ĐẠO HỒI
Trích từ: Tôn giáo học so sánh: HT Thánh Nghiêm: Việt dịch TT Chân Tính
TIẾT 1: CỘI NGUỒN CỦA HỒI GIÁO
1.Tên gọi Hồi giáo
Đạo Hồi dịch từ tiếng Trung Quốc bởi
từ bộ tộc người Hồi Hột, con cháu của
người Hung Nô tản cư vào vùng Đông Nam tỉnh Tân Cương, Trung Quốc từ đời
nhà Đường khoảng năm 651. Tên gọi thông dụng quốc tế của Hồi giáo là
Mohammedanisn, vì Hồi giáo do Mohammed sáng lập. Nhưng người Hồi giáo họ không
thích dùng tên của Mohammed để đặt tên tôn giáo của họ, họ tự cho rằng, tên tôn
giáo của họ là Islam, theo họ thì đây là tên gọi do Allah, Thiên Chúa duy nhất
mà họ phụng thờ, quy định cho họ. Ý nghĩa của từ Islam là “sự phục tùng” tức là
tôn giáo phục tùng Allah. Dovậy Mohammedanisn, hoặc Islam đều là hai tên gọi
thông dụng của Hồi giáo trên thế giới.
Ngoài ra Trung quốc còn gọi Hồi giáo là Thanh
Chân giáo, đây là tên gọi mà tín đồ Hồi giáo vô cùng hoan nghênh, họ cho rằng
Thanh là làm cho thanh khiết, làm cho thanh khiết thể xác, và làm cho thanh
khiết cả linh hồn, Chân là tin tưởng chân chủ Allah, cầu chân lý, giảng chân
ngữ và làm chân sự mà Allah quy định.
Bất kỳ một sự việc nào tín đồ Hồi giáo cũng đều phải nhân danh Allah mà
làm mới được thành tựu. Cho nên khi theo Hồi giáo người ta phải tuyên đọc câu
Kalimah, Sahadah: “Tôi công nhận Allah là Thượng đế duy nhất ngoài ra không có
ai khác nữa, và tôi công nhận Mohammed
là vị sứ giả cuối cùng của Ngài”. Bởi vậy ở Trung quốc Hồi giáo còn tự gọi mình là Thanh Chân giáo,
thánh đường của họ gọi là Thanh Chân tự.
2- Cái nôi của Hồi giáo
Cái nôi của Hồi giáo là bán đảo Arab
với một sa mạc mênh mông. Vì thế so sánh với các khu vực lân cận thì nó là một
vùng hoang vu, cằn cỗi. Do ảnh hưởng và hạn chế của môi trường tự nhiên, đại đa
số người Arab (tộc Bedouin) sống bằng du mục, phiêu bạt khắp nơi, lấy cướp bóc
và chăn nuôi làm nghề nghiệp của mình. Cuộc sống của họ tuy có điểm giống với
dân Turkestan và các dân tộc du mục Mongolia ở những vùng miền khác của châu Á,
nhưng họ không phải là người thuộc chủng tộc Mongolia, mà là người thuộc chủng
tộc Semite cùng huyết thống với người Do Thái. Cho nên, ngôn ngữ và văn tự của
họ cũng là một nhánh của ngữ văn Semite, cùng một hệ thống với ngữ văn Hebrew.
Bởi lẽ đó, sau khi Hồi giáo xuất hiện, họ cũng lấy tổ tiên của Do Thái giáo là
Abraham làm tổ tiên của người Arab. Vì vậy, mãi đến khi Mohammed ra đời, dân
tộc cư trú trên bán đảo Arab này vẫn giống như những người Do Thái trước khi rời
khỏi Ai Cập, xã hội của họ phân
chia thành rất nhiều đẳng cấp và có rất
nhiều tập tục xấu như: nuôi nô lệ, đa thê, dâm loạn, dã man… cái gì cũng có. Để
tăng thu nhập ngoài nghề chăn nuôi bấp bênh của mình, người Bedouin Arab thường
đi cướp bóc những nông thôn phụ cận, tấn công các đoàn thương buôn, hoặc làm
thuê cho các thương nhân tham lam để bảo vệ họ trước bọn tù trưởng đầy dã man.
Nếu như mấy mùa liên tiếp ngũ cốc khô héo, đồng cỏ úa vàng, thì họ phải di cư
đến Syria, Ai Cập và Mesopotamia.
3- Người Arab
Trong vài thế kỷ đầu của thời đại Cơ
Đốc giáo, ngoài một số người định cư, còn lại trình độ văn hóa của người Arab
rất thấp. Họ tuy có ngôn ngữ và chữ viết, nhưng lại không có văn học, và tuy có
thơ ca, nhưng tác giả những bài thơ đó đều không biết chữ, việc lưu truyền thơ
ca đều dựa vào hình thức truyền miệng. Nghe nói, có người có thể đọc thuộc lòng
vanh vách 2900 bài thơ có từ trước Hồi giáo ra đời. Thể thơ thông thường của
những bài thơ này là vần chân đơn. Mỗi bài thơ có độ dài từ 25 đến 100 dòng.
Các bài thơ này miêu tả người Arab là
những người hung dữ, lỗ mãng nhưng khẳng khái, thích giao du bạn bè, xem nhẹ
chuyện sống chết và coi trọng lời hứa. Về mặt văn nghệ, ngoài một ít kỹ nghệ và
mỹ thuật và một vài văn tự mang tính thương nghiệp thuần túy, còn lại không có
văn hóa gì đáng nói.
Người Arab hung hăng, mạnh mẽ nhưng thiếu đoàn kết. Vào mấy thế kỷ đầu
của thời kỳ Cơ Đốc giáo, người Arab từng nhiều lần đánh cướp các tỉnh thành của
đế quốc La Mã, người dân ở các tỉnh thành đó cũng thường xuyên phải tiêu diệt
những đội quân nhỏ của người Arab hoặc bắt họ làm tù binh. Nhưng sau khi Hồi
giáo xuất hiện, đến thế kỷ thứ 7, nhờ tín ngưỡng Hồi giáo mà người Arab đoàn
kết lại với nhau, không những đoàn kết về tinh thần mà đoàn kết về cả sức mạnh
quân sự. Họ không dừng lại ở việc xâm lược và cướp bóc mà thậm chí chiếm lãnh
một vùng đất đai rộng lớn của đế quốc La Mã, xây dựng nên một quốc gia nữa
chính trị nữa tôn giáo.
Trước Hồi giáo, từng có các nước Ai
Cập, Ba Tư, Macedonia, La Mã, Syria, Constantinople và cuối cùng lại là Ba Tư,
trên danh nghĩa, lần lượt làm thượng quốc (nước đô hộ) của người Arab. Người
Arab, tính đến lúc đó, chưa từng xây dựng một quốc gia cho mình, mà chỉ một xã
hội gồm các bộ lạc ở rải rác khắp nơi. Mỗi bộ lạc đều có tín ngưỡng tôn giáo
riêng, tin thờ các vị thần khác nhau. Quan niệm về các vị thần và nghi thức
cúng tế thần của họ đều giống với những dân tộc nguyên thủy khác. Hòn đá đen
trong đền thờ Ka’ aba ở Thánh địa Mecca chính là vật bảo hộ cho các vị tiểu
thần của 300 tộc người Arab. Thiên Chúa Allah mà Mohammed tín ngưỡng, vị tự
xưng là thần duy nhất của vũ trụ và là thần mà Abraham đã từng thờ phụng, thực
ra cũng chỉ là một trong số rất nhiều vị thần của người Arab. Đến thời Mohammed
mới chủ trương Allah là vị thần duy nhất chung cho tất cả các bộ lạc. Quan niệm
nhất thần giáo này học được từ Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo. Thời thiếu niên,
Mohammed từng qua lại các nước lân cận bán đảo Arab, nơi mà Cơ Đốc giáo và Do
Thái giáo thịnh hành. Ông rất mực lưu tâm đến hai tôn giáo này, vì tín ngưỡng
Cơ Đốc giáo và Do Thái giáo còn có một hệ thống lý luận đáng kể, chứ không như
tôn giáo nguyên thủy của Arab, không có bất kỳ căn cứ lý luận gì. Nhưng,
Mohammed lại không tiện từ bỏ thần Allah mà ông đã phụng thờ từ trước đến nay,
thế là ông dùng cái tên Allah kết hợp với tín ngưỡng của Cơ Đốc giáo và Do Thái
giáo để tạo thành Hồi giáo.
{—]–{
TIẾT 2: GIÁO CHỦ HỒI GIÁO
1- Nơi Mohammed ra đời
Không ai xác định được năm sinh của
Mohammed, các nhà sử học đa số cho rằng Mohammed sinh vào năm 570 tại thành
Mecca trên bán đảo Arab, là dân một thị tộc cổ của Arab.
Theo truyền thuyết Hồi giáo, Mecca
được khai phá từ rất sớm, vì người Mecca là hậu duệ của Abraham, một tù trưởng
người Semite. Khi Abraham ở Ai Cập, do vợ ông nhiều năm không có con nên ông
cưới thêm một người vợ lẽ, bà sinh được một đứa con trai tên là Ishmael. Không
lâu sau, người vợ đầu của ông cũng sinh được một đứa con trai, đặt tên là
Isaac. Sau này, con trai của Isaac là Jacob làm tổ phụ chung của 12 chi tộc
người Do Thái, được họ gọi là Israel, còn Ishmael trở thành tổ phụ chung của
các tộc người Arab.
Tín đồ Hồi giáo tin rằng Ishmad từng xém chút nữa bị Abraham đem giết để
làm vật hiến tế cho Thiên Chúa Yahweh. Sau đó, lại vì ông bị người vợ của cha
mình đố kỵ, nên đã được cha đưa đến Mecca khi cha ông đang khai phá một khu vực
chăn nuôi mới. Tại Mecca, hai cha con Abraham đã xây dựng một ngôi nhà hình
vuông bằng đá gọi là đền Ka’aba để làm nơi quy hướng cho tín ngưỡng tôn giáo.
Ka’aba sau này đã trở thành Thánh địa tôn giáo của người dân trên toàn bán đảo
Arab. Đối tượng lễ bái của họ chủ yếu là một hòn đá nhỏ màu đen đặt trong đền
Ka’aba. Sự thật là, đối với việc lễ bái này, Hồi giáo đã học theo truyền thuyết
về thần thoại của Do Thái giáo. Trước thời Mohammed, Mecca luôn luôn là Thánh
địa của tín đồ đa thần giáo, sau này Hồi
giáo nổi lên, mới nói rằng đền Ka’aba ở Mecca vốn là nơi phát xuất tín ngưỡng
nhất thần của Abraham, họ vẫn lấy Mecca làm Thánh địa như xưa, nhưng giờ là
Thánh địa của Hồi giáo, và biến những người tín ngưỡng Thánh địa này thành tín
đồ của Mohammed. Mohammed cũng lấy chủ thần Allha trong số các vị thần được thờ
phụng tại đến Ka’aba làm vị thần duy nhất của Hồi giáo.
Mecca có vị trí địa lý rất ưu việt trên bán đảo Arab, nó là nơi mà các
đoàn thương buôn bắt buộc phải đi qua để đến Yemen, Syria… và nó nằm gần biển
Đỏ, một trục mậu dịch của thế giới. Mecca thuộc miền núi, sở dĩ nó có thể phát
triển phồn vinh và trở thành một thành thị trọng yếu của Arab thời cổ đại,
chính vì nó là trạm dừng chân của các đoàn thương buôn, chứ không phải vì sự
thiêng liêng của đền Ka’aba. Khi các đoàn thương buôn dừng chân ở Mecca, họ
cũng tiến hành giao dịch mua bán tại đây. Việc lễ thần, cầu nguyện, tạ ơn… cũng
đạt đến cao trào vào mùa các đoàn thương buôn qua lại đông đúc. Sự tập hợp các
đoàn thương buôn sau này dần dần thành các cuộc hành hương định kỳ. Như vậy
phong tục hành hương định kỳ đã thịnh hành trong xã hội người Arab từ trước khi
Hồi giáo ra đời. Đây là điểm khác biệt của lễ hội ở Mecca với lễ hội của các
tôn giáo nguyên thủy ở những khu vực khác. Đến khi Hồi giáo được sáng lập, nó
không chỉ tiếp nhận đền Ka’aba của đa thần giáo, tiếp nhận chủ thần Allah trong
đền Ka’aba và tiếp nhận phong tục hành hương định kỳ trước đây, mà thậm chí đã
tiếp nhận cả tín ngưỡng sùng bái hòn đá đen đặt trong đền Ka’aba.
2 -Mohammed trước khi kết hôn
Tên Mohammed nghe nói là do ông nội
đặt cho, nó có nghĩa là “người được ca ngợi”. Có lẽ, ông nội ông hy vọng suốt
đời ông sẽ được mọi người ca ngợi, giống như một vị thần vậy. Mohammed lớn lên
trong sự yêu thương, chăm sóc của ông nội vì cha qua đời ngay từ khi ông vẫn
còn trong bụng mẹ, di sản của cha ông để lại cho mẹ con ông chỉ có 5 con lạc
đà, một bầy cừu non và một người hầu gái.
Những năm tháng đầu đời, Mohammed đã
sống 5 năm ở quê mẹ. Đó là một vùng đất ven sa mạc đầy thần bí và mê tín, chính
vùng đất này đã gieo mầm cho những hoạt động tôn giáo cuồng nhiệt của ông sau
này. Lúc Mohammed còn là cậu bé, mẹ của ông cũng đã từ giã cõi đời, theo lời
trăn trối của ông nội, ông được giao cho người bác nuôi dưỡng. Đến năm 12 tuổi,
ông đi cùng với đoàn thương buôn của bác
mình vượt qua sa mạc đến Syria. Syria là một trong những trung tâm của Cơ Đốc
giáo nên ở đó ông chính thức được tiếp xúc với các mục sư đạo Cơ Đốc giáo. Tuy
trong số những người Arab đến Syria khi đó, có người cảm thấy e dè, sợ hãi
trước các giáo sĩ Cơ Đốc giáo, nhưng Mohammed thì không và lần đến Syria này đã
ảnh hưởng rất lớn đến tiền đồ của ông về sau. Ông đã nhìn thấy ảo ảnh trong sa
mạc, đã trông thấy sự biến đổi thất thường của tướng trạng tinh tú trên bầu
trời, đã thăm viếng vài tòa thành nổi tiếng có tính lịch sử, đã nghe được rất
nhiều chuyện về những điều xảy ra trong sa mạc, đã gặp được các học giả Cơ Đốc
giáo cũng như đã biết đến những câu chuyện trong Kinh Thánh, lịch sử của Ba Tư
và giáo lý của Tiên giáo. Những kiến thức đó đã thúc đẩy ông tự mình vận não tư
duy, thực hành tĩnh tọa mặc tưởng.
Lời kể về Mohammed trên đây đương
nhiên chỉ là bút pháp của các tác giả viết truyện ký. Một cậu bé 12 tuổi mà có
được sức cảm nhận kinh người như thế quả thật là thiên tài trời phú! Chuyện này
nếu đem ra so sánh với truyền thuyết Jesus cùng đi với cha mẹ đến Jerusalem lúc
12 tuổi chẳng khác nhau là mấy. Đây có phải là sao chép lại truyền thuyết cũ
hay không, tạm thời chúng ta không truy cứu. Nhưng việc Mohammed tiếp nhận tư
tưởng tôn giáo từ sớm là điều không thể nghi ngờ, vì ngay trong thành Mecca
thời bấy giờ, Mohammed cũng đã có thể tiếp xúc được với rất nhiều nhà diễn
thuyết giỏi đối đáp, trong số đó có tín đồ Do Thái giáo, tín đồ Cơ Đốc giáo và
cả tín đồ đa thần giáo. Họ nói thao thao bất tuyệt, công kích lẫn nhau, mỗi
người mỗi thuyết, không ai nhượng ai. Theo cách nhìn của Mohammed, đạo lý của
Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo cao hơn một bậc so với tín ngưỡng đa thần của người
Arab. Sự thật đúng là như vậy. Cho nên,
lúc tự mình sáng lập ra Hồi giáo, Mohammed đã chọn Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo
làm nền tảng tín ngưỡng của mình.
Lúc Mohammed 15 tuổi, giữa những tộc
người Arab, xảy ra một cuộc nội chiến kéo dài 4 năm ròng. Ông đã tham gia trận
chiến này, từ đó ông học được việc vác súng, cầm gươm, bắn tên, giết chóc …kinh
nghiệm học được từ chiến trận đã đem lại cho ông rất nhiều lợi ích về sau này
ông lãnh đạo tín đồ của mình đánh nhau với các tôn giáo khác. Khi cuộc nội
chiến kết thúc thì Mohammed đã sang tuổi 20.
Trong thời niên thiếu, Mohammed từng
được giao việc chăn cừu, suốt ngày ông làm bạn với bầy cừu, giống như các vị
Abraham, Moses và vua David của người Do Thái. Là một mục đồng, thời gian rảnh
rỗi thực sự rất nhiều, Mohammed mặc sức tưởng tượng và tìm được niềm lạc thú
trong sự tưởng tượng đó, có khả năng ông đã tự mình mê đắm vào những ảo ảnh
tuyệt đẹp. Bởi vậy, lúc còn làm mục đồng, Mohammed thường nghe thấy tiếng nhạc
trong tai của mình, trực giác nói với ông rằng tiếng nhạc đó đến từ nước trời,
cho nên người ta hay thấy ông ngôi yên đơn độc một chỗ, trầm ngâm lắng nghe
thâu đêm suốt sáng.
3- Đời sống hôn nhân của Mohammed
Mohammed vốn xuất thân mồ côi, nên
một chữ bẻ đôi cũng không biết, chỉ có một ít kinh nghiệm buôn bán và kiến thức
tôn giáo. Ông thân thể gầy yếu, dễ bị kích động, nhưng mặt mũi đẹp trai. Nói
chung, ông là một trang nam tử tuấn tú, ưa sạch sẽ, tính tình thật thà và cực
kỳ trung thành. Những nhân tố này đã giúp cho ông trở thành một nhà tôn giáo
lớn. Trước khi trở thành nhà tôn giáo, Nohammed đã cưới bà quả phụ Khadija giàu
có và về ở rể tại nhà bà, chính việc làm chồng bà Khadija đã càng thúc đẩy sự
nghiệp tôn giáo của Mohammed đi đến thành công.
Đầu đuôi cuộc hôn nhân này như sau:
năm Mohammed 25 tuổi, ông đến làm thuê cho bà góa phụ Khadijia, giúp bà dẫn
đoàn lạc đà vận chuyển hàng hóa đến Syria bán. Ông luôn hoàn thành nhiệm vụ một
cách xuất sắc với thái độ làm việc trung thành, không chút gian dối. Chính thái
độ trung thành này, cộng thêm diện mạo đẹp trai, mà ông được bà Khadijia để ý.
Có lẽ Mohammed có ý đồ khác, nếu không thì ông không thể chấp nhận chuyện hôn
nhân như vậy. Vì, khi đó Mohammed là một chàng trai thanh niên mới 25 tuổi, còn
Khadija thì đã 40 tuổi hoặc có thể cũng đã là một phụ nữ trung niên già nua.
Rất rõ ràng, thứ mà Khadija yêu chính là con người của Mohammed, còn thứ mà
Mohammed yêu lại là tài sản của Khadija.
Đời sống hôn nhân như vậy nhất định
không thể mỹ mãn. Sau khi về ở rể tại nhà bà Khadija, Mohammed bị những người
trong gia đình bà chán ghét. Đồng thời, do sự chênh lệch về tuổi tác, trong
những ngày tháng bà Khadija còn sống, Mohammed không cách gì đạt được sự thỏa
mãn về xác thịt. Nỗi u uất dồn nén lâu ngày đó đã đưa ông đến với tín ngưỡng
tôn giáo. Ông thường cầu nguyện suốt đêm và ngồi mặc tưởng trong thời gian dài.
Đến tháng chay mỗi năm, ông một mình vào trong sơn động, tĩnh tọa mặc tưởng.
Tuy vậy, hình như trước tuổi 40 ông vẫn là một người tín ngưỡng tôn giáo cổ bảo
thủ. Điều này có thể thấy được qua việc ông đặt tên cho con trai mình là Abd
Manif (nghĩa là: “người hầu của Manif”, Manif là thần của thành Mecca). Nhưng
chắc chắn là, cuộc sống dị thường của ông đã tạo ra nơi ông một hệ quả cũng rất
dị thường về mặt tâm lý. Vào một ngày khi ông 40 tuổi, đang trong sơn dộng, đột
nhiên ông nghe thấy tiếng của một thiên thần nào đó nói chuyện với mình, bảo
ông làm sứ giả truyền trao những lời dạy mà Chúa Allah sẽ nói với ông cho nhân
loại. Từ đó về sau, mỗi lần ông cầu nguyện là vị thần đó lại hiện ra. Sau khi
Mohammed qua đời, chúng đệ tử đem lời giảng của ông trong một đời, những lời
giảng mà ông tuyên bố do chính Allah đã nói cho ông nghe, biên tập lại thành
một cuốn sách, đó chính là cuốn Thánh kinh Koran của Hồi giáo.
Thật ra, nếu xem xét từ góc độ phân tâm học
cận đại, thì không phải thực sự có một thiên thần hiện đến truyền dạy lại lời
của Allah cho Mohammed, cũng không phải Mohammed cố ý nói dối để lừa gạt người
khác, mà đây là hiện tượng của bệnh tâm thần phân liệt. Cuộc sống hôn nhân vợ
già chồng trẻ, cộng thêm tâm lý tự ti khi ở rể, bị ức chế cả về mặt tinh thần
lẫn thể xác như thế, đối với một người tính dễ kích động như Mohammed, sinh ra
bệnh tâm thần phân liệt là điều không có gì lạ. Cái gọi là “tâm thần phân liệt”
chính là sự chia đôi nhân cách của bản thân mình thành một nhân cách giống như
trước đây và một nhân cách đối lập với
nhân cách trước đây. Khi nhân cách đối lập xuất hiện, người bệnh liền
cảm thấy có một nhân cách tồn tại khách quan bên ngoài tự ngã vốn có; còn khi
nhân cách đối lập tiềm ẩn, người bệnh liền khôi phục lại tính cách cũ. Bản thân
người mắc bệnh tâm thần phân liệt không có chút hoài nghi nào về cái nhân cách
đối lập với mình kia, vì nó vốn không hề đến từ bên ngoài mà là từ trong thân
tâm của chính người đó. Bởi vậy, trên thực tế, Kinh Koran mà Mohammed truyền
dạy, chính là biểu hiện tư tưởng của bản thân Mohammed, nhưng trong tâm
Mohammed lại thực sự tin rằng đó là những lời Thánh huấn mà Allah đã ban xuống
cho ông.
Ở Trung Quốc cũng có ví dụ thực tế về
việc người mắc bệnh tâm thần phân liệt sáng lập nên một tôn giáo mới: đó chính
là trường hợp Hồng Tú Toàn, thủ lĩnh của phong trào Thái Bình Thiên Quốc vào
triều nhà Thanh. Hồng Tú Toàn sau rất nhiều lần thi rớt trên trường khoa cử đã
sinh ra trọng bệnh. Trước khi sinh bệnh, ông đã đọc được các sản phẩm tuyên
truyền về Cơ Đốc giáo, nên trong khi bệnh, ông nhìn thấy Chúa là cha mình và
Jesus là anh mình, bản thân ông thì tự xưng là con thứ của Thiên Chúa. Tính
cách vừa mới thay đổi, ông đã dấy lên cuộc loạn Hồng Dương (Hồng Tú Toàn và
Dương Tú Thanh). Khi những người mắc bệnh tâm thần phân liệt sáng lập nên một
tôn giáo, ý định của họ cũng xuất phát
từ lòng nhân từ, nhưng thái độ của họ đối với những ai khác biệt với
mình lại rất tàn bạo. Tinh thần của Hồi giáo là như vậy, tinh thần của Thái
Bình Thiên Quốc cũng như vậy. Nếu nội bộ Thái Bình Thiên Quốc sau này không xảy
ra đấu tranh giành nhau quyền lực dẫn đến diệt vong thì có thể cũng đã xưng
hùng xưng bá như Hồi giáo của Mohammed.
Việc Mohammed mắc bệnh tâm thần phân liệt từ lâu được các học giả phương
Tây công nhận. Nhân cách vốn có của ông thường chống chọi lại nhân cách đối
lập, còn nhân cách đối lập của ông thường chỉnh sửa nhân cách vốn có, nhưng nó
không cách gì thay đổi hoàn toàn được nhân cách vốn có ấy. Năm Mohammed 50 tuổi,
bà vợ già Khadija của ông qua đời, cộng với quyền lực chính trị của ông ngày
một khếch trương, nên ông có cơ hội phóng túng nhục dục của mình, liên tiếp
cưới nhiều thê thiếp trẻ đẹp, ngày ngày hoan lạc với nữ sắc. Tuy về chuyện này,
các tín đồ Hồi giáo đã biện hộ cho giáo chủ của họ rằng: Trong mười mấy người
vợ mà Thánh Mohammed cưới sau này, có người là vợ của các tướng sĩ dưới trướng
Mohammed, để bảo vệ cho vợ hóa của các thuộc hạ, ông mới cưới họ về làm vợ mình;
lại có người là để kết liên minh chính trị; cũng có người là vì nguyên nhân nối
dõng tông đường… Kỳ thực, đây là những lý do biện bạch rất không hợp lý cho chủ
nghĩa đa thê kiểu Mohammed.
Cách nhìn của đại sử gia Herbert Wells
đối với vấn đề này như sau: “đến khi Khadija chết, Mohammed tròn 50
tuổi, trước đó ông sống đời một vợ một chồng, có vẻ như là một người chồng chân
thành, nhưng sau đó lại phóng túng với phụ nữ một cách thái quá, giống như
nhiều gã đàn ông khi họ bước sang tuổi xế chiều. Khi Khadija vừa chết, ông liền
lấy hai bà vợ khác, một trong số đó là cô Ayesha, người luôn luôn được Mohammed
sủng ái và rất có thế lực. Tiếp đó, Mohammed cưới thêm nhiều thê thiếp nữa, và
vì thế làm nảy sinh ra nhiều phiền phức và hổn loạn. Tuy đã có những lời mặc
khải đặc biệt hữu ích của Allah gột rửa cho ông, nhưng những điều phiền phức và
hổn loạn này vẫn cần nhiều hơn nữa những lời giải thích và biện bạch xuất phát
từ tấm lòng thành … Một chuyện gây nhiều tranh cải nữa là: Mohammed đã gả em họ
của mình là Zainib cho con nuôi của mình la Zeil (vốn là nô lệ), sau khi Zeid
thỏa mãn dục vọng của mình, Mohammed đã đưa Zainib về và cưới cô làm vợ… Trong
số các bà vợ của Mohammed, có một người phụ nữ Do Thái tên là Safiyya, chồng cô
bị Mohammed bắt giữ và xử tử trong một trận chiến, cuối ngày Mohammed kiểm
duyệt đám phụ nữ bắt được, thấy thích Safiyya, nên đã đưa cô về lều của mình và
cưới cô ngay trong đêm ấy”. Chẳng trách mà Wells đã phải bình luận về Mohammed
như sau: “Vì Mohammed đã sáng lập nên một tôn giáo lớn, nên có những tác giả
viết về vị giáo chủ dâm dục và xảo trá này như thể ông là một người đứng ngang
hàng với Jesus, Gotama (Thích Ca) và Mani. Nhưng thực tế thì Mohammed rõ ràng
là một kẻ tầm thường, tự cao tự đại, bạo ngược hung tàn và tự dối gạt mình.
Chúng ta không thể vì để làm vừa lòng các độc giả Hồi giáo mà bẻ cong sự thật,
mô tả Mohammed với một bộ mặt khác, làm mất đi tính chuẩn xác của lịch sử.”
4- Đời sống tôn giáo của Mohammed
Trước tuổi 50, do đời sống hôn nhân
không được mỹ mãn, Mohammed bèn chuyển sang thực hành đời sống tôn giáo, ông
từng liên tục trong nhiều năm, mỗi lần đến tháng chay, đều một mình mang theo
chút hành trang đơn giản vào trong sơn động tĩnh tu mặc tưởng. Công phu tu tập
này tương đương với công phu thiền định của Phật giáo, nó giúp ông đạt được
những kinh nghiệm tôn giáo khác thường. Nhờ đó, về mặt tâm lý, ông đã luôn kiên
định niềm tin tôn giáo của mình. Năm 40 tuổi, ông từng ở trong sơn động và sa
mạc tận 6 tháng trời. Trong thời gian 6 tháng này, những lúc ở vào trạng thái
bán xuất thần, ông cảm thấy có một sứ mệnh phải hoàn thành, đó là sứ mệnh
truyền bá tôn giáo của chính ông.
Với phương hướng như vậy, một ngày nọ, khi ông ở trong động nghỉ ngơi,
trong lúc mơ màng, ông nhìn thấy một thiên thần hiện ra trước mặt yêu cầu ông
“nhân danh Chúa của ngươi, hãy đọc” những lời kinh Koran mà Thiên Chúa ban
xuống cho ông. Mohammed bèn đọc theo, ông đọc vừa xong, vị thiên thần kia liền
biến mất. Đây là hiện tượng cho thấy Mohammed bắt đầu mắt bệnh tâm thần phân
liệt. Nhưng đến khi hồi phục lại ý thức của mình, Mohammed lại cảm thấy lo sợ
về chuyện vừa xảy ra, đến nỗi ông không dám tiếp tục ở trong động nữa mà bỏ
chạy về nhà. Về đến nơi, bà vợ già Khadija đã an ủi ông rằng thực thể mà ông
gặp được trong động đích thực là biểu tượng của thần thánh, và rằng một người
giống như ông đủ sức đảm đương sứ mệnh truyền dạy lời của Thiên Chúa, lời an ủi
này làm cho tâm trạng lo lắng của ông bình tĩnh trở lại, cảm thấy vô cùng mệt
mõi, ông đã ngủ một giấc say sưa. Giấc ngủ này có quan hệ rất lớn với tiền đồ
của Mohammed, sau khi ông ngủ đầy giấc, trạng thái tâm lý của ông lại có sự
chuyển biến. Giống như trạng thái lên đồng thường gặp, toàn thân ông run lẩy
bẩy, hơi thở gấp gáp, mồ hôi trán từng giọt, từng giọt lăn xuống như những hạt
đậu trắng. Ông đột nhiên đứng lên khỏi giường, lắng nghe thiên thần đọc lời
kinh Koran cho mình, rồi sau đó thiên thần mượn miệng của ông đọc lại một lần
nữa. Sự xuất hiện của hiện tượng lạ lùng này, nhìn từ lập trường tôn giáo, có
hai nhân tố tạo thành: một là sự tự thôi miên bản thân do bệnh tâm thần phân
liệt gây ra; hai là có một loại quỷ thần nào đó bên ngoài nhân cơ hội bệnh của
ông phát tác đã nhập vào người ông. Mấy ông đồng bà cốt thông thường đều là như
thế cả.
Đối với tôn giáo của Mohammed, Khadija thực sự đã có cống hiến rất lớn.
Đầu tiên, bà làm cho ông không thỏa mãn với cuộc sống gia đình nên dồn sức vào
việc thực hành đời sống tôn giáo. Sau đó, khi ông đạt được một chút kinh nghiệm
tôn giáo nhờ tu tập thiền định, Khadija lại an ủi và cổ vũ ông, nói ông đích
thực là gặp được thánh thần và đủ sức làm công tác truyền giáo cho Thiên Chúa.
Đây rõ ràng là một liều thuốc kích thích cho ý muốn hiến thân vì tôn giáo của
Mohammed. Khi Mohammed lần đầu đọc vài câu kinh cho Khadija nghe, để làm vui
lòng chồng, Khadija tuyên bố tin theo Hồi giáo và trở thành tín đồ đầu tiên của
chính chồng mình. Đây là sự cổ vũ tinh thần thực sự to lớn đối với sự nghiệp
truyền giáo của Mohammed. Chúng ta đã biết Mohammed vốn là một đứa trẻ mồ côi,
còn Khadija lại là một quả phụ giàu có, vì vậy khi Mohammed muốn lấy tôn giáo
làm sự nghiệp của đời mình, Khadija đã giúp ông rất nhiều về kinh tế.
Hoạt động truyền giáo của Mohammed
thời kỳ đầu gặp vô cùng khó khăn, trở
lực rất lớn, những người tin theo ông chỉ có một nhóm nhỏ gồm vợ ông là
Khadija, anh họ ông là Ali, con nuôi ông là Zeid và người bạn chí cốt của ông
là Abu Behr. Nhưng kinh nghiệm tôn giáo của ông đã giúp ông mãi mãi bền tâm
vững chí, trở lực càng lớn, lại càng làm cho tinh thần truyền giáo của ông hăng
hái hơn thêm. Dần dần số lượng tín đồ ngày một tăng lên, họ tự xưng tín ngưỡng
tôn giáo của họ là Islam và tự gọi những tín đồ như họ gọi là Moslem hoặc
Muslim là “ người quy phục Allah ”
5- Đời sống truyền giáo của Mohammed
Hồi giáo thời kỳ đầu chỉ là một đoàn
thể nhỏ bí mật, thành viên của nó chẳng qua là một số họ hàng thân thích và bạn
bè của Mohammed. Vài năm sau đó, vì có người ngoài gia nhập vào, Mohammed bèn
chuyển sự nghiệp tôn giáo của mình từ bí mật ra công khai, sử dụng phương thức
của Moses và Jesus để truyền giáo cho người dân thành Mecca. Ông hay đi đến chỗ
đông người, lớn tiếng gào thét, làm mọi người chú ý, rồi nói cho họ nghe sứ
mệnh của ông. Nhưng ngoài việc Mohammed tự cho mình là một nhà tiên tri mới
xuất hiện ra, so với Do Thái giáo, về mặt giáo lý, Hồi giáo không có kiến giải
gì mới, những gì mà Mohammed đã rao giảng, chủ yếu chỉ là công kích tín ngưỡng
đa thần và sự sùng bái ngẫu tượng của người Arab. Về điểm này, đến tận ngày nay,
các tín đồ Hồi giáo vẫn đang dốc toàn lực mà làm. Ví dụ, có một tiên sinh tên
là Hùng Chấn Tông đã viết một quyển sách tên là Truyện Mohammed (xuất bản ở
Trung quốc năm 1964), trong đó ông công
kích ra rả đối với việc sùng bái ngẫu tượng. Đáng tiếc là, ông sinh ở Trung
quốc vào thời hiện đại không biết ngẫu tượng mà người Arab nói đến khi đó là
chi cho cái gì? . Hễ nói đến ngẫu tượng mê tín là ông liền dùng tượng Phật hoặc
những từ có chữ Phật để thay thế, thậm chí ông nói cha của Abraham có “nghề
nghiệp là chế tác tượng phật” kỳ thực, thời đại của Abraham, cách lúc Phật giáo
xuất hiện sớm hơn đến 1500, 1600 năm. Tiên sinh Hùng Chân Tông chăm chăm lấy
tượng phật làm tượng thờ của đa thần giáo để công kích, sự công kích này không
những vô tác dụng mà trái lại từ đó các độc giả biết được rằng kiến thức tôn
giáo và kiến thức lịch sử của ông nông cạn như thế nào.
Lại nói về hoạt động truyền giáo của Mohammed, tuy đã có rất nhiều người
trở thành tín đồ của ông, nhưng phần lớn dân chúng trong thành Mecca, vẫn muốn
giữ tín ngưỡng cổ xưa của họ và đứng ở lập trường đối địch với Mohammed. Mặc dù
họ dùng chính sách bất hợp tác để cô lập tín đồ Hồi giáo, nhưng họ không bức
hại, tàn sát tín đồ Hồi giáo giống như chính phủ La Mã đã làm đối với các tín
đồ Cơ Đốc giáo thời kỳ đầu, cho nên Mohammed vẫn có thể lợi dụng những tháng
cấm của người Arab để tuyên truyền Hồi giáo của mình.
(Tháng cấm: Bốn tháng: 1,9,10, 12 là những tháng cấm trong lịch Arab,
phong tục Arab khi đó trong các tháng này, thù hận giữa các bộ tộc đều phải tạm
thời dẹp bỏ, không được đánh giết nhau, phải chung sống hòa bình )
Khoảng thời gian Mohammed truyền đạo ở Mecca (đó là năm ông 51 tuổi),
ông đã gặp phải sự chống đối kịch liệt của các thế lực cũ, nhưng xét trên một
phương diện khác, sự chống đối đó lại làm cho tinh thần cuồng nhiệt tôn giáo
của ông càng trở nên mạnh mẽ hơn. Ông tuyên bố ông đã đi từ Mecca đến Jerusalem
và quay ngược lại chỉ trong vòng một đêm. (Với tình trạng giao thông khi đó,
hành trình cả đi lẫn về hai địa điểm trên phải mất hai tháng). Và còn tuyên bố
rằng sau khi đến Jerusalem vào đêm đó, ông đã thăng thiên, đi qua bảy tầng
trời, và bái kiến Allah và tiếp nhận lời huấn thị của Allah. Trong bộ sách
Hadith, sự thăng thiên này của Mohammed đã được miêu tả rất sinh động và hấp dẫn.
Về chuyện thăng thiên của Mohammed, nếu xem xét trên lập trường của khoa học,
dĩ nhiên có thể bài xích nó là một chuyện thần thoại vô căn cứ; nhưng nếu đem
xem xét trên lập trường của kinh nghiệm tôn giáo, thì có thể giải thích nó bằng
bối cảnh tâm lý khác thường của chính nó, với một người dễ bị kích động như
Mohammed, dưới sự ảnh hưởng của những nhân tố tâm lý mãnh liệt và không ổn
định, việc ông mơ thấy một giấc mộng thần kỳ là điều chẳng có gì lạ. Nhưng mà,
do sự lưu truyền của câu chuyện này, từ đó Jerusalem của người Do Thái cũng
được tín đồ Hồi giáo xem là Thánh địa. Sự tranh đoạt thành Jerusalem giữa tín
đồ Hồi giáo và tín đồ Do Thái giáo đã trở thành căn nguyên của một cuộc chiến
đằng đẵng giữa các nước Arab và nước Do Thái cho đến tận thời cận đại. Tôn giáo
gây ra chiến tranh cho nhân loại, đó là nổi bất hạnh lớn nhất mà nhất thần
giáo, cụ thể là tôn giáo Hebrew, đã truyền lại cho hậu thế.
Sau khi câu chuyện Mohammed ban đêm du hành đến Jerusalem và lên trời
gặp Thiên Chúa lan ra, sự nghiệp truyền giáo của ông có lúc rơi vào thoái trào,
thậm chí một số tín đồ Hồi giáo cũng cho rằng ông đang dùng lời tà ma mê hoặc
mọi người và bỏ ông mà đi. Nhưng ông quyết không vì chuyện này mà nản lòng, ông
luôn cảm thấy Thiên Chúa Allah mãi ở bên cạnh ông và sẽ giúp đỡ ông bất cứ lúc
nào. Vì thế, Mohammed càng thêm tích cực hơn trong hoạt động truyền giáo của
mình.
Việc tích cực tuyên truyền Hồi giáo và công kích sùng bái ngẫu tượng của
Mohammed cuối cùng đã dẫn đến sự thù hận của những người Mecca thuộc phải bảo
thủ, họ bày mưu đối phó với Mohammed bằng phương thức “nhổ tận gốc”. Nhưng từ
trước đến nay, người Arab không biết đoàn kết là gì, cũng không biết bảo mật là
gì, nên họ vẫn còn đang sôi nổi bàn tính kế hoạch của mình, thì đã có người bảo
cho Mohammed biết từ lâu. Vì trong tín ngưỡng Hồi giáo có một giáo chủ làm
trung tâm và những giáo điều mà mọi người cùng tuân thủ, các tín đồ đều đoàn
kết hướng về giáo chủ và lấy giáo chủ làm chỗ nương tựa, nên lực lượng Hồi giáo
có thể được chỉ huy linh hoạt và liên lạc với nhau nhanh chóng. Mohammed đã bí mật thông báo cho các tín đồ của mình
chia nhau thành từng nhóm nhỏ di chuyển từ Mecca sang một thành phố khác của
Arab là Medina. Đến lúc chính ông chạy thoát khỏi Mecca thì tình rất khẩn cấp.
6- Sự thành công của Mohammed
Cuộc di chuyển từ Mecca đến Medina
này được các tác giả viết truyện ký về Mohammed thổi phồng lên với rất nhiều
tình tiết cao trào, làm cho độc giả đọc đến đều cảm thấy sửng sốt không thôi.
Sự kiện Mohammed và tín đồ rời Mecca đến Medina được Hồi giáo gọi là Hegira, từ
này nghĩa là “chạy trốn” hoặc “di cư”. Sự kiện này thực sự là một bước ngoặc
đối với cá nhân Mohammed cũng như sự nghiệp tôn giáo của ông, vì người dân
thành Mecca đa phần bảo thủ tín ngưỡng tôn giáo cổ, còn người dân thành Medina
thì đối địch với Mecca và đa phần tin theo Do Thái giáo. Sau đó, người Medina
đã tiếp nhận tín ngưỡng Hồi giáo và suy tôn Mohammed làm lãnh tụ chính trị và
tôn giáo của họ. Lần đầu tiên, Mohammed xây dựng được một chính quyền Hồi giáo
và lấy thành Medina làm cơ sở để phát triển Hồi giáo. Bởi thế cho nên, sự kiện
này cực kỳ quan trọng đối với lịch sử Hồi giáo, và Hồi giáo đã quy định năm
Mohammed chạy trốn sang Medina (năm 622) là năm đầu tiên của kỷ nguyên Hồi
giáo.
Từ đó trở đi, Mohammed thẳng tiến trên con đường thành công. Bằng tôn
giáo của mình, ông đã xây dựng được một chính phủ vững mạnh ở Medina. Giống như
Moses trong Cựu Ước, Mohammed cũng ban bố một số điều luật, lợi dụng thủ đoạn
thần quyền để thống trị nhân dân. Ông tổ chức một đội quân có tinh thần tôn
giáo cuồng nhiệt, dùng đội quân này để duy trì trật tự ở Medina, để đối phó với
tín đồ dị giáo, đặc biệt là sự phản bội của các kiều dân Do Thái giáo, và để
đánh đuổi bọn người dã man thuộc tộc Bedouin đến tập kích Medina từ sa mạc.
Để có kinh phí chi tiêu, Mohammed đã nhận rất
nhiều người tộc Bedouin vào quân đội của mình, sai họ đi đánh cướp những thường
dân không có cùng tín ngưỡng tôn giáo với họ và các đoàn thương buôn từ các nơi
khác đi ngang qua Medina. Thậm chí, Mohammed đã phá hoại tập tục cũ của liên
minh tôn giáo Arab, ngay cả tháng hòa bình Rahab thiêng liêng, Mohammed cũng xua đám tín đồ có vũ trang của mình tập
kích một đoàn thương buôn của Mecca và giết chết một người trong số đó. Tuy
nhiên, nhờ những hành động cướp bóc nà mà tín đồ Hồi giáo giàu có lên và bản
thân Hồi giáo tăng thêm được sức cám dỗ để thu hút những tín đồ mới, đồng thời
cũng nhờ đó mà tiếng tăm và uy danh của Mohammed truyền đi khắp bán đảo Arab.
Sau khi gây dựng được cơ sở quân sự và chính
trị vững mạnh ở Medina, vào năm 630, Mohammed chỉ huy tín đồ của mình tấn công
thành Mecca. Dưới sự uy hiếp bằng đao kiếm của quân Mohammed, những người Arab
bảo thủ và không đoàn kết ở Mecca cuối cũng đã đầu hàng trước vũ lực vào năm
632 và bất đắc dĩ phải chuyển sang tín ngưỡng kinh Koran của Hồi giáo. Mohammed
cũng qua đời vào năm quân Hồi giáo đánh chiếm thành Mecca, chỉ thọ 62 tuổi. Tôn
giáo của ông, với lời di huấn “truyền đạo bằng lưỡi gươm” mà ông để lại, đã
phát triển một cách nhanh chóng, cuối cùng trở thành một trong những tôn giáo
lớn mang tính thế giới.
Quãng thời gian Mohammed khuếch trương quyền lực, được Herbert Well miêu
tả như sau: “ Thường có những chuyện đánh nhau, mưu mô tàn sát… Mohammed là
người giỏi thủ đoạn, bịp bợm và tàn nhẫn, nhưng khi cần thiết cũng chịu nhân
nhượng … Suốt thời gian Mohammed làm lãnh tụ Hồi giáo hầu như ông không có sự
nghiệp gì đáng kể về mặt tinh thần.”
{—]–{
TIẾT 3: GIÁO LÝ HỒI GIÁO
1-Chủ nghĩa nhất thần
Kinh Koran dạy tín đồ rằng: “Các
ngươi không có bạn bè nào ngoài Allah, cũng sẽ không nhận được sự tương trợ nào
khác ” Tín đồ Hồi giáo tin rằng chỉ có Allah mà họ tín ngưỡng mới là Thiên Chúa
duy nhất, là thần sáng tạo vũ trụ, là đấng chủ trì lẽ phải. Allah là đấng toàn
trí, toàn năng, cũng là bậc đại nhân, đại từ. Ngoài Allah không có thiện thần
nào khác. Vì thế, Hồi giáo có cái nhìn thù địch một cách cực đoan đối với đa
thần giáo, xem Phật giáo vô thần cũng là đa thần giáo. Còn chúa của Do Thái
giáo và Cơ Đốc giáo cùng một nguồn gốc với Chúa của Hồi giáo nên họ không phản
đối, có điều họ không thừa nhận tín ngưỡng ba ngôi một thể của Cơ Đốc giáo. Tín
đồ Hồi giáo không thể nào chấp nhận thuyết Jesus là hóa thân của Chúa, họ chỉ
xem Jesus là một nhà tiên tri người Irrael, giống như Abraham, Moses vua David…
Thiên Chúa thông qua các đời trước đây để hiển đạo cho người Irael, cuối cùng
Ngài chon Mohammed làm sứ giả, truyền lời cảnh cáo hoặc thông báo tin lành cho
toàn thể nhân loại.
Bởi thế, dù chỉ là một trong những nhà tiên tri, nhưng Mohammed lại là
vị sứ giả cuối cùng và vĩ đại nhất của Thiên Chúa. Hồi giáo tuy đã tiếp thu 10
điều răn của Moses và Phúc Âm của Jesus, nhưng những phần được tiếp thu đó lại
xuất hiện trong kinh Koran với một hình thái khác. Cho nên, về nguyên tắc, Hồi
giáo không phản đối Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo, nhưng trên thực tế, Hồi giáo
chỉ tín ngưỡng Thiên Chúa Allah của Mohammed và chỉ chấp nhận Thánh kinh Koran
do Mohammed truyền dạy.
2- Tư tưởng về tương lai
Đoạn 69, chương 39, kinh Koran nói: “
Khi kèn thổi lên, chỉ trừ những người mà Allah vừa lòng, mọi người ở trên trời
và ở dưới đất sẽ ngã ra bất tỉnh. Rồi
khi kèn thổi lên lần thứ hai, xem kìa, cả bọn đều trỗi dậy nhìn dáo dác ”. Đoạn
kinh này nói rằng, tất cả những ai không phải tín đồ Hồi giáo và không làm theo
ý muốn của Allah thì đều là tội nhân và đều sẽ nghe thấy một tiếng kèn vào ngày
tận thế, khi kèn vừa thổi lên, họ lập tức trỗi dậy, đứng chờ sự phán xét của
Allah. Kết quả phán xét vô cùng đơn giản: “ Ngày đó một số sẽ được vào thiên
đường, còn một số khác sẽ vào địa ngục. Kinh Koran còn nói: “Những kẻ nào định
mưu lợi bằng thủ đoạn ác đức và phạm tội đầy rẫy sẽ phải xuống hỏa ngục và phải
sống vĩnh viễn nơi đó.
Đối với Hồi giáo tiêu chuẩn thiện và ác chỉ căn cứ ở chỗ bạn có tin vào
kinh Koran hay không. Những gì kinh Koran thể hiện đều là dạy bạn làm thế nào
để quy phục Thiên Chúa Allah, làm thế nào để giữ chay, làm thế nào để tu thiện,
nếu bạn không tiếp nhận, hoặc chỉ tiếp nhận một phần nào trong số đó, còn đâu
tiếp nhận một hoặc nhiều điều luật đạo đức khác, thì Hồi giáo cũng sẽ xem bạn là
ác nhân. Ví dụ: đoạn 12 và 13 chương 2, kinh Koran dạy rằng: “Khi bảo chúng:
Chớ làm việc ác trên mặt đất này” thì Chúng bảo: “Chúng tôi là những người đề
xướng hòa bình”. Hãy coi chừng ! Chính những kẻ này tạo ác mà chúng không tự
nhận thức ra”, Căn cứ theo lời giải thích về hàm nghĩa hai đoạn kinh này của
tín đồ Hồi giáo Thời Tử Chu thì: “Không có con đường náo khác nối liền giữa
đúng và sai, thiện và ác, một người không thể vừa phụng sự Allah, vừa liên hệ
với ma quỷ, vậy nên Allah nói những người đề xướng hòa bình kia đều là những kẻ
tạo ác ”. Tín đồ Hồi giáo có cái nhìn thù địch đối với những người không theo
tín ngưỡng của họ là vì những quy định trong kinh Koran. Ví dụ: “ Kẻ nào từ
chối tín ngưỡng và đến khi chết vẫn còn bất tín, họ không những sẽ bị Allah mà
còn bị các thiên sứ và mọi người nguyền rủa ” hay như: “ Nếu họ tôn thờ chung
một tín ngưỡng với các ngươi thì họ sẽ được hướng dẫn đến chánh đạo, nhưng nếu
họ ngoảnh mặt đi thì họ sẽ là kẻ ly giáo, cứ giao họ cho Allah xử lý bởi Ngài
là đấng nghe tất cả và biết tất cả ” Có điều, tín ngưỡng nhất thần của Mohammed
không hề kiên định, ví dụ như Herbert Well đã nói trong mục 2, chương 31, cuốn
Đại Cương Lịch Sử Thế giới rằng: “ Có một lần Mohammed bước vào sân trong của
đền Ka’aba và tuyên bố rằng các nam thần và nữ thần của Mecca, xét cho cùng, là
có thật, cùng một loại với các vị thánh, có năng lực trung gian hòa giải giữa
Thiên Chúa và con người ”.
3 Thiên đường của Hồi giáo
Thiên đường của Hồi giáo thực ra
chính là sự lý tưởng hóa xã hội của loài người và mức độ lý tưởng hóa cũng
không được cao. Vì người Arab thời đó lấy việc hưởng thụ rượu ngon và gái đẹp
làm lý tưởng * (Những năm cuối đời của Mohammed cũng đã vui vầy với rất nhiều
mỹ nữ). Nên trong thiên đường của Hồi giáo, rượu ngon và gái đẹp là hai thứ thể
hiện nét đặt sắc riêng. Bản thân Mohammed theo chủ nghĩa đa thê nên ông mượn
lời Allah mà quy định trong kinh Koran rằng: “ Nếu các ngươi e rằng không được
công bình trong việc đối xử với các cô nhi, hãy lựa hai, ba hoặc bốn người phụ
nữ tùy thích để kết hôn ”. Câu kinh cho thấy chính Mohammed muốn đa thê vì bản
thân ông là một cô nhi. Do vậy, phàm là người tín ngưỡng Hồi giáo, “ họ sẽ kết
hôn với những người nữ trong sạch và sống đời đời nơi thiên đường ”. Ngoài ra
kinh Koran còn viết: “ Những kẻ nào biết sợ Chúa sẽ được về thiên đường với
Ngài, nơi đó có sông chảy róc rách bên dưới, và nơi đó họ sẽ sống đời đời, kết
hôn với những người nữ trong sạch. Allah lúc nào cũng lưu ý tôi tớ của Ngài ”.
Từ những đoạn kinh này, có thể thấy thiên đường của Hồi giáo là nơi có đời sống
vợ chồng. Và ở nơi đó, quan hệ giữa thần và người là quan hệ chủ tớ, giống với
quan niệm của Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo..
Thiên đường của Cơ Đốc giáo được miêu tả vô cùng tỉ mỉ trong Sách Khải
Huyền của John. Trong sách Hadith và một
số truyền thuyết của Hồi giáo cũng liệt kê rất chi tiết những cảnh tượng mà
Mohammed đã nhìn thấy vào cái đêm ông đến Jerusalem và thăng thiên lên trời.
Thiên đường mà Mohammed thấy chia làm 7 tầng, tầng thứ nhất trắng tinh như bạc,
treo lơ lững những vì sao lấp lánh sắc vàng, rất nhiều thiên sứ bảo vệ nghiêm
ngặt, đề phòng qủy Satan xâm nhập. Trong tầng trời này, Mohammed đã gặp thủy tổ
Adam của loài người. Trong các tầng trời tiếp theo, ông còn được gặp các nhà
tiên tri khác trong Cựu Ước như: Noah, Aaron, Moses, Abraham, vua David, vua Solomon…
Ông cũng đã gặp thiên thần đoạt mạng, vị thiên thần này sẽ đến đưa linh hồn của
con người đi khi cái chết đến với họ, thân thể của thần to lớn không ai bì nổi,
khoảng cách giữa hai mắt xa như khoảng cách quãng đường đi trong 7000 ngày, tấm
lòng của thần rất twg bi, hễ nhìn thấy loài người phạm tội, thần liền rơi lệ
như mưa; rồi ông gặp thiên thần thi hành hình phạt, thần mang mặt nạ đồng thuộc
tính hỏa, thường hay ngồi trên một ngọn lửa, rồi ông gặp một thiên thần có nửa
mặt là lửa đỏ, nửa mặt là băng tuyết, có rất nhiều thiên thần bao quanh, ai ai
cũng không ngớt lời ca tụng Allah… tầng thứ 7 là nơi quay về trú ngụ của những
người chính nghĩa, ở đây Mohammed được gặp một thiên thần có thân thể to lớn hơn
quả địa cầu, thần này có bảy vạn cái đầu, mỗi đầu có bảy vạn cái miệng mỗi
miệng có bảy vạn cái lưỡi, mỗi lưỡi nói tiếng của bảy vạn nước, mỗi nước có bảy
vạn phương ngôn khác nhau, tất cả đều đang ca tụng Allah.
Những cảnh tượng kể trên thực ra là do
Mohammed học được từ các truyền thuyết của Do Thái giao, Cơ đốc giáo, Ba Tư
giáo và tôn giáo nguyên thủy Arab, không có điều gì hiếm lạ cả. Lúc Mohammed ở
trên thiên đường, ông còn nhìn thấy được các thứ hình phạt dưới địa ngục. ông
nói ông nhìn thấy rất nhiều người trong hỏa ngục, có người móng giống lạc đà,
tay cầm khối lửa, nuốt vào rồi ỉa ra, dây là hình phạt dành cho những kẻ thôn
tính tài sản của trẻ mồ côi; có người bụng rất to, dẫm trên lửa mà đi, đây là
hình phạt dành cho những kẻ hám lợi bóc lột người khác; có người cho thịt mỡ
tươi ngon không ăn lại cam chịu ăn thịt hỏng thối rữa, đây là hình phạt cho
những kẻ phụ bạc vợ đi ngọai tình, bồ bịch lăng nhăng, có người phụ nữ bị treo
hai vú trên không, đây là hình phạt cho những ả dâm đãng không giữ chuẩn mực
đạo đức của người phụ nữ…
Mohammed đã được bái kiến Thiên Chúa Allah trên thiên đường, ông thấy
hàng tỷ thiên thần đang lặng lẽ quỳ lạy Allah một cách nghiêm trang, chí kính. ở đó, Mohammed đã
tiếp nhận lời huấn thị của Allah rằng phải lễ bái Allah mỗi ngày 50 lần, Về
sau, có lẽ thấy mỗi ngày lễ bái 50 lần quá phiền toái, Mohammed bèn tự động đổi
lại thành mỗi gày chỉ lễ 5 lần.
Những học giả Hồi giáo cận đại như Thời Tử Chu, chịu ảnh hưởng của các
tôn giáo cao cấp khác, không tin thiên đường của Hồi giáo là nơi tạo dựng nên
bằng vật chất mà thuần túy bằng ý niệm tinh thần. ông cho những miêu tả ề thiên
đường trong kinh Koran là ví von chứ không phải sự thật, và rằng kinh Koran chỉ
nói đến thiên đường ở 2 chỗ,nơi thiên đường đó không có rượu ngon và gái đẹp,
chỉ những chỗ mà kinh dùng chữ “vườn địa đàng” mới có rượu, có gái. Kỳ thực, hy
vọng làm thanh tịnh thiên đường Hồi giáo của Thời Tử Chu rất tốt đẹp, nhưng
đáng tiếc là, vườn địa đàng trong kinh Koran chính là vườn của thiên đường. Cho
nên, về sự lý tưởng của những quy luật đạo đức, thiên đường cả Hồi giáo hoàn
toàn chẳng có gì đáng gọi là cao thượng. Nếu đem so sánh với tôn giáo của ấn
độ, thì thên đường Hồi giáo có phần giống với thiên đường thời đại Rig-veda.
Còn thuyết chia thiên đường làm 7 tầng thì chẳng khác mấy những ghi chép trong
Thánh điển Purana của ấn độ giáo, nguồn gốc của thuyết này là sùng bái 7 vì sao
lớn, giống với nguồn gốc 7 ngày trong tuần.
4- Một tôn giáo cổ vũ chiến đấu:
Hồi giáo là tôn giáo truyền đạo bằng lưỡi gươm, từ sau khi xây dựng được
cơ sở ở Medina, Mohammed đã chủ trương dùng vũ lực để giải quyết mọi vấn đề.
Đoạn 10 chương 49, kinh Koran viết: “Nếu có hai nhóm tín đồ (Hồi giáo) tranh
chấp lẫn nhau, các ngươi hãy đứng ra hòa giải giưa hai bên, nếu sau đó phe này
vi phạm đến phe kia, hãy chống lại phe vi phạm cho đến khi chúng trở lại mệnh
lện của Allah”. Như vậy Mohammed dạy tín đồ của mình sử dụng vũ lực giữa bản
thân các nhóm tín đồ Hồi giáo với nhau.
Còn trong cuộc chiến đấu với người
ngoại đạo, Mohammed cổ vũ tín đồ hãy sử dụng toàn bộ sức mạnh họ có trước khi
họ giành được thắng lợi cuối cùng. Đoạn 11, chương 57, kinh Koran dạy: “ Sao
các ngươi chẳng chịu chi phí vì con đường của Allah, dù di sản của trời đất đều
thuộc về Ngài? Những người đã chi phí và chiến đấu trước thắng lợi ấy chẳng
giống như những người sau đó. Đương nhiên họ sẽ chiếm tước vị cao cả hơn hững
người đã chi phí và chiến đấu sau đó ”. Rõ ràng là Mohammed đã dạy tín đồ của
mình trước khi chiến tranh với người ngoại đạo nổ ra nên tranh thủ cống hiến
tất cả những gì họ có.
Vì vậy, khi
tín đồ Hồi giáo đánh nhau với người ngoại đạo, người nào cũng dũng cảm
xong pha lên trước và không ai dám bỏ chạy thối lui. Trong đoạn 16 chương 8,
kinh Koran nói: “ Hởi những kẻ vững lòng tin ! khi các người phải tiến lên
chống lại những kẻ bất tín, chớ quay lưng về phía chúng”. Nếu kẻ địch rút chạy,
thì đoạn 104, chương 4 kinh Koran dạy rằng: “Chớ nản lòng trong việc theo đuổi
kẻ thù. Nếu các ngươi bị khổ ải thì bọn chúng cũng bị khổ ải như các ngươi. Nhưng
các ngươi có thể cầu xin nơi Allah những việc mà bọn chúng không thể mong mỏi
được. Allah là đấng toàn tri và khôn ngoan ” . Việc cầu xin nơi Allah, nói đến đây chính là việc tín đồ
Hồi giáo nhờ chiến đấu cho con đường của Allah, tất sẽ được Allah trợ giúp, nếu
như chết trên chiến trường cũng chắc chắn có hy vọng được siêu thăng lên thiên
đường hưởng sung sướng đời đời.
Tín đồ Hồi giáo tin rằng bất cứ người nào
không tin vào Hồi giáo, Allah đều sẽ
trừng phạt họ và giao họ cho tín đồ Hồi giáo xử lý. Cho nên, việc giết chết
những người không tiếp nhận tín ngưỡng Hồi giáo không những không có tội mà còn
làm Allah vui mừng và chắc chắn được Allah ban thưởng cho nữa. Vì vậy, đối với
nhiều cách ngôn, huấn thị, quy định trong kinh Koran, tín đồ Hồi giáo chưa chắc
đã hiểu hết, đừng nói đến chuyện tuân hành trọn vẹn, nhưng có một việc mà những
tín đồ của Mohammed lại làm một cách chăm chỉ và cuồng nhiệt đó chính là đi
truyền giáo bằng lưỡi gươm.
Giết người thì được lên thiên đường,
bỏ chạy thì bị Allah oán giận, như vậy còn ai dám lâm trận mà trốn chạy chứ?
Còn ai dám không dốc toàn lực ra mà chém giết chứ? Hồi giáo sở dĩ trở thành một
tôn giáo lớn mạnh chính là vì nó chuyên đi chinh phục bằng vũ lực.
5- Kinh Koran
Kinh Koran được cho là những lời dạy của Thiên Chúa
truyền xuống nhân gian thông qua sứ giả Mohammed, giống như kinh điển của đạo
giáo Trung Quốc, phần lớn là mượn danh nghĩa của Thái Thượng Lão Quân hoặc Ngọc
Hoàng Thượng đế. Nhưng điểm khác nhau giữa kinh Koran và kinh điển của đạo giáo
là kinh điển của đạo giáo luôn là những cuốn sách do các học giả đạo giáo ngụy
tạo từ đầu đến cuối, khi lưu truyền sách ra nhân gian, họ đều nói là một người
nào đó gặp được một vị tiên hay một vị thần nào đó ở một nơi nào đó và được ban
cho sách này, còn kinh Koran của Hồi giáo thì do Mohammed lấy từ tư liệu những
truyền thuyết của Do Thái giáo và Cơ đốc giáo, dùng làm quan niệm của bản thân
dung hợp, kết nối chúng lại với nhau, rồi từng câu từng đoạn, lúc nói lúc
không, cứ thế tuyên thuyết cho đến hết đời. Có lẽ vì Mohammed là một người mù
chữ, không thể viết được một cuốn sách trọn vẹn, nên từ năm ông 40 tuổi đến khi
ông từ trần, phải mất tới 23 năm, để ông nói hết tư tưởng tôn giáo của mình.
Chính vì khoảng thời gian trước sau cách nhau quá dài, tư tưởng ông nói ra cũng
không thể nào nhất quán, hễ có chỗ mâu thuẫn với nhau, liền lấy thuyết sau để
đính chính cho thuyết trước.
Kinh Koran rốt cuộc có bao nhiêu
chương, bao nhiêu đoạn, vẫn là một vấn đề gây tranh cãi. Có thuyết là 114
chương, 6247 đoạn; lại có thuyết là 6666 đoạn. kỳ thực, kinh Koran vốn dĩ không
có chương, đoạn cố định, nó chỉ là rất nhiều ghi chép về những lời nói, việc
làm của Mohammed được lưu truyền trong các tín đồ Hồi giáo, ban đầu nó được các
mon đồ của Mohammed ghi lại trên lá dừa hoặc xương vai cừu, mỗi nơi một ít,
không có chút trật tự nào. Sau khi
Mohammed qua đời, vào năm 13 kỷ nguyên Hồi giáo (634), Abu Bekr mới thu thập và
chỉnh lý những bản ghi chép phân tán này. Đến năm 652, Omar tiếp tục biên soạn
lại và hoàn thành trọn vẹn. Sau đó, Zeid, người từng theo hầu Mohammed, chỉnh
lý lại một lần nữa, thêm văn vần vào giữa văn xuôi, làm cho bản kinh có lời hay
ý đẹp, đáng làm chuẩn mực cho văn học arab. Người đời sau cho tằng Mohammed
không biết chữ, thế mà kinh Koran do Mohammed nói ra lại có chữ nghĩa đẹp đẽ
như vậy, chứng minh kinh Koran là tác phẩm của Allah chứ không phải ý riêng của
Mohammed. Thực ra thì, kinh Koran hiện nay, ý là của Mohammed, còn chữ là do
người khác viết. Dù cho kinh Koran có là do Mohammed sáng tác đi nữa thì cũng
chẳng có gì là thần kỳ. Theo lời chú thích thứ 15, chương 8, cuốn Lịch Sử Tây
Nam á của học giả Trình Quang Dụ thì: “ Tiếng arab vô cùng ngắn gọn, câu chữ rõ
ràng, dứt khoát…Những bài thơ cổ còn lưu truyền đến nay có vẻ như đã được sáng
tác trước thời Mohammed 100 năm, khi đó các thi nhân tuy không biết chữ, nhưng
họ xuất khẩu thành thơ với bố cục rất khéo léo”. Điều này có thể đối chiếu với
những gì đã được viết ở mục 3, tiết 1 chương này.
Koran (tiếng arab là Qu’ran) vốn là
từ gọi chung cho “sách vở”, sau này mới chuyên dùng để gọi các bản ghi chép về
những lời nói, việc làm của Mohammed với nghĩa là “đọc tụng”, rồi chuyển thành
nghĩa là “thiên khải”. Vì thế, bản hợp đính của kinh Koran hiện nay, dĩ nhiên
là được hoàn thành sau khi Mohammed chết, nhưng lúc Mohammed mới đem một phần
nội dung trong đó ra truyền dạy và được các tín đồ ghi chép lại thành những quyển sách nhỏ riêng lẻ, thi cái tên
kinh Koran đã được lưu hành trong các tín đồ ở Mecca và ở những nơi khác thuộc
bản đảo arab. Ví dụ, sau khi Mohammed bắt đầu truyền giáo không lâu, một tín đồ
Hồi giáo đã đưa cho cặp vợ chồng nọ một quyển kinh Koran và dạy họ đọc tụng.
Sau khi kinh Koran được biên soạn xong khoảng
200 năm, đã xuất hiện rất nhiều nhà chú thích kinh, trong số họ có hai người
nổi tiếng nhất là Tabari chuyên trần thuật sự việc và Zamahschari chuyên giải
thích văn phạm. Hiện nay, sức mạnh của arab đã tụt hậu, nhưng thực lực của Hồi
giáo vẫn không suy yếu, nguyên nhân là vì họ có kinh Koran và sách Hadith làm
vốn liếng để khoe khoang với văn hóa thế giới, nếu mà họ bỏ kinh Koran đi thì
sẽ không cách gì tồn tại nổi.
Ngôn từ trong kinh Koran có phải là do chính Mohammed nói hay không,
các học giả đang tranh luận rất nhiều về vấn đề này, riêng Herbert Well thì cho rằng: “ Những ngôn từ này có thể
không cao siêu, thần thánh như những lời Jesus đã nói, những chúng để lại cho
thế giới một truyền thống đáng quý về sự xử thế công bằng, chúng mang một tinh
thần rộng lượng, hợp với nhân đạo và rất dễ thực hành”. Nhưng dường như, những
di huấn trong kinh Koran tương phản với những gì Mohammed đã làm trong quãng
thời gian ông còn đương quyền. Cũng may, đối tượng mà tín đồ Hồi giáo sùng bái
là kinh Koran và Chúa Allah chứ không phải là Mohammed.
Hơn nữa, những ngôn từ trong kinh Koran đều
mang bối cảnh thời đại của riêng chúng, không hề chú ý đến bối cảnh của hàng
trăm, hàng ngàn năm sau, thời đại đã khác nhau thì tính thích ứng tự nhiên cũng
sẽ bị hạn chế. Ví dụ, những ghi chép về việc thiên đường chia thành 7 tầng làm
tín đồ Hồi giáo ngày nay cảm thấy nghi hoặc, khó hiểu; hay những ghi chép về
việc thiên đường có rượu ngon và gái đẹp cũng làm cho tín đồ Hồi giáo ngày nay
cảm thấy không thích, khó chịu. Thế là Thời Tử Chu đề xuất rằng, khi đọc kinh
Koran “ phải bỏ đi bối cảnh của thời Mohammed, phải dùng kinh để suy xét, đoán
định các sự việc ở hiện tại và các hành vi cá nhân, làm cho những lời giáo huấn
trong kinh có sự kết nối với các biểu hiện của thế sự và các hành vi cá nhân. đây là một cách nghĩ rất sáng suốt, đáng tiếc
là, nếu bỏ đi bối cảnh thời Mohammed mà suy xét, đoán định sự việc ở hiện tại,
thì chẳng phải lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia hay sao? Chẳng phải lập lờ đánh
lận con đen hay sao? Như thế thì còn có quan hệ gì với bản ý của Mohammed nữa? Đương nhiên, người có thể có được kiến giải
như thế này, đích thực là một tín đồ Hồi giáo đáng khâm phục (Thời Tử Chu là
người đã dịch kinh Koran ra tiếng Trung Quốc). Tuy nhiên, điều đáng tiếc hơn
nữa là, tuyệt đại đa số tín đồ Hồi giáo lại chỉ biết xem kinh Koran như ngẫu
tượng để sùng bái, không hề biết những lời giáo huấn trong kinh là gì, đừng nói
đến chuyện thực hành theo những lời giáo huấn đó. Chỉ có điều, đa phần tín đồ
Hồi giáo đều có thể hiểu được ba yếu chỉ lớn của kinh Koran: Một là, tin vào
một Thiên Chúa duy nhất, hai là, Mohammed là nhà tiên tri được Thiên Chúa giáo
cho sứ mạng truyền giáo; và ba là, tuân thủ nghiêm ngặt thuyết định mệnh.
{—]–{
TIẾT 4: NGHI LỄ VÀ SỰ TRUYỀN BÁ CỦA HỒI GIÁO
1. Thực tiễn đời sống tín đồ Hồi giáo
- Đời sống tôn giáo của một tín đồ
Hồi giáo có 5 bổn phận chính, được coi là “năm cột trụ của Hồi giáo” bao gồm:
a-
Shahadah (Tuyên xưng ) Tuyên xưng một cách
công khai câu: “ Tôi công nhận Allah là Thượng đế duy nhất, ngoài ra không có
ai khác nữa, và tôi công nhận Mohammed là vị sứ giả cuối cùng của Ngài”.
b-
Salat
(cầu nguyện): Mỗi ngày vào giờ đã định tín đồ Hồi giáo lễ bái, cầu nguyện 5
lần: lần 1, vào lúc bình minh trước khi mặt trời mọc, cử hành lễ sáng; lần 2,
từ 12 giờ 30 trưa đến 15 giờ 30 chiều, cử hành lễ trưa; lần 3, từ sau 16 giờ
chiều đến 30 phút trước khi mặt trời lặn, cử hành lễ chiều; lần 4, sau khi mặt
trời lặn lập tức cử hành lễ hoàng hôn; lần 5, bất cứ lúc nào vào buổi tối đều
có thể cử hành lễ tối.
Ngoài việc mỗi người lễ bái cá nhân 5
lần một ngày, còn có quy định về việc lễ
bái tập thể được tổ chức tại các thánh đường do các Imam (thầy tế) chủ trì, đó
là: lễ bái vào ngày tụ họp (jum’ah) cử
hành thứ sáu hàng tuần, lễ bái vào lễ cầu nguyện al-Faridah cử hành hàng ngày;
lễ bái vào lễ kết thúc tháng Ramadan và lễ hiến sinh, lễ bái trong tháng
Ramadan; lễ bái trong lễ tang. Mỗi lễ bái đều có nghi thức và bài tụng niệm
riêng.
c-
Zakat (bố thí): Mỗi năm bỏ ra 1/40 tài sản
của mình để cứu tế người nghèo, nộp vào ngày cuối cùng của tháng Ramadan hoặc
những ngày diễn ra lễ kết thúc tháng Ramadan mỗi năm. Tín đồ Hồi giáo còn có
thể bố thí cho chính họ và cho con cái của họ mỗi người một năm 4 pound rưỡi
đến 5 pound lúa mì hoặc số tiền có giá trị tương đương, việc bố thí này gọi là
Zakat ul-Fitr hoặc Sadaqat ul-Fitr. Số tiền quyên góp được sẽ dùng để cứu giúp
những tín đồ Hồi giáo nghèo khổ và sử dụng chi phí cho công việc hành chính của
giáo hội cũng như các hoạt động quân sự.
d-
Sawm: (nhịn ăn): Vào tháng 9 hàng năm theo lịch Hồi giáo, tín đồ
phải chay tịnh trong vòng một tháng. Theo lời tín đồ Hồi giáo, việc chay tịnh của
Hồi giáo là để cải thiện tình trạng của con người cả về đạo đức lẫn tinh thần;
mục đích của chay tịnh là giúp cho con người học được cách làm thế nào để không
phạm lỗi lầm, nên chay tịnh không chỉ là cấm ăn (vào ban ngày) mà còn là cấm
làm những việc tội lỗi. Thời gian nhịn ăn của họ là từ lúc bình minh
cho đến tối, ban ngày thì cấm, còn ban đêm thì có thể ăn uống. Vào buổi tối
trong tháng chay, tín đồ Hồi giáo vẫn có thể ân ái với vợ mình. Allah dạy trong
kinh Koran rằng: “Họ là y phục của các ngươi và các người là y phục của họ”.
Mục đích của việc chay tịnh không phải là đoạn tuyệt ăn uống, đoạn tuyệt dâm
dục, đoạn tuyệt tài sản, mà rèn luyện họ không được tham ăn uống, tham dâm dục
và tham tài sản.
e-
-Hajj (hành hương): Nếu điều kiện cho phép, tín đồ Hồi giáo trong
một đời tối thiểu về Thánh địa Mecca viếng đền Ka’aba một lần, việc làm này
thường được gọi là hành hương.
Ở trên là 5 bổn phận chính mà một tín đồ Hồi giáo phải thực hiện. Ngoài
ra, họ còn phải tuân thủ 4 lời răn là: không làm việc mất danh dự, không ăn
thịt heo, không uống rượu, không cho vay nặng lãi, và không chống trái mệnh
lệnh của Allah.
2. Đức Tin của Hồi giáo
Tín đồ Hồi giáo phải giữ 7 đức tin,
giống như kinh Tin Kính của Cơ đốc giáo vậy, 7 đức tin đó là: tin Allah, tin thiên thần, tin thiên kinh,
tin các tiên tri, tin có đời sau, tin mọi việc dù thiện hay ác đều do Allah
tiền định và tin người chết sẽ sống lại. Giờ xin lần lượt giới thiệu sau:
a/ Tin Allah:Thiên Chúa Allah là độc nhất vô nhị, là một ngôi một thể.
Ngài sáng tạo và dưỡng nuôi vũ trụ, Ngài là bậc toàn năng, toàn trí, đại thiện,
Ngài là đấng hằng hữu, Ngài thương xót con người cùng vạn vật, Ngài không do ai
sinh ra mà cũng không sinh ra ai.
b/ Tin thiên thần: Tất cả thiên thần đều là những thực thể tinh thần
linh diệu do Allah tạo ra, nghe theo mệnh lệnh của Allah và làm tôi tớ cho
Allah. Họ không ăn uống, cũng không ngủ nghỉ. Số lượng của họ nhiều không thể
kể xiết. Thiên thần nói đến ở đây cũng chính là các thiên sứ. Nhưng Hồi giáo
cho rằng thiên thần và tiên tri cũng giống như những tín đồ Hồi giáo bình
thường đều là nô bộc của Allah, nên Hồi
giáo không lễ bái thiên thần, không lễ bái tiên tri mà chỉ lễ bái Allah.
c- Tin Thiên kinh: Thiên kinh chỉ cho những bản thánh kinh của Hồi
giáo. Về nguyên tắc, tín đồ Hồi giáo tin vào kinh của Moses, thơ của David cà
Solomon, Tân Ước của Jesus và kinh Koran
của Mohammed, nhưng trên thực tế, họ cho rằng kinh Koran đã thay thế cho tất cả
các kinh khác, nên chỉ cần tin một mình kinh Koran là đủ. Tín đồ Hồi giáo cho
rằng bộ kinh Koran chứa đựng tất cả động thái của thế giới và nhân loại như tôn
giáo, xã hội, chính trị, gia sự, kinh tế, quân sự…Kinh Koran là chỉ nam cho tất
cả.
Kỳ thực, trừ sắc thái mê tín mang tính thần
thoại và lộng quyền ra, trong kinh Koran thật sự có không ít cách ngôn đáng
được phổ biến rộng rãi. Nhưng nếu nói kinh Koran đã bao quát hết thảy chỉ nam về học vấn thì
đó chỉ sự tự khoa trương của tín đồ Hồi
giáo.
d- Tin các tiên tri: Các tiên
tri chính là các nhà dự đoán. Hồi giáo đã lấy truyền thuyết của Do Thái giáo và
Cơ đốc giáo làm nền tảng, nên cũng chỉ tin hơn 20 vị tiên tri trong Cự ước và
Tân Ước, như Adam, Abraham, Aaron, Job, Moses, David, Solomon, Jesus… Trong
kinh Koran, Allah cũng đã nói với Mohammed rằng: “Trước ngươi, ta từng cử xuống
nhiều sứ giả, có người ta đã nói cho ngươi biết đôi điều về họ, nhưng có người
ta chưa từng nói gì với ngươi”. Điều này làm cho tính riêng biệt của tín đồ Hồi
giáo giảm thiểu hơn so với tín đồ Cơ đốc giáo, nhờ đó, sau này, về mặt tôn
giáo, họ không còn cưỡng bức các dân tộc bị họ chinh phục cải đạo sang Hồi giáo
nữa. Các quốc gia Hồi giáo hiện nay, ngược lại, đã có thể bảo vệ cho những tôn
giáo dị biệt như Do Thái giáo, Cơ đốc giáo, thậm chí là Phật giáo. Đương nhiên,
vẫn như trước đây, họ luôn giữ niềm tin kiên định rằng chỉ có Mohammed mới là
người thành công nhất, vĩ đại nhất trong các số nhà tiên tri.
e- Tin có đời sau, hoặc là thiên đường, hoặc là địa ngục:
f- Tin những điều họa phúc của con người đều đã được quyết
định ngay từ khi Allah sáng tạo ra vạn vật. đây chính là thuyết định mệnh.
g- Tin người chết sẽ
sống lại vào ngày
tận thế để chịu sự phán xét cuối cùng của Allah.
3. Những giới cấm của Hồi giáo .
Đoạn 91, chương 5, kinh Koran nói: “
Hỡi những kẻ có lòng tin ! Rượu chè, cờ bạc, ngẫu tượng, chiêm đoán là những
hành vi ghê gớm của Satan. Vì vậy hãy lánh xa chúng rồi các ngươi sẽ được vinh
hiển”. Trong số này, rượu là thứ bị Hồi
giáo đặc biệt nghiêm cấm, thậm chí uống một ít rượu ngọt, rượu nho, bia thường,
bia đen cũng không được phép. Bất kỳ đồ uống có cồn nào họ đều cho là không
thanh khiết. điều này trái ngược hẳn với
việc trong thiên đường của họ có rượu.
Cùng với giới cấm uống rượu còn có các giới cấm khác như: Không được
hiềm nghi, oán hận, nói dối, căm ghét, hoang dâm…Họ cho rằng những điều này đều
là căn nguyên thúc đẩy con người phạm vào tội lỗi.
Điều cấm kỵ lớn nhất của tín đồ Hồi giáo là không ăn thịt heo. Thực ra,
nếu chiếu theo lời kinh Koran thì: “ Ngài chỉ cấm các ngươi ăn xác chết, máu
tươi, thịt heo và phẩm vật đã được cúng hiến cho những kẻ khác ngoài Allah” và
“ Các ngươi không được ăn những món sau đây, tức là thịt của xác chết, máu,
thịt heo và những món đã được cúng hiến cho kẻ khác ngoài Allah, những thú vật
đã bị bóp cổ chết, hoặc bị đánh chết, hoặc bị rơi từ trên cao xuống mà chết,
hoặc bị đâm chết hoặc đã bị các dã thú khác cắn xé, chỉ trừ trường những thú
vật mà đích thân các ngươi giết ”. Theo lời giải thích của các tín đồ Hồi giáo,
những điều cấm kỵ này là vì lý do vệ sinh, không có gì là thần bí cả. Nhưng
theo nghiên cứu của đa số học giả thì họ thấy rằng hoàn cảnh tự nhiên của Arab
rất khó nuôi heo, vì lý do kinh tế nên Hồi giáo mới cấm ăn thịt heo, không phải
như tín đồ Hồi giáo thổi phồng lên là ăn thịt heo không hợp về sinh. Dù lý do
là gì, việc Hồi giáo không ăn thịt heo hoàn toàn khác với Phật giáo việc không
sát sanh, Phật giáo vì lòng thương xót chúng sanh mà không nở ra tay giết hại,
còn Hồi giáo đều là vì việc đó có quan hệ lợi hại đến bản thân họ mà thôi.
4. Sự truyến bá Hồi giáo
Sau khi Mohammed qua đời vào năm 632,
các tín đồ của ông lập nên một chế độ gọi là Khalifah và thường xuyên
tuyển chọn hết người này đến người khác
kế nhiệm nhau đảm đương chức vụ này. Hình thức chính phủ của họ là chính trị
thần quyền.
Các khalifah đã xử dụng những phương
pháp sau để các tộc người Arab tận trung với họ: một là, bất cứ kẻ nào xâm lược
lãnh thổ của các tộc người Arab đều phải bị trừng phạt, hai là, tổ chức các đội
quân viễn chinh chuyên đi đánh cướp những người không phải tín đồ Hồi giáo ở
Syria. Mesopotamia và Ai Cập, ba là, người Arab nhờ chế độ Khalifah mà học được
cách hành động đoàn kết theo hình thức tập đoàn, bốn là, họ đánh nhau với những
dân tộc tương đối khai hóa như người La Mã và người Ba tư, lấy chiến tranh để
thỏa mãn dục vọng muốn có nhiều của cải của mình.
Năm 635, tín đồ Hồi giáo chiếm lĩnh Damascus;
năm sau, một cánh quân của hoàng đế La Mã tiếp tục bại trận dưới tay họ, năm
638, họ hạ thành Jerusalem, hai năm sau đó, cứ điểm quan trọng cuối cùng ở
Syria của đế quốc La Mã cũng thất thủ. Thế là, quân đội Hồi giáo phía bắc xâm
chiếm Armenia,nam đánh vào Ai Cập, đến năm 646 lấy xong thành Alexandria, rồi
từ Ai Cập phát triển về phía tây, lần lượt chinh phục Tripoli, Tunis, Algeria,
và Morocco. Đánh dấu chấm hết cho quyền thống trị của La Mã ở Bắc Phi, đồng
thời biến người Berber và người Moors thành tín đồ Hồi giáo.
Một cánh quân Hồi giáo khác, năm 637, đã xâm nhập vào vương quốc Ba Tư,
dành được thắng lợi mang tính quyết định ở chiến trường Kedessia, chiếm lĩnh
lưu vực của hai con sông Tigris và Euphrates, rồi thừa thắng đánh vào vùng bản
thổ của Ba Tư, khai tử vương triều Sassanid, và trở thành chủ nhân của Ba Tư.
Năm 711, người Arab cầm đầu người Berber và người Moors vượt qua eo biển
Gibraltar đánh vào Tây Ban Nha, không lâu sau, toàn bộ bán đảo Tây Ban Nha trừ
vùng núi góc Tây Bắc đều rơi vào tay tín đồ Hồi giáo. Từ đó về sau, Tây Ban Nha
trở thành một quốc gia Hồi giáo, kéo dài tới 800 năm.
Đánh xong Tây Ban Nha, quân Hồi giáo lại vượt qua dãy núi Pyrenees, tấn
công nước Pháp. Nhưng vào năm 732, họ thất bại trong trận tao ngộ chiến với
Charles Martel, một lãnh tụ người Frank tín ngưỡng Cơ Đốc giáo, từ đó thế lực
của Hồi giáo bị chặn lại ở phía nam dãy núi Pyrenees.
Còn ở phương Đông, quân Hồi giáo cũng đã chinh phục Trung Á, tiến thẳng
vào Ấn Độ và Trung Quốc. Trong vòng không đến 300 năm, 90% dân số Indonesia trở
thành tín đồ Hồi giáo và 100% người Malaysia đã tin vào kinh Koran. Philippines
trước năm 1527 cũng có 80% dân số tiếp nhận tín ngưỡng Allah, sau này do bị Tây
Ban Nha độ hộ nên Philippines mới trở thành một quốc gia Cơ Đốc giáo.
{—]–{
TIẾT 5: HỒI GIÁO Ở TRUNG QUỐC
1. Hồi giáo bắt đầu truyền vào trung Quốc.
Hồi giáo du nhập vào Trung Quốc bằng
hai con đường: thủy và bộ . Đường thủy là từ biển Arab, sang Ấn Độ dương, vòng
qua bán đảo Mã Lai, đi theo biển nam Trung Quốc (Biển Đông Việt Nam) đến Quảng
Châu. Họ đã xây dựng ở Quảng Châu tòa thánh đường Hồi giáo đầu tiên tại Trung
Quốc vào khoản năm 587 (ý này chưa chuẩn, vì năm ấy Mohammed mới có 18 tuổi). Đường bộ từ bán đảo Arab, băng qua Ba Tư và
Trung Á, vượt qua cao nguyên Parmir, vào Tây Vực, xuyên qua vùng Thiên Sơn Nam
Lộ, đi dọc theo hành lang Hà Tây ở tỉnh Cam Túc, và đến kinh đô Trường An. Có
nhiều thuyết nói Hồi giáo vào Trung Quốc bắt đầu từ năm Chí Chính thứ 8 (1348)
. Chí Chính là niên hiệu của Nguyên Thuận Đế, những năm cuối của triều Nguyên
tên gọi Hồi giáo mới được ra đời.
2. Sự truyền bá Hồi giáo tại Trung Quốc
Hồi giáo hiện tại là một trong ba tôn
giáo lớn nhất thế giới. Giáo lý Hồi giáo đơn giản, dễ thực hành. Nó chú trọng
vào truy cầu đời sống hiện thực, tuy nó hướng về thiên đường, nhưng thiên đường
đó chẳng qua cũng chỉ là sự mỹ hóa đời sống thế tục, nên rất thích ứng yêu cầu
của những người con ham luyến thế gian. Đồng thời, Hồi giáo không lễ bái ngẫu
tượng, không có phô trương hình thức vô vị, nên cũng rất thích hợp với tác
phong chất phát của các dân tộc vùng biên cương. Đây là nguyên nhân thứ nhất
giúp Hồi giáo lưu truyền dài lâu và không bị suy thoái ở Trung Quốc.
Tuy vào đời nhà Thanh đã nhiều lần nổ
ra các cuộc bạo loạn của những người theo đạo Hồi, nhưng nhìn chung tín đồ Hồi
giáo ở Trung Quốc chưa truyền giáo bằng cách sử dụng vũ lực trên quy mô lớn;
ngược lại, để thích ứng với văn hóa vốn có của Trung Quốc, họ đã cổ xúy mạnh mẽ
sự câu thông giữa tư tưởng Nho giáo và Hồi giáo, giúp đỡ Nho giáo công kích
Phật giáo và Đạo giáo. Đây là nguyên nhân thứ hai.
Tên gọi Hồi giáo bắt đầu xuất hiện từ
cuối đời Nguyên, triều đình nhà Nguyên cũng đặc biệt chiếu cố đến người Hồi,
những người mà thời đó được gọi là “Sắc mục nhân”. Nhiều vị đại tướng khai quốc
triều Minh được Chu Nguyên Chương trọng dụng như Thường Ngộ Xuân, Hồ Đại Hải,
Mộc Anh…cũng đều là tín đồ Hồi giáo. Như vậy thứ tôn giáo của người Arab này,
từ vùng biên cương, dần dần đã phổ biến khắp lãnh thổ Trung Quốc. Đây là nguyên
nhân thứ ba.
Có một điều thú vị là rất nhiều người Hồi ở vùng biên cương Trung Quốc
mang họ Mã. Nguyên nhân của việc này là do nhà Minh dịch tên của Mohammed thành
“Mã Mộc Đặc”, tín đồ của Mohammed thì được gọi là “dân mã” họ luôn phải đặt
thêm từ “Mã Mộc Đặc” vào trước tên gốc của mình, kết quả là rất nhiều tín đồ
Hồi giáo đã trở thành người họ Mã.
Trên thực tế, Hồi giáo hiện nay không còn hạn hẹp ở một dân tộc nữa. Hồi
giáo hoàn toàn không phải là tôn giáo được người Hồi tín ngưỡng đầu tiên. Lúc mới
đến Trung Quốc, tuy nó chủ yếu được xem là tín ngưỡng của người Hồi, nhưng về
sau đã phổ cập đến các dân tộc khác như Hán, Mãn, Mông… Theo số liệu chính thức
do Cục thống kê của chính phủ Đài Loan công bố vào năm Dân Quốc 33 (1944) thì
tín đồ Hồi giáo Trung Quốc là 48.104.240 người, tương đương với 1/10 dân số
toàn quốc khi đó. Trừ tỉnh Đài Loan, các tỉnh trong Đại Lục không nơi nào không
có dấu tích của tín đồ Hồi giáo. Họ phân bố với mật độ đông đúc nhất ở các vùng
Đông Bắc, Tây Bắc, Hà Nam và Hà Bắc. Sức đoàn kết của họ rất mạnh mẽ, do tín
ngưỡng của Hồi giáo, họ tuyệt đối không kết hôn với người ngoại đạo, ai không
phải tín đồ Hồi giáo muốn cưới một người con gái theo đạo Hồi hoặc muốn gã con gái cho một người con trai theo đạo Hồi
thì bắt buộc phải gia nhập Hồi giáo; con cái của tín đồ Hồi giáo sinh ra cũng
đã là tín đồ Hồi giáo;khi tín đồ Hồi giáo đi ra ngoài, họ không ngủ lại nhà
người ngoại đạo và không ăn uống những thứ người ngoại đạo cho. Vì những lý do
trên, Hồi giáo đã hình thành một tập thể xã hội lớn của riêng họ, số lượng tín
đồ Hồi giáo cũng tăng mãi không ngừng. Tuy nhiên, từ thời cận đại đến nay, nhờ
trình độ dân trí ngày một mở rộng, đã có không ít tín đồ Hồi giáo bỏ đạo hoặc
cải đạo, sự cách ly với đời sống cộng đồng của họ cũng không còn nghiêm chỉnh
như xưa .
3. Các tôn phái của Hồi giáo.
Khảo sát lịch sử Hồi giáo chúng ta
thấy được rằng, từ năm 661, Hồi giáo chính thống của Mohammed đã cáo chung do
cuộc nội loạn trong đế quốc Arab. Vào năm 661 đó, em họ cũng là con rễ của
Mohammed là Ali Talib, người vừa được chọn làm vị Khalifah thứ 4 không lâu, đã
bị ám sát trong cuộc tạo phản của phe ly khai Kharijiter. Sau khi Ali chết,,
Muawiyah của gia tộc Umayyad đã tự xưng là Khalifah, lập nên triều đại Umayyad.
Việc Ali bị ám sát đã đánh dấu chấm hết cho Hồi giáo chính thống.
Sau khi nhà Umayyad được sáng lập, con cháu của Abbas, cậu của Mohammed,
cũng lập ra phái Abbasid tôn sùng màu đen, nên trong lịch sử, người Trung Quốc
gọi họ là Hắc
Sau khi nhà Umayyad được sáng lập, con cháu của Abbas, cậu của Mohammed,
cũng lập ra phái Abbasid tôn sùng màu đen, nên trong lịch sử, người Trung Quốc
gọi họ là Hắc Y Đại Thực hoặc Hắc Sơn Tông, tục gọi là Hắc Mạo Hồi. Có đến vài
dân tộc khác nhau ở Trung Quốc tin theo phái Abbasid, tộc Duy Ngô Nhĩ cũng nằm
trong hệ thống của phái này.
Nhà Umayyad bị nhà Abbasid tiêu diệt vào năm 750, hậu duệ của gia tộc Umayyad trốn sang Ai Cập, rồi từ Ai
Cập đến Tây Ban Nha, xây dựng tại đó một đế quốc Arab ở phương Tây. Vì phái này
tôn sùng màu trắng, nên trong lịch sử, người Trung Quốc gọi họ là Bạch Y Đại
Thực, hoặc Bạch Sơn Tông, tục gọi Bạch Mạo Hồi.
Lại nữa, sau khi con rễ Ali của
Mohammed bị ám sát, hậu duệ của ông chạy sang Ba Tư, để kỷ niệm Fatima, là con
gái của Mohammed và là vợ của Ali, họ đã sáng lập ra phái Fatima. Vì phái này
tôn sùng màu xanh lục, nên trọng lịch sử, người Trung Hoa gọi họ là Lục Y Đại
Thực. Đến thế kỷ thứ 10, tín đồ phái này chiếm Ai Cập và dựng nên vương triều
Fatima.
Còn Hồi giáo ở Tân Cương, Trung Quốc thì ngay từ đầu đã chia thành
hai hệ phái là Hắc phái và Bạch phái. Vì
Hồi giáo không phải là tôn giáo của riêng người Hồi, nên tên gọi “Hồi giáo”
thực ra hoàn toàn không chính xác. Người phương Tây gọi tôn giáo này là
Mohammedanism, tên gọi này tương đối hợp lý, nhưng tín đồ Hồi giáo lại không
chịu gọi tên tôn giáo mình như vậy, họ thích cái tên “Islam giáo” hơn.
4. Các hệ phái Hồi giáo ở trung Quốc.
Hồi giáo ở Trung Quốc trừ hai phái
Hắc và Bạch vốn chỉ giới hạn ở vùng Tân Cương, còn được phân chia thành Tân
phái và Cựu phái. Nhìn chung, các tỉnh ở 3 lưu vực sông Hoàng Hà, Trường giang
và Châu giang, đều thuộc về Cựu phái; còn vùng biên cương phía Tây Bắc thì
thuộc về Tân phái.
Cựu phái Hồi giáo chiếm khoảng 60% tổng số tín đồ đạo Hồi. Họ đa phần có
thể nhập gia tùy tục, tức có thể tiếp nhận những tập tục ở nơi mình cư trú. Họ
không có một cơ cấu tổ chức chung thống nhất và không có nhân vật lãnh đạo như
kiểu tổng giám mục bên Cơ Đốc giáo. Người phụ trách các Thanh Chân
Tự, tức chùa Hồi giáo, được gọi là A Hồng (Imam), cũng thường gọi là Giáo
trưởng hoặc giáo sư. Họ là nhân vật trung tâm nắm vai trò tổ chức và lãnh đạo
giáo dân ở một địa phương. Chức vụ này được tuyển chọn bởi ban cai quản của các
chùa Hồi giáo, giống như ban giám đốc hay hội đồng quản trị vậy. Đối tượng được
tuyển chọn là những tín đồ Hồi giáo trong cùng giáo phái có tài đức vẹn toàn,
nhiệm kỳ 1 năm, liên nhiệm nhiều năm, hoặc vô thời hạn.
Tân phái Hồi giáo thực ra là có nguồn gốc từ
sự phản đối việc nhập gia tùy tục của Cựu phái. Họ chỉ trích Cựu phái đã làm trái
những lời huấn thị trong kinh Koran mà Allah ban xuống, đề xướng tôn sùng kinh
Koran, hộ trì Hồi giáo, và sáng lập ra chế độ “môn quan” (giống với giám mục
của Cơ Đốc giáo). Tân phái lấy Thiểm Tây và Cam Túc làm trung tâm, họ có rất
nhiều giáo phái, nhưng chủ yếu nhất là 4 phái sau đây:
a-Phái Triết-hợp-lạc-da: Tên phái này nghĩa là:
“tuyên dương chánh đạo”. Sáng lập vào nửa sau thế kỷ thứ 10. Môn quan của phái
này tại chức trọn đời và theo chế độ cha truyền con nối.
b- Phái Hổ-phi-da: Tên phái này nghĩa là “giấu
điều cơ mật”. Thời gian sáng lập gần như trùng với phái trên. Môn quan đầu tiên
là ngài Hoa Tự, sau khi Hoa Tự qua đời, phái này bỏ chế độ môn quan, chuyển
sang chế độ cai quản chung.
c- Phái Ha-địch-lặc-da: Tên phái này nghĩa là:
“xuất gia tu thân”. Môm quan của phái nỳ lấy xuất gia làm điều kiện tất yếu, hễ
giáo dân nào đông con thì có thể cho một người con xuất gia, hoặc bản thân họ
tự nguyện xuất gia tu hành, nghiên cứu giáo lý. Điều này trái ngược hoàn toàn với di huấn về chủ nghĩ đa thê của
Mohammed. Phái này sáng lập rất muộn, khoảng vào đầu thế kỷ 19, tương đương với
những năm Đạo Quang đời vua Tuyên Tông triều Thanh (1821-1850).
d- Phái Khố-bố-lặc-da; Tên phái này
nghĩa là: “nuôi tâm dưỡng tánh”,phái nỳ cũng sáng lập năm Đạo Quang.
Hồi giáo ở Trung Quốc tuy có rất nhiều giáo phái, nhưng chung quy lại
thì độ sâu giáo lý của họ có hạn, cho dù là phái nào, đều không phát huy được
gì về mặt giáo lý, hơn nữa tính bảo thủ của họ cũng rất kiên cố. Những tín đồ
Hồi giáo cởi mở nhất cùng lắm là dịch kinh Koran từ tiếng Arab sang ngôn ngữ
của họ để đọc tụng. Có điều, họ luôn cảm thấy chỉ có ngữ văn Arab mới là loại
ngữ văn thiêng liêng được Thiên Chúa Allah yêu thích, giống như tín đồ Do Thái
giáo cho rằng chỉ có ngữ văn Hebrew mới là ngữ văn của Yahweh vậy. Rõ ràng là,
điều này không giống với Phật giáo, tín đồ Phật giáo tin rằng đức Phật có thể
dùng một loại âm thanh đồng thời nói ra ngôn ngữ của hết tháy các nước, và
đương nhiên Ngài cũng có thể hiểu được tất cả ngôn ngữ khác nhau. Hơn nữa, khi
Phật còn tại thế, Ngãi đã tuyên bố rõ ràng rằng: các Tỳ kheo có thể tụng giới
tùy theo phương ngôn của mỗi người ./.
Trích: Tôn giáo học So sánh .
HT Thánh Nghiêm.
Biên soạn tại Thành phố Đài
Bắc tháng 4 năm 1968.
TT Chơn Tính dịch ; năm 1995.
(12-12-2017-
T/p Tam kỳ-Quảng Nam)
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét