Chủ Nhật, 15 tháng 4, 2018

TÌM HIỂU VỀ ĐẠO TIN LÀNH


TÌM HIỂU VỀ ĐẠO TIN LÀNH

Đạo Tin lành ra đời ở châu Âu vào thế kỷ thứ 16  có nguồn gốc chính trị, xã hội rất sâu xa.

1/ Tên gọi Đạo Tin lành

Tên gọi của đạo Tin lành có một ý nghĩa riêng và có mối liên quan đến Ki tô giáo. Vào đầu Công nguyên, ở vùng Trung Cận Đông thuộc vùng đất của đế quốc La Mã xuất hiện một tôn giáo mới thờ Đấng Cứu thế- ngôi hai Thiên Chúa, tiếng Hy lạp là Jesus Christ. Danh xưng Jesus Christ dịch qua tiếng Việt là Giê-Su-Ki-ri-xi-tô, gọi tắt là Giê Su Ki Tô, chữ Jesus dịch qua âm Hán là Gia Tô, chữ Christ là Cơ Đốc. Như vậy, đạo thờ Đấng Cứu thế có những tên gọi theo cách dịch khác nhau: đạo Ki tô, đạo Gia tô, đạo Cơ Đốc. Từ một tôn giáo địa phương thế kỷ thứ 4 đạo Ki tô trở thành tôn giáo của đế quốc La Mã rộng lớn và thường được gọi là Catholic. Thực ra tên gọi Catholic có từ rất sớm để chỉ những cộng đồng Ki Tô giáo ban đầu và nó có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp Katholikos có nghĩa là chung, là thông thường (Common) hay toàn bộ (Universal). Sau này, khi Ki Tô giáo phân rẽ thành Công giáo Rôma, Chính Thống giáo, Tin lành giáo, Anh giáo thì trong nhiều trường hợp Cathoclic (Công giáo) vẫn chỉ toàn bộ truyền thống Ki Tô giáo. Ở Việt Nam Catholic gọi là Công giáo, có một thời kỳ người Việt gọi  Công giáo là Thiên Chúa giáo. Gọi như vậy chưa đúng vì cả Chính Thống giáo và Tin lành giáo, Anh giáo đều thờ Thiên Chúa. Thấy thế người bổ sung thêm từ Rôma và gọi là đạo Thiên Chúa Rôma. Cách gọi này có vẻ rõ hơn nhưng xem ra cũng không chuẩn xác, nên đã trở lại tên chính thức của nó là đạo Công giáo.
Đến thế kỷ thứ 11 vào năm 1054 Ki Tô giáo diễn ra cuộc đại phân liệt lần thứ nhất, một bên theo văn hóa Hy Lạp, một bên theo văn hóa La Tinh, gọi là phân liệt Đông-Tây, hình thành tôn giáo mới ở phương Đông: Chính Thống giáo. Tên gọi này biểu lộ quan điểm thẳng thắng và đúng đắn của một “giáo thuyết về niềm tin chân thật”. Đôi khi người ta gọi Chính Thống giáo là Ki Tô giáo phương Đông, người ta dùng các từ Đông phương, Hy Lạp để chỉ Chính Thống giáo, các từ: Tây phương La tinh, Rôma để chỉ Công giáo.
Thế kỷ thứ 16, cuộc đại phân liệt lần thứ 2 diễn ra trong Công giáo, hình thành một tôn giáo mới- đạo Tin lành. Giáo hội Công giáo và phong kiến Châu Âu gọi là “đạo chống đối”, khi sang Trung quốc dịch qua Hán gọi là “đạo Thệ phản ”. Cuộc đại phân liệt lần thứ hai thực chất là cuộc cải cách tôn giáo, cho nên trong nhiều trường hợp người ta còn gọi đạo Tin lành là “đạo Cải cách”.  Đạo Tin lành truyền vào Việt Nam đầu thế kỷ thứ 20. Ở miền Bắc gọi theo người Trung Quốc gọi là “đạo Thệ phản”, ở miền Trung gọi là “đạo Gia Tô” ở miền Nam gọi là “đạo Huê Kỳ”. Đầu năm 20, 30 của thế kỷ 20 giáo sĩ Cadman người Canada thuộc Hội Truyền giáo Cơ Đốc- CMA, cùng với văn sĩ Phan Khôi dịch kinh Thánh ra tiếng Việt Nam, hai ông không dịch Phúc Âm (Evangelical) là “Tin mừng” như đạo Công giáo, mà dịch là “Tin lành”. Cách gọi Phúc âm là Tin lành của người theo đạo Cải cách, dần dần thành thói quen và nhất là nó phân biệt đạo Công giáo nên người ta gọi luôn đạo Cải cách là đạo Tin lành cho đến ngày nay.
Cùng thời gian với việc ra đời đạo Tin Lành, xuất hiện một trào lưu cải cách theo cách riêng ở nước Anh thành Anh Giáo –Angelicalsm.
Như vậy, Ki tô giáo hay Cơ Đốc giáo bao gồm: Công giáo, Chính Thống giáo, Tin lành giáo, Anh giáo hay nói cách khác, đạo Tin lành là “anh em” cùng một gốc với đạo Công giáo, đạo Chính thống giáo và Anh giáo.

2- Hoàn cảnh và điều kiện ra đời đạo Tin lành

1/ Đạo Tin lành ra đời ở châu Âu vào thế kỷ thứ 16 có nguồn gốc chính trị, xã hội sâu xa. Trước hết là sự xuất hiện của giai cấp tư sản với những yêu cầu mới về chính trị, xã hội, tư tưởng tôn giáo. Trong điều kiện thời Trung cổ, Giáo hội Công giáo và giai cấp phong kiến có quan hệ chặt chẽ với nhau, đạo Công giáo trở thành chỗ dựa tư tưởng cho chế độ phong kiến, Giáo hội Công giáo bị chính trị hóa trở thành thế lực phong kiến, giai cấp tư sản đã thực hiện cuộc cải cách đạo Công giáo để “thảo bỏ hào quang tôn giáo” của giai cấp phong kiến, để thu hẹp dần lực lượng và ảnh hưởng của giai cấp phong kiến, trước khi tiến hành cuộc cách mạng xã hội- cách mạng tư sản để lật đổ chế độ phong kiến.
2/ Đạo Tin lành ra đời thể hiện sự khủng hoảng nghiêm trọng về vai trò ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo do những tham vọng quyền lực trần thế và sự sa sút đạo đức của hàng giáo phẩm, nhất là sau cuộc “lưu đày Babylon” (1387-1417). Cùng với sự khủng hoảng, uy tín ảnh hưởng của Giáo hội là sự bế tắc của nên thần học Kinh viện (hình thành từ thế kỷ 12)- Cơ sở quyền lực của Giáo hội Công giáo.
3-Đạo Tin lành ra đời xét về mặt văn hóa, tư tưởng được thúc đẩy bằng phong trào Văn hóa phục hưng- chủ nghĩa nhân văn- chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu thế kỷ thứ 15. 16. Với chủ trương đề cao con người, đề cao nhân tính, nhân quyền đối lại việc đề cao thần tính, thần quyền, đề cao tự do cá nhân, dân chủ và sự hưởng lạc, đối lại sự kìm hãm dục vọng và ràng buộc của chế độ phong kiến và luật lệ Công giáo, đề cao lòng yêu nước cụ thể đối lại đề cao lòng yêu Chúa và một nước Chúa chung chung diệu vợi… Văn hóa phục hưng- chủ nghĩa nhân văn đào tạo ra chiều kích mới về văn hóa, tư tưởng, cách nhìn mới về con người và tôn giáo, làm cơ sở cho việc nẩy nở và tiếp thu những tư tưởng cải cách tôn giáo.
4-Đạo Tin lành ra đời là sự thừa kế các phong trào chống lại quyền lực Giáo hoàng và giáo triều Rôma từ nhiều thế kỷ trước, mà tiêu biểu là một số phong trào từ thế kỷ thứ 12 trở đi, như ở các nước Pháp, Anh thế kỷ 15, ở Ý và Tiệp …
5. Nguyên nhân trực tiếp hay đúng hơn là nguyên cớ của cuộc cải cách là đời sống sa hoa hưởng lạc của hàng giáo phẩm trong giáo triều Rô ma và nhất là việc giáo hoàng Leon X ra lệnh ban ơn toàn xá cho những ai dâng cúng tiền của cho Giáo hội bằng cách bán  “bùa xá tội”. Những người xướng xuất và lãnh đạo cuộc cải cách không phải ai khác là những giáo sĩ Công giáo: linh mục, tiến sĩ Thần học Martin Luther (1483-1546) linh mục Thomas Munzer (1490- 1525) linh mục Jean Calvin (1509-1564) linh mục Ubric Zwinghi (1484-1525).
Phong trào cải cách tôn giáo nổ ra đầu tiên ở Đức vào tháng 11-1517 bằng việc Martin Luther công bố 95 luận đề chống lại chức vụ giáo hoàng, giáo quyền Rô ma và việc bán “ bùa xá tội”. Từ nước Đức, phong trào lang sang nước Pháp, Thụy Sĩ, Anh, Scốtlen, Đạn Mạch, Thụy Điển, Na Uy.. để đến thứ kỷ thứ 17, sau cuộc chiến tranh ba mươi năm (1618- 1648) bất phân thắng bại, gây nhiều tổn thất, cả châu Âu và giáo triều Rôma chấp nhận những người cải cách và từ đó hình thành một tôn giáo mới tách ra khỏi Đạo Công giáo là Đạo Tin lành.

3-  Quá trình truyền bá đạo Tin Lành

Thế kỷ thứ 17 giai cấp tư sản ở châu Âu bước lên vũ đài chính trị, tự khẳng định mình bằng một loạt cách mạng tư sản (cách mạng tư sản  Anh 1640, cách mạng tư sản Pháp 1789..) Đặc bệt, sau đó giai cấp tư sản châu Âu tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược ra bên ngoài để mở rộng thị trường và khai thác nguyên vật liệu. Đạo Tin lành đã khai thác triệt để hoàn cảnh chính trị, xã hội nói trên nhằm mở rộng ảnh hưởng. Nếu cuối thế kỷ 17, mới có 30 triệu tín đồ thì cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, đạo Tin lành có đến 100 triệu tín đồ. Thế kỷ 20, với hai cuộc chiến tranh thế giới (1914—1918,  1939-1945) và tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với tốc độ như vũ bảo đã tạo môi trường thuận lợi cho đạo Tin lành phát triển mở rộng ra nhiều nước trên thế giới. Đạo Tin lành ra đời ở châu Âu, sau đó truyền sang các nước Bắc Mỹ. Ở Bắc Mỹ gặp môi trường tự do, đạo Tin lành phát triển hình thành nhiều tổ chức, hệ phái. Rồi từ Bắc Mỹ, bằng nhiều con đường, trong đó có việc nhờ dựa vào vị thế, ảnh hưởng của Mỹ, đạo Tin lành trở lại châu Âu và lan tỏa ra toàn thế giới. Đó là con đường phát triển của đạo Tin lành, đồng thời lý giải: cái nôi của đạo Tin lành ở châu Âu, còn trung tâm (điều hành) Tin lành thế giới ở Bắc Mỹ.
Một điều cần quan tâm nữa, trong quá trình phát triển, trước đây và hiện nay một mặt khai thác điều kiện thuận lợi như nói trên, mặt khác tự bản thân đạo Tin lành rất năng động, luôn luôn đổi mới và thích nghi, đặc biệt là chủ trương “nhập thế”, lấy các hoạt động xã hội làm phương tiện, điều kiện để thu hút tín đồ. Đồng thời do ra đời muộn, khi địa bàn truyền giáo ngày càng ít. Từ rất sớm, đạo Tin lành đã hướng các hoạt động truyền giáo đến vùng dân tộc thiểu số. Trên bình diện thế giới vào những thế kỷ trước, châu Á, châu Phi, châu Mỹ là những vùng xa xôi của “châu Âu văn minh”. Hiện nay, đối với từng quốc gia, vùng miền núi, biên giới, hải đảo là những nơi dân tộc thiểu số sinh sống.
Đến nay, chỉ gần 500 năm kể từ khi ra đời, đạo Tin lành phát triển với tốc độ rất nhanh, trở thành một tôn giáo lớn, đứng thứ ba sau đạo Hồi giáo. Công giáo với khoảng 550 triệu tín đồ của 285 hệ phái có mặt ở 135 nước của tất cả các châu lục, trong đó tập trung ở các nước công nghiệp tiên tiến như Tây Âu, Bắc Âu và Bắc Mỹ.

4 – Giáo lý, luật lệ, lễ nghi và tổ chức

Đạo Tin lành  có nhiều tổ chức hệ phái. Mặc dù có những điểm khác nhau về nghi thức hành đạo và cách tổ chức giáo hội giữa các hệ phái, nhưng nhìn chung đều thống nhất ở những nội dung, nguyên tắc chính. Có thể khái khoát giáo lý, luật lệ, lễ nghi, tổ chức của đạo Tin lành để so sánh với đạo công giáo như sau:

a/ Kinh thánh và giáo lý

Trước hết về kinh thánh, cả hai tôn giáo Tin lành và Công giáo đều lấy kinh thánh (Gồm Cựu ước và Tân ước) làm nền tảng  giáo lý. Đạo Tin lành đề cao vị trí của kinh thánh, coi đó là chuẩn mực căn bản, duy nhất của đức tin và sự hành đạo. Đạo Công giáo cho rằng ngoài Kinh thánh còn có những văn bản khác như nghị quyết các Công đồng chung, các sắc chỉ, thông điệp… của Giáo hoàng, về nguyên tắc cũng có giá trị như giáo lý. Đạo Tin lành đề cao Kinh thánh một cách tuyệt đối, tất cả tín đồ và chức vụ mục sư, truyền đạo  đều sử dụng Kinh thánh, nói và làm theo Kinh thánh. Đối với đạo Tin lành, Kinh thánh có vị trí cực kỳ quan trọng. Trong các trường hợp, Kinh thánh giữ vai trò như một giáo sĩ trên cả hai phương diện phục vụ và truyền giáo.
- Giáo lý của đạo Tin lành và Công giáo về cơ bản giống nhau. Cả hai tôn giáo đều thờ Thiên Chúa, tin theo thuyết “Thiên Chúa ba ngôi” (Ngôi Một: Cha, Ngôi Hai:  Con, Ngôi Ba: Thánh thần, Ngôi Hai được “lưu xuất” từ  Ngôi Một, Ngôi Ba được “lưu xuất” từ Ngôi Một và Ngôi Hai); tin vũ trụ, muôn vật đều do Thiên Chúa tạo dựng và có điều khiển, tin con người do Thiên Chúa tạo dựng theo cách riêng và có phần hồn và phần xác, tin con người có tội lỗi, tin có Ngôi Hai Thiên Chúa là Giêsu Kitô xuống trần chịu nạn, chịu chết chuộc tội cho loài người, tin có Thiên thần và Ma quỷ. Có Thiên đàng và Địa ngục; tin có ngày Phục sinh, Tận thế và Phán xét cuối cùng.
Tuy nhiên, có một số chi tiết trong một số tín điều truyền thống của đạo Công giáo được đạo Tin Lành sửa đổi và lược bỏ tạo ra sự khác biệt nhất định giữa đạo Tin lành và Công giáo.
Đạo Tin lành có tin sự hoài thai Chúa Giêsu một cách mầu nhiệm của bà Maria nhưng cho rằng bà Maria chỉ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu, sau đó không còn đồng trinh  nữa. Thậm chí một số phái Tin lành Kinh thánh nói bà Maria sau khi sinh Chúa Giêsu còn sinh cho ông Giuse một số người con khác một cách bình thường. Một số phái Tin lành đã trích dẫn những câu Kinh thánh nói về việc bà Maria có con thêm với ông Giuse. Do vậy, đạo Tin lành chỉ kính trọng chứ không tôn thờ lạy bà Maria như đạo Công giáo. Bà Maria chỉ có công sinh và nuôi dạy Chúa Giêsu, chứ không phải là mẹ của Thiên Chúa.
Đạo Tin lành có tin Thiên sứ, có các thánh Tông đồ, các Thánh tử đạo và các Thánh khác, nhưng cũng chỉ kính trọng và noi gương, chứ không tôn sùng và thờ lạy họ như đạo Công giáo. Đạo Tin lành không thờ các tranh ảnh, hình tượng cũng như các di vật khác. Không tôn sùng và thực hiện hành hương đến các Thánh địa, kể cả Giêrusalem, núi Xinai, đền thánh Phêrô và Phaolô.
Đặc biệt, đạo Tin lành không thờ lạy các hình tượng và họ cho rằng Kinh thánh đã dạy: “Hình tượng là công việc do tay con người làm ra, hình tượng có miệng mà không nói, có tai mà không nghe, có lỗ mũi mà chẳng ngửi, có tay nhưng không rờ cầm, có chân mà không bước đi,… phàm kẻ nào làm hình tượng mà nhờ cậy nơi đó điều giống nó ”.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đạo Tin lành có dùng một số tranh ảnh, hình tượng trong sinh hoạt tôn giáo nhưng mang ý nghĩa tài liệu để giảng giải, truyền thụ.
Đạo Tin lành tin có Thiên đàng, Hỏa ngục nhưng không quá coi trọng tới mức dùng nó làm công cụ khuyên thưởng răn đe, trừng phạt đối với con người. Đạo tin lành không có Luyện ngục, nơi tạm giam các linh hồn mắc tội nhẹ đang chờ cứu vớt như đạo Công giáo. Họ cho rằng Kinh thánh chỉ nói đến Thiên đường, Hỏa ngục, không nói đến Luyện ngục.
2- Luật lệ, lễ nghi: Trong đời sống tín ngưỡng, đạo Tin lành là một tôn giáo đặc biệt đề cao lý trí trong đức tin, cho rằng sự cứu rỗi chỉ đến bởi đức tin chứ không phải vì những “ hình thức ngoại tại” (tức là không phải vì các luật lệ, lễ nghi). Do đó, luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo của đạo Tin lành đơn giản không cầu kỳ, rườm rà như đạo Công giáo.
Trong bảy phép Bí tích của đạo Công giáo (Rửa tội, Thêm sức, Giải tội, Thánh thể, Sức dầu, Truyền chức, Hôn phối) đạo Tin lành chỉ thừa nhận và thực hiện phép Rửa tội (Bắptem), phép Thánh thể. Vì họ cho rằng Kinh thánh chỉ nói đến những phép đó mà thôi. Một số phái Tin lành có thêm lễ Dâng con trẻ cho Thiên Chúa, dựa theo tích trong Cựu ước rằng A-bra-ham đã dâng con trai là Y-Sác cho đức Giê –hô- va.
Đạo Tin lành cho rằng phép Bắptem  không phải tẩy trừ tội lỗi một cách linh nghiệm mà đó là sự thay cũ đổi mới của mỗi con người, một sự liên lạc bằng lương tâm và lý trí đối với Chúa trời. Do vậy, người chịu Bắp tem phải đủ tuổi để hiểu biết các lẽ đạo, và nhất là phải ăn ở trong sạch, không được phạm tội. Nghi lễ Bắp tem của đạo Tin lành được tiến hành theo lối cổ như thánh Gioan rửa tội cho Chúa Giêsu trên sông Gio Đăng bằng cách dìm cả người xuống nước, chứ không dội ít nước lên đầu một cách tượng trưng như Công giáo.
Nguyên thủy đạo Tin lành có 3 quan điểm về Lễ Thánh thể: Martin Luther tuy tuyên bố không công nhận “thuyết biến thể” nhưng lại cho rằng bánh và rượu trong Lễ Thánh thể cũng là máu thịt Chúa Giê su, uống rượu và ăn bánh là uống máu và ăn thịt Chúa Giê Su; U.Zuingli cho rằng Lễ Thánh thể chỉ đơn thuần kỷ niệm về sự chết của Chúa Giê su, bánh và rượu chỉ có ý nghĩa vật chất; J. Calvin dung hòa quan điểm của Luther và Zmingli, rằng rượu và bánh trong Lễ Thánh thể vừa có ý nghĩa vật chất (ở bên ngoài), vừa có ý nghĩa thuộc linh (ở bên trong). Trong quá trình phát triển, tuy các phái Tin lành còn có những quan điểm khác nhau về Lễ Thánh thể nhưng nhìn chung đều phủ nhận “ thuyết biến thể” của đạo Công giáo. Đa số phái Tin lành cho rằng Lễ Thánh thể là kỷ niệm về ngày chết của Chúa Giêsu chuộc tội cho loài người, qua đó nhắc nhở con người sống xứng đáng với Thiên Chúa. Lễ Thánh thể của đạo Công giáo được tiến hành với nghi thức rườm rà, tín đồ chỉ được ăn “ Bánh thánh ” còn “Rượu thánh” không được uống mà dành cho các giáo sĩ. Đạo Tin lành thực hiện lễ Thánh thể đơn giản hơn, tất cả tín đồ và giáo sĩ cùng uống rượu và ăn bánh. Lễ Thánh thể thường được tổ chức vào chủ nhật đầu tiên của từng tháng.
Ngoài hai phép Bắptem và Mình thánh, đạo Tin lành duy trì các lễ như lễ Noel, lễ Phục sinh, lễ dâng con trẻ cho Chúa, lễ Hôn phối và các lễ khác cho người quá cố…
Đạo Công giáo cho rằng con người không những phải làm việc thiện mà còn phải hãm mình để chuộc tội. Đạo Tin lành lại quan niệm rằng việc chuộc tội cho loài người đã có Chúa Giê su làm trọn rồi. Con người làm việc thiện để tỏ ra xứng đáng với Thiên Chúa. Con người phải có đức tin mới được cứu vớt.
Tín đồ Công giáo xưng tội trong tòa kín với linh mục là hình thức chủ yếu nhất, còn tín đồ Tin lành xưng tội trực tiếp với Thiên Chúa. Đạo Công giáo đặt ra nhiều bài kinh để cho mọi người cầu nguyện hàng ngày  (quen gọi là Kinh nguyện) Đạo Tin lành chỉ tin có Kinh thánh, dùng Kinh thánh trong tất cả các sinh hoạt tôn giáo. Khi xưng tội cũng như khi cầu nguyện, tín đồ đạo Tin lành có thể đứng giữa nhà thờ, trước đám đông để sám hối hoặc nói lên ý nguyện của mình một cách công khai.
Nhà thờ (thánh đường) của đạo Công giáo được xây dựng tốn kém, kiến trúc đồ sộ theo lối cổ, bài trí công phu cầu kỳ và cho rằng đó là Nhà Chúa- nơi Chúa ngự một cách linh thiêng, đặc biệt, trong và ngoài nhà thờ, treo nhiều ảnh tượng. Nhưng trái lại, nhà thờ đạo Tin lành thường kiến trúc hiện đại, đơn giản, trong nhà thờ không có tượng ảnh, chỉ có cây thập giá biểu tượng Chúa Giêsu chịu nạn. Trong nhiều trường hợp đạo Tin lành chỉ sử dụng những phòng họp hoặc hội trường đôi khi một nhà tạm của tín đồ dùng để làm điểm nhóm lễ, chia sẻ lời Chúa trong kinh thánh.

b. Chức sắc và tổ chức giáo hội

Chức sắc của đạo Tin lành gồm các chức vụ: mục sư (tên gọi theo kinh thánh) và dưới mục sư là là truyền đạo (còn gọi là giảng sư). Hiện nay Hội thánh Việt Nam miền Nam và miền Bắc đều thống nhất gọi truyền đạo là mục sư nhiệm chức. Một số phái Tin lành vẫn duy trì chức giám mục, nhất là những hệ phái chịu ảnh hưởng của Anh giáo. Chức sắc Tin lành chủ yếu là nam, nhưng cũng có một số phái có tuyển chọn cả phụ nữ và nhìn chung họ không giữ chế độ độc thân. Chức sắc đạo Tin lành tuy được coi là “người chăn bày” nhưng không có thần quyền, tức là không có quyền thay mặt Thiên Chúa ban phúc, tha tội cho tín đồ, không phải là cầu nối trung gian trong mối quan hệ giữa tín đồ đạo Tin lành với đấng thiêng liêng. Quan hệ giữa giáo sĩ với tín đồ bình đẳng, cởi mở. Có hệ phái Tin lành bầu ra mục sư, truyền đạo theo thời gian. Chức sắc đạo Tin lành hoạt động dưới sự kiểm soát của tín đồ, hàng năm tín đồ bỏ phiếu tín nhiệm mục sư (hoặc truyền đạo) quản nhiệm Hội thánh cơ sở.
Đạo Tin lành chủ trương xây dựng các giáo hội độc lập với những hình thức cơ cấu khác nhau, tùy thuộc vào từng hệ phái và hoàn cảnh điều kiện cho phép. Có hệ phái Tin lành duy trì cơ cấu 2 cấp Trung ương và Hội thánh cơ sở (chi hội), có hệ phái Tin lành duy trì thêm cấp trung gian là Giáo khu hay Địa hạt (tương đương như Giáo phận của đạo Công giáo). Nhân sự lãnh đạo các cấp giáo hội theo nhiệm kỳ thông qua bầu cử dân chủ (trực tiếp, bằng phiếu kín, từng chức danh). Thành phần lãnh đạo Giáo hội không chỉ có mục sư, truyền đạo mà có cả tín đồ tham gia. Đặc biệt, các hệ phái Tin lành đều trao quyền tự quản cho hội thánh cơ sở với tinh thần tự lập, tự dưỡng, tự truyền. Các hệ phái Tin lành không ngăn cản tín đồ, chức sắc tách ra để gia nhập các hệ phái khác hoặc đứng độc lập.
Đạo Tin lành thường có hai sinh hoạt về mặt tổ chức là Bồi linh và Hội đồng (đại hội đại biểu). Bồi linh còn gọi là Hội đồng linh tu được tổ chức hàng năm theo các cấp giáo hội để nâng cao trình độ giáo lý, thần học cho tín đồ, mục sư, truyền đạo. Tùy theo cấp tổ chức bồi linh mà thành phần tham dự khác nhau. Nếu bồi linh cấp trung ương thì chỉ có các mục sư, truyền đạo và những chức vụ chủ chốt của các chi hội. Nếu bồi linh ở cấp chi hội thì mở rộng đến các tín đồ. Đại hội đại biểu ở cấp chi hội thường họp mỗi năm một lần, gọi là Hội đồng thường niên. Hội đồng ở chi hội có nhiệm vụ tổng kết công việc trong một năm và bàn chương trình hoạt động của năm tới, bầu ban chấp sự, bỏ phiếu tín nhiệm mục sư, truyền đạo chủ tọa và bầu chọn đại biểu đi dự Đại hội đồng cấp trên (nếu trùng nhiệm kỳ của Đại hội đồng). Đại hội đại biểu trên cấp chi hội là Đại hội đồng. Thành phần tham dự Đại hội đồng là các mục sư, truyền đạo và đại biểu tín đồ được cử ở các chi hội.
Đại hội đồng tổ chức theo nhiệm kỳ để giải quyết các công việc nội bộ, xây dựng hoặc sửa đổi hiến chương (Điều lệ) và bầu nhân sự lãnh đạo giáo hội.

4- Một số nhận xét về đạo Tin lành

Qua phân tích quá trình ra đời, phát triển, giáo lý, giáo luật, lễ nghi, tổ chức giáo hội, có sự khái khoát một số nét đặc trưng cơ bản của đạo Tin lành như sau:
1-Đạo Tin lành là tôn giáo tách ra từ đạo Công giáo ở thế kỷ 16 cùng với sự xuất hiện của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Nội dung cải cách chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng dân chủ tư sản, ý chí tự do cá nhân. Trong sinh hoạt tôn giáo, đạo Tin lành đề cao vai trò cá nhân. Trong sinh hoạt về tổ chức, đạo Tin lành đề cao tinh thần dân chủ. Các luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo, cơ cấu tổ chức của đạo Tin lành đơn giản, nhẹ nhàng không rườm rà, gò bó như đạo Công giáo.
2 – Những nội dung cải cách đã làm cho đạo Tin lành trở thành một tôn giáo có mầu  sắc mới mẻ, thích hợp với giai cấp tư sản, tiểu tư sản, công chức, trí thức… thị dân nói chung trong xã hội công nghiệp. Đặc biệt với lối sống đạo nhẹ nhàng, đề cao đức tin và vai trò cá nhân, đạo Tin lành duy trì tín ngưỡng trong mọi hoàn cảnh chính trị, xã hội, kể cả những khi bị o ép, cấm cách.
3- Đạo tin lành là tôn giáo có đường hướng và phương thức hoạt động rất năng động, luôn đổi mới từ nội dung đến hình thức để thích nghi với hoàn cảnh xã hội. Đặc biệt, đạo Tin lành tham gia tích cực vào các hoạt động  xã hội, nhất là lĩnh vực từ thiện nhân đạo, lấy đó làm phương tiện mở rộng ảnh hưởng. Điều này tạo ra uy tín và khả năng tiếp cận, chung sống với nhiều chế độ chính trị khác nhau.
4-Ngoài lớp thị dân, đối tượng truyền đạo quan trọng thứ hai của đạo Tin lành là các đồng bào các dân tộc thiểu số. Đó là những vùng đất mới- nơi chưa có tôn giáo chính thống hoặc tôn giáo, tín ngưỡng cũ đang suy thoái, mất uy tín, nơi đời sống dân sinh, trình độ dân trí thấp. Truyền đạo đến những vùng này, đạo Tin lành không những phát huy lợi thế vốn có “đơn giản về luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo” mà còn nghiên cứu rất kỷ đặc điểm lịch sử, văn hóa, tâm lý, lối sống, phong tục, tập quán của từng dân tộc, chủ động địa phương hóa, dân tộc hóa để dễ dàng hòa nhập.
5 -Ra đời, phát triển cùng với giai cấp tư sản cho nên đạo Tin lành có mối quan hệ khá chặt chẻ với giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản sử dụng đạo Tin lành như một thứ vũ khí trong các cuộc cách mạng tư sản ở thời kỳ đầu và việc tìm kiếm thị trường phát triển lực lượng, kể cả việc lợi dụng các cuộc chiến tranh xâm lược mà giai cấp tư sản tiến hành.
6- Tuy nhiên, trong từng thời kỳ lịch sử, từng tổ chức hệ phái Tin lành, mối quan hệ nói trên có sự thay đổi ở từng nước, từng khu vực. Thời gian sau này, đạo Tin lành chịu ảnh hưởng của các xu hướng tiến bộ trên thế giới nên nhiều phái Tin lành tách dần khỏi sự kiềm tỏa của các thế lực chính trị.
Nguồn: btgcp.gov.vn.
Trích – Luật tín ngưỡng Tôn giáo, tìm hiểu về lễ hội tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo….

TÌM HIỂU VỀ ĐẠO TIN LÀNH Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét