QUYỂN
1
Sám
văn:
Hôm nay tất cả mọi người đến đây
tham gia lễ sám, tuy không quan hệ huyết thống, nhưng đều có trí huệ và lòng từ
bi có thể cảm thông, đây là Phật duyên thâm tình hơn cả ruột thịt. Hôm nay tại
đạo tràng đồng tu, nguyện đời đời cùng nhau trước Phật, thân xác này tuy có tử
vong, nhưng pháp thân thường còn chẳng lìa, cho nên trong lúc đồng tu không
phân cao thấp, dùng tâm bình đẳng mà đối nhau như quyến thuộc cha mẹ anh chị
em.
Ngưỡng mong Đại chúng hoặc phàm hay
thánh, hoặc ẩn hay hiện trong Đạo Tràng này, đồng gia trì che chở, nhiếp thọ
cho đệ tử chúng con sám hối được thanh tịnh, thệ nguyện được thành, tâm như chư
Phật, nguyện đồng chư Phật. Chúng sinh trong tứ sinh lục đạo nhờ đây mãn Bồ đề
nguyện.
Giải thích:
Lục đạo: Gồm Thiên, Nhân, A tu la, Súc
Sinh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục.
Tứ sinh: Bốn loài sinh từthai, noãn, thấp,
hóa sinh. Do nghiệp lực chiêu cảm thành sinh ra trong bốn loài.Thai sinh: Loài trong thai mẹ sinh ra. Noãn sinh: Loài trong trứng sinh ra. Thấp sinh: Từ hàn nhiệt mà sinh ra: như
loài trùng, dòi ở nơi ẩm ướt. Hóa sinh:
Là dựa vào nghiệp lực mà sinh ra như loài trời. Trong lục đạo, người cùng súc
sinh có đủ bốn loại: Thai, Noãn, Thấp, Hóa sinh.
Chúng ta có thể thấy loài súc sinh thuộc
ba loại thai, noãn, hóa sinh. Riêng chúng cõi quỷ thì có hai loại thai sinh và
hóa sinh. Còn tất cả chư thiên cùng chúng ở cõi âm và địa ngục thì thuộc về hóa
sinh.
Hôm nay tại đạo tràng những chúng sinh
hiện diện có thể nhìn thấy, hoặc không nhìn thấy, đồng lễ “Bảo sám”, phát đại
tâm, đại nguyện để báo Phật ân, lúc công đức chưa làm xong, nguyện dùng sức mạnh
công đức sám hối này, cảm hóa chúng sinh hiện có. Khiến phát đại tâm thọ trì giới
Phật không hủy phạm. Dùng sức công đức sám hối này khiến ta đối với chư trưởng
bối, bạn đồng tu không sinh tâm ngã mạn tự kiêu, sống không có tâm tranh đấu,
chẳng khởi tham sân. Nếu thấy người có thân tướng tuyệt hảo, dung sắc tốt hơn
mình thì không khởi tâm tật đố. Nếu gặp chúng sinh hướng ta cầu pháp tu hành xuất
tam giới, tuyệt chẳng lẫn tiếc. Ta có làm được thiện sự và gieo trồng công đức
phúc điền gì, đều hồi hướng cho chúng sinh, cả đến loài cô quỷ, dã quỷ, những
chúng sinh thọ khổ trong địa ngục và tất cả những chúng sinh không được ai tạo
công đức cho, thì ta cũng xin hồi hướng phúc cho họ.
Trước dùng dục câu dắt (thỏa mong cầu cho
họ), sau dẫn vào biển trí tuệ Phật. Đối với người nghèo thường hành bố thí, đối với người cần an ủi thì ban
cho lời dịu dàng, đối với người cần
hỗ trợ thì giúp đỡ làm lợi, đối người
hữu duyên gặp gỡ thì làm đồng sự.
Đây là áp dụng “Tứ nhiếp pháp” tùy duyên mà hóa độ dẫn người vào chánh đạo,
giúp chúng sinh quy hướng Phật đạo. Giúp người già không chỗ nương hoặc kẻ tù tội
mất đi quyền thuộc nương tựa, gặp người không tiền trị bệnh thì phát tâm cứu tế,
khiến họ được an vui, thấy người xâm hại lợi ích tha nhân và quốc gia, thì phải
dũng mãnh ngăn cản cho họ không phạm tội. Nếu gặp kẻ giả thần lộng quỷ, mạo
danh đệ tử Phật để lường gạt tiền tài, thì phải giảng cho họ hiểu, dùng tiếng
sư tử uy dũng để nhiếp phục, khiến họ cải tà quy chính.
Trong tất cả công tác sinh hoạt, trong
tâm thường luôn có Phật. “Nhẫn được những
điều người không thể nhẫn, làm được những điều người không thể làm” xem tất
cả đều là Bồ-tát, mình là phàm phu. Lúc nào cũng kiểm điểm tu sửa bản thân, tùy
duyên độ người.
Đây chính là hành hạnh Bồ-tát, nối tiếp
huệ mệnh Phật. Ngưỡng mong chư Phật, Bồ-tát cùng thiện tri thức gia hộ, giúp đại
chúng hôm nay phát đại nguyện, đạo tâm tăng mạnh.
CHƯƠNG
1 – QUY Y TAM BẢO
Sám
văn:
Hôm
nay Đại chúng nên sinh tâm giác ngộ; biết đời là vô thường, thân không tồn tại
lâu, trẻ mạnh rồi phải già yếu; chớ ỷ hình dung tốt đẹp mà tự làm nhiễm ô
(không giữ tịnh hạnh). Vạn vật vô thường, thảy đều tiêu diệt đâu có gì còn mãi?
Lúc
trẻ thấy dung nhan mỹ lệ, nhưng thân này vốn vô thường. Đời có hợp ắt có tan.
Sinh già bệnh chết không hẹn mà đến, ai sẽ trừ những khổ ấy cho ta?
Khi
tai họa thình lình ập đến, không ai tránh được. Dù sang, hèn, giàu, nghèo gì
cũng đều phải chết, thân thể sình trương, hôi thối. Vậy luyến tiếc thân này nào
có ích chi, nếu không lo tu thì chẳng thể thoát khổ.
Giải thích:
Chúng ta đã biết thân mình giống như
sương sớm, chẳng biết mất lúc nào. Được mang thân người là rất khó, bởi: “Một
khi mất thân người vạn kiếp khó phục hồi” huống chi chúng ta không có đức hạnh
gì đáng khen, cho dù ta có trí tuệ, kiến thức thì hành vi ngôn ngữ thường không
tốt, chẳng được trung hòa nhân nghĩa như thánh hiền, cư xử vô lễ, toàn làm việc
điên đảo ngu si, tạo nghiệp ác trùng trùng.
Ta không hiểu rõ nhân quả giống như chư
thánh, cũng chẳng hiểu Phật pháp, tuy ta có nhiều chí nguyện hoài bão song đều
nằm trong vòng danh lợi, cùng đạo trái ngược rất xa.
Ngày nay ta được tham dự pháp hội bái
sám thù thắng này, mong tất cả đồng sinh tâm ăn năn sám hối, hổ thẹn, biết sợ,
biết lo…
Chúng ta thành tâm sám hối giải bày hết
tội nghiệp sâu nặng, hy vọng nương đại thần lực chư Phật, Bồ-tát và đại chúng
mà tiêu trừ tội nghiệp, và pháp hội mau chóng thực hiện xong. Phải biết pháp hội
sám hối này rất là thù thắng hy hữu.
Mong mỗi người chúng ta tự nỗ lực tinh tấn,
sống lúc nào cũng có Phật trong tâm, thờ phụng Tam bảo đến hết đời, lấy đây làm
vui, pháp hỷ sung mãn. Mong chư vị đồng tu gìn giữ tâm mình, không nên khởi niệm
sai phạm. Hằng mặc giáp nhẫn nhục (ý nói luôn nhẫn giỏi không khởi tâm sân, khi
bị người lăng nhục chửi mắng, phỉ báng, thì khéo dập tắt tham sân si siêng tu
giới định huệ, như vậy mới là thâm nhập pháp môn). “Kinh Lăng Nghiêm” dạy: “Nhiếp
tâm giữ giới, nhân giới sinh định, nhân định sinh huệ. Đây là tam vô lậu học”.
Chúng con… (người bái sám tự xưng tên họ
pháp danh mình ra) bao gồm những người đến tham dự đạo tràng (trong đây có nhiều
chúng sinh mắt ta có thể thấy hoặc không thể nhìn thấy như: Thiên thần, Thọ thần,
Thảo mộc thần, Chư tiên, cùng những vong linh hoạnh tử chưa đầu thai)…
Trước khi lễ sám, người bái sám có thể ở
tại đạo tràng âm thầm nghĩ đến những oan gia trái chủ hay quyến thuộc chưa tin
Phật (thuộc đời quá khứ hoặc hiện tại) của mình, dù họ còn sống hay đã mất, chỉ
cần chư vị niệm tên họ, triệu thỉnh âm thầm nếu như họ đến trước Phật, dù chỉ
khom lưng xá chào hoặc lạy một lễ, chắp tay một lúc, thì xem như là chỉ kết
chút thiện duyên nhỏ bé mỏng manh, song thần thức họ nhờ được bạn kêu mời nên mới
có thể lập tức đến, hiện diện tại đạo tràng này, nếu họ phát tâm chịu tham dự
pháp hội sám hối lễ Phật này, thì ắt sẽ thu được rất nhiều lợi ích.
Khi bạn niệm tên họ, giống như ban cho họ
vé vào cửa để tham dự, nên họ đối với bạn sinh tâm cảm kích không cùng, nhân
đây có thể phát sinh tác dụng hóa giải oán hận.
Thông thường tại các pháp hội lớn nhỏ,
hay ngay trước Phật đường nhà mình (khi chúng ta tụng kinh lễ Phật, sám hối, bạn
vẫn có thể mời thỉnh họ tham gia), dần dần bạn sẽ phát hiện ra: Người trong nhà
cũng đang quy hướng Phật giáo. Thậm chí các oan thân trái chủ trước đây còn có
thể sẽ hướng bạn báo tin vui (tha thứ) trong mộng.
Đương nhiên trong sinh hoạt bình nhật,
trước tiên bạn phải nghiêm trì giới luật. Muốn hành giỏi Phật pháp, bạn phải
làm một người tốt, chu toàn bổn phận trách nhiệm ở cương vị mình. Là đệ tử Phật
thì bắt buộc bạn phải là chồng tốt, vợ hiền, con ngoan, cha mẹ tốt, cha mẹ chồng
bao dung… để mọi người, khi nhìn thấy đệ tử Phật có tư cách, phẩm hạnh ngày
càng cao thượng, thì họ mới tin rằng: Phật giáo thực sự đem lại lợi ích cho bản
thân và gia đình, như vậy mới chịu thử nghiệm, bước vào đạo.
Quỷ thần cũng thế, họ đều có “tha tâm
thông” nên có thể đọc được tư tưởng con người, bạn nghĩ gì, làm gì… họ đều nhìn
rõ mồn một. Nếu bạn là người ác mà muốn gọi họ đến, họ không thèm tới đâu!
Sám văn:
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng, nên tha thiết, phát tâm dũng mãnh, tâm an trụ, quảng đại, thù
thắng, không buông lung, tâm đại từ bi, hảo thiện, hoan hỷ, tâm báo ân, tâm tế
độ, tâm giữ gìn, tâm che chở cứu độ hết thảy chúng sinh giống như tâm Bồ tát,
chư Phật! Xin nhất tâm nhất ý, chí thành đảnh lễ Tam bảo…
Nguyện thay thế quốc vương, chủ nước,
thổ địa, nhân dân, cha mẹ, sư trưởng, thiện ác tri thức (ác tri thức là người tạo
nghịch hạnh giúp ta tu hạnh nhẫn – nên ta phải dùng tâm biết ân đối với họ giống
như đối với thiện tri thức), chư thiên, chư tiên, hộ thế Tứ thiên vương, chủ
thiện phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ phương Long vương, Long thần bát bộ khắp mười
phương vô cùng vô tận, bao gồm tất cả chúng sinh có tâm linh, có thần thức, hoặc
ở dưới nước, trên bờ, hoặc ở không trung; xin nguyện thay hết thảy chúng sinh ấy
mà qui y mười phương tận hư không giới hết thảy chư Phật, Tôn pháp, Hiền Thánh
Tăng.
Giải thích:
Phật là “Phật-đà-da” thuộc cổ ngữ Ấn Độ,
dịch là giác ngộ, tức là bậc đại trí huệ hiểu rõ chân tướng vũ trụ vạn vật. Trong
kinh Đại thừa Tâm Địa Quán, giảng rõ: “Về ân đức Tam bảo” thì Phật bảo có sáu
công đức vi diệu:
1. Là Đại công đức điền vô thượng.
2. Là Đại ân đức vô thượng.
3. Là Đại tối tôn trong tất cả.
4. Khó gặp như hoa ưu đàm.
5. Xuất hiện độc nhất trong tam thiên đại
thiên thế giới.
6. Là công đức viên mãn cho cõi thế lẫn
xuất thế.
Sáu công đức đầy đủ này có thể làm lợi
khắp chúng sinh. Nên gọi là Phật bảo, ân không thể lường. Trong kinh này, có
người hỏi Phật:
- Đã có vô lượng hóa Phật hiện đầy thế
giới làm lợi lạc cho chúng sinh, nhưng vì sao chúng sinh trong thế gian đa số đều
không nhìn thấy Phật và lại gặp đủ khốn khó phiền não như thế?
Nghi vấn này cũng là điều mà đa số thắc
mắc. Phật đã giải thích như sau:
- Thái dương luôn chiếu soi khắp, nhưng
riêng người mù không thể nhìn thấy, vậy thái dương có mất chăng? Đương nhiên là
không! Chư Phật thường giảng chánh pháp làm lợi lạc chúng sinh, nhưng do chúng
sinh hay tạo ác nghiệp, không ăn năn thẹn hổ, cũng chẳng hề có tâm muốn thân cận
Phật-Pháp-Tăng.
Những chúng sinh do tạo tội rất sâu nặng,
nên từ vô lượng kiếp đến nay họ không thể thấy hay nghe đến danh từ “Tam bảo”,
hệt như kẻ mù không nhìn thấy thái dương. Nếu ai có thể thờ phụng cung kính tu
theo Phật pháp, tôn trọng Tam bảo, thì người này nhất định nghiệp chướng sẽ
tiêu trừ, phúc huệ tăng trưởng, rất mau được thấy Phật.
Phật cũng là từ phàm phu tu mà chứng quả.
Xin ví dụ thế này:
“Người không hiểu Phật pháp, giống như kẻ
sinh ra bị bệnh đục thủy tinh thể, chỉ thấy tối đen, dù họ có sờ chạm đến vật,
tuy thanh âm, khướu giác nhận được nhưng không rành gì, họ giống như kẻ mù sờ
voi, vĩnh viễn không biết diện mạo con voi ra sao.
Dù có được người sáng mắt giải thích
miêu tả hình dáng con voi lẫn cách sinh hoạt, thì người mù cũng khó tưởng tượng
hình dung ra. Họ sẽ nói:
- Bạn nói con voi màu xám, vậy màu xám
ra sao?
Thế là người sáng mắt bèn chế tạo một mô
hình con voi chuyển động để cho đám người mù dùng tay sờ thử. Những kẻ mù xôn
xao, đồng khen người sáng mắt “quá vĩ đại, tài ba”, thậm chí có dùng hết mọi
ngôn từ tuyệt vời trên thế gian này cũng không biểu đạt được hết sự khâm phục của
kẻ mù dành cho người sáng mắt. Không những họ khen người sáng mắt thông minh
khéo tay, mà còn cảm kích người sáng mắt có thể dắt mình qua đường và miêu tả cảnh
sắc của thế giới tỉ mỉ rõ ràng cho họ.
Ngày nọ, có một phú ông xót thương kẻ mù
và phát tâm cho phẫu thuật miễn phí để giúp người mù hồi phục nhãn quang. Khi
người mù tháo lớp băng che mắt ra rồi, lần đầu tiên được nhìn thấy ánh sáng,
chiêm ngưỡng cảnh quang và màu sắc của thế giới, họ kinh ngạc vui mừng không thể
tả.
Sau khi bình tĩnh, họ bỗng ý thức được
nguyên lai mình có đôi mắt tinh tường giống như bao người sáng mắt, nhưng do bị
bệnh nên không thể thấy ánh sáng, thế là trong lòng họ tự trách mình ngu si, vì
sao không sớm đi phẫu thuật?...
Kể ra câu chuyện này, tôi muốn nói rằng
những người mê đắm ngũ dục (tài, sắc, danh, ăn, ngủ) giống như người bị bệnh đục
thủy tinh, còn thiện tri thức là người sáng mắt, còn kinh điển… và Phật là nhà
tỷ phú từ bi. Sau khi phẫu thuật (trừ bỏ vọng tưởng chấp trước mê đắm ngũ dục rồi),
nếu như bất kỳ ai có lòng can đảm, dám bước vào nhà phẫu thuật, chịu nhận thống
khổ (xả dục) thì ánh quang minh sẽ lập tức hiện ra trước mắt ngay. Bởi vì ai
cũng có đầy đủ trí huệ quang minh “bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh” giống
như chư Phật, Bồ-tát.
Phật là chúng sinh đã giác, còn chúng
sinh là những vị Phật chưa giác ngộ. Một khi chúng sinh giác, thì bình đẳng
cùng Phật không khác, chẳng còn phân cao thấp trên dưới nữa.
Phật Thích Ca Mâu Ni là đạo sư trực tiếp
của chúng ta, là thầy bổn sư, nên chúng ta mới niệm: “Nam mô Bổn sư Thích Ca
Mâu Ni Phật”…
Nam mô: Gọi theo tiếng phạn có hàm ý quy
y. Giáo pháp mà Phật Thích Ca giảng, không những vô lượng chư Phật trước Ngài từng
đã giảng, mà sau Ngài, chư Phật vị lai cũng sẽ giảng như thế. Bởi vì tận hư khắp
pháp giới, lý đạo chân thật vốn như thế - vốn là quy luật thế gian – Phật pháp
không phải do một vị Phật sáng tạo phát minh ra, nên không thể viện cớ: Nhân vì
thời đại biến đổi mà có thể cải sửa tạo mới, thậm chí còn không thể chỉnh sửa một
từ! Vì vậy mới nói: “Lìa kinh dù chỉ một chữ thì không phải Phật thuyết!”
Giống như thành phần nước là H2O,
nhất định ta không được tăng lên thành H3O, cũng không thể giảm
thành HO. Bởi tăng hay giảm một chút thì chẳng thể thành phân tử nước. Phật
pháp cũng vậy, chỉ có y theo những gì Phật thuyết mà tu mới có thể liễu sinh
thoát tử. Nếu sửa đổi lời Phật thuyết thì chính là ma thuyết! Y theo lời Ngài
mà thực hành, nhất định sẽ thành tựu. Tuyệt đối không thể viện cớ, lấy tiếng là
“để cho thuận hợp với thời đại trào lưu”, hoặc nhân danh “tân tiến” mà xuyên tạc
bóp méo…
Cho nên, qui y Phật không phải là qui y
riêng với một vị Phật nào, mà bao gồm qui y tự tính Phật của tất cả chư Phật tận
hư không khắp pháp giới. Qui y tự tính Phật có nghĩa là tâm chúng ta từ hắc ám
chuyển sang quang minh, tức tâm là Phật!
Qui y Pháp cũng không phải qui y với
riêng một bộ kinh nào của Phật giảng, mà là qui y tất cả Phật pháp hiện hữu.
Trong “Luận Đại Trí Độ” nói: Phật pháp không những do chính kim khẩu Phật thuyết
mà còn là thiện ngữ chân thật vi diệu tốt lành của thế gian, tất cả đều xuất
sinh trong Phật Pháp.
Trong “Phật Tỳ Ni” thuyết: Sao là Phật
pháp? Phật pháp do (ngũ chủng nhân) năm loại người thuyết:
Một là từ kim khẩu Phật thốt ra. Hai là
do đệ tử Phật nói. Ba là do tiên nhân nói. Bốn là do chư thiên nói. Năm là do
hóa nhân nói.
Kinh pháp Phật giảng, có khi vì người mà
phương tiện thuyết pháp cứu cánh viên mãn. Chữ (經) “Kinh” củaTrung Quốc có nghĩa là (路 lộ) “đường”. Bên trái
chữ kinh (經) có chữ (幺) yêu, là biểu thị đường
vòng, cong quanh. Còn ba chấm (小)
ở dưới chỉ cho núi cao hoặc vực sâu. Phần dưới cụm chữ bên phải hàm ý: Đường thẳng
ít mà cong thì nhiều.
Phật giảng kinh thuyết pháp, là chỉ
chúng ta cách đi trên con đường nhân sinh như thế nào, làm sao không bị va vào
núi cao, không té vào vực sâu. Chẳng nên đi đường vòng (ngoài tâm cầu pháp). Thế
nên những kinh pháp Phật giảng đều là diệu pháp cao tột, vì muốn giáo hóa người
có căn cơ bất đồng lìa khổ được vui mà lập ra.
Giống như giáo trình Tiểu học và Đại học
được biên soạn là dành cho người có trình độ bất đồng, chỉ cần phù hợp căn cơ
thì thảy đều là tuyệt hảo, hạng nhất hết.
“Quy y Tăng”, nghĩa là qui y tất cả Hiền
Thánh, là những bậc có đức hạnh siêu phàm. Cũng có thể gọi là “thượng nhân” (là
“người trên tất cả người”).
Qui y Tăng, là qui y Phúc điền Tăng
thanh tịnh, bậc không tham tài sắc danh lợi. Xin giảng rõ hơn một chút, hiện
nay đã không còn là thời Phật ngủ qua đêm dưới cây hay đi khắp nơi khất thực mỗi
ngày một bữa. Vì hồi đó Phật và đệ tử sinh sống tại Ấn Độ, trên thân trừ y bát
ra không có thứ gì, còn ngày nay tu sĩ còn có Tự viện, Am đường, chỉ cần Tăng
chúng tu hành y như Phật chỉ dạy, tất nhiên sẽ được nhân, thiên… cúng dường. Vì
“đạo cao long hổ phục, đức trọng quỷ thần khâm”.
Cho nên ngoài tứ sự cúng dường ra mà còn
tham lam hướng người chìa tay xin tiền xin vật, đều không thể xem là bậc chân
tu, càng chẳng phải là hiền thánh. Ngài Tuyên Hóa từng giảng:
Hễ tu mà còn tham tiền, thì không xứng
được bá tính và cư sĩ kêu sư phụ, càng không có tư cách xưng sư phụ, bởi vì Sư: Là hướng dẫn tri thức; Phụ: Là nuôi dưỡng con trưởng thành, mà
bậc từ phụ thì chỉ hướng dẫn con (cho ra mà không đòi nhận, chỉ khi con thành
tài rồi thì tự nhiên sẽ cung dưỡng phụ mẫu).
Ngài còn giảng: Người xuất gia khi thọ
người đảnh lễ, nếu không đắp y ( đại diện phúc điền y của Phật) thì xem như chỉ
là bá tính cạo đầu suông, không đủ tư cách nhận người đảnh lễ. Bởi vì bạn vốn
là kẻ phàm phu xuất gia tu hành, trước
khi chưa chứng quả Phật, Bồ-tát, bạn vẫn là một phàm phu, cho dù có làm Hòa thượng
trụ trì chăng nữa, thì chỉ khi thân có đắp Thượng y mới đủ tư cách nhận người đảnh
lễ, nếu không sẽ bị tăng tội tiêu phúc.
Ngài Tuyên Hóa mỗi lúc nhận đệ tử đảnh lễ,
trước tiên ngài đều đắp Thượng y vào, rồi mới cho họ lễ. Ngài nói: “Không đắp y mà nhận người đảnh lễ sẽ làm
tiêu hao phúc báo của mình (bao gồm cả việc mình tự xưng danh chức)… chẳng
hạn như danh từ Thượng nhân, Pháp sư, Đại
sư… hay Cư sĩ[1]là
do người vì cung kính mà gọi thế, chứ bản thân mình không nên tự xưng ta là Pháp sư, Cư sĩ… lúc tự giới thiệu mình,
chỉ nên xưng pháp danh là đủ.
Tóm lại, người không giữ giới Phật, cho dù có mang tướng xuất gia, cũng không phải
đệ tử Phật, đương nhiên không thể dự vào hàng ngũ Hiền Thánh.
Hiện nay, mọi người đều nói là thời kỳ mạt
pháp, tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng, tà pháp cũng nhiều. Đúng như
trong kinh Lăng Nghiêm Phật nói: “Họ giả
mượn y phục ta, buôn bán Như Lai, tạo đủ tội khiến kẻ sơ học khó phân rõ chánh
tà, sinh hiểu biết lầm lạc...” phát sinh cảnh kẻ mê mờ truyền dạy điều hồ đồ!
Nên tương lai sư phụ vào địa ngục, trò cũng lót tót theo sau.
Người muốn tu học Phật pháp, cần phải
thâm nhập kinh tạng, xem nhiều kinh sách, để có thấy biết chân chính. Phải lấy
pháp Phật thuyết làm tiêu chuẩn, mới có thể đạt được ích lợi và không bị những
kẻ gạt lường tự xưng là “Phật sống, Bồ-tát tái lai” hay mạo danh “Hòa thượng Diệu
Pháp” để lừa bịp…
Sám
văn:
Ngày
nay Đại chúng nên biết vì sao phải qui y Tam bảo.
Vì
chư Phật, Bồ-tát, có lòng từ vô hạn tế độ thế gian, có lòng đại bi vô lượng an ủi
thế gian, thương hết thảy chúng sinh như con một.
Lòng
đại từ, đại bi ấy thường không biết mỏi mệt, hằng làm việc lành lợi ích cho tất
cả: Thề dập tắt lửa tham sân si chúng sinh, giáo hóa khiến cho tất cả đều không
được quả Vô thượng Bồ đề. Nếu chúng sinh không chứng quả Bồ đề. Thệ không thành
chánh giác, vì duyên cớ này mà đại chúng cần phải qui y.
Giải thích:
Chư Phật, Bồ-tát có lòng đại từ đại bi vô hạn, hai từ vô hạn này là chỉ thời
gian không ngừng, không kết thúc. Chữ 濟 tế trong đây hàm ý
không có bất kỳ thiếu sót, khuyết lậu nào, mà rất viên mãn. Bi: hay bạt khổ. Từ: khéo ban vui cho chúng sinh. Phật thương hết thảy chúng sinh
như con, hai từ “chúng sinh” không chỉ riêng nhân loại mà chỉ chung tất cả mọi
loài, nhất định phải giúp chúng sinh dập tắt lửa tham sân si, không những khiến
chúng ta chuyển cuộc sống phiền não thành an vui, mà còn giúp chúng ta liễu
sinh thoát tử, vĩnh viễn không quay lại thọ khổ trong lục đạo tam giới nữa, vì
vậy mà chúng ta cần phát nguyện quy y chư Phật, Bồ-tát.
Phát nguyện độ chúng sinh thành tựu Phật
đạo là phi thường đáng quý. Trong kinh Hiền Ngu có câu chuyện như sau:
BẦN
NỮ NAN ĐÀ
“Thời Phật ở Xá Vệ nơi vườn Kỳ Thọ Cấp
Cô Độc, trong nước có một nữ nhân nghèo khổ cô đơn xin ăn sống qua ngày tên Nan
Đà. Cô thấy quốc vương đại thần và bao người cúng dường Phật và chúng tăng.
Trong lòng hết sức hổ thẹn buồn bã. Biết mình do đời trước tạo tội mà bị nghèo
hèn. Nay đã được gặp ruộng phước mà lại không thể cúng dường chi thì rất uổng,
thế là cô bèn đi xin, mong có được vật gì đó để cúng dường Tam bảo.
Nhưng xin cả ngày mà chỉ được một xu. Cô
liền đến tiệm mua dầu. Chủ quán hỏi:
- Một xu đâu có mua được bao nhiêu dầu,
cô dùng làm chi?
Nan Đà liền thổ lộ ước mơ được cúng dường
Tam bảo của mình, người bán dầu nghe vậy cảm thông, liền bán cho cô nhiều gấp
đôi. Nan Đà vui lắm, cô chế ra một cây đèn dầu nhỏ đem đến tịnh xá cúng Phật.
Cô đặt vào hàng đèn đầu tiên trước Phật và phát nguyện:
- Con hiện nay quá nghèo, chỉ có cây đèn
nhỏ xíu này cúng dường Phật, nguyện nhờ công đức này, khiến đời sau con đắc đại trí huệ, có thể chiếu
soi diệt trừ u ám cấu uế cho tất cả chúng sinh. Phát thệ xong, cô lễ Phật rồi
đi.
Lúc trời sáng, chỉ duy nhất ngọn đèn nhỏ
của Nan Đà còn cháy mạnh, lúc này Mục Kiền Liên là đệ tử thần thông bậc nhất của
Phật đang trực ngày hôm đó, thấy trời sáng bèn đi thu dọn đèn. Phát hiện cây
đèn tuy nhỏ mà cháy sáng dữ, tim đèn cứ như mới thắp, không có bất kỳ tổn hoại
nào, Mục Liên thầm nghĩ: “Ban ngày đâu cần để đèn cháy làm chi”…, bèn cầm lên
quạt tắt nó, nhưng quạt mấy nó cũng không tắt, nó vẫn cháy mãnh liệt…
Phật thấy vậy bèn bảo Mục Liên:
- Cây đèn này không phải hàng Thanh văn
La hán như các ông có thể làm lay động được, dù ông có dùng thần thông lấy hết
nước bốn biển hay hiện cuồng phong mà dập tắt thì cũng chẳng được, bởi vì đây là đèn của một người cúng dường đã phát
đại Bồ đề tâm sẽ quảng tế chúng sinh…
Phật nói xong thì vừa vặn lúc đó Nan Đà
đi đến bái kiến Phật. Thế Tôn bèn thọ ký cho cô:
Tương lai, vào khoảng hai A tăng kỳ trăm
kiếp, Ngươi sẽ thành Phật hiệu là Đăng Quang (đèn sáng) có đủ mười danh hiệu của
Phật.
Nan Đà được thọ ký hết sức vui mừng, cô
vội quỳ xuống xin xuất gia. Phật đồng ý độ cho cô thành Tỳ-kheo-ni”.
Mọi người xem, cây đèn nhỏ của một cô
gái nghèo cúng dường, phát tâm Bồ đề nguyện cứu độ tất cả chúng sinh, khiến bậc
thần thông đệ nhất như Mục Kiền Liên không thể nào dập tắt được, đủ thấy sức mạnh
của tâm Bồ đề vi diệu không thể nghĩ lường. Vì vậy nếu không phát Bồ đề tâm ắt
chẳng thể thành Phật, chúng ta tu hành nhất định phải phát Bồ đề tâm, mà phát Bồ
đề tâm đầu tiên chính là: Phải qui y Tam bảo.
Sám
văn:
Chư
Phật thương xót chúng sinh vượt xa cha mẹ. Cha mẹ thương con chỉ một đời, còn
lòng Phật thương chúng sinh là vô tận. Cha mẹ thấy con vong ân bội nghĩa thì
sinh giận hờn, tình thương giảm sút. Còn chư Phật, Bồ-tát thì không như vậy, thấy
chúng sinh bội nghịch lòng càng xót thương. Đến nỗi các Ngài còn vào ngục Đại Hỏa
Luân, địa ngục Vô Gián… mà thay chúng sinh chịu vô lượng khổ.
Chư
Phật, Bồ tát thương chúng sinh hơn cha mẹ, nhưng do chúng sinh bị vô minh che lấp
trí huệ, phiền não làm mờ tâm, đối với chư Phật, Bồ-tát không biết quy hướng.
Dù gặp các Ngài thuyết pháp giáo hóa, không những họ chẳng tin mà còn buông lời
phỉ báng, nói năng thô lỗ, chừa từng có chút lòng nhớ ân chư Phật. Do bởi không
tin nên chúng sinh cứ tạo tội rồi đọa vào các đường ác: Địa ngục, ngạ quỷ, súc
sinh; chịu vô lượng khổ. Khi tội hết được ra, tạm sinh làm người, thì tai mắt
không đủ, thân thể xấu xa, không biết tu thiền định và ngu si vô trí. Chúng
sinh có những quả báo làm chướng ngại như vậy là do không có lòng tin.
Giải thích:
Do không tin chánh pháp, tất nhiên sẽ chẳng
thèm tu, tương lai ắt mãi luân hồi nơi cõi ác, lăn lộn trong tam đồ[2].
Thọ tội xong thì sinh vào nhân gian, lại bị mang thân tàn tật, xấu xí, mắt tai
mũi lưỡi thân ý không được vẹn toàn hoặc bị chướng ngại. Đây là tự làm tự chịu,
vì không có định lực trí huệ, do chẳng tin Phật pháp mà tạo thành. Những người
này rất đáng thương.
Chư Phật, Bồ-tát đều có nguyện lực thay
chúng sinh thọ khổ. Trong kinh Bát Đại Nhân Giác, điều thứ tám của Bồ tát là:
“Sinh
tử mênh mông, khổ hải vô lượng, phát tâm phổ độ tất cả, nguyện thay chúng sinh
thọ vô lượng khổ, khiến chư chúng sinh an lạc”.
Chúng ta thường nghe chư cao tăng đại đức
phát nguyện:
“Nguyện
bệnh khổ chúng sinh trong thiên hạ mình tôi chịu thay, nguyện phúc báu hiện đời
xin thí hết cho chúng sinh trong thiên hạ…”
Như Hòa thượng Hư Vân, Quảng Khâm, Tuyên
Hóa, v.v… đều là từng phát tâm thay chúng sinh chịu khổ mà thị hiện thân bệnh để
gánh bớt nghiệp thay chúng sinh, giảm nhẹ thống khổ cho họ.
Hòa thượng Hư Vân, lúc tuổi cao còn bị
ngược đãi, bị đánh đến ngất đi, cũng là thay chúng sinh tiêu nghiệp. Nếu không
có bậc thánh nhân như ngài thay chúng sinh gánh bớt nghiệp khổ, thì lúc đó bá
tính bị thảm nạn còn trầm trọng hơn.
Thay chúng sinh gánh nghiệp, giống như
“Kinh Địa Tạng” từng mô tả: “Nếu gặp thiện
tri thức ra sức gánh phụ, hoặc gánh vác hết dùm, là vị tri thức ấy có đại lực…”
người tu hành đức hạnh cao, chỉ cần phát nguyện chia sớt nghiệp tội giúp
chúng sinh, thì khổ đó sẽ gánh ngay trên thân mình. Giống như người dốc toàn lực
chăm sóc bệnh nhân, thì thân cũng bị mệt nhọc ảnh hưởng lây vậy.
Tình huống các hành giả khi gánh nghiệp
phụ cho người khác thường bị sinh bệnh hoặc thọ khổ rất thường xảy ra.
Chỉ người nghiêm trì giới luật, có đủ định
huệ mới là Thiện tri thức có đại lực. Cho nên người đại tu hành mà bị bệnh nặng,
cũng có thể do “đại nguyện tạo thành”, chuyện này trong sử Phật giáo ghi rất
nhiều. Nhưng liệu có được mấy người tin và hiểu?
Có người chẳng những không tin, lại còn
phỉ báng:
- Thấy chưa? Tại Sư X tu hành không tốt
nên mới bị bệnh nặng vậy đó!
Và họ thốt lên lời gièm chê chỉ trích đủ
hết…
Đây là lời của người cống cao ngã mạn. Bọn
họ nào biết: “Phỉ báng bậc đại Thiện là tạo tội địa ngục, là đang bị vô minh
che huệ, tự cắt đứt đường tu của mình”.
Giải thích đến đây tôi bỗng nhớ tới chuyện
Phật phái ngài Văn Thù đi thăm bệnh Cư sĩ Duy Ma Cật. Đoạn văn đối thoại rất
hay:
Ngài
Văn Thù hỏi:
-
Nay bệnh của cư sĩ dễ chịu không? Điều trị có bớt mà chẳng thêm không? Thế Tôn
gởi lời vô lượng ân cần để hỏi thăm cư sĩ. Bệnh do đâu mà khởi? Đã bao lâu rồi?
Làm sao mới khỏi được?
Cư
Sĩ Duy Ma Cật đáp:
-
Từ Si có Ái thì bệnh Ngã sanh. Vì tất cả chúng sanh bệnh nên tôi bệnh, nếu tất
cả chúng sanh chẳng bệnh thì tôi khỏi bệnh. Tại sao? Bồ Tát vì độ chúng sanh
nên vào sanh tử, có sanh tử thì có bệnh. Nếu chúng sanh được lìa bệnh thì Bồ
Tát chẳng còn bệnh. Ví như trưởng giả chỉ có một đứa con, con bệnh thì cha mẹ
cũng bệnh, nếu con lành bệnh thì cha mẹ cũng lành. Bồ Tát cũng như thế, đối với
chúng sanh thương mến như con ruột, nếu chúng sanh bệnh thì Bồ Tát bệnh, chúng
sanh lành bệnh thì Bồ Tát cũng lành. Còn nói về bệnh này do đâu mà khởi, bệnh của
Bồ Tát do Đại Bi khởi.
Cư sĩ Duy Ma Cật đã giảng giải rõ như thế,
chúng ta tuyệt không nên vừa nghe Hòa thượng X hay Cư sĩ Y… bị bệnh, thì liền
khởi tâm khinh dễ miệt thị: “Tại họ không tu hành!”.
Đây có thể là nghiệp tiền sinh hoặc do họ
phát nguyện thay chúng sinh gánh bệnh. Những người đối với chư đại đức cao tăng
bị bệnh mà sinh nghi, thốt lời hủy báng, thì nên mau mau sám hối. Như lỡ buông
lời phỉ báng qua sách hoặc băng đĩa, thì phải lập tức đính chính sám hối sửa sai
ngay, mới có thể làm tiêu tan ảnh hưởng chẳng lành, bằng không sẽ đọa A tỳ địa
ngục.
Sám
văn:
Ngày
nay đại chúng đã biết tội nghi nặng hơn các tội, khiến người tu hành lâu mà vẫn
không được thấy Phật.
Từ
nay trở đi, cho đến ngày thành Phật, nguyện khởi lòng tin kiên cố, không thối
chuyển.
Khi
xả thân nầy dù sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hay những nơi có đủ khổ
não khó kham, chúng con xin thề: Không vì khổ ấy mà mất lòng tin hôm nay.
Nguyện
Chư Phật, Bồ-tát, đồng gia tâm cứu hộ, khiến đệ tử… tín tâm kiên cố, chúng ma,
ngoại đạo cũng không thể phá hoại. Xin chí tâm, tha thiết, đầu thành đảnh lễ…
Giải thích:
Do đối với lời Phật dạy không tin, nên
nhiều người cả đời chẳng được nghe Phật pháp. Tin là mẹ của đạo, là cội nguồn công đức giúp trưởng dưỡng tất cả thiện
pháp. Cho nên nói: “Bất tín là thiệt thòi nhất”.
Hôm nay đại chúng dự hội lễ bái, đồng
nghe sám văn phát lộ tội, sinh lòng hổ thẹn, nhất định đã biết lỗi thì phải sửa,
phải tu dũng mãnh tinh tấn, dùng tâm bi thống vạn phần, chí thành đảnh lễ cầu
chư Phật, Bồ-tát gia trì tiêu tan nghiệp tội. Khi tội tiêu thì nhất định không
tạo thêm nữa. Được thanh tịnh rồi, từ này về sau, phải nghiên cứu kinh tạng để
hiểu sâu mà như pháp tu hành, tuyệt chẳng nên hoài nghi, thối tâm, mới có thể
nhập vào của chánh tín Phật giáo. Nếu không làm vậy, thì trên đường tu sẽ gặp
chướng ngại trùng trùng. Giả như sinh ra vẫn không thể thoát sinh tử, thì bất kể
tương lai sinh vào cõi nào, mang thân gì, chúng ta cũng chẳng mất lòng tin hôm
nay. Ngưỡng nguyện chư Phật, Bồ-tát từ bi gia hộ.
Sám
văn:
Cõi
trời, cõi người đều huyễn, mong manh, biến hóa vô cùng. Do chúng sinh chìm đắm
mãi trong vòng sinh tử, trôi lăn hoài trong biển ái khổ đau. Thấy chúng sinh
đau khổ như vậy, Phật rất thương xót.
Giải thích:
Kinh Bi Hoa dạy: “Nguyện lực chư Phật, Bồ-tát
mỗi mỗi không đồng nhau, Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tướng đoản thọ, vì
thương chúng sinh trôi nổi đắm chìm trường kỳ trong biển khổ, nên dùng thân phú
quý, đoạn dục khử ái, tìm phương giải thoát sinh tử, thị hiện cho chúng ta thấy
cảnh sáu năm khổ hạnh nơi núi tuyết, ngoài tâm cầu pháp không thể thành, cuối
cùng buông hết tất cả vọng tưởng, ngồi dưới cội Bồ đề giác ngộ thành Phật”.
Điều này khai thị cho chúng ta: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, chỉ cần
buông bỏ vọng tưởng phân biệt chấp trước đối với ngũ ấm, đều có thể thành Phật.
Phật Thích Ca Mâu Ni 49 năm bôn ba gian
khổ, không ngại nhọc nhằn, giảng kinh thuyết pháp, giáo hóa điều phục những
chúng sinh cang cường như chúng ta, những gì cần giảng đã giảng xong, chúng sinh
cần độ đã độ hết, thì thị hiện nhập Niết bàn! Nếu Ngài còn trụ lâu ở đời, đệ tử
Ngài sẽ ỷ lại mà chẳng thèm tinh tấn, giống như cha giàu sang còn sống ở đời,
thì con cái hay có tâm ỷ y, không chịu tự lập gánh vác gia nghiệp.
Thực ra Phật chưa từng rời bỏ chúng ta.
Đúng như “Kinh Địa Tạng” từng giải thích: Đến nay Phật Thích Ca vẫn dùng trăm
ngàn vạn ức hóa thân, tại vô lượng thế giới giáo hóa cứu độ chúng sinh, hoặc hiện
thân nam, nữ, thiên long, quỷ thần, thậm chí còn hiện làm núi, rừng, sông,
ngòi, ao, hồ, giếng, suối… để làm lợi ích cho tất cả. Nhưng hạng chúng sinh như
ta bị vô minh che lấp trí huệ, giống như con kiến bò trên đất không nhìn được
bao la. Chư Phật, Bồ-tát xưa nay chưa từng bỏ đi hay lìa xa chúng ta, thậm chí
còn ở lẫn lộn ngay trong đám chúng ta, có nhiều Đại đức đều là Bồ-tát, La hán
tái lai!
Giống như các ngài: Ma Đằng Trúc Pháp
Lan, Tổ sư Đạt Ma, Hòa thượng Hư Vân, Đại sư Hoằng Nhất, Đại sư Ấn Quang v.v…
thậm chí cả trong đám bá tính, những vị vì nước vì dân hy sinh quên mình, tất cả
ngôn hạnh đều nhắm vào làm lợi ích cho người, có thể nói đều là hóa thân chư Phật,
Bồ-tát. Vì vậy, chúng ta nhất định phải có lòng tin kiên cố, phải lấy giới làm
thầy, tu cho đến chứng Bồ đề.
Sám
văn:
Chư
Phật, Bồ-tát chưa bao giờ không lưu tâm hoằng hóa, tế độ, làm lợi ích cho chúng
sinh. Kinh Tam muội dạy: “Tâm chư Phật là tâm đại bi; chỗ tâm của Phật chiếu đến
là nơi chúng sinh thọ khổ”.
Phật
thấy chúng sinh chịu khổ thì đau như tên bắn vào tim, tâm thương xót không yên,
nên muốn diệt khổ ngay cho chúng sinh được an vui.
Chư
Phật hóa độ chúng sinh luôn bình đẳng, Đức Thích Ca ai cũng ca ngợi Ngài là Đấng
dũng mãnh, khéo nhẫn chịu khổ để độ chúng sinh, cho nên phải biết từ ân của Bổn
sư rất sâu nặng. Ngài hay ở nơi chúng sinh khổ đau thuyết pháp, làm lợi ích cho
tất cả.
Giải thích:
Người nghiệp chướng sâu nặng như chúng
ta mãi đến nay vẫn chìm trong biển khổ chưa thoát ra, thảy đềudo nghiệp lực chướng
ngăn… Do tâm ích kỷ tự lợi không có chút từ bi, nên chẳng nghe được một câu từ
kim khẩu Phật thuyết, còn nói chi đến chuyện được chứng kiến cảnh Thế Tôn thị
hiện nhập Niết bàn chói lọi dưới cội Sa la? Mãi đến hôm nay ta mới kết được Phật
duyên hội tụ lễ sám, sinh tâm bi luyến Như Lai, đây thực khiến chúng ta hổ thẹn
đau lòng, ảo não không thôi, xin chí thành đảnh lễ…
Sám
văn:
Nguyện
vì quốc vương chủ nước, nhân dân, phụ mẫu, sư trưởng, tín thí đàn việt, thiện
ác tri thức, chư thiên, chư tiên thông minh chánh trực, thiên địa hư không, hộ
thế tứ vương, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì Chú, ngũ phương Long vương, Long Thần
Bát Bộ… mà đảnh lễ Tam bảo.
Giải thích:
Tín
thí:
Người dùng tài vật cúng dường có lòng tin đối với Phật pháp. Đàn việt: Thí chủ.
Long
Thiên Bát Bộ: Tức Thiên Long Bát Bộ (gồm có 8 loại):
1. Chư thiên Phạm thiên Đế thích, 2. Rồng, 3. Dạ xoa, 4. Càn thát bà (nhạc thần),
5. A-tu-la: Thuộc loài quỷ thần (gần như trời mà không phải trời, vì không có đức
độ lại ưa tranh đấu), 6. Ca lâu la (là Kim Xí Điểu tức chim đại bàng cánh
vàng), 7. Khẩn na la (cũng gọi là phi nhân, trên đầu có sừng, là thần âm nhạc
múa hát của Đế Thích), 8. Ma hầu la già: Tức thần đại mãng xà.
Tám bộ này thường ủng hộ Phật pháp, mắt
người thường không nhìn thấy họ. Dù không thể thấy, nhưng họ thực sự có tồn tại.
Xin
thay hết thảy chúng sinh chí thành đảnh lễ qui y mười phương chư Phật, tôn
Pháp, Hiền Thánh Tăng…
Chư
Phật là bậc đại thánh, thấu rõ hết thảy
pháp, là Đạo sư của Trời người, nên con nguyện qui y.
Tôn
pháp tánh thường trú, tâm địa hằng thanh tịnh, hay trừ bệnh thân tâm, nên con
nguyện qui y.
Đại
địa chư Bồ-tát, Vô trước tứ Sa môn hay cứu hết thảy khổ, nên con nguyện qui y.
Sa môn: Gọi chung người xuất gia.
Tứ Sa môn: Gồm có bốn loại Sa môn:
1. Thắng đạo Sa môn: Chỉ người nghiêm
trì giới luật, khéo diệt phiền não.
2. Thị đạo Sa môn: Là người có thể tuyên
giảng chính pháp, khiến chúng sinh vào đạo.
3. Mệnh đạo Sa môn: Khéo điều phục phiền
não, siêng tu thiện pháp, trí huệ tăng trưởng.
4. Ô đạo Sa môn: Chỉ người xuất gia phạm
giới sát, đạo, dâm, vọng… nhưng lại thọ người cúng dường.
Bốn hạng Sa môn này đều phát huy tác dụng
giáo hóa tha nhân (Ô đạo Sa môn khiến người nhìn ra những tệ lậu mà không làm
giống như họ).
Sám
văn:
Chúng
con tên… ngày nay xin thay các chúng sinh mà qui y Tam bảo. Nguyện nhờ công đức
này khiến các chúng sinh đều được mãn nguyện.
Nguyện
các chúng sinh ở trong loài trời hay tiên… hết nghiệp hữu lậu[3],
ở trong loài A tu la xả bỏ tánh kiêu mạn, ở trong loài người thì không còn khổ
đau. Nếu ở trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì được tức khắc thoát ly.
Lại
nữa, nguyện hôm nay những ai được nghe và không nghe danh Tam bảo đều nhờ thần
lực của Phật mà được giải thoát, hoàn toàn thành tựu Vô thượng Bồ đề.
Giải thích:
Đoạn văn trên cầu Phật lực gia trì tất cả
chúng sinh trong lục đạo, nhờ quy y Tam bảo mà lìa khổ được vui, chứng đắc trí
huệ sớm thành Phật.
Công đức quy y Tam bảo không thể nghĩ lường,
trong “Chúng Kinh Tạp Thí Dụ” có kể một câu chuyện nhờ quy y Tam bảo mà chuyển
đổi số mệnh như sau:
“Có một vị trời hưởng phúc trời đã hết,
sẽ phải đầu thai xuống nhân gian làm con của một ả heo nái ghẻ chốc nơi một nhà
nghèo nọ. Nhờ các thiên nhân bạn nhắc nhở nên ông vội quy y Tam bảo, nhờ vậy mà
kịp thời sinh vào một gia đình trưởng giả phú quý, thông minh trí huệ, sinh ra
rồi mà miệng vẫn còn niệm: Xin quy y Phật, Pháp, Tăng… và ngay từ thuở bé thơ
đã được gặp Phật, nghe Pháp chứng Vô sinh pháp nhẫn.
Nghe xong câu chuyện thực này, người đã
quy y Tam bảo cần kiên định niềm tin đối với Tam bảo, và người chưa quy y lại
còn do dự hay sao? Là đệ tử Tam bảo, khi gặp những chúng sinh chưa học Phật,
bao gồm súc sinh, quỷ thần v.v… ta cũng có thể truyền Tam quy cho họ, đây gọi
là giúp chúng cùng Tam bảo kết duyên, trồng thiện nhân giải thoát tương lai.
Ắt sẽ có người hỏi: Thay chúng sinh quy
y sám hối, tạo công đức có hiệu quả chăng?
- Có! Trong “Kinh Địa Tạng” nói: - Như có người nam cùng người nữ nào lúc
sanh tiền không tu tạo phước lành mà lại gây lấy những tội ác, sau khi người mạng
chung, hàng thân quyến kẻ lớn người nhỏ vì người chết mà tu tạo phước lợi làm tất
cả việc về Thánh đạo, thời trong bảy phần công đức người chết nhờ đặng một phần,
còn sáu phần công đức thuộc về người thân quyến hiện lo tu tạo đó.
Cho nên, vì quyến thuộc hiện tại hoặc
quá khứ tu phúc, sám hối, lý này cũng giống vậy. Đại sư Ấn Quang tại pháp hội
“Hội Quốc Tiêu Tai” nơi Thượng Hải từng kể một câu chuyện:
“Mẹ cư sĩ Hoàng Hàm ở Thượng Hải, không
thể ăn chay, hơn nữa bà không tin ăn chay là cần thiết cho việc tu học theo Phật.
Hoàng Hàm bèn thỉnh giáo ngài Ấn Quang và được dạy: Hằng ngày nên ở trước Phật,
sớm tối sám hối nghiệp chướng thay cho mẹ. Do mẫu tử tình thâm, nhờ mối tương
quan thiêng liêng cộng thêm lòng chí thành sẽ chiêu được cảm ứng…
Hoàng Hàm vâng lời làm theo. Hơn một
tháng, mẹ ông phát tâm ăn chay trường, năm đó bà 81 tuổi, mỗi ngày bà siêng
năng niệm Phật hai mươi ngàn câu, đến 93 tuổi thì qua đời”.
Mẫu thân Hoàng Hàm vốn là một người
ngoan cố, trước đây bà thà ăn cơm trắng chứ nhất quyết không dùng chay, sau khi
được con tụng kinh sám hối thay cho rồi thì bà bỗng thay đổi, tự phát tâm ăn
chay. Lời thuật của Đại sư Ấn Quang dạy rất đáng để chúng ta noi theo.
[1]
Đây là nói theo Trung Quốc. Danh Cư sĩ chỉ chung cho nam, nữ đệ tử Phật
tu tại gia có đức hạnh (riêng danh từ Hòa thượng ở Việt Nam xem là tôn kính
nhưng ở Trung Hoa đây chỉ là danh gọi phổ thông chỉ cho các Tăng sĩ, ngay cả
các chú tiểu họ cũng gọi hòa thượng hay tiểu hòa thượng).
[2] Tam đồ: 1. Hỏa đồ: Chỉ cõi địa
ngục lúc nào cũng hừng hực lửa cháy. 2. Huyết đồ: Chỉ cõi súc sinh bị thảm trạng
đổ huyết, luôn gặp cảnh mạnh nuốt yếu. 3 Đao đồ: Chỉ cõi quỷ thường bị đao trượng
roi kiếm áp bức, chịu vô lượng vô biên thống khổ.
[3]
Không còn trồng nhân sanh tử, hành động cũng không còn rơi vào sanh tử nữa.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét