QUYỂN
4 – PHÁT TÂM BỒ ĐỀ
Ngày
nay Đại chúng trong Đạo tràng đã rửa sạch tâm ô uế rồi, lỗi thập ác, tội chướng
không còn, nghiệp lụy đã hết, trong ngoài đều thanh tịnh.
Kế
đến cần tu học theo các vị Bồ-tát, công đức trí huệ nhờ vậy mà sinh. Thế nên,
chư Phật thường khen phát tâm là đạo tràng, hay thành tựu được đạo quả.
Xin
đại chúng nên kiên tâm trì chí, chớ tưởng sống lâu mà để thời gian luống qua uổng
phí, sau có hối cũng muộn. Bây giờ gặp thời cơ tốt, thì đừng để phiền não che lấp
tâm, ngày đêm nỗ lực phát tâm Bồ đề.
Giải thích:
Tâm Bồ đề tức là tâm Phật, công đức trí huệ
vô lượng, không thể nghĩ bàn.
Hôm nay chúng ta có duyên lành được dự lễ
sám thù thắng, không nên để phiền não thế gian che ám mình mãi, đã biết tất cả
đều là nhân duyên quả báo, ôm phiền muộn nào có ích chi? Nên phát tâm Bồ đề tu
hành mới là hữu ích.
Phát một niệm cầu giác ngộ, công đức
tính không hết. Huống nữa nhiều người tự mình phát tâm tu học theo Phật, đồng
thời còn tùy duyên hóa độ khuyên người khác trì giới học Phật, tu bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ. Những người phát tâm này, công đức lớn
bao nhiêu? Giả sử có người trăm ngàn vạn kiếp đến nay, hành vô lượng bố thí, đời
này vẫn tiếp tục làm việc thiện kia (như thí tiền của cho người nghèo, xây cầu
sửa đường, lập chùa giúp Tăng, tạo tượng Phật…). Công đức họ có thể dùng cụm từ
“Không thể nghĩ bàn” để ví von, nhưng so với kẻ phát tâm Bồ đề “Trên cầu Phật đạo,
dưới độ chúng sinh” thì không bằng một phần ngàn. Đủ thấy phát tâm Bồ đề công đức
lớn vô biên, không tính nổi.
Sám
văn:
Lại
có người chỉ làm phước chớ không phát tâm Vô thượng Bồ đề, giống như kẻ cày ruộng
mà không gieo hạt. Vì vậy, phải phát tâm Bồ đề là tạo nhân cho việc chứng quả;
trước là báo ân chư Phật, sau là cứu vớt muôn loài. Vì vậy Phật mới khen rằng:
“Lành
thay! Lành thay! Vì muốn lợi ích cho hết thảy chúng sinh. Phát tâm Bồ đề là
cách cúng dường lớn hơn tất cả”.
Phát
tâm Bồ đề, không phải là chỉ phát qua một lần, mà phải phát luôn luôn; làm cho
tâm Bồ đề tiếp tục phát rộng lớn mãi. Vì thế trong kinh Phật dạy rằng:
“Nên
ở nơi hằng hà sa số chư Phật nhiều kiếp phát đại thiện nguyện”.
Giải thích:
Nếu có người chỉ biết trồng công đức
phúc điền, tất nhiên kiếp sau sẽ được đại phú, hưởng vinh hoa bất tận. Nhưng nếu
chỉ làm phúc mà không phát tâm Vô thượng Bồ đề thì giống như kẻ cày ruộng không
gieo giống. Người này dù phúc báu lớn, cũng chỉ là hoa quỳnh nở một lần thôi, đây
không phải là cứu cánh. Vì vậy khi được gặp Phật pháp vạn kiếp khó tương phùng
này, thì chớ sai lầm để cơ hội qua mất, cần phải y theo lời Phật dạy phụng
hành, phát tâm Vô thượng Bồ đề, dũng mãnh tinh tấn, bất luận bên mình có bao
nhiêu chướng ngại thử thách cũng phải gắng
tiến lên, hành cho viên mãn.
Nếu chỉ lo tu huệ mà không tu phước thì
cũng là thiếu sót, nhiều người chỉ biết thắp hương lễ Phật, tham thiền tĩnh tọa,
tụng kinh nghe pháp, mà không chịu bố thí, trì giới phóng sanh, tùy sức tạo
phúc điền. Thậm chí họ ngày ngày tụng kinh, giờ giờ niệm Phật, nhưng không lưu
tâm sửa đổi các tập khí, tính nết xấu trong tâm. Phải biết huệ là hạt giống,
phúc là phân bón, tâm là đất. Nếu có đất để trồng mà thiếu phân bón thì cũng
không thu hoạch nhiều. Chỉ có phước huệ song tu mới là con đường tốt liễu sinh
thoát tử.
KIM
ĐỒNG NGỌC NỮ
Tháng 9 năm 2005, tại Thượng Hải tôi gặp
một đôi vợ chồng, người chồng tên là Kim Đồng, người vợ tên Diễm Lệ, quả là người
đúng như tên, mặc dù tuổi họ không còn trẻ nhưng nhìn xinh như một đôi kim đồng
ngọc nữ.
Người chồng kể:
“Chúng tôi có hai con gái, sự nghiệp
tương đối phát, của cải sung túc, lại có chung tín ngưỡng Phật giáo, nên đồng
thấy mình là người có số mệnh may mắn, hạnh phúc nhất, cùng sống rất mãn ý
trong thế giới này.
Nào dè năm ngoái tai họa đột nhiên ập tới,
vợ tôi bỗng phát hiện ngực phải nàng có khối u, bệnh viện chẩn đoán là ung bướu
ác tính, phải cắt bỏ ngay.
Sau khi mổ xong, vợ tôi xuất viện về nhà
rồi, tinh thần vẫn còn suy sụp chưa thể hồi phục, hình vóc tiều tụy, mặt mày ủ
rủ, hai mắt vô hồn, không những chẳng thiết ăn uống, mà mỗi lúc tắm gội nàng
càng thêm đau khổchán chường đến không muốn sống, nàng khóc lóc bi lụy thống
thiết.
Những lúc đó tôi hiểu vì sao nàng khóc,
rất muốn vào an ủi nàng, nhưng chỉ biết đứng bên ngoài cửa, xót xa lắng nghe tiếng
nước chảy và âm thanh tay nàng đấm vào tường, mà có cảm giác như tim mình cũng
bị đấm đau đớn theo, tôi khổ đến muốn thét to lên và tôi cũng bật khóc thống
thiết không cầm được, khiến hai con tôi đứng phía sau cũng bị ảnh hưởng lây, đồng
khóc nức nở theo.
Cảnh trạng bi thảm thê lương này, ngày
xưa chúng tôi chỉ thấy trong phim ảnh, sách truyện, nhưng bây giờ lại xuất hiện
trong gia đình tôi, làm sao mà không bi quan, không chán nản cho được?
Đêm đêm tôi thường an ủi vỗ về bà xã:
- Trên thế giới, các phụ nữ bị ung thư
phải cắt bỏ ngực có rất nhiều, há chẳng phải Phật pháp từng giảng: Nhân sinh vô
thường hay sao? Có rất nhiều gia đình gặp thống khổ rủi ro, chứ đâu phải chỉ có
riêng mình? Em đừng vì mất đi một bên ngực mà sầu thảm quá mức, anh chẳng ngại
chuyện đó đâu! Nên em đừng có khóc nữa, những ngày tháng tươi đẹp vẫn đang chờ
chúng ta chung hưởng! Em hãy vui lên, vì buồn khổ sẽ tổn hại cho sức khỏe!
Nghe tôi nói thế nàng nguôi ngoai được
vài ngày, nhưng trông rất suy sụp, so với dáng vẻ tươi tắn căng tràn nhựa sống
trước đây, giống như là hai người khác.
Mấy tháng trước, vợ tôi đột nhiên cảm thấy
sườn phải có chút đau, nàng nghĩ: “Có lẽ do làm việc nhà nên thấy như vậy”.
Nhưng dần dần sườn bên trái cũng phát đau, nàng thấy không ổn nên tới bệnh viện
khám, mới hay tế bào ung bướu đã phát tán, xem như mạng sống nàng có kéo dài
thì cũng không qua ba tháng. Tin này đối với tôi giống như sấm nổ giữa trời
quang!
Vợ tôi là người rất thông minh, cho dù
tôi không cho nàng hay, nàng vẫn tự biết được.
Đúng lúc này, bạn bè đem bộ sách “Báo Ứng
Hiện Đời” đến biếu cho, thấy trong đây giảng thuật toàn những câu chuyện thần kỳ
khiến người tin sâu nhân quả, đã thôi thúc tôi nảy ý niệm: “Nhất định phải gặp
cho bằng được Hòa thượng Diệu Pháp và tác giả”.
Sau nhiều lần dò la, hỏi thăm, cuối cùng
nhờ sư huynh Quả Long mà chúng tôi biết được tin của ngài, bèn vội tìm đến đây.
Chẳng biết ngài có thể giúp chúng tôi giải rõ nhân quả để chúng tôi minh bạch
chăng? Vợ tôi nói: Nếu được vậy thì dù có chết nàng cũng cam lòng, không còn hối
tiếc! Tôi cũng rất thắc mắc, vì chúng tôi đã thân cận Phật pháp mười mấy năm,
vì sao vẫn gặp phải tai nạn như hiện nay? Đã biết bao lần tôi ở trước tượng Bồ-tát
Quan Thế Âm khóc than cầu cứu, nhưng chuyện xảy đến vẫn luôn là tin dữ. Mong
ngài có thể giúp chúng tôi giải nghi trừ mê, xin cảm tạ vô cùng!
Tôi bảo họ:
- Hai vị dù đang ở độ tuổi hoa niên tuyệt
đẹp trong kiếp nhân sinh, nhưng lại bị ác bệnh vô thường đến viếng. Những ngày
tháng hạnh phúc trong quá khứ đã trôi qua không còn trở lại, vì vậy mà khổ hết
chỗ nói. Đây toàn là do các vị bất minh giáo lý Phật, CHẲNG BIẾT GIỮ GIỚI mà tạo
thành! Không phải tới giờ hai vị vẫn còn ăn mặn hay sao?
Kim Đồng vội thưa:
- Chúng tôi là người tại gia, há chẳng
phải Phật cho phép được ăn tam tịnh nhục hay sao?
Tôi giải thích:
- Đó là Phật đối với người không thể lập
tức bỏ thịt ăn chay ngay nên mới tạm đặt phương tiện như vậy để giúp họ đoạn ăn
thịt dần dần. Hai vị cũng tin nhân quả mà? Nghĩa là nếu bạn ăn thịt chúng sinh,
thì chúng sinh ắt sẽ ăn thịt bạn. Bạn gieo kinh hoàng thống khổ, tử vong cho
chúng sinh, thì chúng sinh cũng sẽ khiến bạn bị y hệt vậy. Người ăn thịt không
phải đệ tử Phật, không thể ra khỏi tam giới, điều này trong “Kinh Lăng Nghiêm”
Phật đã giảng rất rõ ràng. Vì sao hai vị không chịu xem kinh điển?
Kim Đồng nói anh có đọc qua Kinh Lăng
Nghiêm của ngài Tuyên Hóa giảng, nhưng chỉ đọc chứ không thâm nhập ý kinh.
Tôi nói tiếp:
- Sát sinh ăn thịt chính là nguyên nhân
thứ nhất khiến vợ anh mắc ác bệnh. Còn nguyên nhân thứ hai là… xin đừng trách
tôi nói quá thẳng quá khó nghe.
Kim Đồng và vợ vội thỉnh cầu tôi cứ nói,
bọn họ sẽ không ngại.
Thế là tôi bảo:
- Tôi biết hai vị thật lòng yêu thương
nhau, tình cảm rất sâu đậm, khăng khít khó lìa. Nhưng tôi cũng thừa biết do hai
vị có dung nhan quá mỹ miều tuấn tú nên anh thì thừa sức khiến phái nữ tâm thần
điên đảo, chị thì có thể làm bao nam nhân nghiêng ngửa hồn phách. Do vậy mà đời
sống tình ái của anh chị cực kỳ phong phú, dồi dào, dư thừa. Nhưng phải biết: Hễ
vui đến đỉnh điểm thì sẽ phát sinh bi thảm. Còn nguyên nhân thứ ba…
Nói đến đây tôi quay qua nhìn Diễm Lệ hỏi:
- Có phải cô và mẹ chồng rất xung khắc,
đến độ dù có gặp mặt nhau cũng không muốn nhìn, ghét đến chẳng muốn trò chuyện
và trong lòng cô rất xem thường bà?
Nghe vậy Diễm Lệ liền bật khóc, khóc tức
tưởi, nàng kể:
- Tôi mà ở chung với mẹ chồng thì bà
luôn soi mói, bới móc tìm lỗi, chỉ cần tôi nhấc tay động chân là bà vội mỉa mai
xỉa xói khiến tôi rất phiền! Vì vậy mà tôi không muốn ở chung với bà.
Tôi nói:
- Cô có biết mẹ chồng rất yêu con trai,
luôn khao khát mong được ở chung với Kim Đồng, bởi bà sợ cô không khéo chăm sóc
con trai bà, mà chồng cô cũng rất muốn được ở chung cùng mẹ để tiện bày tỏ hiếu
tâm?
Kim Đồng hết sức kinh ngạc, hỏi:
- Vì sao ngài có thể nắm rõ tình huống
gia đình tôi như trong lòng bàn tay vậy?
Tôi đáp:
- Tất cả ngôn hạnh, tâm niệm của chúng
sinh, không những chư Phật, Bồ-tát mà cả đến quỷ thần đều nhìn thấy hết, do tôi
minh bạch lý này rồi nên mới quyết tâm đoạn ác tu thiện.
Tôi mong các vị từ hôm nay trở đi, sau
khi đã sáng tỏ lý này rồi thì hãy phát tâm ăn năn sám hối, sửa đổi.
Bởi vì tất cả việc ác mà chúng ta làm,
những việc mà ta luôn chắc mẫm là chỉ có mình biết (không ai thấy, không ai
hay). Thế nhưng không những chư Phật, Bồ-tát biết hết, mà ngay cả quỷ thần cũng
đều thấy đều biết rõ tất tần tật. Đây giống như tín hiệu sóng điện vậy, cho dù
phòng của bạn đóng kín, thì sóng điện vẫn có thể xâm nhập vào, vì vậy mà tất cả
ngôn hạnh, tư tưởng của bạn, chư quỷ thần trên trời dưới đất đều nhìn thấy rõ mồn
một và nghe rõ bên tai, đồng nhận ra là nên giúp hay hủy hoại bạn! Nhưng chỉ có
bạn là mù trất, không biết gì. Mọi việc xảy đến tất cả đều căn cứ theo đức hạnh
của bạn mà định đoạt. Bởi vậy đối với các ác nghiệp sát, đạo, dâm, vọng… nếu bạn
có thể thành tâm sám hối, thì những bệnh bất trị mà bạn ngỡ cùng đường, vẫn tìm
ra lối thoát.
Nghe tôi nói xong, họ đều phát nguyện từ
nay về sau sẽ không ăn thịt chúng sinh nữa, thệ kể từ đây nghiêm trì giới luật,
quyết tâm đoạn ác tu thiện. Diễm Lệ còn phát nguyện sẽ sửa đổi và gắng tạo quan
hệ tốt đẹp với mẹ chồng.
Tôi hỏi Diễm Lệ:
- Có phải cô cảm thấy việc cải thiện
quan hệ cùng mẹ chồng rất là khó?
- Dạ phải! Bởi mẹ chồng ngó bộ không
dung nổi tôi, tôi không có lỗi gì bà cũng cố tìm cho ra hoặc cố tình biến không
lỗi thành lỗi, vì vậy tôi chẳng biết phải làm sao cho ổn?
Tôi hỏi:
- Hai vị có muốn biết nhân duyên kiếp
trước của mình với bà là như thế nào không?
Hai người đồng đáp:
- Dạ muốn! Muốn quá đi chứ!
Tiếng họ reo lên mừng rỡ như trẻ con khiến
tất cả đều bật cười. Lúc này trông Diễm Lệ rất là tươi tắn khả ái, chẳng có vẻ
gì là bệnh nặng, thế là tôi kể rõ nhân duyên tiền kiếp của họ như sau:
“Vào thời Võ Tắc Thiên triều Đường, có
hai vị công tử con nhà quan, tạm gọi là An và Bảo, họ là bạn tâm giao, nghĩa
tình thân thiết. Hay rủ nhau đi du ngoạn, đến chùa thắp hương, cúng dường, tay
luôn lần chuỗi. Điều này chứng tỏ bọn họ rất mộ đạo, tin Phật chí thành. Thế
nhưng đáng tiếc là họ thường đến kỹ viện xem ca vũ, uống rượu giải trí.
Công tử Bảo hay nổi nóng với tên tớ trai
X trong nhà, mỗi lần dạy dỗ X mà cáu tiết thì chàng thịnh nộ làm dữ, khiến nó
run sợ. Tên tớ trai này cả đời phục vụ công tử, còn công tử thì quát mắng nó cả
đời.
Tên đầy tớ X sau khi chết rồi, do tạo
nhiều ác nghiệp nên phải vào địa ngục thọ khổ, còn hai vị công tử do nhiều đời
ưa cúng dường Tam bảo nên chết rồi thì sinh thiên, hưởng hết phúc báu thì họ
sinh vào nhân gian, sống đời vô cùng giàu có. Do nhân duyên đời trước, họ vẫn
làm bạn hữu, thường ở chung, cùng lễ Phật, hành thiện bố thí, rất được bá tính
thời ấy kính ngưỡng.
Trong kiếp sau nữa, hai người sinh ra vẫn
tín thờ Phật, nhưng lại ham mê săn bắn, họ thường rủ nhau lên núi đi săn. Xin tạm
gọi hai công tử đời tiếp theo này là An 2 và Bảo 2. Khi Bảo 2 phát hiện ra con
nai thì giương súng lên bắn, ngay lúc đó chàng An 2 khởi niệm xót thương liền
đưa tay đẩy họng súng bạn chỉa lên trời, khiến đạn bắn vào hư không, nhờ vậy mà
con nai sống sót, nó quay đầu lại nhìn rồi hốt hoảng co giò chạy mất.
Con nai đó chính là tên đầy tớ X (của
công tử Bảo kiếp xưa), sau khi X từ địa ngục lên thì đầu thai vào cõi súc sinh
làm nai, may được An 2 cứu mạng”.
Tôi nhìn Kim Đồng, bảo:
- Anh chính là hậu thân của An 2, vợ anh
chính là hậu thân của Bảo 2. Con nai sau khi mãn thân súc sinh thì đầu thai vào
nhân gian, sinh làm người đã mấy đời, đến kiếp này thì làm mẫu thân anh, bà tìm
đến là để báo ân cứu mạng kiếp xưa. Chẳng phải đối với anh bà rất quan tâm chăm
sóc, yêu thương cực kỳ đặc biệt?
Kim Đồng kể:
- Dù cha mẹ ngụ ở quê, nhưng hằng ngày
trước và sau khi dùng cơm, tôi đều phải gọi điện hỏi han trò chuyện, bằng không
thì tối đó bà chẳng thể ngủ yên.
Tôi bảo Diễm Lệ:
- Cô chính là công tử Bảo thường quở mắng
tớ trai x cũng là chàng Bảo 2 muốn giết con nai. Tên tớ trai này vốn mồ côi cha
mẹ, cũng nhờ Bảo có lòng từ thu nhận nuôi dưỡng giùm, do X có nhiều tật xấu nên
Bảo thường quở mắng rầy la, không phân hoàn cảnh, trường hợp, niên kỷ. Bởi X là
một kẻ dễ tự ái, giàu lòng tự tôn, do vậy mà sinh tâm sân hận. Mặc dù kiếp ấy X
tri ân Bảo thu nhận nuôi dưỡng nên cam chịu nhịn nhục vâng theo song tâm oán hận
vẫn còn ôm đến đời này, trong các kiếp quá khứ thì X với cô là thân phận đầy tớ
và chủ nhân, con nai và thợ săn. Nhưng bây giờ đã chuyển thành mối quan hệ mẹ
chồng nàng dâu. Hiện thời mẹ chồng ở vị trí chủ, phải biết không có gì vô cớ mà
sinh lỗi đâu, đều tại kiếp trước cô trồng nhân xấu nên nay mới gặt quả không
ưng ý. Đã minh bạch lý này rồi, cô còn oán hận mẹ chồng hay nhăn nhó, chuyên bới
lông tìm vết bắt bẻ cô hoài hay không?
Tôi lại hỏi Kim Đồng:
- Có phải lưng anh thường rất đau mỏi,
khi đi tiểu đến cuối cùng hay có cảm giác bài tiết chưa hết? Tim còn có cảm
giác bị ngột ngạt áp chế?
- Dạ đúng ạ.
Tôi bảo:
- Anh đừng quá lo. Hiện tại chỉ là bị vậy
thôi, có đi y viện cũng khám không ra bệnh. Nhưng nếu anh không thay đổi nếp sống,
không quyết tâm dứt mặn ăn chay, chẳng chịu giữ ngũ giới của Phật, thì tương
lai bệnh tim của anh sẽ bộc phát trước tiên, tiếp đó là thận. Nhưng tôi tin anh
sẽ sửa đổi, hơn nữa hiện giờ đã hạ quyết tâm rồi, đúng không?
- Dạ đúng-Kim Đồng khẳng định-Từ nay trở
đi tôi sẽ sửa đổi bản thân, xin ngài hãy gia trì cho.
Tôi cười bảo:
- Tôi và anh là phàm phu như nhau, cũng
đang từng bước lo hoàn thiện, cải đổi thói tật của mình, nếu biết chân thành tu
sửa, chúng ta đều sẽ được chư Phật, Bồ-tát gia trì. Nếu hai vị có thể trì giới
tham thiền tĩnh tọa, thì sẽ khải mở trí huệ tự thân.
Tôi hỏi Diễm Lệ:
- Bây giờ có phải cô đã cảm thấy thoải
mái, sức khỏe khá lên rất nhiều?
Tôi vừa hỏi, thì Diễm Lệ tỏ vẻ rất kinh
ngạc vui mừng nói:
- Ôi chao, quả thực tôi không còn trạng
thái khó chịu kia nữa, có phải ngài đã trị bệnh, ban cho tôi công năng mầu nhiệm
này chăng?
Tôi mỉm cười, nói:
- Tôi chỉ có công phu giữ giới, ngoài ra
không có tài gì khác. Có phải bạn đã quyết định dứt sát ăn chay, rất muốn cải
thiện quan hệ giữa mình với mẹ chồng?
Cô nói:
- Đoạn mặn thì ngay hôm nay có thể, còn
các tội khác lòng tôi cũng đã thầm nguyện từ đây về sau nhất quyết không phạm nữa.
Nhưng chuyện cải thiện quan hệ với mẹ chồng xem ra có chút khó khăn. Tôi vẫn
còn đang lo…
Tôi nói:
- Bạn xem, tâm bạn vừa thay đổi, lập tức
cảm thấy sức khỏe tăng, thân thể thư thái dễ chịu rất nhiều. Kim Đồng này, anh
nhìn xem: Khí sắc Diễm Lệ có phải đã chuyển sáng, tươi tắn rất nhiều hay không?
Kim Đồng lộ vẻ rất vui mừng nói:
- Diễm Lệ. Em hãy tự đi soi gương mà
xem!
Diễm Lệ soi gương rồi, liền cảm ơn tôi.
Tôi nói:
- Bạn cảm tạ sai đối tượng rồi, chúng ta
cần phải cảm tạ Phật, Bồ-tát! – Là Phật pháp giáo hóa bạn và tôi nếu không có
Phật pháp, e rằng tôi sớm đã đọa địa ngục rồi. Kế đến bạn phải cảm tạ tâm mình,
vì bạn có thể nghe pháp tin thọ, chứng thực chân lý: “Tất cả duy tâm tạo”. Tâm
bạn vừa thay đổi với mẹ chồng, quan hệ tốt đến mức có thể nhẫn nhục chịu đựng
giỏi, thành tựu phẩm hạnh nhân cách tốt rồi, thì chẳng những tật bệnh hoàn toàn
tiêu hết, mà ngay cả bộ phận bị cắt bỏ đi cũng sẽ dần dần hưng khởi (hồi phục lại)
Phật pháp là diệu pháp, diệu đến mức bạn không thể tưởng tượng được đâu!
Sau khi họ ra về, cách đây mấy ngày Kim
Đồng và Diễm Lệ đã gọi điện tới, tôi nghe giọng nói Diễm Lệ thập phần khỏe mạnh,
lộ vẻ rất vui. Cô kể mình hằng ngày kiên trì tụng ba bộ Kinh Địa Tạng hai bộ hồi
hướng cho các chúng sinh mà cô đã giết ăn qua, còn một bộ thì hồi hướng cho mẹ
chồng, bản thân mình cũng đã trực tiếp hướng mẹ chồng xin lỗi, mặc dù mẹ chồng
không hoàn toàn tiếp nhận, nhưng cô đã hạ quyết tâm sửa đổi bản thân, còn khoe
là: Hai vợ chồng đã bàn bạc, dự định đến lúc thích hợp (được ba mẹ chồng đồng
ý), sẽ rước họ về ở chung.
Tôi thật mừng cho họ, cầu chúc cho họ từ
đây sống hòa thuận, hạnh phúc, đạo nghiệp viên thành.
Phật nói tất cả chúng sinh đều có Phật tính,
có thể thành Phật. Một khi nhân duyên hội đủ, may mắn gặp Phật pháp tưới đẫm ruộng
tâm, thì hạt giống Phật sẽ đâm chồi ra hoa kết trái. Không có Phật lực gia trì
trong vô hình, thì không thể thành tựu.
Cho nên mỗi người tu hành sau khi khai
ngộ rồi, thì việc đầu tiên cần làm là cần phải báo ân Phật, ân chúng sinh. Vì
sao? Bởi nếu không có Phật pháp giáo dưỡng, thì biết bao giờ chúng ta mới có đủ
chánh tín, chánh tri, chánh kiến… mà tu hành? Không nhờ minh sư hướng dẫn, cũng
sẽ làm lỡ mất cơ duyên tu hành trong đời. Một khi mất thân người, thì việc gặp
lại Phật pháp là chuyện hy hữu (trăm ngàn vạn kiếp mới có được).
Tôi xin giải thích hai từ “Minh sư”:
Là chỉ vị thầy nghiêm trì giới luật, không
tham tài, sắc, danh lợi, không phải là những người chuyên lý luận: Thời đại đã
thay đổi, có thể tùy ý cải sửa giới Phật chế. Và còn tung thuyết hồ đồ rằng: Thịt
có thể ăn, rượu có thể uống, thuốc có thể hút, ngũ tân v.v… ăn được. Thậm chí
đã xuất gia, lại không giữ quy củ Phật môn mà còn tự phòng mình là Đại đức cao
tăng.
Làm sư phụ mà không giữ thanh quy giới
luật, tất nhiên đồ đệ sẽ bắt chước y theo. Thậm chí có người còn nói: Xem kinh
nhiều sẽ làm chướng ngại vãng sinh thế giới Cực Lạc, lý luận này hoàn toàn trái
ngược với câu “thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải” và Phật và lịch đại cao
tăng từng hướng dẫn tuyên thuyết.
Chúng ta cần phải “Y pháp bất y nhân”,
phải biết xem kinh là để minh lý. Hiểu rõ rồi mới có thể điều chỉnh hướng đi,
quét trừ chướng ngại, tiến lên đỉnh điểm huy hoàng.
Đây không ảnh hưởng gì đến pháp môn
chuyên tu của mình, vì một đứa bé bất kể tương lai là nhà âm nhạc, tác giả, bác
sĩ, kỹ sư, hay là công nhân, nông dân… thì ngay lúc bắt đầu đi học, đều cần phải
học các môn: ngữ văn, toán, thể dục, mỹ thuật v.v… nghĩa là toàn bộ khóa trình!
Chỉ khi lên đại học mới cho phân ngành chia ban, đào tạo chuyên khoa để cuối
cùng thành tựu học nghiệp.
Đọc kinh là giúp tăng trưởng trí huệ bản
thân, là một trong các phương pháp khử trừ vọng tưởng.
Lúc đọc kinh thì lời kinh cùng tâm hòa
làm một thể, tức vô ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Liền có thể khai phát trí
huệ, bởi vì bản thân đọc kinh chính là một pháp môn hiểu lý trừ vọng.
Xin nhớ: Tự quy y pháp (là tự mình nương
vào Phật pháp) nguyện cho chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải.
Vì thệ nguyện của chúng ta là: Tứ hoằng
thệ nguyện (Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành)
Danh sư không hẳn đã là minh sư, bởi
chưa phải là minh sư, nên họ có thể hướng dẫn sai, làm người khác lầm lạc, mất
phương hướng tu hành. Đương nhiên cũng có thể xem người giảng tà pháp là thầy.
Vì trong số họ có thể là Bồ-tát thị hiện đóng vai phản diện để thử thách khảo
nghiệm chúng ta. Khảo xem chúng ta thực sự có được chính tri, chính kiến hay
chưa?
Thực ra Phật Thích Ca mới là thầy căn bản
của ta, hướng dẫn chúng ta (là những đệ tử thiếu phúc duyên không được sinh vào
thời Phật trụ thế), vì vậy ta phải lấy giới làm thầy. Nhất định phải vâng theo
lời Phật, tôn những điều Phật chế làm thầy, y theo lời Phật dạy mà tu.
Đại sư Ấn Quang từng nói: Xem tất cả đều
là Bồ-tát. Thế thì những người sửa đổi các điều Phật chế cũng có thể là Bồ-tát
đến thử thách khảo nghiệm chúng ta. Khi chúng ta hiểu rõ đạo lý này rồi, thì đối
với những hành vi lỗi lầm của tha nhân cần phải: “Chỉ thấy lỗi mình, đừng bàn lỗi
người” và đối với những tuyên bố sai lầm hướng dẫn lệch lạc kia, ta chỉ hành
theo câu “Y pháp bất y nhân”, dùng đó để thanh lọc gạt bỏ tà thuyết. Trong kinh
Trường A Hàm, Phật giảng: “Tứ Đại Giáo Pháp”, dạy chúng ta dựa theo kinh luật
mà phán đoán chánh tà. Nếu quả thực là ma đến quấy nhiễu phá hoại, thì ta cũng
không nên xem là việc xấu, mà cần học tập theo cách Phật tiếp đón ma, xem như
ma đến giúp ta tu hành thánh đạo. Cho nên ngài Tuyên Hóa nói: “Ma là để mài luyện
thử thách người tu hành chân chính”. Kinh Duy Ma Cật thuyết: “Các vị ma vương
trong vô lượng vô số cõi nước ở mười phương phần nhiều là bậc Bồ-tát trụ nơi
pháp bất khả tư nghị giải thoát, vì dùng sức phương tiện giáo hóa chúng sinh
nên thị hiện làm ma vương”. Do vậy tà sư cũng là sư, cũng có thể là Bồ-tát đóng
vai phản diện nhằm rèn dạy chúng ta kiên định đạo tâm, nên cần phải cảm ơn họ.
Có mệt mỏi vì đi nhiều đoạn đường vòng co lắt léo, thì ngày sau việc hoằng pháp
lợi sinh càng hữu ích.
Giác ngộ rồi thì Như Lai Thiền, lục độ,
vạn hạnh, v.v… thể viên dung. “Trong mơ thấy rõ ràng có sáu cõi, tỉnh rồi thì tất
cả đều không”. Đây là lời Vĩnh Gia Đại sư nói trong Chứng Đạo Ca, khi chúng ta
thực sự minh bạch rồi, đã kiên định tin sâu rằng chỉ có duy nhất một phương
cách của Phật pháp mới có thể cứu ta thoát ly biển khổ, thì bám theo lục độ để
tu hành. Nhà thiền thuyết: “Nhẫn nhục là hạng nhất” – Phật Thích Ca Mâu Ni
trong đời quá khứ, lúc làm tiên nhân hành nhẫn nhục, bị vua Ca Lợi chặt tứ chi
vẫn không sinh chút tâm oán hận đối với vua, tứ chi liền hồi phục như ban đầu.
Thực ra Bát bộ hộ pháp ngay lúc đó đã sớm quan sát hộ trì, một bề theo dõi xem
sức nhẫn của vị tiên này có thể kham tới đâu? Tiên nhân khi bị chặt tứ chi vẫn
nhẫn chịu không khởi chút tâm sân hận, hàm ý là ông đã tu đến độ tâm nhẫn cũng
không cần cố gắng tập. Tất cả đều buông xả, bởi vạn pháp giai không, đã được vô
tâm. Vô tâm tức vô niệm, vô niệm tức vô trụ, vô niệm vô trụ tức vô tu vô chứng
(thành tựu Phật đạo tối cao, không cần tu chứng chi nữa), minh bạch lý này rồi,
thì mỗi khi chúng ta gặp cảnh khổ, thấy đều chẳng phải khổ. Ta đến nhân gian
này cũng giống như kẻ vào đại học cần phải ở ký túc xá vậy, phải tiếp tục học tập,
nên gặp phải chuyện khảo thí gian khổ, đều vui vẻ ứng đối. Chẳng nên ôm lòng
oán hận thầy cô hay tật đố với việc bị khảo hạch từng đợt. Chẳng qua nổi thử
thách là lỗi của mình, cần phải làm lại từ đầu, cố gắng nỗ lực thêm.
Đồng lý này, khi các pháp lữ đồng tu, vợ
chồng, cha mẹ vợ hay cha mẹ chồng và con cái, đồng nghiệp, láng giềng, bạn bè
v.v… phát sinh mâu thuẫn với nhau, dù quá khứ bạn từng có ôm hận đối phương,
nhưng hiện tại đã minh lý rồi, thì gặp ai chửi mắng, mạ nhục, phỉ báng bạn… thì
nên xem tất cả đều là vị thầy thử thách nơi trường thi làm Phật. Nếu khéo quán
sát, có phải ta sẽ biến phiền não thâm căn cố đế thành Bồ đề và sinh khởi tâm cảm
ân hay chăng? Đồng thời ngay đây bạn không còn sinh tâm sân hận mà là tâm hoan
hỷ. Sự tình kỳ diệu sẽ phát sinh ngay trên thân bạn. Chẳng hạn như việc tốt sẽ
bắt đầu từ ngày này mà xuất hiện: Những việc xưa nay vốn khó khăn bỗng được xử
lý thuận lợi. Các ác tật bệnh hoạn không cánh mà bay khiến bạn không thể ngờ tới,
vì mọi việc xảy đến đều nằm ngoài sức tưởng tượng.
Bạn có biết vì sao ác bệnh hoạn nạn
không mời mà đến chăng? Là do tham, sân, si trong lòng bạn chiêu cảm, mời nó đến.
Bạn không chữa trị, không phẫu thuật, vậy thì sao nó có thể tiêu mất được chứ?
Bởi vì ngay lúc bạn minh lý rồi, thì trong lòng tự biết lỗi, sinh tâm ăn năn
sám hối. Tức vô minh không còn, thì tật bệnh cũng không còn. Phật giảng: “Nên
quán tính pháp giới, tất cả do tâm tạo”, đây hoàn toàn là tác dụng của tâm. Họa
phúc không cửa, do người tự chiêu mà thôi.
BỆNH
VẢY NẾN
Tháng 7 năm 2000, tôi ghé nhà Vương cư
sĩ ở Thượng Hải thì gặp một anh ba mươi mấy tuổi, học Phật đã mười mấy năm, ăn
chay được ba năm, nhưng toàn thân bị bệnh vẩy nến.
Tôi bảo:
- Anh sở dĩ mắc bệnh này là do không biết
hướng về những con vật mình từng giết, ăn qua, thành tâm sám hối, tụng kinh hồi
hướng cho chúng. Chẳng khác nào anh kiếm được rất nhiều tiền nhưng lại không
quan tâm đến khoản trả nợ mình từng thiếu trước đây. Những chúng sinh kia tự
nhiên phải đến đòi nợ anh. Nếu anh có thể thành tâm sám hối tụng Kinh Địa Tạng
hồi hướng cho chúng, nhất định sẽ được chúng tha thứ.
Hai tháng sau, lúc tôi gặp lại anh ở
Hàng Châu, thấy anh mặt mày hồng hào tươi tỉnh, ác bệnh đã hết.
Cho nên không hiểu biết để lo sám hối
cũng là vô minh. Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều biết thiện ác, biết
thông tình đạt lý. Phát tâm sám hối cũng là Bồ đề.
Phật pháp là diệu pháp, là pháp rất khó
tin nổi. Nếu bạn đọc đoạn văn trên mà minh bạch đạo lý và không nghi ngại gì,
thì ngay đây hãy bắt đầu thử nghiệm. Nên đặt mình vào vị trí những oan gia có
mâu thuẫn đối nghịch mà suy xét, tìm cho ra lỗi lầm của mình. Nếu thật lòng đặt
mình vào lập trường của họ để suy xét, nhất định sẽ tìm ra chỗ không đúng của
mình, được vậy thì sẽ buông xả được tâm sân hận, buông xả được tâm sân hận rồi ắt
sẽ sinh khởi tâm Bồ đề và còn tự trách: “Vì sao muộn như thế này mình mới thông
hiểu Phật lý? Để hết lần này đến lần khác làm lỡ mất cơ hội thử nghiệm giúp
thăng hoa bản thân. Mình thật quá ngu si!”
Có được tâm sám hối như thế rồi cho dù
còn chút miễn cưỡng cũng không hề chi vì sau này mỗi ngày trong tâm bạn đều sẽ
theo dõi, âm thầm nhìn và quan sát những sự tình phát sinh, ngay cả lúc bị đối
phương lăng mạ, phỉ báng, không những bạn chẳng khởi tâm oán hận họ mà ngược lại
còn mỉm cười nhìn đối phương, nói lời cảm ân hoặc xin lỗi, tự nhiên tận đáy
lòng buông được tâm sân hận. Không những thế bạn còn có thể vì đối phương ở trước
Phật, tụng ba hoặc bảy bộ Kinh Địa Tạng, khẩn cầu chư Phật, Bồ-tát gia trì cho
họ được mạnh khỏe, công tác thuận lợi.
Bạn thử làm như tôi bày xem, có lẽ sẽ có
người nói: Làm vậy chẳng khác nào tự biến thành Phật tử ngu ngốc, đần độn! Quả
thực là vậy đó, nhưng tôi xin chúc mừng bạn. Vì trong Phật môn giảng: “Dưỡng
thành đại ngu mới là khéo, tu đến như si mới diệu kỳ”, nghĩa là đem bản thân
mình chuyển thành một kẻ thuần phác, không có chút vết tích gian lanh xảo trá
thì sự việc hy hữu sẽ lộ diện. Bạn có muốn thử không? Thế thì hãy tu và thực
hành từ ba đến sáu tháng xem sao? Khi đó bạn nhất định sẽ minh bạch đạo lý, thấy
tất cả đều là Bồ-tát và tất nhiên sẽ sinh lòng cảm ân bất tận.
Tôi dùng biết bao văn tự để giải thích đạo
lý “Báo Phật ân, Sư ân, Chúng sinh ân…” vì muốn khuyên hàng sơ học lấy đây tăng
thêm tín tâm tu đạo. Đến khi bạn thực sự có trí tuệ rồi, bạn tuyệt chẳng còn muốn
mưu cầu danh lợi gì cho mình nữa. Nhất định sẽ tiến lên cao, phát tâm Bồ đề, tự
độ và độ người để báo ân Phật.
Không những đời này phát Bồ đề tâm, tinh
tấn tu hành, hóa độ chúng sinh, mà tương lai đời đời kiếp kiếp ắt phát đại thiện
nguyện, khiến Bồ đề tâm tương tục bất đoạn.
Bồ đề tâm không nhất định là phải gặp Phật
mới phát, mà gặp Thiện tri thức cũng có thể phát. Do vậy người trí huệ không thể
vọng sinh phân biệt, khởi ý xem thường, phải nuôi chí cầu Phật pháp, khát ngưỡng
học Đại thừa, y theo kinh Phật mà suy xét phân tích việc thế gian. Không thể do
người mà từ bỏ pháp, hiểu rõ chuyện gặp tất cả thiện ác tri thức, đều có thể tạo
thành nhân duyên phát Bồ đề tâm.
Gặp người oán hay không oán, người thân
hay chẳng thân, trong lòng tình ái chẳng khởi, đối với chúng sinh bình đẳng như
nhau. Nguyện mọi người nhờ điểm thiện này mà phát Bồ đề tâm, đạt được giải
thoát. Nếu mọi người đều có thể như thế tin hiểu phụng hành, nhất định sẽ biết
đấy là chân ngữ thật ngữ, không phải tùy tiện mà nói.
Phát Bồ đề tâm, hành đạo Bồ-tát, độ tất
cả chúng sinh như cứu người trong biển lớn, mình cũng phải vào biển khổ. Chúng
sinh thọ khổ, toàn mê không giác, cho nên mới khổ vô biên. Bồ-tát cứu khổ, giác
mà không mê, cho dù không lìa biển khổ, nhưng ở đâu tâm cũng an. Chẳng những đời
này độ chúng sinh, mà vị lai sinh nơi tam đồ bát nạn, cũng chẳng xả bỏ Bồ đề
tâm vô thượng.
Lại nữa, chỉnh sửa tập khí là rất khó, rất
khổ; thậm chí khó thể nhẫn chịu nổi, giống như kẻ nuốt nhầm độc dược phải tống
được nó ra. Nhưng bạn vĩnh viễn không thể mong bụng người khác ói độc ra thay
cho mình. Tu hành cũng chẳng được nôn nóng mong cầu thành tựu, chư Phật, Bồ-tát
tùy thời sẽ gia trì chúng ta. Nhưng trước nhất chúng ta phải nhả hết độc dược
chứa trong lòng từ vô thỉ kiếp đến nay, mới có thể nếm được vị ngọt cam lộ. Đây
chính là đạo lý nhả cũ nạp mới.
Đời này chúng ta quy y bái Tam bảo làm
thầy, nhưng vị sư phụ hướng dẫn người bước đi trên đường học Phật đó, chỉ là đại
diện Phật tiếp nhận đệ tử quy y Tam bảo. Sau khi quy y rồi thì chính mình phải
tự bước đi trên đường tu, chứ không phải bái sư xong là vạn sự đều tốt lành thuận
lợi. Chẳng thấy A-nan ngày ngày ở sát bên Phật nghe kinh thính pháp, nhưng do
không tu định, suýt nữa thì bị Ma Đăng Già dụ dỗ phá giới. Cho nên đệ tử Phật
không nên chấp trước vào các hành vi xoa đỉnh gia trì – khi sờ đỉnh là Phật
chúc lụy đại pháp nên mới sờ đỉnh đệ tử hoặc xoa đỉnh thọ ký – Như trong kinh Pháp
Hoa phẩm Chúc Lụy có thuyết: “Phật Thích Ca từ pháp tòa đứng dậy, hiện đại thần
lực đưa tay phải xoa đỉnh vô lượng vô biên Bồ-tát và nói rằng…” và ngay trong
Kinh Địa Tạng, Phật cũng xoa đỉnh Bồ-tát Địa Tạng, đây đều là chúc lụy Phật
pháp tuyệt không có ý nói vừa xoa đỉnh thì lập tức thành tựu.
Chúng ta quy y rồi, phải nghe kinh suy
ngẫm, phát trí, biết tự thanh tịnh ý mình, y giáo phụng hành mới có thể đạt lợi
ích.
BÀ
HỌ TÂN
Thành phố nọ có một bà họ Tân, khoảng
năm mươi mấy tuổi, sự nghiệp thành công, gia đình giàu có, quy y Phật đã nhiều
năm, bà hướng tôi kể lể những phiền não vô tận của bà:
Bà có đưa con gái tên Minh Lan, bẩm sinh
não bên trái phát triển kém, nên ngôn ngữ hành vi không bình thường. Chỉ người
thân mới hiểu được những gì nó muốn nói. Hơn nữa hễ gặp tình huống lính quýnh
phiền bực là chứng động kinh phát tác.
Hai mươi năm nay, bà vì con nếm đủ vất vả
gian lao, không cần kể cũng hình dung được, nhưng mới đây lại xảy ra một việc
phiền toái nữa.
Lý Sơn là nhân viên bảo an khu vực thuộc
bà cư ngụ nên hay lui tới chơi. Sẵn tiện bà cũng nhờ anh trông chừng Minh Lan
dùm, đừng để nó đi ra ngoài (sợ con mình đi lạc không biết đường về nhà). Do
Minh Lan thường tiếp xúc với anh Lý, nên dần dà phát sinh tình cảm, cô hay lấy
thức ăn nhà mình đem cho Lý Sơn, anh đối với cô cũng rất thân mật. Khi bà Tân
phát hiện ra điều này, thì nảy ý muốn lo hôn sự cho con gái.
Nhưng gia cảnh Lý Sơn rất nghèo, đến giờ
vẫn còn mang nợ ngập đầu. Anh ta ra điều kiện với bà nếu muốn anh cưới Minh Lan
thì trước tiên bà phải lo trả nợ thay cho gia đình anh. Điều này chúng tỏ Lý
Sơn chẳng hề có tình cảm yêu thương gì đối với Minh Lan. Phần Minh Lan thái độ
cũng thất thường, hễ bàn đến việc lấy chồng thì cô bảo chưa muốn kết hôn sinh
con, thế nhưng suốt thời gian Lý Sơn về quê, do không được gặp anh nên cô hay
phiền bực, cáu gắt. Là mẫu thân nên bà rất lo, nếu con cứ như thế mãi thì e rằng
chứng động kinh sẽ bạo phát.
Bà Tân rất thắc mắc, muốn biết do nghiệp
báo nào mà mình lại sinh ra đứa con khuyết tật, bệnh hoạn như thế? Dù nhà bà
giàu có, tiền của kiếm được nhiều, nhưng lại không thể mua được hạnh phúc an
vui. Bà hy vọng tôi có thể giải thích cho bà hiểu rõ duyên cớ.
Tôi quán sát một hồi rồi kể bà nghe:
Vào những kiếp trước, Minh Lan có một đời
đi lính, là võ quan X. Ở quê nhà đã có vợ thay ông chăm lo hầu hạ mẹ chồng.
Nhưng ông X này tính xấu tàn tệ, ở trong quân đội ngoài việc tạo nhiều sát nghiệp
ra, ông còn phạm lắm tội như khinh nam hiếp nữ, rất ưa làm chuyện hái liễu bẻ
hoa, khi nào tiện thì gửi cho gia đình ít tiền nhưng rất ít khi chu cấp cho vợ.
Sau khi bị chết trận rồi thì ông X đọa
vào địa ngục, mãn kiếp địa ngục thì sinh làm heo rừng. Phần vợ ông lo hầu hạ mẹ
chồng mãi cho đến khi bà qua đời, nàng vẫn tiếp tục sống cô độc khốn khổ cho đến
khi tạ thế.
Bà Tân kiếp trước từng là quan văn, Y từ
nhỏ nhờ cha mẹ tin thờ Phật nên Y thường cúng dường Tam bảo. Một lần cùng bạn
bè đi săn, Y đã bắn trúng vào não trái con heo rừng khiến nó ngã lăn ra chết và
bọn họ làm thịt, nướng ăn.
Nhờ đời trước ưa cúng dường Tam bảo nên
đời này bà Tân được giàu sang. Riêng ái nữ Minh Lan, chính là con heo từng bị
bà bắn chết, Minh Lan do tạo tội ác bị đọa địa ngục, nên đời nay dù được sinh
làm người nhưng lục căn chẳng đủ, đây là dư báo của kiếp làm võ quan háo sắc,
sát sinh, tạo nhiều tội ác.
Bà Tân nhờ kiếp trước tin Phật rộng tạo
phúc điền, nhưng không giữ giới sát, ưa đi săn bắn giết chóc, vì vậy mà chiêu lấy
ác báo. Con heo bị bà giết chết đầu thai sinh vào làm con, khiến ngay trong đời
này bà phải gánh lấy phiền khổ vô tận. Người vợ đời trước bị võ quan bỏ bê, sống
đời cô khổ, nay chính là nhân viên bảo vệ Lý Sơn.
Hiện tại, bà Tâm phải sửa đổi mình, trước
tiên cần sám hối tội lỗi giết con heo rừng kiếp xưa, phải vì nó mỗi ngày tụng
Kinh Địa Tạng cầu hóa giải oán hận. Cũng phải thường xuyên dẫn Minh Lan đến
chùa, cho tham dự các pháp hội để nó được gieo duyên lành với Tam bảo, không
nên nhốt nó mãi trong nhà, vì làm như vậy là thất sách. Rất cần cho nó tập tiếp
xúc làm quen với bên ngoài. Bằng không, Minh Lan ngày nào cũng bị giam hãm tù
túng, cứ quẩn quanh ở nơi cư ngụ, khiến tầm nhìn bị gò bó hạn hẹp, như thế thì
chắc chắn bà sẽ phải gả nó cho Lý Sơn.
Mà thực ra Lý Sơn có mưu đồ muốn chiếm
tiền bạc gia sản nhà bà, nên bất đắc dĩ phải cưới Minh Lan, vì vậy sau khi kết
hôn xong anh ta sẽ nhàn nhã đi hái hoa bắt bướm, viện cớ là phải chăm sóc Minh
Lan nên không thèm làm việc gì, tương lai anh sẽ ở nhà họ Tân diễn cảnh ngồi
không ăn núi cũng lở. Còn bà Tân không những phải dùng tiền để trả nợ mình đã
thiếu mạng con heo, còn phải thay con heo trả khoản nợ đó đã thiếu cô vợ trong
kiếp trước.
Kể xong tôi kết luận:
Trong các tội, sát sinh là nặng nhất, nếu
không đoạn trừ ăn mặn, thì sau này sẽ khổ vô biên. Mong bà phát tâm tu sửa để
lìa khổ, không những phải sám hối các tội mình đã tạo ra, mà còn phải độ cho
Minh Lan và Lý Sơn, giúp cả hai bước vào con đường học Phật.
Tôi xin đem công đức viết ra câu chuyện
cảnh tỉnh thế nhân này, hồi hướng cho bà Tân và Minh Lan, hy vọng họ nỗ lực học
Phật tinh tấn, cầu Minh Lan trí huệ tăng trưởng, tương lai có thể tự lo liệu được
cho đời sống của mình.
Sám
văn:
Đệ
tử chúng con tên… ngày nay ở trước mười phương Tam bảo, phát tâm Bồ đề, nguyện
từ nay cho đến thành Phật, tu đạo Bồ tát không thối lui; hằng sinh tâm độ
thoát, che chở chúng sinh; chúng sinh chưa thành Phật, chúng con thề không chứng
quả trước chúng sinh.
Nguyện
xin hết thảy mười phương chư Phật, chư Đại Bồ-tát, hết thảy thánh hiền, chứng
minh, khiến hết thảy hạnh nguyện chúng con đều được thành tựu.
Giải thích:
Nhiều đời tích lũy thiện nghiệp, phúc đức,
mới có thể mang được thân người ngày nay. Nếu không thể xuất ly tam giới, không
thoát được khổ sinh già bệnh chết, thì khi mệnh hết phúc tận, lại sa vào cõi
ác. Biết bao giờ mới gặp lại Phật pháp để mà tu? Điều này rất khó được. Nếu đời
này không lập đại nguyện, phát tâm Vô thượng Bồ đề, thành tựu đạo nghiệp, thì
sau này chẳng có hy vọng đâu. Bởi vậy hôm nay đại chúng nhờ Phật duyên dẫn dắt
tụ hội cùng nhau, không nên để lỡ mất duyên lành, nhất định phải tha thiết phát
tâm Vô thượng Bồ đề.
Sám
văn:
Kinh
Đại Tập dạy rằng: “Ví như trong nhà tối trăm năm, chỉ thắp một ngọn đèn, thì có
thể phá tan si ám. Vậy chớ nên cho một niệm phát tâm là nhỏ, là không quan trọng,
mà chẳng nỗ lực”.
Đệ
tử chúng con tên… từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, tâm không đắm trước
cõi trời, cõi người, không cầu chứng tiểu quả Thanh văn, Duyên giác, mà chỉ cầu
Đại thừa, cầu được nhất thế chủng trí, cầu thành tựu quả Vô thượng Bồ đề, thành
bậc chánh giác.
Nguyện
xin hết thảy chư Phật, chư đại Bồ-tát, thánh hiền, đem sức bổn nguyện chứng
giám, hộ trợ, nhiếp thọ cho chúng con sinh ở đâu tâm đều kiên cố không thối
chuyển.
Giải thích:
Lời sám này, bất kể tương lai mang thân
gì, thọ khổ gì, cũng đều không thối mất đạo tâm hôm nay.
Khi tâm tư mê tối, thân khẩu ý hành sự
điên đảo ngu si, cử tâm động niệm không chi mà chẳng phải tội, chẳng là nghiệp.
Nguyện: Thâm nhập kinh tạng, trí huệ tăng trưởng, nghiêm trì giới luật, tu sửa
bản thân, hướng dẫn chúng sinh có duyên với mình thâm nhập tri kiến Phật, thành
tựu đạo nghiệp.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét