MẠN ĐÀM VỀ CHỮ TU HÀNH
Hiểu đơn giản nhất, “ tu” có nghĩa là “ sửa
đổi”. “Tu” là sửa đổi thân, khẩu, ý của mình cho tốt hơn, chuyển đổi những suy
nghĩ tiêu cực sang tích cực, từ chưa lương thiện sang lương thiện, biết kiềm
chế lại hành vi sai trái của mình mà hành động theo đúng với chánh pháp, đúng
chân lý. Theo giáo lý Phật, tu là hành động tu sửa bản thân (thân và tâm) thông
qua ba việc “ sửa đổi”, ba hành vi tạo nghiệp là hành động, ý nghĩ, lời nói.
Khi nói đến chữ “tu” người ta thường
nghĩ đến việc tách mình ra khỏi cuộc sống đời thường để sống theo những ý
tưởng, quy định chặt chẽ của một tôn giáo nào đó, gắn khái niệm đó với tôn
giáo. Hiểu theo nghĩa rộng, “tu” là sửa, là hành vi nhận biết đúng, sai để tự
sửa mình cho phù hợp với đạo đức và các nguyên tắc do con người đặt ra. Xét
theo nguyên nghĩa, “tu” không đơn thuần là đi theo một tôn giáo mà còn có nghĩa
là việc con người tự học hỏi để sửa chữa sai lầm từ “ bản ngã” để trở thành
người có ích cho xã hội. Do vậy, bất kỳ ai cũng cần phải “tu” mà trước tiên bắt
đầu bằng tu thân, tức là học tập, rèn luyện để hoàn thiện bản thân mình.
Khi trả lời câu hỏi : Tu để làm gì ? Nhiều tôn
giáo cho rằng, muốn trả lời câu hỏi này, cần phải hiểu trong mỗi người chúng ta
có hai con người : Con người phàm phu thấp kém, nhem nhuốc với bao tham muốn ở
cõi đời và con người lý tưởng hoàn thiện. Phật giáo gọi con người lý tưởng gọi
là Bản Lai diện mục ( tức bản thể của ta, là Phật tính trong mỗi người); “
Trời”- “ Phật” và “ Thánh” đều trong con người nên cần tu hành để lột bỏ con
người phàm phu, sống hòa hợp cùng bản thể. Với chủ trương “tu” là phải lánh xa
trần thế, Phật giáo khẳng định: “a Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ
ba tu chùa”, không xuất gia vẫn có thể đi trên con đường giác ngộ nếu biết tu
theo con đường Chánh đạo. “ Tu về Chánh đạo giải oan cho đời”.
Hiểu
“tu” theo những quan điểm đó thì chỉ cần
kiên tâm, nỗ lực tu hành theo giáo pháp mà chúng ta tin tưởng là sẽ đạt tới mục
đích tối thượng. Theo Phật giáo “tu” không đơn thuần là cầu phúc đức mà để đạt
tới trạng thái an nhiên tĩnh lặng, niềm an lạc nội tâm, là sự biểu lộ trạng
thái rời bỏ hoàn toàn trói buộc, giải thoát con người khỏi mọi khổ đau. Tu giúp
con người làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên. Do vậy, đạt “
cõi phúc” hay không phải tùy thuộc vào mức độ “tu” và “ hành”. “tu” mà không “hành” thì hạnh
phúc chỉ là ảo tưởng.
Để tu hành, theo giáo lý Phật, Phật tử phải
giữ gìn nghiêm “ Ngũ giới”, theo Nho giáo, người bình thường cũng phải giữ gìn
“Ngũ thường”, thì dù chưa trở thành người tu hành cũng sẽ trở thành người hữu
dụng cho xã hội : “ Tu đức giữ đạo làm người/ Ta trồng cây đức cho đời thanh
cao/ Tu đức ta phải vượt bao/ Gian nan vất vả mới cao trí tài. Theo thuyết “Chính danh” của Không Tử, việc “ Tu thân”
không chỉ về mặt tinh thần mà còn bao hàm cả ý nghĩa lấy đó làm nền tảng
để “ bình được thiên hạ”. “ Tu thân”
nhằm đạt được hai mục đích, là giúp cho tâm hồn được bình yên, an lạc trong
cuộc sống hiện tại và tích lũy phúc đức cho thế hệ sau này
“ Muốn sang sông phải qua đò
Muốn đời hạnh phúc phải lo tu hành
Tâm thành sẽ đạt được nhanh
Chung xây nền móng để dành hậu lai”
Qua
nghiên cứu cho thấy, các đạo, giáo trên thế giới đều có một quan điểm chung khi
bàn về chữ “tu” là Không chỉ người xuất
gia, bất kỳ người nào dù sống trong xã hội nào cũng cần phải tu “ Đạo Nhân” để
trở thành một con người hoàn thiện, có ích cho xã hội.
Trong
tự điển Hán Việt, chữ “ Hành” có thể được đọc là “hạnh”, theo Phật giáo, “ tu
hành” nghĩa là phải tu tập những đức hạnh cần thiết trong việc tìm được giải
thoát. “ Tu hành” cũng được hiểu là đã “tu” là phải “ hành”, tức là phải biểu
lộ, phải thực thi sự tu tập bằng hành động thực tiễn. Chính pháp là một “ Khoa
học nội tâm” và đối tượng của khoa học đó là “ tâm thức”; nỗ lực thực hiện kinh
nghiệm do khoa học ấy đem đến là tu tập. Để đạt được mục đích giải thoát, cần
phải trải qua thời gian tu tập lâu dài mới dần dần đánh bạt được những tham
luyến vốn có trong mỗi người. Có thể
tổng kết tu hành thành hai công hạnh là tu phúc và tu tuệ. Tu tập nhằm hóa giải
phiền não được gọi là tu tuệ như tụng kinh, lễ Phật, ngồi thiền. Tu phúc là
giúp đỡ những người chung quanh, đồng nghiệp, bạn bè về trí tuệ, tài sản, công
việc…là phương pháp tu tập để tạo phước báo, gieo nhân lành, tích góp công đức
giúp cho người khác thoát khỏi nghèo nàn, khổ đau. Tu hành cũng giống như người
trồng cây, tâm người là mảnh đất hoang sơ, nhiều loài cây dại, tu tập là khai
phá mảnh đất ấy, đánh bạt mầm độc, cây dại, lựa chọn hạt giống tốt rồi chuyên
cần chăm bón, phát triển mầm giống tốt đó thành cây. Tu hành là để hóa giải
nghiệp xấu, tích lũy những nghiệp thiện cho mai sau bằng những đức hạnh như :
Buông xả, trì giới, bố thí…để đạt được Bồ đề tâm, phát huy hạnh Từ và Bi có sẵn
trong mỗi người chúng ta. Tu tập giống như tu học, phải từng bước một, chậm mà
chắc chắn từ hạnh thấp nhất rồi dần dần
đến các hạnh cao, tâm bồ đề mới có cơ hội phát triển vững chắc được. Tu là phải
tu từ tu thân đến tu tâm lý, tư duy làm cho tâm đại bi, tình thương con người
được mở ra, trí óc luôn sáng tạo, phát triển rộng mở về vũ trụ quan. Như vậy,
tu đòi hỏi sự bền chí, kiên trì và sự quyết tâm, thành ý dù trong bất kỳ hoàn
cảnh nào hay bất kỳ tôn giáo nào, tín ngưỡng nào.
Khi đã đi đúng đường, chúng ta phải chuyên
cần tu và bảo vệ chính pháp bằng kiên định chính kiến, đồng thời giúp đỡ, hướng
dẫn người khác cùng tu hành theo chính
đạo. Đó chính là con đường đúng đắn nhất dẫn tới cõi Niết bàn.
Theo Phật giáo, nền tảng căn bản của
việc tu hành phải dựa trên giới, định, huệ. Phật giáo chọn pháp tu chính yếu là
tu thiền và tu niệm Phật, tức tu tịnh độ. Có 4 phương pháp tu Tịnh Độ. Thuần
tịnh độ : Chuyên tâm niệm Phật, làm lành lánh dữ, gieo trồng câu niệm Phật.
Giáo tịnh song tu là đọc tụng kinh điển Tịnh độ, tụng niệm hành trì, vừa niệm
Phật vừa tụng kinh, vừa nghiêng cứu kinh điển, vừa vận dụng kiến thức học được
áp dụng vào cuộc sống. Thiền tịnh song tu, là vừa tu niệm Phật vừa kiêm tu
thiền, gieo trồng căn lành để hồi hướng vãng sanh, đồng thời tạo ra cho mình có
một niệm lực để tu hành Niệm Phật. Nhiều vị cao tăng ở Việt Nam đã áp dụng
phương pháp này. Tịnh Mật song tu là vừa trì chú vừa niệm Phật.
Tu là
sự lựa chọn khó khăn giữa bản chất tham luyến và sự từ bỏ nó, phải kiên trì trừ
diệt cho đến khi nào không còn “ cái tôi” nữa mới có thể giúp cho tâm hòa vào
với chân như. Không còn ta, không còn người, cũng chẳng còn pháp mới là cõi an
lạc thực thụ. Một khi tâm của chúng ta đã hòa cùng tự nhiên, nội tâm được an
lạc, không bị trói buộc bởi vô minh… thì ở đâu cũng có thể là cõi phúc chứ
không phải cứ đến chùa chiền, am, tự. Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã khẳng
định :” Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”, nghĩa là Phật tức tâm, ai có
tâm đều có Phật, không phân biệt nam nữ, trẻ già, người trong đạo hay ngoài
đạo, có tâm thì có Phật, thành Phật là thành ngay trong tâm mình, không phải ở
trên núi cao hay ở cõi trời xa xôi. Nếu tu hành đúng với Chính đạo thì hạnh
phúc xuất hiện tự nhiên, không cần phải mong cầu.
“ Mặc cho bảo táp phong ba
Trong tâm có Phật vượt qua nhẹ nhàng”
Như vậy, tu là sự nhận thức đạo lý để sửa
chữa, rèn luyên tâm tính, sống thuận với lẽ tự nhiên để có cuộc sống thong
dong, thanh thản biết chăm lo, phụng dưỡng cha mẹ già, xây dựng cuộc sống gia
đình hạnh phúc, góp sức phát triển xã hội, làm tròn bổn phận và trách nhiệm với
quốc gia. Như thế là ta đã đạt cõi phúc, không nhất thiết phải theo tôn giáo
nào mới có được.
Nhân gian có câu : “ Tu đâu cho bằng tu nhà,
thờ cha kính mẹ mới là chân tu”, Phật giáo khẳng định, khi tu hành. “ hiếu thảo
là đức hạnh đứng đầu trăm đức hạnh”.
Trong việc tu hành, theo đạo Phật, dù là người
bình thường hay đã xuất gia, tất cả đều phải “ khéo tu” mới mong vượt qua những
sóng gió và đạt được an lạc cho tâm. Muốn được như vậy, Phật tử trước tiên phải
giữ giới luật nghiêm cẩn, còn người xuất gia nếu biết “ khéo tu” thì mau vượt
qua mê mờ, trí tuệ được sáng suốt để thấu hiểu phép mầu của lời Phật chỉ dạy.
Trong quá trình tu hành, hạnh “ buông xả” là rất cần thiết, đó là việc nhận
thức được lẽ vô thường, là liều thuốc giúp tâm ta thoát khỏi ý nghĩ tham cầu,
nô lệ cho luyến ái, quét sạch tâm hồn để cho trí tuệ không bị bụi trần bao phủ,
sẽ phát ra ánh sáng giúp cho tu hành ngày càng được tinh tấn. Tu hành cũng
chính là dùng tâm trí để tiêu diệt ác niệm, làm cho thiện niệm phát triển đó là
cơ sở để gây dựng thiện nghiệp cho mỗi người tu hành. Tóm lại, tu hành chỉ cầu
chuyên nhất, cần nắm chắc những điểm quan trọng rồi nỗ lực thực hành thì nhất
định đạt được lợi ích chân thật của Phật pháp. Tâm bình thường, không lo âu,
không vui vẻ thái quá, không chấp nhất bất kỳ việc gì thì tức là ta đã đi đúng
với chính đạo.
Có thể khẳng định, đối với người xuất
gia, đã tu hành thì không thển có liên hệ đến bất kỳ tiền bạc hay vật chất gì,
nếu vẫn chấp thủ vật chất thì làm sao đạt được chánh quả ? Nói tu hành không
ích lợi cho xã hội thì không đúng, nhưng nếu nói tu hành để đem lại lợi ích vật
chất thì càng sai lạc. Mục đích của tu hành là đạt được cõi phúc, đồng thời
giúp con người hưởng niềm an lạc. Người tu hành chỉ cần giữ gìn giới cấm nghiêm
cẩn thì đã đem lại lợi ích lớn cho xã hội rồi. Đức Phật đã trải qua hàng chục
năm tu hành và truyền bá chánh pháp, đem lại lợi ích về tâm và thân cho bao
nhiêu thế hệ nhân loại đến ngày nay mà đâu cần tới một ngôi chùa riêng, khi
viên tịch ngài đã để lại cho chúng ta một kho tàng vô giá về đạo nghĩa, một
giáo pháp chân chính, biết bao người nhờ tới giáo pháp đó, đạo nghĩa đó để đạt
được cõi phúc, có một cuộc sống hạnh phúc, vinh quang. Đó mới là lợi ích thực
sự của việc tu hành. Chúng ta là “ người trần mắt thịt”, chưa thể có đạo hạnh
như Đức Phật và chư Tổ nhưng nếu đã chọn đường tu thì nên nhận thức được đầy đủ
việc “ tu”, dù là cư sỹ tại gia, hay xuất gia, biết giữ gìn giới luật, tu tập
đức hạnh thì đã là tu hành thực sự rồi. “ Luyện trí rén tâm- Đi đúng một đường-
Giữ đúng kỷ cương- Tu theo chánh đạo”.
Làm người ngoài đời đã khó, làm người tu
hành lại càng khó hơn gấp bội. Bởi họ phải tự thân thanh lọc, học tập tu hành
để chuyển hóa thân tâm, giác ngộ được chân lý đạo pháp, vừa phải sống sao cho
xứng đáng sắc áo màu y đã chọn để không thẹn với lòng người, với cuộc đời.
Nhận thức đầy đủ bản chất, vai trò của “
tu hành” đối với con người và xã hội sẽ giúp chúng ta vận dụng nó một cách đúng
đắn trong cuộc sống để đạt được ước nguyện tâm linh và lợi ích xã hội thiết
thực cho con người, góp phần xây dựng, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Đó cũng là mục
tiêu, phương cách để mỗi con người chúng ta chọn đường tu trong thời đại mới.
( Trích VHPG số 412
-1-9-2023- Quốc An )
0 nhận xét:
Đăng nhận xét