16.
ÔNG TRÙM XÃ HỘI ĐEN
Lần
đầu gặp, tôi thấy Mã huynh đang phóng sinh chim trong Niệm Phật Đường cùng với
một pháp hữu khác.
Mã
huynh hiện nay hơn 40 tuổi, là một đại hán Sơn Đông điển hình, tướng mạo giống
như nhân vật Võ Tòng đánh hổ trong truyện Thủy Hử.
Ông
mày rậm mắt to, vóc dáng cường tráng, tính cách hào sảng, giọng nói như chuông
ngân, nội lực mạnh mẽ, nhìn rất oai phong, khí thế.
Câu
chuyện tu hành của Mã huynh cũng lắt léo, ly kỳ… có thể dùng câu “lãng tử hồi
đầu” để mô tả. Ông luyện võ từ nhỏ, sau đó đi lính, thân thể rất vạm vỡ, khang
kiện.
Sau
khi giải ngũ, ông ở nhà. Khi luyện võ có một số anh em tới tìm, dần dần lập
thành một băng nhóm xã hội đen. Huyện Hoàn Đài nổi danh là nơi ăn chơi, có
nhiều vũ trường, nhà hát, quán bar, thanh lâu… Hễ nơi nào các dạng ăn chơi, đấu
đá… càng phát, thì thế lực xã hội đen càng mạnh.
Mã
huynh rất giỏi võ lại thông minh khôn khéo, sau nhiều lần tỉ thí, ông nhanh
chóng đạt được “vương vị” và nổi danh trong giới xã hội đen. Ông tự lập đảng
phái, làm trùm một cõi, thế lực ngày càng mạnh, nghề nghiệp cũng phát tương
đương, có đệ tử, thuộc hạ rất nhiều, thập phần oai phong dũng mãnh.
Một
ngày vào năm 2003, ông đến phố Đại Tập, huyện Hoàn Đài dạo chơi, tình cờ nhìn
thấy một ông già bán tượng Quan Âm, chẳng biết chất liệu tượng thế nào, nhưng
ông vừa dòm lòng đã rất hoan hỉ. Thế là ông lại gần hỏi giá, ai dè tới 180
đồng! ông thấy mắc quá nên bỏ đi.
Một
tháng sau khi dạo chơi tiếp ông cũng gặp lão già đó. Lần này lão hạ giá xuống
còn 100 đồng, nhưng ông vẫn thấy mắc, nên không chịu mua.
Bản
thân là trùm giang hồ, nắm quyền sinh sát trong tay, theo bình thường nếu thích
thì ông đã cưỡng đoạt từ lâu rồi, nhưng đây là tượng Quan Âm, nên ông không dám
giở thói giang hồ ngông nghênh.
Qua
nửa tháng sau, ông đi chơi, lại gặp ông già ấy nữa. Thấy tượng Quan Âm vẫn chưa
bán đi. Lần này không đợi ông hỏi, lão già tự động mở lời:
–
Ngó bộ tượng Phật này và ông có duyên dữ a, thôi thì lão chỉ tính giá 60 đồng,
xem như vừa bán vừa tặng đó nha!
Nghe
vậy ông liền móc tiền ra trả rồi đem tượng về nhà đặt trên bàn trong phòng ngủ
của mình, sau đó ngồi ngắm tới ngắm lui, lòng rất hoan hỉ.
Một
tối nọ, sau khi nhậu say bí tỉ, vừa về tới nhà là ông lăn ra đánh giấc. Khoảng
4 giờ sáng ông thức dậy uống nước, nhìn thấy tượng Quan Âm trên bàn, ông chợt
nẩy ra ý nghĩ lạ lùng: “Nghe nói Bồ tát Quan Thế Âm cứu khổ cứu nạn, phi thường
linh ứng, chẳng biết điều này có thực chăng?… Nếu như có thực, thì hôm nay xin
Bồ tát hãy hiển linh, cho tôi trông thấy rõ ràng thì tôi mới tin!”… (ông vốn là
một người vô thần, chưa từng biết khom lưng cúi đầu trước ai, ông chẳng hề tin
mấy cái thuyết nhân quả hay là có quỷ thần chi. Nhưng trước đây khi luyện võ
ông cũng thường ngồi tĩnh tọa, song đấy chỉ là luyện khí công mà thôi)…
Ông vừa
vái thầm như thế xong, tự ngẫm nghĩ rồi tủm tỉm cười, sau đó thì quay về giường
ngủ tiếp, nhưng mà ngủ không được…
Đang
nhắm mắt mơ mơ màng màng, thì đột nhiên ông nhìn thấy tượng Bồ tát Quan Âm như
đang phóng quang, ánh sáng màu vàng rực nhưng tỏa chiếu rất ôn nhu, ông nhìn
ánh kim quang lấp lánh lòng cảm thấy dễ chịu khôn cùng… Bỗng ông giựt mình bừng
tỉnh, thì không thấy Bồ tát phóng quang nữa, nhưng hễ nhắm mắt lại, thì thấy Bồ
tát lại đang phóng quang…
Ông
bắt đầu nghi ngờ: “Chắc tại mình uống nhiều rượu quá nên sinh ảo giác đó
thôi!”… Nhưng rõ ràng tượng Bồ tát đang cười tủm tỉm, ông nhìn thấy mặt mày,
ánh mắt Ngài… rất rõ. Thế là ông hết ngủ được.
Tờ
mờ sáng hôm sau ông vội ra ngoài để tìm hiểu những gì liên quan đến Phật giáo,
sau khi hỏi thăm mấy người bạn, mới biết gần đấy có chùa Kim Lăng, thế là ông
lập tức đến đó.
Đây
là lần đầu ông đến chùa, ông đi vòng quanh và xá chào trước mỗi điện, nhưng chả
thấy có gì thần kỳ linh ứng, trong lòng không khỏi chán nản… Nhìn thấy mớ sách
thiện báo ứng nhân quả (chùa cho đọc miễn phí để kết duyên), ông liền thỉnh mấy
cuốn đem về nhà xem… Đây là lần đầu tiên ông tiếp xúc với đạo, càng xem càng
ưa, càng xem càng sợ…
Ông
nghĩ mình mấy năm nay làm toàn việc xấu, trong lòng bắt đầu hối hận hoảng sợ,
nhờ đọc các chuyện nhân quả báo ứng trong sách, ông hiểu ra tất cả ác nghiệp
mình tạo đều là tội đáng đọa địa ngục…
Xem
xong mấy cuốn thiện thư rồi, Mã huynh suy gẫm lung lắm, thế là trong lòng phát
sinh thay đổi. Kể từ đó ông tu sửa rất nhiều, hành sự không còn hung hăng dữ
tợn nữa. Nhưng là dân trong giới giang hồ, mọi sự chẳng do mình tự quyết hết,
ông phải thường tham dự việc của hắc đảng, chỉ là từ đó về sau ông có niệm
Phật, bái Phật…
Kế
đến, ông còn thỉnh một bức hình “Quan Âm cưỡi trên con rồng đen” về treo trên
vách phòng khách, rồi cao hứng, ông tới trước tượng khấu đầu mấy cái…
Mãi
đến một đêm thu năm 2008…
Tối
đó ông về nhà, khoảng chừng tám chín giờ, vừa bước vào nhà thì thấy Bồ tát Quan
Thế Âm (trong hình treo nơi phòng khách đang bước ra, đứng trên không nhìn
xuống ông). Mã huynh hết hồn, vội quỳ xuống, vừa dập đầu như tế sao vừa lớn
tiếng réo gọi vợ mau ra xem, lúc vợ ông chạy ra thì không còn gì, ông ngẩng đầu
lên thấy Bồ tát trên không cũng biến mất…
Lần
này ông hết sức tỉnh táo, khẳng định trăm phần trăm mắt mình nhìn thấy rõ ràng
chứ không phải là ảo giác. Bởi vì ông đã tận mắt nhìn thấy Bồ tát Quan Âm, nhăn
thần ghi khắc tận xương tủy, cảm giác xúc động này như xuyên thấu cả người ông…
Lần
này thì ông đã tâm phục khẩu phục, triệt để hối ngộ. Ngay đó ông liền phát thệ
trước Bồ tát Quan Âm: “Từ đây con quyết sửa lỗi đổi mới, dứt khoát rời khỏi
giang hồ, một lòng hướng thiện, nguyện làm lại cuộc đời!”
Mã
huynh tính rất dứt khoát, hễ nói là làm, vì vậy hôm sau ông triệu tập đám thuộc
hạ tuyên bố giải tán, tha thiết khuyên họ từ bỏ việc xấu và giải thích: “Thiện
ác có báo ứng, nhân quả không dối, gieo gì gặt đó, đừng để ác báo trổ rồi hối
không kịp”…
Buông
bỏ dễ, làm lại rất khó. Mã huynh vốn tính hào sảng, trọng nghĩa khí… Hồi trước
thuở còn cầm đầu hắc đảng, hễ tay này thu, thì tay kia chi ra, nên đâu có dành
dụm được bao nhiêu? Vì vậy chẳng mấy chốc ông đã lâm vào cảnh phải tìm kế sống…
Trước tiên thì vay mượn người, sau đó thì cũng tìm được việc trong một hãng
xưởng nọ.
Bắt
đầu đi làm, lương lãnh thấp, lại phải lao lực nhiều, hoàn cảnh công tác mọi thứ
xem như cực kỳ tệ. Nhờ ông có sức mạnh, yêu cầu cũng không cao, đã nhận việc
thì ráng làm. Nhưng khó chịu nhất là: Phải làm, nghỉ, đúng giờ; chịu đủ luật lệ
gò bó. Chưa kể còn phải nhìn mặt thượng cấp mà sống, mà hành xử. Hễ không cẩn
thận là bị lãnh đạo mắng té tát cho mất mặt… Tình cảnh này so với thời ông làm
thủ lĩnh hét ra lửa, nắm quyền uy một thời, vào ra luôn được anh em cúi đầu
vâng dạ… thì đúng là cách xa trời vực.
Cứ
thế, suốt thời gian dài Mã huynh cắn răng chịu đựng, luôn đi làm sớm và về thật
muộn… Bởi ông sợ lỡ đi đường mà gặp người quen sẽ bị họ cười chê. Khi đến xưởng
thì ông vừa làm, vừa mải miết trì chú Chuẩn đề, nên chẳng giao tiếp với ai. Lúc
về nhà thì đa số thời gian đều dành cho việc lạy sám hối trước tượng Bồ tát
Quan Âm. Ông sám hối tất cả ác hạnh xưa kia, cầu Bồ tát khoan thứ gia hộ…
Như
thế được hơn nửa năm, ông mới bắt đầu giao lưu cùng đám thợ trong xưởng, nhưng
hễ trò chuyện là ông khuyên người hướng thiện, tin nhân quả v.v… Sau này nhờ
ông cảm hóa mà trong xưởng có được hơn 70 người tin Phật, chịu thờ Phật…
Một
năm sau, đột nhiên ban lãnh đạo xưởng cho ông thuyên chuyển đến chỗ khác làm
việc. Công tác nơi đây tương đối thanh nhàn, mấy ngày không làm cũng chẳng ai
đến hỏi, lương cũng cao hơn nhiều. Mã huynh hiểu rõ đây là Bồ tát Quan Thế Âm
che chở, ngầm giúp ông có điều kiện để tu hành tốt hơn, vì vậy ông càng thêm
tinh tấn.
Chùa
Hoa Nghiêm mỗi năm thường tổ chức đả Thiền thất, chỉ cần lúc rảnh không làm
việc thì ông đến tham gia, có khi tham dự ba Thiền thất, hành trì không chút
giải đãi.
Lúc
này ông đã phát Thiên nhãn thông, nhìn thấu suốt rõ ràng, trong thời gian tham
dự Thiền thất, ông thường thấy Thiền đường biến thành một ao sen cực lớn, trên
không có rồng vàng bay lượn chung quanh, có lúc còn xuất hiện Thiên nữ đến đạo
tràng, rải hoa Mạn-đà-la lên các vị đồng tu…
Có
lúc ông nhìn thấy các cảnh như trong kinh tường thuật, nhìn thấu xuống địa
ngục, thấy vua Diêm La vừa mập vừa thấp, còn hai quỷ vô thường hắc bạch thì ốm,
cao; nhưng trông dáng vẻ chẳng hung ác. Có lúc không nhịn được, ông đem những
điều mình thấy hỏi thầy trụ trì Thường Tịnh, thì sư phụ luôn nhắc ông:
–
“Phàm những gì có hình tướng đều là hư giả”… cảnh lạ dù có hiện rồi cũng hóa
thành không, ngàn vạn lần chớ nên chấp trước vào đó, nếu không sẽ bị lạc tà…
Do
ông có túc duyên rất sâu, khả năng thần thông càng tu càng phát mạnh, sư phụ sợ
ông chấp trước sẽ bị lạc ma cảnh, nên kể cho ông nghe rất nhiều chuyện người ta
vì mê chấp, tham cầu thần thông, mà bị tầu hỏa nhập ma…
Mã
huynh cung kính thọ giáo. Tham dự Thiền thất xong, ông nhận thấy thời mạt pháp
“đạo yếu ma mạnh”, đám ngoại đạo thiên ma, yêu tà, quỷ mỵ… tàn hại bừa bãi.
Người tu nếu thiếu chút cảnh giác không cẩn thận, thì sẽ bị rơi vào cảnh quỷ
ngay! Do vậy ông liền phát đại nguyện: “Cả đời con xin dâng hết cho việc hộ trì
chánh pháp, hộ trì người tu!”
Phát
nguyện xong, ông lập tức đến Phật Sơn Cổ Tự ở Tứ Xuyên, Bành Châu, bái kiến hòa
thượng Quảng Ngộ (đệ tử của đại sư Tế Trần), học pháp “Uế Tích Kim cang”. Học xong,
về nhà ông tiếp tục tu thiền định. Pháp “Uế Tích Kim cang” thuộc Mật tông đời
Đường, cũng thuộc dạng giáo ngoại biệt truyền như Thiền tông, là pháp môn
phương tiện Phật Thích Ca đặc biệt khai mở, thuộc về biệt mật. “Uế Tích Kim
cang” được hóa thân Phật Thích Ca tuyên thuyết, lúc Ngài thị hiện nhập niết
bàn. Pháp này không sợ ô uế, cho nên gọi “Uế Tích Kim cang”, dùng đại thần lực
hàng phục quỷ đạo, hộ trì người tu hành đời sau, còn có tên là “Đại Quyền Thần
Vương Phật”.
Đầu
năm 2009, một tu sĩ tới tìm Mã sư huynh, vừa bước vào nhà thì đến trước Phật lễ
bái, lễ xong thầy liền nói: Quả là Bồ tát Quan Thế Âm hiện hữu nơi Phật đường
của ông!
Thầy
này là pháp sư Minh Đăng, đồ tôn của Hòa thượng Hư Vân.Thầy Minh Đăng xuất gia
từ nhỏ, cả nhà vốn rất sùng mộ Phật nên từ ấu thơ thầy đã biết kính tin Phật
pháp. Lúc ở nhà, thầy thường bế quan tu hành. Năm đó thầy bế quan, giao cho
muội muội hộ thất, sắp tròn 100 ngày, thì bỗng có một bà lão vác bị đến nhà
thầy gõ cửa xin ăn. Lúc đó nhằm buổi độ ngọ (dùng trưa), phụ thân thầy đang ăn
cơm, trên bàn có hai đĩa rau, ông thuận tay liền trút một đĩa cho bà già. Bà
lão bỗng ngước lên trời cười to, rồi bỏ đi…
Phụ
thân không để ý, cứ tiếp tục ăn cơm. Lúc này Minh Đăng đang nhập định bỗng thấy
linh ảnh Bồ tát Địa Tạng xuất hiện, bảo:
–
Vừa rồi Bồ tát Quan Âm đến nhà, vì sao không ra nghinh tiếp?
Thầy
lập tức xuất định, kêu muội muội hỏi thăm: Vừa rồi có ai đến nhà mình hay
không?
Muội
muội đáp:
–
Có, là một bà lão xin ăn…
Và
cô kể cho thầy nghe tình huống lúc đó. Thầy Minh Đăng liền giậm chân than:
–
Cha chúng ta làm lỡ mất dịp tiếp đón Bồ tát Quan Thế Âm rồi! (Trong các cổ sử
Phật giáo thường kể, chư Bồ tát hay hóa hiện qua thân phận ăn mày để độ sinh,
vì vậy việc này không có gì lạ).
Sau
khi chủ và khách đều yên vị rồi, Minh Đăng mới kể cho Mã huynh nghe, nguyên là
mấy ngày trước, thầy mộng thấy Bồ tát Quan Âm nói rằng: Hiện có hai vị cư sĩ
đang cần bế quan và bảo thầy hãy nên tìm đến hộ thất giúp đỡ, tận sức chăm sóc
họ. Ngài còn mách rõ tính danh và địa chỉ hai người này. Một người ở Tế Nam là
nữ, còn một người chính là Mã huynh!
Sau
đó hai bên cùng bàn luận Phật pháp rất tương đắc, hoan hỉ. Kế đến thầy Minh
Đăng gọi điện thoại dặn dò cho vị sư huynh ở Tế Nam lo liệu các việc cần, rồi
dẫn Mã huynh theo thầy đến khu Thiền thất đặc biệt dành riêng cho người bế quan
chuyên tu.
Mã
huynh nhập thất đến ngày thứ hai, trong định thấy đích thân tôn giả Mật tông
(Stongkhapa) hiện ra, bảo:
–
Ngôi thất này là đất thành Phật, nhất định ông phải tu cho tốt.
Mã
huynh cảm thấy được khích lệ rất lớn, liền phát nguyện: Con nhất quyết tu cho
đến khi đạt chánh định vô thượng.
Nhập
thất đến ngày 21, các chủng tử xa xưa và túc nghiệp hiện hành, đủ loại cảnh
“tiền trần hậu thế” tranh nhau kéo đến, khiến phiền não bùng khởi, xâu xé, làm
Mã huynh suýt phát cuồng, khó thể nhẫn thọ, chỉ muốn đứng dậy xuất quan…
Trong
giây phút khốn khó, lúng túng nơi ải quan sinh tử, nằm giữa lằn ranh thành bại,
thì đạl sư Stongkhapa một lần nữa lại xuất hiện, Ngài giảng pháp “tâm yếu đại
thừa” cho, Mã huynh nghe xong thì cuồng niệm tan dần, đột nhiên trong khoảnh
khắc, cảm giác thân như có vật gì rụng rơi và hoát nhiên nhập định…
Đến
lúc xuất định, như có sở ngộ, Mã huynh liền nói kệ:
Ngàn
dặm tới đây để bế quan
Chỉ vì chưa thấy được trời xanh
Bất ngờ đất bằng rền tiếng sấm!
Từ đây mê ngộ hết liên quan!
Chỉ vì chưa thấy được trời xanh
Bất ngờ đất bằng rền tiếng sấm!
Từ đây mê ngộ hết liên quan!
Đến
ngày 41, tâm khinh an hỉ lạc, pháp hỉ sung mãn, xuất định rồi ông lại nói kệ:
Đảnh
lễ Tối Thượng Tôn!
Thích Ca Đại Hiền Nhân
Con nay hết mê hoặc
Từ đây rõ tự tâm!
Thích Ca Đại Hiền Nhân
Con nay hết mê hoặc
Từ đây rõ tự tâm!
Đến
ngày 46, thân tâm câu vong, nhập đại chánh định, lúc xuất định, thì không còn
khác biệt giữa xuất định và nhập định nữa, ông lại nói kệ:
Thân
chưa xuất gia, tâm xuất gia!
Có tóc cũng như không tóc mà
Từ nay học theo Bồ tát hạnh…
Áo vải thay cho áo cà sa!
Có tóc cũng như không tóc mà
Từ nay học theo Bồ tát hạnh…
Áo vải thay cho áo cà sa!
Tối
đó công đức viên mãn, Mã huynh cười lớn ra thất.
Kể
từ đó ông bắt đầu hiện đại thần thông, quảng độ chúng sinh.
Xin
kể sơ hai chuyện:
Năm
2009 huyện Cao Thanh có một phụ nữ được chồng lái xe chở tới chỗ Mã huynh. Cô
này làm “thần bà” (là bà đồng) điển hình, quanh năm xem bệnh, chữa trị cho
người. Trước đây cô bị hồ ly dựa xác, rất linh, nên kiếm được bộn tiền. Tùy
theo tham tâm ngày càng thịnh mà âm khí trên mình cô ngày càng lớn, kết quả đã
chiêu vời thêm hai con rắn đến dựa xác nữa.
Hai
bên (hồ ly và rắn) gá dựa thì tránh sao cho khỏi cảnh tranh quyền? Chúng đấu
nhau một hồi, do hồ ly đạo hạnh cao hơn nên đã thắng. Nhưng hồ ly không gá dựa
trên mình cô hoài, vì nhiều lúc nó phải quay về chỗ của nó. Do vậy hai con rắn
không cam tâm, chỉ đợi hồ ly vừa rời đi, thì liền gá vào thân cô này báo thù…
Cô
này bị giày vò lăn lộn khó chịu, đau tới chết đi sống lại. Khi đó cô đi bệnh
viện khám nhưng bác sĩ đâu thể trị loại bệnh này, vì vậy cô khám nhiều lần, tốn
tiền lắm, mà chẳng có kết quả…
Chứng
kiến vợ bị bệnh hành nguy hiểm, chồng cô đi khắp nơi tìm người cứu, đã đến rất
nhiều chỗ, nhưng không ai trị nổi, cuối cùng đành tìm đến Mã huynh.
Khi
xe dừng trước cổng, phụ nữ nọ sống chết gì cũng không chịu xuống xe. Té ra hai
con yêu gá trên mình cô do quá sợ Mã huynh nên phản ứng như vậy. Mã huynh nhìn
thấy chúng rất rõ, nên ông lập tức trì chú Chuẩn Đề, thỉnh thiên tướng đến thu
phục hai con rắn thì cô này mới chịu vào nhà. Lúc đó mặt mày cô tái nhợt, lộ vẻ
mệt nhọc, vừa vào thì nằm dài trên đất…
Mã
huynh hỏi tà dựa xác:
– Vì
sao hại người?
Con
rắn dựa xác lên tiếng (qua miệng của cô), nó giải thích là chỉ định dựa vào cô
xem bệnh cho người, nhưng do đấu không lại con hồ ly trên mình cô, nên thừa lúc
hồ ly đi vắng, nhập vào báo thù, còn khai là bọn chúng đã hút phân nửa khí
huyết trên người cô rồi, chỉ còn lần nữa thì hút sạch…
Mã
huynh biết rắn nói thực, vì ông quan sát thấy, nếu cứ theo đà này, bà đồng kia
không sống được 20 ngày nữa. Hai con rắn này gồm một lớn một nhỏ: Con lớn thuần
trắng, còn con nhỏ màu trắng nhưng cuối thân có một lằn đen, chúng sống lâu
cũng đã bảy tám trăm năm. Do có túc thế nhân duyên với bà đồng này, lại thêm
tham tâm trong lòng bà quá cao, nên mới chiêu cảm chúng tìm đến.
Trong
tình cảnh này, chỉ có hòa giải đôi bên mà thôi, Mã huynh hỏi con rắn:
–
Dựa trên thân người này, các ngươi được lợi gì?
Chúng
đáp:
–
Một là được vang danh, tiếng tăm đồn xa, còn có được nhiều đồng loại tìm tới
quy phục, tăng thêm nhiều quyến thuộc, thế lực càng lớn. Hai là, có nhiều lợi
dưỡng cúng dường, hễ người bị dựa kiếm được nhiều tiền thì phải cung phụng bọn
chúng, nhờ vậy mà hưởng dụng càng phong nhiêu. Thực ra thế giới loài rắn cũng
giống như nhân gian, đều có tâm tham cầu vinh danh, lợi dưỡng, nhưng ở rắn tâm
tật đố mạnh hơn, và tâm tranh đoạt cũng hung dữ hơn, theo kiểu một mất một còn:
“Mày chết tao sống!”…
Mã huynh
bèn giảng Phật pháp cho hai con rắn nghe, khuyên chúng hãy buông bỏ tâm tham,
sân, si… và nên giải oán kết cùng phụ nữ này, khéo tích đức hành thiện, tu hành
cho tốt, để tương lai được sinh vào cõi lành, tu thoát luân hồi, không còn thọ
khổ nữa.
Hai con
rắn cung kính thọ giáo, chúng đồng ý rời khỏi phụ nữ kia, nhưng ngỏ ý xin được
theo Mã huynh 5 năm để nghe pháp tu hành.
Mã
huynh chấp thuận rồi, thì phụ nữ kia lập tức đứng dậy, hồi phục như bình
thường.
Sợ
cô ta sau này lại giẫm vào vết xe cũ, Mã huynh liền hỏi cô có muốn láy hồ ly ra
khỏi thân chăng? Cô vội vã lắc đầu lộ vẻ rất không đồng ý, vì sợ mất hết thần
thông (của hồ ly) rồi thì sau này sẽ không kiếm được nhiều cúng phẩm tiền bạc
béo bở nữa…
Mã
huynh liền khuyên cô: Hồ ly đó đã tu hơn 1300 năm, nếu hiện tại cô không chịu
giải quyết cho dứt khoát, thì tương lai lúc nó bỏ đi cô sẽ càng thê thảm hơn
hiện thời nữa!
Nhưng
cô ta vẫn khăng khăng không chịu. Do tâm cô không hướng thiện thì định nghiệp
cũng khó chuyển (cho dù Phật tái lai cũng khó độ người không duyên)! Mã huynh
đành để tùy ý cô.
Còn
chuyện thứ hai phức tạp, lằng nhằng hơn, nhưng chúng sinh được hóa độ rất
nhiều.
Cũng
vào năm 2009, một học sinh ở huyện Hoàn Đài đột nhiên bị quái bệnh. Một lần ngủ
tới mấy ngày, ăn uống vô độ, hễ bệnh phát nặng thì chửi rủa, đánh mắng người…
Do
bệnh nghiêm trọng, nên em phải nghỉ học ở nhà chữa trị. Do học sinh này là con
trai duy nhất, nên cha mẹ rất sầu lo. Cha em là giám đốc một hãng xưởng nọ,
thuộc nhà giàu có, nên ông đã đem con đến rất nhiều y viện đề khám, nhưng chữa
trị không kết quà.
Sau
đó ông đành đem con về nhốt trong nhà, giao cho người mẹ chăm sóc. Nhưng kỳ
quái là, mẹ em sau đó cũng bị bệnh, đột nhiên bà bắt đầu hút thuốc, uống rượu
(những điều trước đây chưa từng làm) tinh thần rất kích động, có lúc liên tục
mấy ngày không ngủ, miệng luôn lẩm bẩm lầm thầm, chẳng biết nói gì?…
Chứng
kiến một gia đình đàng hoàng, bỗng dưng thành ra như thế, cha em chỉ biết ngây
mắt nhìn, tinh thần suy sụp. Tình cờ, được người giới thiệu, ông tìm đến Mã
huynh, hỏi xem có cách nào trị chăng?
Mã
huynh vừa nhìn qua đã biết ngay tình huống phức tạp, đơn giàn là không dễ mó
tay vào.
Nguyên
là bệnh của con trai và vợ ông này là do bị tà nhập vào quấy nhiễu, nhưng tà
trong đây không phải một, mà có tới năm vị, chủng loại cũng bất đồng. Trong đám
dựa nhập này có một kẻ là oan quỷ, cũng không hề xa lạ, chính là anh ruột của
ông giám đốc. Do y lúc sống công tác không thuận lợi, ở đâu cũng gặp trắc trở,
lòng thập phần chán nản. Nhưng em trai y lại tài giỏi, sự nghiệp thành đạt.
Vì
muốn giúp anh, ông giám đốc có lòng tốt, hỗ trợ cho anh tự lập một chi nhánh,
để anh tạo sự nghiệp riêng. Vốn tính tiết kiệm, người anh bèn chọn địa điểm xây
dựng hảng xưởng nhỏ nơi một nền nhà cũ bỏ hoang tại nông thôn. Mộ tổ tiên ông
cũng nằm trong đây. Do bị cỏ tạp mọc đầy, nên chẳng còn trông thấy mộ phần…
Lúc
đào nền lên, tài xế không rõ tình huống, nên đã cho san ủi hết mộ tổ tiên.
Khiến xương cốt vùng này bị trộn lộn rối beng. Ngay ngày hôm đó. Anh của ông
giám đốc đến hiện trường chỉ huy, xui xẻo bị một tàng đá từ trên cao rơi xuống
đè nhẹp, khiến anh chết không toàn thây, thi thể máu thịt bầy nhầy, thân biến
dạng hoàn toàn, thảm đến chẳng nỡ nhìn. Do anh chết chẳng lành, lúc thần thức
lìa thây, oán khí dâng tràn, anh cho rằng do tại thằng em nên mình mới gặp nạn
đột tử như thế, nên nhất quyết báo thù. Biết em mình cưng nhất đứa con trai
một, nên anh đã gá dựa vào và hành xác thằng nhỏ, khiến toàn gỉa người em đau
khổ, sợ hãi khó kham, tài sản cũng bị tổn thất hư hao…
Trước
tiên Mã huynh nói chuyện với vong linh người anh, giải thích rằng: Việc em ông
làm là xuất phát từ lòng tốt muốn giúp anh tạo sự nghiệp, nhưng anh bị hoạnh tử
là ngoài ý muốn, chẳng nên oán trách em mình…
Nhưng
oan quỷ nói: Trên đời này cái gì cũng có nguyên nhân, kiếp trước người em này
từng hại y và thiếu nợ y rất nhiều. Đời nay do họ đầu thai cùng làm anh em, nên
hắn mới có hảo tâm giúp y, nhưng lại khiến y chết thảm, vì vậy nợ tiền kiếp lẫn
hiện kiếp gì, y cũng nhất quyết phải thanh toán cho xong.
Mã
huynh khuyên: Oán thù nên giải chớ nên kết, nếu y đồng ý, ông sẽ siêu độ cho y
về thiện đạo hưởng phúc.
Nhưng
oan quỷ rất cố chấp, khăng khăng nhất định đòi báo thù.
Bất
đắc dĩ, Mã huynh đành trì chú thỉnh Diêm vương đến, cưỡng dắt hồn y đi chỗ khác
đầu thai…
Nào
dè chừng hai tiếng sau, thấy oan quỷ lại lót tót quay về. Té ra sau khi Diêm
vương tra sổ xem án đời trước, thấy rõ ràng người em quả có thiếu nợ y rất
nhiều, y muốn báo thù là do định nghiệp xui khiến, đây là lẽ đương nhiên, Diêm
vương cũng không có quyền can thiệp, đành phải thả cho y trở về, được phép tùy
ý báo thù.
Hiểu
rõ định luật nhân quả rồi thì không ai có thể sửa đổi, chỉ nương vào hòa giải
khiến hai bên hài lòng mà thôi. Mã huynh tiếp tục khuyên ông giám đốc (là người
em) nên sám hối nghiệp tiền khiên, đồng thời cần phải bỏ tiền ra tạo công đức
hồi hướng cho anh, bản thân Mã huynh cũng sẽ làm lễ siêu độ cho người anh vãng
sinh thiện đạo, ly khổ đắc lạc…
Oan
quỷ nghe nói vậy thì cuối cùng cũng chấp nhận, y bày tỏ: Trước tiên sẽ không
hành hạ con trai người em nữa, nhưng nếu muốn y rời đi thì phải chờ xem người
em biểu hiện lòng ăn năn và chuộc lỗi có thành tâm hay không rồi hẵng tính…
Việc
này coi như tạm xong.
Trừ
oan quỷ này ra, trên mình em học sinh kia còn có bốn loài khác dựa xác, gồm:
Một con rắn bạch, một con rắn hồng, một con hồ ly, một con sói hoang. Con bạch
xà cầm đầu cả nhóm, bọn chúng cùng kết làm quyến thuộc với nhau.
Theo
Mã huynh tả, thì con bạch xà này dài khoảng 50 mét, to như thùng nước, nó tu đã
hơn ngàn năm. Bà ngoại của em học sinh này xưa vốn là bà đồng, quanh năm xem
việc cho người. Kể từ thuở đó, bốn vị này đã tìm tới gá dựa rồi, sau đó thì
chúng gá tiếp vào chồng bà, thân xác ông ngoại em học này sinh do âm khí quá
nhiều, nên ăn không tiêu và sớm tạ thế. Vì đã có túc duyên cùng nhau từ đời trước,
nên bốn con yêu này hiện đang gá vào thân bà vợ giám đốc, để bà tiếp nối tổ
nghiệp, làm bà đồng.
Nhưng
do hiện thời trên thân bà giám đốc này dương khí còn quá mạnh, nên bọn chúng
không thể gá nương, vì vậy trước tiên phải hành đứa con trai độc nhất của bà,
buộc bà phải sầu lo tiều tụy, sức khỏe bị ảnh hưởng sẽ khiến dương khí suy sụp,
khi đó chúng sẽ gá vào thân bà.
Mã
huynh lại đàm phán cùng chúng, bốn vị này rất có thiện căn, lập tức đồng ý sẽ
không quấy nhiễu nữa, nhưng ra điều kiện là: Mã huynh phải sắp xếp thời gian
làm lễ siêu độ, cầu cho chúng vãng sinh cõi thiện!
Mã
huynh hoan hỉ đáp ứng. Ngay hiện trường ông truyền Tam quy cho chúng và ban
pháp danh: Minh Tâm, Minh An, Minh Lý, Minh Đắc. Hàm ý là kể từ đây sau khi
chúng quy y theo chánh pháp rồi thì “tâm an lý đắc”, tu hành giải thoát…
Mã
huynh kể: Khi đó bạch xà đã thố lộ tâm tư rất cảm động, tôi nghĩ nên thuật lại
đề cảnh tỉnh mọi người.
Vì
cõi súc sinh là một trong tam ác đạo, hết sức khổ! Bốn con vật dựa xác này đều
có thọ mạng hơn ngàn năm trở lên, chúng đã trải qua biết bao cuộc phong vũ tang
thương, chứng kiến bao triều đại đổi thay, chúng sống được đến giờ phải nói là
chuyện không dễ! Nhưng chúng khẩn cầu Mã huynh dốc sức siêu độ, vì muốn được
vãng sinh thiện đạo, nên khi thỉnh cầu như vậy có nghĩa là chúng chấp nhận kết
thúc thọ mạng còn dài đang sở hữu, chấp nhận từ bỏ cuộc sống hơn cả ngàn năm
(đã có thần thông) và tình nguyện được mau chóng chết!
Do
vì quy luật trong vũ trụ là: Chỉ có thông qua thân người mới có thể tu hành
giải thoát, nên những loài ở cõi súc sinh vĩnh viễn không thề tu thành chính
quả, thoát luân hồi. Chỉ trừ một thiểu số cực ít, đặc biệt, mới có ngoại lệ.
Những thiểu số này chính là Phật Bồ tát thị hiện, chẳng hạn như trong kinh Pháp
Hoa có Long nữ 8 tuổi thành Phật. Long nữ sở dĩ có thề chuyển thân nam ngay,
lập tức thành Phật (ngoại trừ bậc thượng trí lợi căn ra, thì quan trọng nhất
vẫn là tâm xả ly!)… Bởi long châu không những có giá trị liên thành, mà đối với
loài rồng còn là quan hệ sinh tử, một khi bị mất đi, tính mệnh sẽ khó bảo toàn!
Nhưng Long nữ không chút do dự, đã đem bảo châu cực quý trong tay hiến cúng
Phật và lập tức thành Phật…
Có
thể giải thích rằng nhóm bạch xà (gồm bốn vị chủng loại khác nhau đó)… tâm xả
ly của họ so với Long nữ có thể nói là “dị khúc đồng công”, vì Xà cũng thuộc
Long tộc), mà loài rắn biết cầu tiến thường hiếm, có hai trường hợp cho chúng
là:
Một:
Phải hội đủ nhân duyên phúc báo lớn mới gặp được bậc tu hành cao, thanh tịnh,
có tâm từ bi, đủ sức niệm Phật siêu độ cho chúng. Nương vào Phật lực gia trì mà
chúng được trực tiếp sinh sang cõi tịnh của chư Phật.
Hai:
Khi báo thân súc sinh kết thúc, chúng sẽ tiếp tục đầu thai, mang thân người,
được hữu duyên gặp Phật pháp, có thể theo trình tự thứ lớp tu hành, vượt thoát
luân hồi.
Nhưng
hai tình huống này tính ra rất hi hữu khó gặp, xem như khó chồng khó.
Bạch
xà nói: Chúng tôi muốn có được thân người tu hành là rất khó, khó cực kỳ! Nhưng
đa số loài người các vị có được thân người lại không biết trân quý, không biết
nương vào thân người để nắm bắt cơ hội tu hành, lại tham mê ngũ dục, túng tình
phóng dật, một khi mất thân người, trầm luân đọa lạc, có muốn tu hành cũng khó!
Tôi thực là ước ao thèm muốn và tiếc cho loài người các vị…
Sau
khi Mã huynh bàn bạc ổn thỏa cùng bốn kẻ dựa xác xong, thì chúng vui vẻ rời đi.
Lập tức em học sinh kia bình an trở lại, trạng thái hồi phục bình thường.
Không
ngờ mẹ em thần trí tiếp tục bất ổn, hóa ra lại có những chúng sinh khác gá vào.
Mã huynh vừa hỏi, mới biết đó là cha mẹ ruột của bà đã mất, nhân vì lúc sống họ
bị gá dựa làm đồng, chết rồi thần thức không thể chuyển sinh, thảy đều trở
thành quyến thuộc của quỷ vương La sát, nhận chịu đòn roi, thọ khổ hết chỗ nói.
Họ cũng năn nỉ cầu xin được siêu độ, Mã huynh hoan hỉ đáp ứng.
Sóng
trước vừa đi, sóng sau liên tục tới. tất cả đều là lịch đại tồ tông của mẹ em
học sinh, do lâu nay họ lưu lạc trong quỷ đạo, giờ nghe tin biết Mã huynh sắp
tổ chức đại lễ nên vội đến cầu xin ông siêu độ cho, bởi hữu duyên thì đến…Mã
huynh đều nhất nhất đáp ứng.
Nhóm
cuối cùng, là hai vị rất lạ, khi họ nói lai lịch ra, mọi người tại hiện trường
đều kinh ngạc, hết hồn. Bởi vì đó là hai vị trời ở cõi Tứ Thiên Vương.
Do
bọn họ vốn có túc duyên với gia đình này, thuở còn sống nhờ biết tu thập thiện,
rộng tạo công đức nên sau khi chết rồi họ được sinh vào tầng trời thấp nhất của
dục giới, là cõi Tứ Thiên Vương, cùng vui hưởng phúc trời. Nhưng giờ đây họ vẫn
ngỏ ý cầu xin Mã huynh siêu độ cho, mục đích của họ là muốn được sinh về Tây
phương Cực lạc thế giới.
Mã
huynh có chút nghi ngờ, liền chất vấn. Hai vị trời bèn giải thích:
–
Mặc dù cõi Tứ Thiên Vương có phúc báu thù thắng, thọ mệnh tới 500 tuổi. Một
ngày ở đây bằng 50 năm nhân gian, 500 tuổi thọ cõi trời này tương đương chín
triệu một trăm hai mươi lăm ngàn năm (9.125.000) ở trần gian. Thế nhưng phúc
trời một khi hưởng hết rồi, thì chúng tôi vẫn phải theo nghiệp đã tạo trước đó
mà thọ sinh, nếu phúc đã hưởng hết rồi, thì e là vẫn có thể bị đọa vào ba cõi
ác: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, tiếp tục cảnh luân hồi thọ khổ trong lục đạo.
Vì vậy hiện thời tuy cảnh vui nơi cõi trời thù thắng vi diệu vượt xa cõi người,
nhưng ngẫm lại không được rốt ráo bền lâu, nên chúng tôi thấy chẳng có gì đáng
lưu luyến. Vì vậy mà đồng muốn xả bỏ thọ mệnh cõi trời đề cầu vãng sinh Cực
lạc, chủ yếu là nương nguyện lực Phật A Di Đà tiếp dẫn… Nhưng muốn được vậy cần
có đủ nhân duyên chín muồi… mà nhân duyên hiện thời được gặp ngài đây đúng là
hi hữu khó có, thế nên chúng tôi mới phải hiện thân khẩn khoản thỉnh cầu ngài,
ngài chỉ cần đáp ứng nhận làm lễ cầu cho chúng tôi thôi, không phải lo gì khác!
Hai
vị trời còn đề xuất thêm một yêu cầu nữa, họ kề rằng vị lãnh đạo địa phương này
vốn có túc duyên cùng họ (và cũng khai báo rõ họ tên của viên quan đó cho Mã
huynh biết), họ khẩn khoản thỉnh cầu thầy khi cơ duyên đến, xin hãy từ bi, xét
theo căn cơ mà hóa độ cho ông ta tin Phật, niệm Phật giùm. (Hiện nay vị lãnh
đạo này dưới sự cảm hóa của Mã huynh, cũng đã bắt đầu tin Phật, tập tu rồi). Mã
huynh sau khi nghe hai vị trời bày tỏ nỗi lòng, liền phát đại bi tâm, vui vẻ
nhận lời, ấn định thời gian làm lễ siêu độ cho hai vị trời (chuyện Thiên nhân
cầu siêu độ, thật là hiếm có, đáng để chúng ta khảo chứng).
Chuẩn
bị đầy đủ xong xuôi, mấy ngày sau, vào đêm nọ, Mã huynh đúng hẹn tổ chức đại lễ
siêu độ cực lớn. Trước tiên ông làm lễ triệu thỉnh các chúng sinh đến ứng cúng,
sau gia trì pháp thực, cam lồ thủy để họ hưởng dụng tận tình, cuối cùng là cung
thỉnh chư Thánh…
Mã
huynh hướng dẫn các chúng sinh hiện có đồng chí thành niệm “Nam mô A Di Đà
Phật!” và Cung thỉnh chư Phật, Bồ tát quang lâm, từ bi tiếp dẫn…
Theo
như Mã huynh và những người có thiên nhãn đồng chứng kiến và tường thuật, thì
tối đó Phật quang đại hiển, không trung tràn ngập những đóa sen hồng, Tây
phương Tam Thánh và vô số Bồ tát đòng hiện thân đến, các chúng thiên nhân, quỷ,
súc sinh… sở hữu, đều có mặt tại hiện trường, tùy theo thiện cãn và túc nghiệp
bất đồng, mà hướng đi của họ cũng khác nhau. Những vị đủ phúc thì vào được liên
hoa, liên hoa liền bay lên, toàn bộ đồng theo Phật A Di Đà Vãng sinh Tây phương
Cực Lạc thế Giới. Còn những ai không vào được liên hoa, thì Bồ tát Quan Thế Âm
hướng dẫn họ đầu sinh cõi thiện, đợi nhân duyên chín muồi, sau đó nghe pháp
thực hành, tu đến giải thoát…
Đại
lễ kéo dài bốn tiếng, các cõi chúng sinh đều được đại hoan hỉ, mỗi mỗi tự thác
sinh vào chỗ của mình. Người tham gia cũng tiêu trừ nghiệp chướng, pháp hỉ sung
mãn, đối với Phật pháp càng sinh khởi tín tâm kiên định không gì sánh bằng.
Long
Thọ ghi
0 nhận xét:
Đăng nhận xét