thế nhưng những gì thuộc về trí tuệ, thể nhập, chánh kiến liên kết với con đường thánh thì được gọi là chánh kiến vô lậu ./.

( Trích : Mười cách tạo phước lành : Hằng Liên dịch- NSGN số 235- 10/2015 )

{]{

MƯỜI CÁCH TẠO PHƯỚC LÀNH Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét