Thứ Tư, 5 tháng 12, 2018

GIÁO LÝ TẬP 15


GIÁO LÝ  TẬP 15

MỤC LỤC

NĂM TIÊU CHUẨN ĐỂ CÓ HẠNH PHÚC
SINH RA TRONG CUỘC ĐỜI ĐỂ LÀM GÌ ?
CUỘC ĐỜI LÀ CÕI TẠM
NHỮNG NỔI SỢ CỦA CON NGƯỜI
CHÍN CÁCH QUÁN NIỆM VỀ CÁI CHẾT
HỌC PHẬT NHƯ THẾ NÀO CHO ĐÚNG
TU THẾ NÀO CHO ĐÚNG
TU LÀ CHUYỂN NGHIỆP
GIẬN
CHẾT VUI
SỰ TÁC ĐỘNG CỦA LỜI NÓI
GANH GHÉT VÀ THÙ HẬN
NHỊN VÀ NHỊN

KHÁC ĐƯỜNG CHUNG LỐI
SỐNG TRÊN ĐỜI HÃY NHỚ
TỰ LỰC
BẤT HIẾU BỞI VÌ ĐÂU
NUÔI CON
NHỚ ƠN MẸ
NỢ MẸ
HOA SEN TÁM CÁNH
PHẬT GIÁO TRONG DÒNG CHẢY DÂN TỘC
ĐÂU HỀ CÓ MỘT TÌNH YÊU SUNG SƯỚNG
TÁN TỤNG KINH PHẬT
ỨNG PHÓ VỚI BỆNH TRẦM CẢM
ĐỪNG VÌ CÁI SAI CỦA NGƯỜI MÀ ĐÁNH MẤT CÁI THIỆN CỦA MÌNH
NGHĨ NHỚ 5 THỨ KHÔNG THÌ ĐỜI NGƯỜI HẠNH PHÚC
BUÔNG CÁI NGÃ
SỐNG VƯỢT QUA THỊ PHI
TÀM QUÝ
Ỷ VÀO UY QUYỀN
BUÔNG GIẬN HỜN
TIỀN CÓ THỂ MUA ĐƯỢC TẤT CẢ KHÔNG
QUÁN TÂM TRÊN TÂM
NĂM THIỀN CHI
THỰC HÀNH CHÁNH NIỆM
QUÁN CHIẾU VỀ CÁI CHẾT
THAY ĐỔI SẮC ĐẸP
IM LẶNG
BUÔNG XẢ
KHI ĐẾN TUỔI VỀ GIÀ
TỰ ÁI VÀ HIỂU LẦM
DỤC LẠC VÀ THIỀN LẠC
BỐN CÔNG NĂNG CỦA THIỀN
NĂM THỨ TRIỀN CÁI
TĂNG THƯỢNG AN LẠC
SỨC MẠNH CỦA NIỀM TIN
PHẢN TƯỞNG KHỔ LÀ LẠC
THÁNH SANH
ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA

NĂM TIÊU CHUẨN ĐỂ CÓ HẠNH PHÚC

Nhất: Mệnh, nhì: Vận, tam: Phong thủy, tứ: Âm đức, ngũ: Kinh thư.
1/ Mệnh: tức là nghiệp lành, làm những việc thiện có lợi ích cho chúng sanh.
2/ Vận: tức thời cuộc thuận tiện, không mưa gió, bão lũ, không giặc dã chiến tranh v.v... 
3/ Phong thủy: tức ở chỗ khí hậu ôn hòa, đường đi không ngăn trở, nơi có nước, gió, ánh sáng giúp sức khỏe con người được khỏe mạnh.
4/ Âm đức: tức người có lòng từ luôn có tâm giúp người, làm những việc có lợi cho người, là người nhân hậu.
5/ Ngũ kinh thư: là người có học hỏi, có kiến thức cả đạo lẫn đời. Kiến thức ở đời giúp con người bớt khổ về thân, ví như bác sĩ, kỹ sư, hay thầy giáo. Kiến thức đạo giáo, giúp người hết khổ về tâm, hướng dẫn họ những điều hay lẽ phải, bỏ dữ làm lành, giảm tánh tham, sân, si v.v... Kiến thức của đời giúp người hết khổ về thân chứ không hết khổ về tâm. Ví như bác sĩ chỉ chữa trị cho người hết cơn đau của bịnh tật chứ không thể chữa trị cho con người hết buồn khổ về tâm. Còn kiến thức về đạo đức Phật học chữa trị hết khổ thân lẫn tâm. Vì bịnh có ba nguyên nhân sanh ra bịnh. Bịnh do thân, bịnh do tâm, và bịnh do nghiệp báo. Bịnh do thân là thứ bịnh do ăn uống hay do chổ ở thiếu vệ sinh, sanh ra bịnh, thứ bịnh này phải dùng thuốc trị, tức bịnh thân dùng thuốc trị. Bịnh do tâm thì phải tu để trị. Tâm tức giận, tâm giận hờn, tâm đố kị, tham lam v.v...làm con người mất năng lượng, khiến cơ thể thiếu sự cân bằng nên sinh ra bịnh. Khi cơ thể thiếu năng lượng (tức điện năng trong con người, giống như xe có bình ất quy yếu điện) thì các huyệt đạo trong cơ thể bị bế tắc, do bế tắc không thông nên sinh ra đủ thứ bệnh. Trong y học có một nguyên tắc chữa bịnh là : “Thống thì bất thông, còn Thông thì bất thống” . Tức là đau là do không thông, và thông được thì hết đau. Đi vào con đường tu tập  giảm được các tính tham, sân, giận, hờn ganh v.v... thì năng lượng (điện năng) khôi phục trở lại nên hết bịnh. Tức đã thông được các huyệt đạo trong cơ thể.  Hiện nay ba trường phái Yoga, Thiền nhân điện, Pháp luân công đều chiết xuất từ thiền Phật giáo mà để chữa trị bịnh, nên được nhiều người hưởng ứng. Nhưng đó chỉ chữa trị bịnh ngọn chứ chưa chấm dứt đau khổ, nó chỉ tạm bớt khổ trong hiện đời chứ không hết khổ sâu xa về con đường sanh tử được. Nhưng mà để cho con người thấu hiểu được sự khổ về con đường sanh tử luân hồi thì ít ai hiểu nên họ không quan tâm đến việc sâu xa, họ chỉ nhìn nhận sự việc hiện đời thôi. Vả lại kiến thức những người thấu hiểu con đường sanh tử khổ đau có ít nên nhiều người không được hướng dẫn.
Nghiệp bệnh là do quá khứ cũng như hiện tại đã làm những việc không được thuần thiện nên phải trả lại kết quả mình đã tạo. Nghiệp bịnh phải tu tập, sám hối và làm những việc lành, như phóng sanh, bố thí, cúng dường v.v...rồi đem những công đức đã làm hồi hướng cho những oan gia trái chủ, nhờ thế mới xả bỏ được oán kết từ lâu thì bịnh tình mình thuyên giảm.
Tu tập về tâm cũng vậy, muốn có mau kết quả có nhiều năng lượng. Bên trong phải từ bỏ tham, sân, si v.v... bên ngoài phải biết bố thí làm thiện, cúng dường, phóng sanh v.v...người tu tập có đủ cả hai, phước và huệ thì mau hết bịnh. Ví như thuyền đi thuận gió và xuôi dòng nước thì mau đến. Tu tập cũng vậy phải đủ sự và lý viên dung mới mau hoàn tất mục tiêu chấm dứt khổ đau sanh tử luân hồi được ./.
{]{

SINH RA TRONG CUỘC ĐỜI ĐỂ LÀM GÌ ?

 Không có ai tự đặt câu hỏi cho mình : “Mình sinh ra trên cuộc đời này để làm gì, sau khi chết sẽ đi về đâu ? ”. Chúng ta chỉ biết nghĩ đến chuyện  làm sao được ăn ngon, ngủ kỷ, có tiền, có tình, có danh lợi, địa vị. Con người cứ luẩn quẩn với ba việc ăn, ngủ, làm, rồi đến ngày nào đó nhắm mắt lìa đời, thế là xong một kiếp người. Câu chuyện như sau :
  Có hai người bạn lâu ngày gặp nhau, mừng hỏi nhau về cuộc sống.
Lâu nay anh làm gì ?
Anh kia trả lời:  Tôi đạp xích lô.
Anh đạp xích lô để làm gì ?
Để kiếm tiền
Kiếm tiền để làm gì ?
Để ăn
Ăn để làm gì ?
Để sống
Sống để làm gì ?
Để đạp xích lô.
Cuộc sống phần đông của mọi người là như vậy, như hai anh của câu chuyện trên, ngày này sang ngày khác, cứ luẩn quẩn trong vòng kiếm tiền, để ăn uống, vui chơi, ngủ nghỉ.. Nhiều khi vì miếng ăn mà giết hại chúng sanh, tàn sát lẫn nhau con người với con người. Con người giết con vật để ăn đã đành. Lại con người giết con người để dành miếng ăn, chỗ ở và tình cảm, địa vị nữa. Vì muốn có tiền bạc, sắc đẹp, danh lợi địa vị, chỗ ở mà con người làm những điều tội lỗi. Tạo nghiệp như vậy chắc chắn phải trả quả báo, phải quay vần trong vòng sanh tử luân hồi đau khổ. Thanh Sĩ có bài thơ như sau :
  Kiếp thì bị treo thân lủng lẳng
  Kiếp thì ngồi chổng cẳng ra oai,
  Kiếp thì chết chẳng chôn thây,
  Kiếp thì tống táng chật ngoài chật trong
  Khi thì xác trôi sông chập chã,
  Khi thì thây tan rã giữa đồng,
  Kể sao cho hết chuyện não lòng,
  Của tiền kiếp khách trần hồng đã mang,
  Kiếp làm gái chịu đàng đẻ chửa
  Kiếp làm trai con vợ đùm đề
  Khi thì trọn kiếp phu thê
  Khi thì bướm chán ong chê giữa chừng
  Có khi bị cùi phong xụi bại
  Có khi thì điên dại mù câm
  Sống không nhà cửa ăn nằm
  Lang thang đường phố ăn xin qua ngày
  Có kiếp bị bọn trai lừa gạt
  Có kiếp thì bị thác vì tình
  Kiếp thì làm đĩ bán mình,
  Kiếp thì cô quạnh trong tình cấm cung
  Khi thì được anh hùng vang dội,
  Khi thì mang lấy tội phản thần
  Lúc thì quý tựa vàng cân
  Khi thì rẻ nát còn hơn con dòi,
  Kiếp thì được người coi vua chúa
  Kiếp thì ra thân đứa ăn mày
  Mới cười kể khóc chua cay
  Cứ như thế đó đổi thay không ngừng.
    (Trích đường giải thoát - tập 3)
                         {]{

CUỘC ĐỜI LÀ CÕI TẠM

    Đời này cõi tạm mà thôi
    Giàu sang, nghèo khó, chết rồi như nhau
    Cùng nằm dưới một hố sâu
    Lấp xong là hết nào đâu khác gì
    Vậy nên đừng có so bì
    Tham sang bỏ ngãi chỉ vì háo danh
    Đừng kèn cựa, đừng đua tranh
    Đừng dìm người khác để dành phần hơn
    Đói mà nhân cách sạch thơm
    Hơn giàu mà dạ tối om muôn lần
    Nên ăn ở có phúc phần
    Chớ nên làm chuyện ngu đần hại nhau
    Sống là phải nghĩ về sau
    Đừng vì ham lợi mà mau quên nghĩa tình
    Người ta cũng sống như mình
    Sang giàu rồi chớ coi khinh người hèn
    Kẻ nghèo thì chớ hờn ghen
    Thấy người giàu có đừng đem lòng hờn
    Vô ưu, vô ngã,  là hơn
    Chết rồi của có đem chôn cùng người
    Trần gian là chốn tạm thời
    Đừng vì danh lợi mà đánh rơi hồn mình
    Sống sao trọn nghĩa vẹn tình
    Sống sao cho dạ thanh bình thảnh thơi
    Sống sao cho đúng người ơi
    Sống sao cho khỏi tiếng đời chê bai ./.  
                                   {]{

NHỮNG NỔI SỢ CỦA CON NGƯỜI

Con người sinh ra từ nhỏ đến lớn ai ai cũng có nhiều nổi sợ hãi. Có các loại sợ như sau :  Sợ khổ về thân, sợ khổ về Tâm, sợ khổ về hoàn cảnh,
  Sợ khổ về thân: Như đau bệnh, đói khát, nóng lạnh v.v
  Sợ khổ về Tâm : Như lo buồn, sầu muộn, giận tức v.v
 Sợ khổ về hoàn cảnh : Như sợ trộm cướp, giặc giả chiến tranh, mưa gió, bão lụt v.v..
 Nhưng có một cái đáng Sợ mà con người vì vô minh không biết sợ đó là cái Sanh tử luân hồi.  Chính cái đáng sợ nhất là cái sanh tử luân hồi mà mọi người không biết nên phải chịu đau khổ dài dài. Nếu con người biết được cái khổ này tìm đường đi ra khỏi cái khổ này thì ba cái khổ kia không cần sợ và không thể làm khổ con người được. Khổ của con người thì vô số : Khổ hiện tại, khổ bị tái sanh, khổ sanh vào ba đường ác, là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nhưng nổi khổ nào rồi cũng qua đi, vào ba đường ác hết nghiệp rồi cũng tái sanh làm trời, người v.v. Nhưng khổ luân hồi sanh tử là cái đáng sợ nhất, tất cả con người từ vô thủy đến nay chưa có ai tự mình ra khỏi con đường sanh tử, chỉ có Đức Phật Ngài đã tu chứng và tìm ra con đường thoát khổ sanh tử, và dạy lại cho chúng sanh nếu ai biết tin theo lời dạy và thực hành đúng thì sẽ đi ra khỏi con đường sanh tử. Trong kinh ví như một khinh thành lớn rộng mà chỉ có một cửa ra vào. Rất khó ai biết được con đường để đi ra nếu không có người chỉ dẫn. Cũng vậy con đường sanh tử dài lâu nếu không có bậc giác ngộ chỉ dẫn thì chúng sanh không biết đường đi ra. Trong sáu loại chúng sanh, trời, người, A tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chỉ có một loại chúng sanh ưu việt có khả năng đi ra mà thôi, đó là loài người có đủ điều kiện để đi ra khỏi con đường khổ này.
       Con người sau khi chết được tái sanh lại làm người rất khó, vì sao, vì được tái sanh làm người phải có phước mới được tái sanh. Khi tái sanh vào một gia đình nào đó ta phải có phước và nhân duyên với gia đình đó thì mới vào được, còn không có phước và nhân duyên thì khó mà vào được để tái sanh. Thứ đến ta có phước mà gia đình kia không có phước thì ta cũng không có thể tái sanh vào được. Cho nên đức Phật nói được làm thân người rất khó là vậy, vì thế nay ta đã được làm thân người phải quý mến là cơ hội chúng ta tu tập tạo phước để đi ra khỏi con đường sanh tử đau khổ này.
 Vậy khổ này là do đâu mà phải chịu tái sanh luân hồi, đó là do chúng sanh thiếu trí tuệ. Nếu chúng ta có trí tuệ thì có thể chấm dứt khổ sanh tử luân hồi. Vậy làm sao để có trí tuệ để chấm dứt sanh tử luân hồi ? Có ba cách để phát triển trí tuệ :
a/ Cách thứ nhất đối với người chưa phải là người Phật tử. b/ Cách thứ hai đối với người đã quy y Tam bảo và thọ trì 5 giới c/ Cách thứ ba đối với những người đã xuât gia tu tập.
Đối với người không phải phật tử phải có 5 điều :  Tín, tàm, quý, tinh tấn, và tuệ.
Tín của người không phải phật tử là tin vào các điều thiện lành khác với tín của người có đạo tin vào Tam bảo. Tàm là biết xấu hổ. Quý là biết thẹn. Tấn là siêng năng. Tuệ là phải biết 6 nguyên tắc sống hòa thuận.  Đó là thân hòa, khẩu hòa, ý hòa, kiến hòa, giới hòa, và lợi hòa. 1/Tức là thân không đấu tranh gây gổ,2/ miệng không nói lời thô ác,3/ ý không đối nghịch,4/ Kiến thức cùng chia sẻ, 5/Các nguyên tắc bổn phận phải tuân thủ, sống có tôn ty trật tự, 6/của cải vật chất cùng chung hưởng chia đều.
Đối với người tại gia có lòng tin Tam Bảo, quy y Tam Bảo thì có 5 điều  là : Tín, giới, văn, thí và Huệ. Là có lòng tin Tam bảo, có giữ giới đã lành thọ, phải nghe giáo pháp, phải biết bố thí cúng dường, phải có trí tuệ.  Trí tuệ của người Phật tử là: Tín, Giới, văn, Thí. Tín đây là tin Phật, pháp, tăng. Người phật tử tại gia có hai thành phần, Phật tử thuần thành và Phật tử không thuần thành. Phật tử thuần thành thì thực hiện cả hai pháp học và pháp hành, tức có học có tu, có ứng dụng lời dạy của Phật vào trong cuộc sống. Phật tử không thuần thành chỉ có lòng tin không có sự thực hành, không có sự hiểu biết về Phật pháp. Người tu tập mà không biết làm công đức thì tu khó thành. Làm công đức mà không biết tu thì công đức chuyển thành phước báo, thọ hưởng phước báo chuyển thành nghiệp báo đời đời kiếp sanh tử luân hồi. Người biết tu chuyển công đức thành phước trí, phước đức chuyển thành phước trí. Thế nào là Phật tử thuần thành, phật tử thuần thành là người có lòng tin bất động, đối với ba ngôi Tam Bảo  lòng tin bất động, không bao giờ thay đổi. Người có lòng tin bất động khác với người có lòng tin thay đổi. Thân tâm, hoàn cảnh có thay đổi nhưng tuệ giác không thay đổi. 
  Nếu người thế tục chưa là Phật tử và người Phật tử tại gia thực hành trọn vẹn 5 điều như trên thì gọi là người đang đi trên ccon đường giải thoát và sẽ đến con đường giải thoát đời này và những đời sau./.

{]{

CHÍN CÁCH QUÁN NIỆM VỀ CÁI CHẾT

1/ Chết là điều không thể tránh khỏi,
2/ Ai rồi cũng sẽ chết,
3/ Tuổi thọ của bạn đang liên tục giảm
a-    Bạn dành thời gian cho việc tu tập tâm linh
b-   Bạn không biết chắc chết vào thời gian nào
          4/ Tuổi thọ của con người là không chắc,
          5/ Có nhiều nguyên nhân gây nên cái chết,
          6/ Thân thể con người rất mong manh,
          7/ Những người thân yêu của bạn không thể giúp bạn
          8/ Tài sản và những thứ mà bạn yêu thích cũng không thể giúp bạn,
          9/ Cơ thể của bạn cũng không thể giúp bạn.
A- 1 - Chết là điều không thể tránh.
Chúng ta lên kế hoạch nhiều hoạt động và dự án cho những ngày tháng và năm sắp tới. Mặc dù cái chết là sự kiện duy nhất chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng chúng ta thường không nghĩ về nó hoặc dự định cho nó, ngay cả khi ý nghĩ về cái chết nảy sinh trong đầu, chúng ta cũng thường xua nó đi thật nhanh. Chúng ta không muốn nghĩ về cái chết. Nhưng điều quan trọng ở đây là phải nghĩ và chuẩn bị về nó. Hãy thực hành ba phép quán sau đây để cảm nhận về cái chết chắc chắn sẽ xảy ra với bạn như thế nào ?
2-Ai rồi cũng phải chết :  Để tạo ra một trải nghiệm về cái chết, hãy nhớ những người trong quá khứ, như những nhân vật nổi tiếng trong giới cầm quyền, văn sĩ, nhạc sĩ, triết gia, các bậc thánh, nhà khoa học, tội phạm và những người dân thường. Những người này đã từng sống, từng làm việc và tranh đấu, tận hưởng niềm vui của cuộc sống cũng như đã trải qua những nổi khổ niềm đau, và cuối cùng họ đều đã chết.
Thử nghĩ, có một người nào đó sinh ra trên trái đất này mà họ không chết ?  Dù có thông minh như thế nào, giàu có ra sao, quyền lực và nổi tiếng như thế nào, thì cuộc đời của các vị ấy cũng phải đi đến cái chết.  Đó là sự thật cho tất cả sinh vật đang sống trên trái đất này. Dù sự phát triển của khoa học và y học đến mức cỡ nào thì cũng không có ai tìm ra  được phương pháp cứu chữa cái chết, và cũng sẽ mài mãi không có ai làm được điều đó. Và hãy nghĩ đến những người quen biết mà họ đã chết và nghĩ về những người bạn quen biết mà họ đang còn sống. Quán tưởng rằng mỗi người ấy sẽ chết vào một ngày nào đó, và dĩ nhiên bạn cũng thế.
Hiện tại mấy tỷ người trên hành tinh này, nhưng 100 năm sau, tất cả những người này đều chết, ngoài trừ những người bây giờ rất trẻ. Bản thân bạn cũng sẽ chết. Hãy thử trải nghiệm sự thật này với toàn thể đời sống của bạn.
3- Tuổi thọ của bạn đang liên tục giảm dần. Thời gian không bao giờ đứng yên, nó liên tục trôi qua. Giây trở thành phút, phút trở thành giờ, giờ trở thành ngày, ngày trở thành tháng, tháng trở thành năm, và khi thời gian trôi qua theo cách này, bạn đang đi mỗi lúc mỗi gần hơn về cái chết. Hãy quán sát dòng thời gian không ngừng trôi đang đưa bạn đến cuối đời của bạn.
Và một cách khác để nhận biết cuộc sống của bạn, như bạn đang ở trên một chuyến tàu với tốc độ đều đều, nó không chậm hay dừng hẳn, và cũng không có cách nào để bạn có thể xuống tàu, chuyến tàu này đang đưa bạn ngày càng gần hơn đến đích của nó, chấm dứt cuộc đời của bạn. Cố gắng hiểu được điều này, kiểm lại những ý nghĩ và cảm xúc khởi sinh trong tâm bạn.
Bạn dành rất ít thời gian cho việc tu tập tâm linh.
Khi ta biết ta đang ngày càng tiến dần đến cái chết bất kể lúc nào, vậy ta đang làm gì để chuẩn bị cho cái chết ?   Cách tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết là tu tập tâm linh. Bởi vì điều duy nhất vẫn còn sau cái chết là tâm thức, và tu tập tâm linh là cách duy nhất thực sự mang lại lợi ích cho tâm, là chuẩn bị cho cái chết và cuộc hành trình tới đời sống kế tiếp. Nhưng bạn dành bao nhiêu thời gian để thực hành tâm linh, làm giảm tâm tiêu cực như giận dữ và chấp trước, phát triển tâm tích cực như lòng tốt và trí tuệ, và hành  xử theo cách có lợi cho người khác.
Hãy thử tính bạn dùng thời quỹ thời gian của mình như thế nào ?  Trung bình một ngày bạn dành bao nhiêu giờ để ngủ, để làm việc, để nấu nướng ăn uống, và giao tiếp ? Bạn tốn bao nhiêu thời gian cho những cảm thọ phiền muộn, thất vọng, lười biếng hay chê bai ?   Và bạn dành bao nhiêu thời gian để cố gắng cải thiện trạng thái không tốt của tâm, hoặc làm những việc có ích như giúp đỡ người khác, hoặc nghiên cứu tâm linh  hay thiền định. Hãy làm cái phép tính này một cách trung thực. Đánh giá cuộc sống của bạn theo cách thực tế này để thấy rõ bạn đã dành bao nhiêu thời gian để làm những điều thực sự lợi ích cho bản thân và người khác  và điều đó rất hữu ích cho tâm thức của bạn lúc lâm chung và ở kiếp sau.
Bằng cách thực tập thiền quán về ba đề mục đầu tiên này, bạn sẽ có thể phát huy quyết tâm sử dụng cuộc đời của bạn một cách không ngoan và có ý thức.
Không chắc về thời gian chết
Bằng cách suy gẫm về ba đề mục đầu tiên, bạn chấp nhận rằng, chắc chắn mình sẽ chết. Nhưng bạn cũng có nghĩ rằng cái chết còn lâu mới xảy ra. Tại sao bạn nghĩ như vậy ? Có cách nào để bạn có thể biết chắc chắn  khi nào bạn chết không ?, hãy quán tưởng ba phép sau đây để ý thức khi nào chết là hoàn toàn không chắc và không biết trước.
4- Tuổi thọ của con người là không chắc .
Nếu con người chết ở một độ tuổi nhất định, ví dụ như nói 85 tuổi, chúng ta sẽ có nhiều thời gian và không gian để chuẩn bị cho cái chết. Nhưng ở đây, không có sự chắc chắn như thế, hầu hết chúng ta bị thần chết tóm lấy bất ngờ.
Sự sống có thể kết thúc tại bất kỳ thời điểm nào, lúc vừa mới sinh ra, hoặc trong thời thơ ấu, hoặc ở tuổi thanh niên, ở tuổi 20, hoặc 50 hay 90 v.v.. Hãy nghĩ về những người đã chết trước khi họ đến tuổi bạn bây giờ mà bạn biết hoặc đã từng nghe nói tới.
Một người trẻ và khỏe mạnh cũng không dám bảo đảm là họ sẽ sống lâu. Trẻ em đôi khi chết trước cha mẹ, người khỏe có khi chết trước những người đang mắt bệnh hiểm nghèo như ung thư .. Chúng ta có thể hy vọng sống cho đến 70 hay 80, nhưng chúng ta không thể chắc chắn điều đó, chúng ta cũng không bảo đảm rằng liệu sau ngày hôm nay mình còn sống không ?
 Rất khó để chúng ta nhận thức được việc cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào, chúng ta có xu hướng nghĩ mình sống đến ngày hôm nay thì cứ yên tâm mà sống tiếp. Nhưng hàng ngàn người từ giả cõi đời này mỗi ngày và rất ít người trong số họ mong đợi cái chết. Hãy khởi lên ý nghĩ nhận thức rõ bạn sẽ chết khi nào là điều không thể biết trước được, hoàn toàn không có cam đoan là bạn còn sống đến lúc nào.
5- Có nhiều nguyên nhân gây nên cái chết.
Cái chết có thể đến với mọi người bằng nhiều cách khác nhau. Đôi khi tử vong xảy ra do nguyên nhân bên ngoài, bao gồm  tại nạn thiên nhiên như động đất, lũ lụt và núi lửa, hoặc các tai nạn như tai nạn xe hơi hoặc máy bay. Con người cũng có thể chết  do bị con người giết, khủng bố hoặc do động vật nguy hiểm hoặc trùng độc gây nên.
Cũng có khi cái chết xảy ra do nguyên nhân bên trong. Có hàng trăm thứ bệnh khác nhau có thể cướp đi sức khỏe của chúng ta và dẫn đến cái chết. Ngoài ra còn có những trường hợp của những người không bị bệnh, nhưng cơ thể của họ ngưng hoạt động hoàn toàn và họ đột nhiên chết.
Ngay cả những thứ bình thường hỗ trợ cho cuộc sống cũng có thể trở thành nguyên nhân gây nên cái chết. Ví dụ như thực phẩm, thứ mà chúng ta cần để duy trì sự sống, nhưng đôi khi nó có thể dẫn đến cái chết, như khi một người ăn quá nhiều, hoặc ăn thực phẩm bị nhiễm độc. Y học thì khác nữa, nó thường hỗ trợ cho sự sống, nhưng đôi khi người ta chết vì uống nhầm thuốc, hoặc dùng sai liều lượng. Những ngôi nhà hay căn hộ có thể giúp chúng ta sống một cách an toàn thoải mái hơn, nhưng đôi khi nó có thể giết chết người bên trong do hỏa hoạn thiêu rụi hay sụp đổ.
 Hãy nghĩ đến những trường hợp qua đời của những người mà bạn biết hoặc đã nghe nói đến, và họ đã chết như thế nào. Hãy nhớ rằng bất kể điều gì cũng có thể xảy ra với bạn.
6- Thân thể con người rất mong manh .   Thân thể chúng ta rất dễ bị tổn thương. Nó có thể bị thương hay bị bệnh tật tấn công. Chỉ trong vài phút, thân này có thể thay đổi từ mạnh khỏe, năng động thành bất lực và đau đớn.
Ngay bây giờ, bạn có thể cảm thấy khỏe mạnh, tràn đầy năng lượng và vững chắc, nhưng đôi khi có thứ gì đó nhỏ như loại virus hay cái gai cũng có thể trở thành nguyên nhân gây ra cái chết của bạn.
Hãy nghĩ về điều này, nhớ lại những lần bạn bị đau hoặc cơ thể bị thương và việc này có thể lập lại, thậm chí gây ra cái chết của bạn dễ đến mức nào.
Cơ thể của bạn sẽ không tồn tại mãi mãi.Trong suốt cuộc đời, bạn có thể điều khiển để tránh bệnh tật và tai nạn, nhưng những năm tháng cuối cùng sẽ bỏ mặc bạn. Cơ thể bị thoái hóa, mất đi vẻ đẹp và sức sống của nó, và cuối cùng là chết.
 Bằng cách thiền quán về ba điểm thứ hai này, chúng ta sẽ nâng cao quyết tâm, bắt đầu thực hành con đường tâm linh ngay bây giờ, vì tương lai là điều không chức chắn.
Thực tế là chỉ tu tập tâm linh mới có thể giúp bạn lúc lâm chung.
Dù cho ta có tích cóp được bao nhiêu hay phát đạt đến cỡ nào trong suốt cuộc đời những thứ như gia đình bạn bè, sự giàu có, quyền lực, trải nghiệm du lịch, và nhiều hơn thế nữa thì không có thứ nào trong số đó đi với chúng ta lúc lìa trần. Chỉ có tâm thức của ta tiếp tục đi cùng, mang theo tất cả những gì ta đã suy nghĩ, cảm nhận, nói năng và hành động.
Điều quan trọng là khi chết, chúng ta có được nhiều điểm tích cực thì sẽ đem lại những trải nghiệm tốt đẹp, và nếu như có vài tiêu cực, có thể sẽ làm cho tâm thức chúng ta đau khổ. Vì thế, chúng ta nên cố gắng để chết hòa bình với chính mình, cảm thấy hài lòng khi ta đã sống một cuộc đời tốt đẹp làm sao, và không nên để lại bất kỳ cuộc xung đột nào với mọi người mà chưa được giải quyết.
Điều duy nhất đem lại lợi ích thực sự cho chúng ta khi chết là trạng thái tích cực của tâm thức như đức tin, không bám chấp và bình tỉnh chấp nhận những thay đổi đang diễn ra, lòng từ bi, sự nhẫn nại và trí tuệ. Nhưng để có được trạng thái tâm như vậy vào thời khắc lâm chung, chúng ta cần phải tập sống với những tâm hành ấy trong suốt cuộc đời của mình và đây là cốt lõi của Phật pháp, hay còn gọi là tu tập tâm linh. Nhận ra được điều này sẽ giúp ta có được sự khích lệ và nghị lực để bắt đầu thực hành ngay bây giờ. Và tu tập nhiều nhất có thể khi chúng ta vẫn còn thời gian.
Bạn có thể trải nghiệm cảm giác mạnh về sự thực này bằng cách tưởng tượng bản thân mình vào thời khắc lâm chung và quán chiếu mục sau đây.
7- Người thân yêu của bạn không thể giúp.
Khi ta bệnh nằm trên giường, hay khi ta đi xe đi tàu bị tai nạn, chúng ta nghĩ gì về thời khắc đó ? Tâm luyến ái mạnh mẽ của chúng ta thường dành cho gia đình và bạn bè, do đó ta nghĩ về họ, và cảm thấy mong muốn được ở bên họ. Nhưng ngay khi họ có mặt với bạn vào thời điểm lâm chung, liệu họ có thể giúp bạn được gì không ? Dù cho họ yêu mến bạn rất nhiều và không muốn bạn lìa đời, họ cũng không thể ngăn điều này xảy ra. Có lẽ hầu hết họ cũng không biết phải nói gì hay làm gì để đem lại sự bình an cho bạn, mà thay vào đó, nổi buồn bã và lo lắng của họ về sự chia ly sắp tới sẽ ảnh hưởng đến bạn, khuấy động những cảm xúc tương tự trong tâm thức bạn.
Khi chết, chúng ta ra đi một mình, không có ai đi cùng, dù cho đó là người thân yêu nhất. Do không chấp nhận việc từ giả cõi đời và buông bỏ luyến ái với người thân yêu, nên dễ khiến cho tâm ta hoảng loạn, và vì vậy mà rất khó để có một cái chết thanh thản.
Nên nhận ra là bạn có sự luyến ái với gia đình và bạn bè của mình. Phải biết là nếu bạn luyến ái sâu đậm với mọi người, điều này sẽ gây nên trở ngại cho việc có được tâm thức an tịnh lúc lìa trần. Vì vậy tốt hơn hết hãy tu tập để giảm sự ái chấp và học cách buông xả.
8- Tài sản và những thứ mà bạn yêu thích cũng không thể giúp.
Lúc lâm chung, có thể tâm thức của bạn sẽ nghĩ về tài sản và những thứ mà bạn sở hữu, vì những thứ này đã chiếm phần lớn thời gian trong cuộc đời bạn, mà nó cũng là nguồn mang lại nhiều niềm vui và sự thỏa mãn. Nhưng liệu trong những số đó có thứ nào có thể đem lại cho bạn sự an nhiên lúc lâm chung không ?  Sự giàu có có thể giúp bạn có được một phòng riêng trong bệnh viện và được chăm sóc y tế tốt nhất, nhưng đó là tất cả những gì tài sản có thể làm được cho bạn. Nhưng nó không thể ngăn chặn cái chết ngừng xảy ra. Và khi chết bạn cũng không đem theo bất kể thứ gì, dù chỉ đồng xu hay một cái áo.
Không những tài sản không thể giúp được gì cho bạn vào thời khắc lâm chung, mà nó còn làm cho tâm thức của bạn bị cuốn vào những lo lắng về tài sản của  mình. Cho nên, điều đó sẽ làm cho chúng ta khó có được trạng thái tâm bình an khi đang hấp hối.
Hãy suy gẫm những điều này, và liệu xem bạn có thể hiểu được tầm quan trọng của việc thực tập ít phụ thuộc và dính mắc với vật chất hay không.
9- Cơ thể của bạn cũng không thể giúp.
Thân thể của bạn đồng hành với bạn từ khi sanh ra cho đến bây giờ. Bạn biết rõ nó hơn  bất cứ điều gì hay bất cứ ai khác. Bạn đã chăm sóc bảo vệ, lo lắng, giữ gìn cho thân thể thoải mái và khỏe mạnh, cho nó ăn và tắm rửa, trả nệm cho giấc ngủ, tìm tất cả các niềm vui dành cho nó, và nổi khổ cùng với nó. Đó là thứ quý giá nhất mà bạn đang sở hữu.
Nhưng bây giờ bạn sắp chết và điều đó có nghĩa là bạn sẽ bị tách ra khỏi thân thể, nó sẽ trở nên yếu dần và cuối cùng hoàn toàn vô dụng, nằm im bất động. Tâm thức bạn sẽ tách rời khỏi cơ thể và sẽ đưa đến nghĩa trang hoặc nhà xác. Vậy lúc này nó có thể giúp được gì cho bạn ?
Hãy quán tưởng tâm thức của bạn luôn bám chấp vào thân thể của bạn một cách mạnh mẽ, và điều đó sẽ không có chút lợi nào cho bạn khi cái chết đến. Sợ đau đớn và hối tiếc về việc rời bỏ thân này sẽ làm cho bạn đau khổ hơn thôi.
Bằng cách thiền quán về ba điểm cuối cùng này, chúng ta nhận ra tâm quan trọng của việc tu tập để giảm đi sự ái luyến đối với gia đình, bạn bè, tài sản, sự nghiệp và thân thể của ta. Chúng ta cũng nên nhận ra tầm quan trọng của việc chăm sóc cho tâm thức mình, vì đó là điều duy nhất sẽ tiếp tục cho đời sống kế tiếp. “ chăm sóc tâm” có nghĩa là làm giảm các trạng thái tiêu cực như giận dữ và chấp trước, và tu dưỡng những phẩm chất tích cực như đức tin, lòng từ bi, kiên nhẫn và trí tuệ.
Hơn nữa, dấu ấn của tất cả nghiệp mà ta tạo ra trong đời này cũng sẽ đi cùng với tâm thức của chúng ta, quyết định cảnh giới mà mình sẽ tái sanh và kinh nghiệm mình sẽ có. Điều cần thiết là chúng ta phải cố gắng hết sức để tránh tạo ra những nghiệp bất thiện, và tạo ra nghiệp thiện càng nhiều càng tốt trong cuộc sống của mình.
Có thể bạn sẽ cảm thấy sợ hay không thích thú khi tu tập theo phép thiền quán này (quán cái chết). Về mặt nào đó, nó cũng là điều tốt, vì cho thấy rằng bạn đã tiếp nhận những ý niệm này một cách nghiêm túc và đã suy ngẫm về chúng một cách sâu sắc. Lại nữa, điều quan trọng là bạn cảm nhận về cái chết như thế nào để bạn có thể tu tập, chuẩn bị khi nó xảy ra. Tuy nhiên, mục đích của thiền không phải làm cho bạn sợ. Sợ chết là điều vô ích. Điều hữu ích là sợ phải chết với tâm hoảng loạn và nhiều nghiệp bất thiện lưu dấu trong tâm mà bạn đã tạo ra trong suốt cuộc đời của mình. Bạn cần phải nhận thức được là thật khủng khiếp khi mình ra đi với tâm thức như vậy, để bạn sống một cách khôn ngoan, làm nhiều điều tốt, có lợi nhất có thể.
 Lại nữa, nỗi sợ hãi nảy sinh vì chấp vào ý tưởng thân thể này là vĩnh cửu. Thật ra không có thứ gì là thường hằng, vì vậy đây là một ảo tưởng chỉ khiến cho chúng ta đau khổ thêm mà thôi. Nếu chúng ta lưu giữ cái chết trong tâm một cách nhẹ nhàng, cởi mở, thì sự níu bám này sẽ dần dần giản ra, để cho ta có được chánh niệm và làm những việc thiện có ích cho mình và cho người . Hiểu biết về cái chết cho chúng ta năng lượng lớn để  không lãng phí cuộc sống của mình, để sống một cuộc đời hiệu quả nhất có thể được.
  (Trích : Chín phép thiền quán về cái chết : Ni Trưởng Sangye Khadro- Lệ Nghiêm: dịch)  VHPG số 304- 1-9-2018.)
{]{

HỌC PHẬT NHƯ THẾ NÀO CHO ĐÚNG

 Ngoài  thế gian người ta nói  “ rừng Nho biển Thánh” cái học ở thế gian cũng vô cùng tận, cái học của Đạo lại mênh mông. Trong đạo Phật có ba tạng kinh điển, tám vạn bốn ngàn pháp môn tu, làm sao hiểu hết và thực hành cho đúng là cả một vấn đề khó khăn cho người tu tập . Hiểu biết là một phần  nhưng quan trọng là phải thực hành cho đúng với tinh thần tu tập của đạo Phật là giác ngộ và giải thoát, ra khỏi tà kiến mê lầm là chuyện không phải dễ đối với người mới tu tập cũng như người tu lâu. Phật đã huyền ký đời mạt pháp thầy tà bạn ác đông như kiến cỏ, làm sao không bị mê hoặc bởi thầy tà bạc ác là điều không thể đối với người tu thời nay.
    Trong đạo có nhiều giảng sư thuyết giảng rất hay, có vị giảng không nên xem kinh đọc sách nhiều, xem kinh đọc sách nhiều sẽ loạn tâm, có vị lại giảng khuyến khích nên đọc tụng nhiều mới mở mang trí tuệ, mới phân biệt được chánh tà phải trái. Cái lý nào cũng đúng, nhưng  người tu học phải xem mình thích ứng với pháp nào nên tu hay nên vừa học vừa tu. Ví như các vị tuổi cao sức yếu mắt mờ tại điếc thì nên chuyên tu hơn là chuyên tụng đọc, còn những vị có trí nhớ, có mắt sáng tai nghe thì nên tu cả hai, vừa tu vừa học. Cái học rất có lợi cho mình và người khác, cái học nó bổ sung cho cái hành, cái hành nó làm sáng tỏ cho cái học. Tu là Sự học là Lý, Lý Sự đồng hành thì mau thành công và ít bị sai lệch.
  Trong đạo Phật có ba tạng kinh điển nghĩa lý rất sâu rộng, thế nhưng lại có người tu học lại cho rằng chỉ cần tụng đọc một bộ kinh là đủ rồi, hay chỉ cần niệm một danh hiệu Phật, hoặc chỉ trì một câu chú là đủ rồi, không cần tụng đọc các kinh khác. Vậy đức Phật khuyên chúng ta nên học rộng hiểu nhiều để làm gì. Cho nên chúng ta cần phải học thật nhiều kinh, đời nay chưa xong thời đời sau, đừng bao giờ cho rằng mình tu chỉ cần tụng một bộ kinh là đủ. Người mới tu học chưa đủ trình độ để chuyên tụng chuyên tu một bộ kinh đâu. Thế học ngoài đời người ta còn phải học nhiều môn, nhiều lớp khác nhau, nhiều thầy nhiều bạn mới học chuyên ngành. Tu học Phật pháp cũng thế, cần phải học nhiều môn nhiều pháp mới mở rộng tâm trí, tu tập mới mau tiến bộ. Nếu chỉ chọn đọc tụng một bộ kinh cho là đủ chúng ta rơi vào cực đoan, phải học nhiều trí tuệ mới khai mở, và sự hiểu biết mới phong phú. Ngoài tụng kinh đọc sách chúng ta cần phải nghe các vị giảng sư giảng, nhưng khi nghe ta phải suy xét đúng hay không, hợp hay không hợp với hoàn cảnh của mình. Nếu đúng thì tin, hợp thì áp dụng, còn không đúng không hợp ta có quyền không tin. Đừng bao giờ chúng ta gặp một vị thầy nào đó đáng kính đáng ưa, rồi tin theo người đó một cách tuyệt đối, đừng bao giờ thần thánh hóa  một vị nào đó, vì tất cả con người dù tu sĩ hay thế tục đều còn nằm trong địa vị phàm nhơn chứ chưa thật là thánh. Nhưng một ngày nào đó, vị thầy ấy phá trai phạm giới hoặc thôi tu, thì chúng ta mất cả lòng tin và định hướng. Ví như con tàu ra khơi bị gãy bánh lái mênh mông trên biển không quay vào bờ được.
  Người tu học không có sự hiểu biết bèn chạy theo ai đó, rồi không phân biệt phải trái, vậy nên cần phải có chánh kiến, muốn có chánh kiến cần phải nghiên cứu kinh điển. Học nhiều hiểu rộng chúng ta mới thấu hiểu những lời thâm sâu Phật dạy trong kinh điển, mới biết đâu đúng sai chánh tà. Còn không dễ bị lừa gạt, dễ bị dụ dỗ bằng những chiêu bài “ không cần đọc tụng chỉ  cần lễ lạy là có phước rồi” v.v.. tu ích mà hưởng nhiều. Đức Phật còn phải tu qua vô lượng kiếp mới thành, huống nữa phàm phu chúng ta, sự tu phải trãi qua các giai đoạn, Văn, Tư, Tu  trong thời gian dài mới thành, chứ không phải một sớm một chiều mà thành được.
   Khi đã hiểu  được pháp Phật thì chúng ta phải áp dụng lời dạy của  Phật vào trong cuộc sống của mình, phần đông người ta tu trên cửa miệng thì nhiều, còn tu thay tâm đổi tánh thì ít. Nhiều người siêng đi chùa, siêng tụng kinh bái sám, niệm Phật rất giỏi, thế nhưng thực hành thì không được bao nhiêu, vì thế có một số người, trước chưa biết Phật pháp thì cuộc sống gia đình rất hạnh phúc, nhưng sau khi đi chùa, hiểu biết chút ít Phật pháp rồi,  cuộc sống gia đình không còn hạnh phúc như xưa nữa, gia đình trở nên xào xáo, cuối cùng gia đình ly tán. Điều này do hiểu sai, tu sai. Người học Phật tại gia phải có trách nhiệm với gia đình, vợ, chồng, con cái  gia đình, sự nghiệp v.v  Không phải chỉ lo tu mà không cần quan tâm đến ai, cũng không cần làm việc gì. Tu như vậy chúng ta sẽ đánh mất hạnh phúc của chính mình và gia đình mình và mọi người chung quanh.  Nếu là người tu tại gia thì phải tròn trách nhiệm mà mình đang gánh vác, có người bỏ hết công việc gia đình để chuyên tu, cho rằng tu như thế mới đúng, là tinh tấn, thật ra tu như thế chưa đúng, tu thế nào đừng rơi vào những trạng thái cực đoan, đừng quá căng và quá dùn, đi con đường trung đạo. Bất luận người tu niệm Phật, tu thiền hay tu mật hay tụng kinh như thế nào, chỉ cần thấy gương mặt luôn có sự hoan hỷ, làm nhiều việc tốt, được mọi người kính trọng, có trách nhiệm với gia đình và xã hội, thì biết rằng người đó tu đúng, còn anh niệm Phật, ngồi thiền nhiều, tụng kinh nhiều mà tánh khí khó chịu, gương mặt không vui, không chút hiền hòa, phúc hậu, càng tu càng làm cho người khác phiền não, kinh sợ thì biết người đó tu sai rồi.
  Vậy người tu làm thế nào để cho gia đình mỗi ngày một an vui hạnh phúc, làm sao cho gia đình, con cái, thân quyến  biết ăn chay, niệm Phật, đi chùa tìm hiểu Phật pháp như mình, và nhất là làm sao bản thân mình càng ngày càng trở nên vui vẻ hiền hòa, dễ chịu được mọi người quý mến, gần gũi. Tu như thế nào để cuộc sống  của mình càng  ngày càng đầy đủ, ấm no, mọi người thấy như vậy mới thích tu, thích đi chùa, mới có cảm tình với Phật pháp .
 Có người càng tu lâu càng cố chấp, cứ nghĩ mình tu là đúng, còn người khác tu sai, ai làm việc gì cũng khó chịu, nhăn nhó, bực tức, người khác gặp thấy lo sợ, không dám đến gần tiếp chuyện, Tu rốt rồi trở thành người khó tính khó gần. trong khi Phật dạy, tu thì phải ba nghiệp cho thanh tịnh, tâm hồn luôn luôn hoan hỷ, từ bi, tu làm sao trở thành người dễ mến, dễ gần và hạt giống từ bi hỷ xả của mình mỗi ngày càng tăng trưởng, thực hành như thế mới đúng lời Phật dạy ./.
{]{

TU THẾ NÀO CHO ĐÚNG

Ăn chay niệm phật chưa phải là tu,
Đi chùa vái lạy cũng chỉ tu mù
Tụng kinh trì giới sanh trí tuệ
Quán tâm sửa tánh thật chân tu
Tu thì phải sửa đổi mới là tu
Sửa tánh tham thành bố thí
Sửa tánh ganh tỵ thành hoan hỷ
Sửa tánh ích kỷ thành vị tha
Sửa tánh vô tâm thành hòa nhã
Sửa tánh cố chấp thành buông xả
Sửa tánh khinh khi thành kính mến
Sửa tánh cao ngạo thành khiêm cung
Sửa tánh hẹp hòi thành bao dung
Sửa tánh bi quan thành tích cực,
Sửa tánh lười biếng thành siêng năng
Sửa tánh hơn thua thành nhẫn nhịn
Sửa tánh si mê thành trí tuệ
Sửa hết được như thế mới gọi là tu ./
                                             {]{

TU LÀ CHUYỂN NGHIỆP

Nói đến Đạo là người ta nghĩ đến việc Tu, Tu nói cho trọn là Tu sửa, sửa xấu thành tốt, sửa dỡ thành hay đồng nghĩa với bỏ ác làm lành. Tại sao ta phải tu, tu có lợi ích gì. Tu có nghĩa là sửa đổi, tu bao gồm trong ba trường hợp : tu thân, tu tâm và tu hoàn cảnh. Tu sửa thân là làm cho thân khỏe mạnh cường tráng, không bịnh tật, sạch sẻ thanh thoát; Tu sửa Tâm là làm cho tâm  sáng suốt minh mẫn, không tham lam tật đố ganh ghét,tỵ hiềm, giận hờn, ích kỷ, không phiền não đau buồn,lo âu v.v.. Tu hoàn cảnh là làm cho môi trường mình đang ở sạch sẻ khang trang, thoáng mát . Như nhà cửa, đường sá,sân vườn v.v
  Như vậy, nói tu là cách làm cho một con người từ xấu trở nên tốt cả thân lẫn tâm và hoàn cảnh tốt đẹp khang trang. Ngược lại là người xấu, người xấu là người có thói hư tật xấu; như tham lam, sân giận, si mê, bỏn sẻn, ích kỷ, gạnh tỵ bất trung, bất hiếu v.v..
   Sân giận ai cũng có ít nhiều khác nhau tùy theo tuổi tác và địa vị mà thể hiện sự nóng giận. Đứa bé thể hiện sự giận dữ bèn khóc la, người giám đốc thể hiện giận dữ khác so với người làm công nhân, tất cả ai cũng có nóng giận. Nhưng tất cả sự sân giận là gốc rễ của phiền não bắt nguồn từ tam độc tham,sân, si. Nên người tu cần phải thấy được những tập khí xấu này để cố gắng sửa đổi,  có thấy được mới biết sửa đổi, nếu không thấy được nó sẽ âm thầm chi phối ta suốt đời. Như một vị tướng ra trận phải biết giặc ở đâu mới đánh được, bằng không sẽ bị giặc bao vây khống chế. Người tu là phải thấy được cái tật xấu của mình để sửa đổi, thế mới gọi là tu. Niệm Phật, lạy Phật tụng kinh thì dễ, chứ điều phục được phiền não tham, sân, si thì rất khó; đòi hỏi chúng ta phải nhận diện được tam độc, tham sân si và phải trải qua quá trình nổ lực lâu dài để chuyển hóa. Phải thường xuyên nhìn lại ba nghiệp thân, khẩu, ý của mình, và tu sửa dần dần đến tiến bộ, hoàn thiện bản thân để trở thành một người tốt hoàn toàn.
 Có ba loại giận, loại giận khó xóa khó trừ, loại giận dễ xóa dễ trừ, loại giận không cần phải xóa trừ. Loại giận thứ nhất như chữ khắc trên đá khó xóa khó trừ. Loại giận thứ hai dễ xóa dễ trừ như chữ viết trên đất. Loại giận thứ ba không cần xóa trừ như chữ viết trên nước.  Dù là Phật tử hay không Phật tử, có duyên biết đến chùa, biết đến Phật pháp, tiếp cận được giáo pháp, hiểu được lời Phật dạy, giúp chúng ta mở mang được sự hiểu biết, tăng trưởng trí tuệ, từ đó có được cuộc sống an lạc hạnh phúc ở hiện tại và tương lai.
    Muốn giảm trừ sự sân giận ta cần phải tập Nhẫn nhịn. HT Giác Nhiên có bài thơ khuyên Nhẫn như sau :
  Nhẫn là điều, dầu có họ nói không
  Không nói có, mặc tình ai thêu dệt
  Con quyết tu, thì chi chi nhịn hết
  Nhịn, nhịn hoài, nhịn nhịn mãi con ơi !
  Chẳng phải là nhìn có ba lần thôi
  Mà nhịn mãi đến khi thành Chánh giác
  Con nhịn được dầu thân con có thác
  Thác thân con mà tâm thức nhẹ nhàng
  Cõi Tây phương con chắc chắn bước sang
  Bằng con đọa Thầy nguyện ra chịu thế.
    Biết rằng, tham,sân, si là xấu nhưng để chuyển hóa được nó thì không đơn giản, đòi hỏi phải có một quá trình lâu dài công phu tu tập. Những người chấp vào việc đi chùa lâu năm cho là tu, từ đó làm tăng trưởng bản ngã. Bản ngã càng lớn thì phiền não càng nhiều. Hồi mới đi chùa thì bản ngã còn nhỏ, đi chùa lâu, có công có việc, có chức vụ trong chùa, thì bản ngã lại lớn dần, phiền não cũng từ đó mà tăng lên. Chỉ cần có một người đụng đến mình là phiền não nổi lên ngay. Rốt cuộc không biết đến chùa là để tu cái chi. Mục đích ban đầu đến chùa là tu để gột rửa bớt tham, sân, si, nhưng tu riết rồi tham, sân, si  lại càng tăng trưởng. Cho nên có nhiều người đi chùa càng lâu càng trở nên khó tính, khó ưa, bởi vì cái ngã, cái Ta của họ quá lớn.
  Nhiều người đi chùa hay vướng vào khẩu nghiệp, cứ nghĩ đến chùa là để tụng kinh, niệm Phật, nhưng đến rồi lại bắt đầu bàn luận lung tung, huyên thuyên đủ thứ chuyện, rồi trở thành “Bà Tám” lúc nào không hay. Đi chùa nói về những điều tốt, nói về tu học Phật pháp lại không nói, nói toàn những chuyện thị phi, nói người này xấu, người kia tốt, rồi gây chia rẽ hiềm khích với nhau, rốt cuộc tạo thêm khẩu nghiệp.  Lời nói có sức mạnh rất lớn, nhiều khi chỉ một lời nói mà làm người ta buồn khổ phiền não mất ăn mất ngủ, có khi đưa đến cái chết. Cho nên Phật dạy chúng ta không nên nói dối, không nói lời thô lô độc ác cộc cằn, không nói lời phù phiếm. Mà phải nói lời chân thật, hiền hòa êm dịu. Nói lời lợi ích đem lại sự an vui lợi lạc cho người khác.  Có bốn cách nói : Lời nói như mật, lời nói như hoa, lời nói như nước, và lời nói như phân. Lời nói như mật là lời nói ra ai nghe cũng thấy an lạc vui mừng, cảm thấy như được nếm mật. Nói như hoa là lời nói ra người nghe như đang ngửi mùi hương dễ chịu. Nói như nước là lời nói người nghe xóa tan nghi ngờ, hận thù, buồn giận. Lời nói như phân là nói ra người nghe buồn bực tức giận, lo âu đau khổ. Người tu học theo Phật pháp nên tạp nói theo như mật, như hoa và như nước tránh nói như phân.
   Câu ca dao rằng :
  Lời nói không mất tiền mua
  Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
  Ngoài ra phải tập nói ái ngữ, nghĩa là phải nói những lời yêu thương, nhẹ nhàng hòa nhã, lễ phép. Như vậy sẽ được nhiều người yêu thương cảm mến. Có thể mình tụng kinh nhiều, niệm Phật nhiều rất giỏi, nhưng để nói được một lời yêu thương hòa hợp lại thì rất khó, đôi khi nói không được. Ta phải suy gẩm lại khẩu nghiệp của mình chưa thanh tịnh, nên khi nói những lời chân chính, ái ngữ là ta khó nói, nói không được. Cho nên phải cố gắng tập nói những lời hòa nhã êm dịu ôn hòa, khiến người nghe nhớ mãi không quên.
  Tất cả lời nói, hành động của ta đều bắt đầu từ ý, ý nghĩ tốt sẽ  biểu hiện thành lời nói và hành động tốt, còn ý nghĩ xấu  thì biểu hiện lời nói và hành động cũng xấu theo.  Để có được ý nghĩ tốt, nhận biết đúng sai, thì chúng ta phải học Phật pháp. Nhờ giáo pháp của Phật, nhờ ánh sáng chân lý nên mình mới nhận ra ý nghĩ,lời nói việc làm của mình là sai. Nếu chúng ta không thấy được lỗi của mình, không biết điều mình làm đúng hay sai, thì không thể sửa đổi được, cho nên cần phải học phật pháp mới sửa đổi được.
  Như vậy muốn trở thành người tốt, thì đều phải tu tập, học hỏi Phật pháp. Tu là sửa đổi ba nghiệp thân, khẩu, ý của mình từ xấu qua tốt, biết được tập khí tham sân si trong mình còn nhiều hay ít, mỗi ngày bớt hay tăng. Nếu bớt thì mình tu có tiến bộ, còn tăng thì mình tu sai rồi ./.
  Trích từ : Sửa đổi ba nghiệp : TT Thích Chơn Tính
{]{

GIẬN

Giận làm cho trí bất minh
Giận làm cho họ khinh mình mà thôi
Giận làm cho ta nói những lời không hay
Giận làm cho kẻ địch vỗ tay
Giận làm cho cuộc sống ngày càng ngắn đi
Giận làm cho phu phụ chia ly
Giận làm cho ta chuốc sầu bi vào lòng
Giận làm cho sự nghiệp long đong
Giận làm cho ta vướng vào vòng bê tha
Giận làm cho xấu hỗ mẹ cha
Giận làm cho ta dính Ta-bà nhiều hơn
Giận làm cho mất nghĩa anh em
Giậm làm cho suy nghĩ đớn hèn tối tăm
Giận làm cho hành xử hung hăng
Giận làm cho đối thủ nhăn răng chê cười
Giận cuối cùng chẳng có được chi
Chỉ mang thêm nghiệp suốt đời mà thôi../.
{]{

CHẾT VUI

Sống thì ăn cháo, ăn rau
Chết con mấy đứa đua nhau cúng gà
Sống thì nhà chẳng ra nhà
Chết con xây mả, xây mồ cao to
Sống thì bữa đói bữa no
Chết con nó gửi xuống cho đủ đầy
Bây giờ mình sướng hơn Tây
Biết vậy mình xuống đây lâu rồi
 Ngày xưa mình sống trên đời
Con cháu nhăn nhó nói lời đắng cay
Mình chết chúng đã đổi thay
Nghiêm trang cung kính chắp tay đàng hoàng
Năm nào cũng gởi tiền vàng
Mình tiêu không hết phải mang cho người
Bây giờ mình quá vui tươi
Sống lặng lẽ khóc, chết cười nhăn răng ./.
{]{        
 Tín ngưỡng thiên chúa giáo :
Ai tin Ta thì sẽ gặp Ta, ai tìm hiểu Ta thì không gặp Ta
 Tín ngưỡng Phật giáo :
Ai nghi ngờ ta thì sẽ gặp Ta,
Ai tin Ta mà không hiểu Ta là hủy báng  Ta
                             {]{

SỰ TÁC ĐỘNG CỦA LỜI NÓI

Một lời nói bất cẩn, có thể
Nhóm lên sự xung đột,
Một lời nói cộc cằn tàn nhẫn, có thể
Phá hỏng cả một cuộc đời người khác
Một lời nói đúng lúc, có thể
Xua tan hết căng thẳng khổ đau của người
Nhưng một lời nói yêu thương, có thể
Chữa lành những vết thương lòng và đưa người hạnh phúc.
                                                          {]{

Làm người đừng nên lợi dụng, sự thông minh và quyền lực của mình, để dối gạt mọi người khác.  Cái mà ta được chỉ là vật chất, còn cái mà ta mất đi là Nhân Cách của một con người.
{]{
Cái thân làm tội cuộc đời
Cái miệng nói lắm thành lời hại thân
Bao nhiêu cái họa đường trần
Đều từ cái miệng mới cần phải tu
{]{

GANH GHÉT VÀ THÙ HẬN

Ở đời ganh ghét chẳng được chi
Thù hận hại nhau chẳng được gì
Xã hội bao la người mỗi tánh
Rộng lượng bao dung bớt sầu bi
Những người hiểu biết gạt sân si
Kẻ kém nhận thức hay so bì
Học nhiều, học ít, không quan trọng
Hơn nhau, đạo đức, mặt lễ nghi
Giỏi thì làm tướng, dốt làm ku ly
Đèn ai nấy sáng, chớ khinh khi
Hơn thua, đức độ, tâm hiếu, nghĩa
Giàu, giỏi, hẹp tâm, cũng vứt đi ./.

TÂM AN-TRÍ TỊNH THÌ MỌI VIỆC THÀNH CÔNG
                {]{

NHỊN VÀ NHỊN

          Nhịn  để đối phó người hay ghét mình
          Nhịn  để tâm trí anh minh
Nhịn  để tình nghĩa mãi còn vẹn nguyên
Nhịn  để nghe một lời khuyên
Nhịn  để quan sát người ta làm càn
Nhịn  để kiên nhẫn bền gan
Nhịn  để mình được bình an trong đời
Nhịn  để nắm bắt thiên thời
Nhịn  để thấu hiểu miệng đời thế gian
Nhịn  để thoát khỏi gian nan
Nhịn  để cảnh giác kẻ gian hai lòng
Nhịn  để thấy rõ đục trong
Nhịn  để suy nghĩ sẽ không làm liều
Nhịn  để qua cơn bão chiều
Nhịn  để giảm bớt những điều xấu xa
Nhịn  để phòng kẻ hại ta
Nhịn  để tỉnh thức cho qua hận thù
Nhịn  để giác ngộ đường tu
Nhịn  để ta được giác ngộ Chân Như rạng ngời ./.                      
                {]{

          KHÁC ĐƯỜNG CHUNG LỐI

Ô kìa ! ta lại gặp nhau
Bọn mình kẻ trước người sau chung đường
Có chăng là khác môi trường (chiến trường)
Nhưng chung quy lại cũng một đường như nhau.                 
          {]{
Đời người có bao nhiêu toan tính
Thì có bấy nhiêu đau khổ
Có bao nhiêu khoan dung
Thì có bấy nhiêu niềm vui
              {]{
  Cuộc đời là một dòng sông
  Kẻ nào không chịu học bơi
  Thì sẽ bị nhấn chìm thế thôi          
        {]{

          SỐNG TRÊN ĐỜI HÃY NHỚ

    Hoa đẹp hoa tươi hoa lại héo
    Tình đẹp, tình sâu tình vẫn tàn
    Rượu đắng rượu cay rượu vẫn hết
    Người hứa người thề người vẫn quên
    Trăng lên trăng tròn trăng lại khuyết
    Tuyết rơi tuyết phủ tuyết lại tan
    Hoa nở hoa rơi hoa lại tàn
    Tình đẹp tình sầu tình ly tan
    Người xấu người đẹp rồi cũng chết
    Thiên tài địa vị rồi cũng sẽ tan
    Cao sang danh vọng cũng sẽ tàn
    Phấn son nhan sắc đâu còn mãi
    Chỉ có chân thành tồn tại với thời gian ./.                          
{]{

TỰ LỰC

Con Ngài tự nó thoát ra ngoài cái kén để trở thành con bướm, Thì con bướm ấy mạnh mẻ tung bay. Nhưng cái kén được người khác Mở dùm cái kén để con Ngài ra khỏi thì con Ngài ấy thành con bướm sau này yếu ớt không thể bay cao bay xa.  Cũng vậy cái trứng ấp con gà con tự nó mỗ bể võ trứng nó ra thì con gà con ấy mạnh khỏe, nhưng con người phá võ trứng cho con gà con thoát ra con gà yếu ớt sau này.  Cũng vậy, con người muốn thành công, trở thành người trưởng thành phải tự đứng lên bằng hai đôi chân của mình chứ đừng dựa dẫm vào người khác, để đến lúc khó khăn đến bằng buông tay xuôi theo dòng nước lũ./.
{]{

BẤT HIẾU BỞI VÌ ĐÂU

 Một thời Thế Tôn trú tại vườn ông Cấp Cô Độc tinh xá Kỳ Viên nước Xá Vệ. Bấy giờ vào buổi sáng mai, Thế Tôn đắp y mang bát vào thành Xá Vệ khất thực, có một Bà la môn tuổi già sức yếu, chống gậy cầm bát đi khất thực từng nhà. Bầy giờ Đức Thế Tôn bảo Bà la môn :
 - Này ông, tuổi già sức yếu rồi, sao lại còn phải chống gậy cầm bát đi khất thực từng nhà?
- Bà la môn bạch Phật:  Bạch Cù Đàm,  bao nhiêu tài vật có được ở trong nhà tôi, tất cả đều giao cho con trai, cưới vợ cho con trai. Nhưng sau đó chúng đuổi tôi ra khỏi nhà, nên tôi phải chống gậy cầm bát đi khất thực từng nhà.
Phật bảo Bà la môn, này ông có thể học thuộc một bài kệ của ta, rồi trở về nhà ở giữa mọi người Bà la môn đọc cho con trai ông nghe được không ?
Bà la môn bạch Phật, bạch Cù Đàm có thể được.
Bây giờ Đức Phật liền nói kệ rằng :
Sanh con lòng vui mừng
Vì con mà tích chứa của,
Rồi cưới vợ cho con
Nhưng mình phải bỏ nhà đi
Đứa con quê mùa kia
Nghịch phụ ân cha mẹ
Thân người tâm la sát
Xua đuổi bậc già cả
Như ngựa già vô dụng
Bị cướp mất thóc lúa
Con trẻ mà cha già
Phải xin ăn từng nhà
Gậy cong này hơn hết
Ân ác hơn con đẻ
Vì ta ngừa trâu dữ
Tránh đất hiểm được an,
Xua đuổi loài chó dữ
Giúp ta qua chổ tối
Tránh hầm sâu hố thẳm
Cây cỏ và gai góc
Nhờ sức oai cây gậy
Đứng vững không té ngả
   Sau khi nhận bài kệ của Đức Thế Tôn, người Bà la môn trở về, giữa đám đông Bà la môn, đọc lại cho con trai nghe. Trước hết ông cáo bạch mọi người: “ Hãy nghe tôi nói”, sau đó ông đọc bài kệ như trên. Người con trai vừa xấu hỗ vừa sợ hãi, liền ôm choàng người cha của mình đưa vào nhà, tắm rửa lau mình, mặc quần áo sạch sẻ và lập làm gia chủ.
     Bà la môn tự nghỉ “ Ta có được dòng họ tôn quý như ngày hôm nay, là nhờ ân đức của Sa môn Cù Đàm”.   Bạch Cù Đàm, ngày nay gia cư con được thành tựu là nhờ vào oai lực của Đức Cù Đàm. Bạch Đức Cù Đàm Thế Tôn, con xin quy y làm đệ tử Thế Tôn ./.
{]{

NUÔI CON

Cuộc đời vất vả nuôi con
Cầu mong con lớn nhờ con về già
Vậy mà khi tuổi xế tà
Sức lực cạn kiệt thân già ốm đau
Con cái thì lại ganh nhau
Chăm được ba bữa càu nhàu rên la.              
                                                {]{

NHỚ ƠN MẸ

Cảm ơn Mẹ ! đã một đời vất vả
Ẳm bồng con từ thuở mới còn thơ,
Dìu dắt con trên những chặng đường đời
Bao khó nhọc, nụ cười luôn vẫn nở
Cảm ơn Mẹ, cho con từng nhịp thở
Từ lời ru, tình yêu ấy là vô bờ
Dù cuộc đời có những lúc chơi vơi
Mẹ luôn đến bên con hàng như thế
Nhớ đến mẹ lòng con thầm rơi lệ
Ơn cù lao muôn một trả chưa xong
Nợ mẹ cha con tạc dạ ghi lòng
Nguyện đáp trả ơn sinh thành biển rộng
                {]{

NỢ MẸ

    Con nợ mẹ suốt đời không trả hết
    Nghĩa tình kia cao vợi tựa núi sông
    Chữ hiếu ân canh cánh mãi bên lòng
    Con đã cố nhưng cũng đành dang dỡ.
                                                {]{

HOA SEN TÁM CÁNH

Trong ý nghĩa biểu tượng của hoa sen 8 cánh, người ta quy ước rằng : 5 cánh trên tượng trưng cho 5 hạnh : Tinh tấn, Hỷ xả, Thanh tịnh, Trí tuệ và Từ bi. Ba cánh dưới, tượng trưng cho Tam Bảo, Phật, Pháp, Tăng.
-         Tinh tấn là hạnh của Đức Phật Thích Ca
-         Hỷ xả là hạnh của Phật Di Lặc
-         Thanh tịnh là hạnh của Phật Di Đà
-         Trí tuệ là hạnh của Bồ Tát Văn Thù
-         Từ bi là hạnh của Bồ tát Quan Thế Âm.
Hạnh hỷ xả chính là yếu tố cơ bản giúp cho chúng ta thăng tiến trên con đường hoàn thiện nhân cách và đạo đức của mình.. Hỷ xả là chất liệu quý báu để cho mọi người có thể bảo bọc thương yêu nhau cùng nhau hòa giải những oán kết, hận thù gây đau khổ triền miên, mang lại an lạc hạnh phúc cho mọi người. Nếu trên đường tu tập, chúng ta không có tâm hỷ xả thì khó tháo gỡ những vướng  mắc cố chấp dẫn đến kiến thủ và giới cấm thủ. Đây là trở ngại lớn nhất đối với thánh đạo giải thoát. Bản chất trong tâm thức của mọi loài chúng sanh là chấp thủ. Do vậy, khổ đau là điều không tránh khỏi, chỉ khi nào trong chúng ta luôn có sự hiện hữu của tâm hỷ xả, biết buông bỏ những cố chấp hẹp hòi, vị kỷ, xóa bớt những hận thù oan trái thì lúc ấy chúng ta mới cảm nhận được niềm an lạc hạnh phúc thật sự. Bằng không cứ chấp chặt thì chúng ta không bao giờ có  được hạnh phúc.
Hẳn nhiên, hỷ xả ở đây không đơn thuần chỉ có một chiều. Mà hỷ xả phải đi đôi với trí tuệ. Thực vậy,  nếu tâm thức mù mờ, không hiểu biết một cái gì cả thì khó tu tập xả tâm. Nói xả thì xả cái gì? Chúng ta  phải biết đời là vô thường, là khổ là không, cho nên chẳng có gì mà phải chấp chặt cái này là “Tôi” là “ của tôi”. Khi nhận thức tường tận được như vậy, ta mới thật sự xả bỏ mọi chuyện một cách triệt để. Cho nên thành tựu được xả tâm là thành tựu được cả Tứ vô lượng tâm, lục Ba la mật.
Muốn xả bỏ thì phải có chánh tri kiến, thấy rõ được các pháp vô thường vô ngã, trên tinh thần lấy từ bi xóa bỏ hận thù, lấy hỷ xả thắng xan tham, lấy trí tuệ thắng si mê, lấy buông bỏ thắng cố chấp, lấy giác ngộ thắng giải thoát khổ đau sanh tử luân hồi.
Ngài Di Lặc tu tâm này từ vô lượng kiếp đã thành tựu viên mãn, nên danh hiệu của Ngài là Từ Thị Di Lặc ./.               
{]{

PHẬT GIÁO TRONG DÒNG CHẢY DÂN TỘC

Từ khi du nhập vào nước ta Phật giáo đã đóng vai trò quan trọng góp phần không nhỏ vào lịch sử dựng nước giữ nước và phát triển đất nước. Trong lịch sử có những vị đóng góp to lớn của Phật giáo vào các công cuộc giữ nước dựng nước qua các thời đại từ xưa đến nay như các nhân vật như sau:
   Vào năm 40-43 sau tây lịch, hai chị em Trưng Trắc Trưng Nhị đứng lên lãnh đạo nhân dân chống lại sự đô hộ của ngoại bang. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, một cuộc khởi nghĩa do hai nữ tướng lãnh đạo đánh đuổi được quân Đông Hán xâm lược và đô hộ ra khỏi đất Giao Chỉ. Trong số 8 vị tướng dưới tướng của hai Bà Trưng có 5 vị là Ni sư. Ni sư Phương Dung một trong 5 vị nữ tướng của Hai Bà ngày nay  được thờ ở chùa Yên Phú, Thanh Trì Hà Nội.
Triều đại nhà Minh (968-980) vua Đinh Tiên Hoàng (924- 979), sau khi thống nhất giang sơn lập nên triều đại nhà Đinh. Đặt tên nước là Đại Cồ Việt, là vị vua đầu tiên của nước Việt Nam. Sau thời Bắc thuộc khi lên ngôi Đinh Tiên Hoàng mời thiền sư  Vô Ngôn Thông là Ngô Chân Lưu (933- 1011) là vị sư đạo cao đức trọng trong Phật giáo bấy giờ ra giúp vua, giúp nước tôn là Khuông Việt Đại sư, Ngô Chân Lưu là vị sư được phong Tăng Thống đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam vào năm 971, đây là sự khẳng định vai trò quan trọng của Phật giáo trong đời sống xã hội lúc bấy giờ, vua đề cao Phật giáo nhằm xây dựng nền đạo đức, mở mang trí tuệ, đoàn kết nhân tâm, sáng suốt trong chính trị, uyển chuyển trong ngoại giao.
  Khi nhà tiền Lê thay thế nhà Đinh (980-1009) vua Lê Đại Hành  (941-1005) sứ thần nhà Tống sang, vua nhờ hai nhà sư Khuông Việt và Pháp Thuận đứng ra tiếp sứ nhà Tống là Lý Giác. Trước khi đoàn sứ bộ ra về, vua Lê Đại Hành đã nhờ sư Khuông việt viết bài thơ “Ngọc lan quy” tặng để tiễn đưa sứ thần và đoàn sứ bộ. Điều này cho ta thấy văn chương đã khéo vận dụng để đưa vào phục vụ sự nghiệp chính trị ngoại giao của đất nước.
 Triều đại nhà Lý (101-1225) Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn 974-1028) là vị vua sáng lập triều Lý, sau khi lên ngôi, đã chuyển kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Thăng Long (Hà Nội). Trong những năm đầu ra Thăng Long, vua không cho xây lăng miếu mà sắc cho dân tu sửa và xây dựng mới nhiều ngôi chùa để thờ Phật, có người hỏi tại sao vua không cho xây tông miếu ?
  Vua trả lời : “ Nước nhỏ dân còn nghèo, ngoài thì giặc phương Bắc luôn dòm ngó, trong thì nội trị chưa yên, nếu xây tông miếu chỉ làm khổ cho dân và chắc gì xây xong  đã giữ được. Dựng chùa thờ Phật để dân biết Phật pháp  khởi tâm từ bi, nâng cao trí giác ngộ Phật giáo, mọi người càng tin nhân quả, đua nhau làm việc tốt, tránh việc xấu, khi dân đã giàu nước đã mạnh lo gì tông miếu không được xây.
 Đúng như lời của Lý Thái Tổ, dưới triều đại nhà Lý Phật giáo rực rỡ cùng với sự phát triển mọi mặt về đời sống xã hội. Hiền tài được trưng dụng, đất nước thanh bình, bờ cõi được yên, trong ngoài, trên dưới đoàn kết thuận hòa, nhà nhà no đủ, khắp nơi rộn tiếng hát ca, công đức của Triều Lý muôn đời sáng mãi, trải hơn ngàn năm. Thành Thăng Long ngày xưa nay là Hà Nội mở rộng gấp nhiều hơn xưa.
 Triều đại nhà Trần (1225-1400) tiếp nối dòng chảy, Phật giáo thời Trần  còn phát triển hơn các thời đại trước. Trong triều đại từ vua đến quan đều biết Phật pháp. Vị vua thứ ba của triều Trần, là Trần Nhân Tông (1279-1293) 20 tuổi làm vua, 2 lần đánh thắng quân Nguyên Mông. Năm 35 tuổi nhường ngôi cho con lên làm Thái thượng hoàng, năm 41 tuổi xuất gia tu học, hiệu Trúc Lâm Đầu Đà lập dòng thiền phái Trúc Lâm.
  Ngài đến tận Chiêm Thành để ngoại giao thực hiện mối đoàn kết với nước láng giềng, cùng nhau chống giặc phương Bắc, với công hạnh ấy, Ngài được nhân dân tôn vinh là Phật hoàng. Từ chuyến công du ngoại giao này, phong thái và đức độ đã cảm phục được vị vua Chiêm Thành là Chế Mân, xin làm con rể của Ngài, gả công chùa Huyền Trân làm vợ,  Chế Mân dâng hai Châu Ô và Châu Lý làm sính lễ. Đất nước Việt Nam không đánh không tranh mà thêm hai châu, nay là vùng đất Thừa Thiên Huế,
  Triều Hậu Lê (1427- 1789) thời vua Lê Hy Tông (1662-1716) vị vua thứ 21 nhà Hậu Lê và là vị vua thứ 10 thời Lê Trung Hưng, ông được đánh giá là vị vua anh minh, dưới triều vua đất nước ổn định thái bình. Vua Hy Tông để lại một câu chuyện về một bậc minh quân và đúc tượng vua cõng Phật ở chùa Hòe Nhai (Hồng Phúc Hà Nội), vào thời vua Lê Trung Hưng, Phật giáo trong nước có biểu hiện suy vi, không còn đứng vững ở vị trí độc tôn, lúc này Nho giáo phát triển, nên nhiều người xem nhẹ Phật giáo. Đến thời vua Lê Hy Tông có quan dâng sớ tâu vua về những sai phạm, phá giới của một số tăng sĩ. Nghe lời tâu, vua đã ra sắc chỉ đuổi hết các sư về vùng thôn quê, hoặc lên rừng núi, ai không đi sẽ nghiêm trị. Từ đó các ngôi chùa trong kinh thành vắng sư đã tạo cơ hội cho tín ngưỡng mê tín vào chùa. Trước cảnh Tăng chúng phải chịu sắc chỉ rời chùa về nơi thôn dã, Hòa Thượng Tông Diễn, một vị sư có đạo hạnh và trí tuệ lúc bấy giờ đã tìm cách làm cho vua hồi tỉnh. Biết không thể mang danh nhà sư để gặp được vua. Hòa thượng Tông Diễn phải nhờ một vị quan tâu với vua : “ có một người được ngọc quý muốn dâng vua, tuy nhiên để ngọc quý linh nghiệm vua phải trai giới và cho một vị quan văn uy tín mở hộp đựng ngọc. Đúng hẹn, người mang ngọc đến dâng vua, nhưng khi mở hộp ra không thấy ngọc mà chỉ có tờ biểu. Vua truyền trị tội kẻ xấc xược, song vị quan mở hộp tâu, xin vua xem biểu tấu gì rồi trị tội cũng chưa muộn. Vua đồng ý, quan đưa tờ biểu lên đọc : “ Phật giáo tuy không phải ngọc, nhưng từ xưa đã được nghe, Phật giáo lấy trí đức làm đầu không gì sánh bằng, nên có câu, trí cao trời người trọng, đức lớn quỷ thần kinh. Nước ta, từ đời Lý, Trần các vua hết sức coi trọng Phật giáo, vì thế mà người theo đạo phật dốc lòng phò vua giúp nước, nên quốc gia hưng thịnh. Đạo Phật với lối sống lục hòa, chính tín và nhân quả, khiến người người biết thương yêu, kính trọng nhau,  bỏ điều xấu làm việc tốt, xem ra đạo Phật nếu biết dùng thì có lợi cho quốc gia còn hơn cả ngọc quý. Vậy tại sao nay đạo Phật lại bị cho rằng không mang lại lợi ích gì cho xã tắc”Nghe xong biểu tấu vua Hy Tông  chuyển ý, ngộ ra sự vi diệu của Phật pháp, vua cho mời Hòa thượng Tông Diễn vào và tuyên bố hủy sắc chỉ củ. Lại cho chọn những nhà sư đủ trí tuệ và nghiêm giữ giới luật được vào trụ trì các chùa trong kinh thành. Sau đó vua sai thợ khắc làm pho tượng vua cõng Phật trên lưng, để tỏ lòng sám hối tội lỗi hủy báng Phật giáo.
 Triết lý pho tượng vua cõng Phật không chỉ tôn trọng phật pháp, tôn vinh phật giáo, mà còn thể hiện sự thành khẩn trung thực, dám làm dám nhận, biết nghe lời nói phải, sai dám sửa. Vì thế dưới thời vua Hy Tông người tài cũng nhiều, việc tốt cũng lắm, nhân dân ca ngợi ông vua là ông vua anh minh để dân an nước thái.
  Thời Nguyễn (1600- 1945) Chúa Nguyễn Hoàng hay Nguyễn Thái Tổ, chúa Tiên (1525-1613) là vị chúa Nguyễn đầu tiên đặt nền móng cho vương triều Nguyễn lập kinh đô ở Huế ngày nay. Chúa Nguyễn cho xây dựng chùa Thiên Mụ.
   Thời đại Hồ Chí Minh (1945-1969 đến nay) , vào năm 1963 trong bối cảnh Phật giáo miền Nam, lúc bấy giờ bị chính quyền họ Ngô hà khắc. Hòa Thượng Thích Quảng Đức (1897-1963) một vị sự Phật giáo đã đỗ xăng tự thiêu tại Sài Gòn vào ngày 11-6-1963 để phản đối sự đàn áp Phật giáo của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Tấm ảnh chụp Hòa Thượng tự thiêu đã được truyền đi khắp thế giới và gây nên sự chú ý đặc biệt tới chính sách của chế độ Ngô Đình Diệm. Phóng viên Malcom Browne đã giành giải thưởng ảnh báo chí thế giới năm 1963. Nhờ bức ảnh chụp cảnh Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu.
 Sau khi chết Hòa Thượng được hỏa táng lại, nhưng trái tim vẫn còn nguyên vẹn không cháy. Đây được coi là biểu tượng của tinh thần vô úy xả thân vì Phật pháp. Phật tử suy tôn Ngài Quảng Đức là Bồ Tát, sự tôn vinh ấy càng làm tăng sức mạnh ảnh hưởng của vụ tự thiêu trước dư luận, và tăng sức ép của quốc tế đối với chính quyền Ngô Đình Diệm, dẫn đến Tổng Thống Diệm phải tuyên bố đưa ra một số cải cách nhằm xoa dịu giới Phật tử. Tuy nhiên,  những cải cách như đã hứa đó không thực hiện, khiến tình hình trở nên xấu hơn.
 Khi phong trào phản kháng vẫn tiếp tục dâng cao, lực lượng trung thành với tổng thống đã tiến hành nhiều cuộc khủng bố chùa chiền. Cuối cùng cuộc đảo chính quân sự tháng 11-1963 cùng năm đã lật đổ chính quyền và giết chết anh em Ngô Đình Diệm. Việc tự thiêu của Ngài Thích Quảng Đức được coi như là một bước ngoặc trong cuộc đấu tranh của Phật giáo Việt Nam, góp phần dẫn đến xóa bỏ nền Đệ Nhất  Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam vào năm 1963. Mà cũng là tiền đề cho thế mạnh bên cách mạng (khối Cộng Sản) thắng lợi sau này 1975.
 Hay tin sự tự thiêu vô úy của Hòa Thượng Thích Quảng Đức, từ Hà Nội thủ đô của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969) đã làm câu đối tặng :
    Vì pháp thiêu thân, vạn cổ hưng huy thiên nhật nguyệt
     Lưu danh thiên cổ, bách niên chính khí rạng sơn hà.
 Câu đối của chủ Tịch Hồ Chí Minh dành cho tấm gương vô úy của một nhà sư vì chính nghĩa đã nói lên cảm mến sâu sắc, vì bảo hộ Phật pháp mà thiêu thân, vạn cổ cho đến nay hiếm có, việc làm huy hoàng, anh hùng đó sáng như mặt trăng, mặt trời, việc làm vô úy ấy sẽ được sử sách lưu danh hàng ngàn năm không quên, trăm năm về sau hào khí của việc làm rạng rỡ cho  sông núi Việt Nam. Câu đối ý nghĩa đó càng làm thêm nức lòng nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới trên con đường đấu tranh cho hòa bình và độc lập dân tộc.
  Thế mới hay Phật giáo Việt Nam thời đại nào cũng gắn liền với lịch sử dân tộc, thời đại nào Phật giáo cũng xuất hiện điển hình đáng trân trọng, thật đúng với nhận định : “ Phật giáo Việt Nam luôn là tấm gương giúp đời hộ quốc an dân”.
 (trích : Phật giáo trong dòng chảy dân tộc _ TS Bùi Hữu Dược- Vụ trưởng Vụ Phật giáo của Ban Tôn giáo Chính phủ)  VHPG xuân Mậu Tuất -1-2-2018)

ĐÂU HỀ CÓ MỘT TÌNH YÊU SUNG SƯỚNG

 Thơ của Louis  Aragon bài dịch của Cao Huy Thuần.
          Đâu hề có một tình yêu sung sướng
          Chưa sống bao nhiêu thì đã quá sầu
          Giữa đêm khuya đôi tim trẻ khóc thầm
          Bao nhiêu sầu để được nghe câu hát
          Bao nhiêu tiếc thương để được rùng mình
          Bao nhiêu nghẹn ngào dổi ghi ta tiếng nấc
          Có tình yêu nào sung sướng được đâu
          Có tình yêu nào mà không đau khổ
          Có tình yêu nào mà chẳng xót xa
          Có tình yêu nào mà không bi án
          Có tình yêu nào mà chẳng lệ nhòa
          Đâu hề có một tình yêu sung sướng
          Nhưng đó là tình của cả đời tôi
 Platon định nghĩa tình yêu là muốn  “muốn cái mình không có, muốn cái mình thiếu”, vậy khi mình không có thì mình muốn, và có rồi thì mình hết thiếu. Mà hết thiếu thì không còn tình yêu. Cả hai trường hợp đều đưa đến khổ. Không có cũng khổ vì thèm yêu, mà có cũng khổ vì hết thèm thì hết yêu.
{]{

TÁN TỤNG KINH PHẬT

Trong kinh Phật có ba trường phái tán tụng :
1/ Hệ Bắc tông :  2/ Hệ Nam tông 3/ Hệ Mật tông
 Bắc tông hay Đại thừa : Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Triều tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Kinh chép bằng tiếng Phạn (Sanskrit).
Nam tông hay Tiểu thừa các nước Silanka, Thái Lan, Campuchia, Lào,   (Silanka: Tích Lan), kinh chép theo âm Pali
Mật tông gồm :Tây Tạng, Mông Cổ, gồm những mật ngôn đọc theo một giọng thật trầm.
Người Việt Nam ngoài tán tụng ra còn có niệm, đọc, hô, xướng, niệm hương.
Tán có ba loại : tán rơi, tán xắp và tán trạo.
Ba bài nhạc được đưa vào nghi lễ Phật giáo trong các lễ hội và nghi lễ là :
 Trầm hương đốt là bài ca chính thức của Gia Đình Phật tử, do Nhạc sĩ Nguyễn Phúc Bửu Bác sáng tác.  Bài Phật giáo Việt Nam làm bài Đạo ca Phật giáo Việt Nam mỗi lần chào Đạo kỳ sáng tác của nhạc sĩ Lê Cao Phan. Vào năm 1951 Hội nghị Phật giáo Việt Nam toàn quốc tại Huế
{]{

Bằng cấp không phải thước đo giá trị con người, Mà đạo đức mới là thước đo giá trị của con người.
                  
{]{

ỨNG PHÓ VỚI BỆNH TRẦM CẢM

Trầm cảm là một căn bệnh thuộc về sức khỏe và tinh thần, không phân biệt độ tuổi, hoàn cảnh, kinh tế, yếu tố chủng tộc, giới tính v.v.. Trầm cảm có ảnh hưởng tiêu cực và dai dẳng đến cả tinh thần lẫn thể chất của con người. Trầm cảm trở thành nguyên nhân gây mất sức lao động thứ hai trong các nguyên nhân.
Chữa trị bệnh trầm cảm khó chữa trị hơn các loại bệnh thông thường, một loại bệnh nghiên về tâm thần hơn là thể chất, vì thế cách chữa trị hiệu quả và cao nhất là dựa vào niềm tin tôn giáo. Trong tôn giáo có nhiều phương pháp để hóa giải bệnh trầm cảm, với niềm tin và ứng dụng các nghi thức sinh hoạt trong tôn giáo, tâm thần người bệnh dễ mau bình phục và cân bằng. Ví như thực tập các phương thức như tụng kinh, niệm Phật, nghe pháp, thiền định, là những phương pháp giúp cho tâm trí được cân bằng trở lại. Đồng thời họ có đủ niềm tin để tự mình đối diện, giải quyết những trở ngại trong cuộc sống.
Tôn giáo là chỗ dựa vững chắc, là nơi quay về nương tựa sau những thất bại, đau buồn trong cuộc sống.  Những người có niềm tin tôn giáo có thể có sức khỏe tâm thần và tình cảm tốt hơn những người khác, người ta nghiên cứu rằng một cá nhân thường xuyên đi chùa, đi nhà thờ thì tuổi đời càng cao hơn những người khác. Và người ta nghiên cứu  cho biết những người đi nhà thờ, đi chùa chiền có tỷ lệ mắc bệnh, tử vong và chống chọi với khó khăn tốt hơn so với những người không tham gia tôn giáo. Có nhiều lý do khiến tôn giáo có nhiều lợi ích đối với sức khỏe và tâm thần con người. Chùa chiền, nhà thờ sẽ giúp con người có một mạng lưới xã hội rộng lớn, có nhiều hỗ trợ hơn. Điều đó sẽ giúp cá nhân có cái nhìn tích cực hơn về cuộc sống cũng như cảm thấy được nâng đỡ khi cần. Qua đó để thấy được mỗi đối tượng có cách biểu hiện, nương tựa khác nhau khi gặp những thất bại, đau buồn, khó khăn trong cuộc sống. Từ đó chúng ta thấy sức mạnh của tôn giáo có thể chuyển hóa đau khổ để con người tự tin đối đầu với những khó khăn phía trước.
Từ đó, các kết quả trên cho thấy, mức độ hỗ trợ từ nhà chùa, các cư sĩ, phật tử lựa chọn và ứng dụng cao nhất so với các hỗ trợ khác. Chính niềm tin tôn giáo và nghi lễ tôn giáo đã giúp cho con người biết chấp nhận và cũng giúp con người vượt qua những khó khăn khắc nghiệt của cuộc sống./.
{]{

ĐỪNG VÌ CÁI SAI CỦA NGƯỜI MÀ ĐÁNH MẤT CÁI THIỆN CỦA MÌNH

Phàm đã sinh ra làm kiếp con người, không ai có thể tránh khỏi những thị phi khen chê, những phỉ báng vu khống, những hàm oan cay nghiệt. Cho nên, không có ai chẳng bị kẻ khác chỉ trích chê bai sau lưng, nhưng ở trước mặt người ta không nói ra mà thôi.
Đối với những thứ thị phi, vu oan, phỉ báng này sẽ làm cho chúng ta nếu không sáng suốt bình tĩnh, nếu không tu dưỡng đàng hoàn, nhiều khi phải xao động mà sanh phiền não, gây chướng ngại trên đường tu.
Cho nên khi đứng trước thị phi vu oan, phỉ báng, ta nên ẩn nhẫn mà vượt qua, không nên đi tranh chấp hơn thua cùng người.
 Vì sao?  Vì người cố tình vu oan, phỉ báng, lôi kéo thị phi với ta là người sai, nay ta vì cái sai của người, mà đánh mất cái thiện, cái thanh tịnh, bình an của ta. Vậy có đúng hay không?
Tranh cải hơn thua cùng người chỉ thỏa mãn cái bản Ngã của ta lúc đó mà thôi, nhưng hậu quả thì sao?
Phật nói trong kinh cho ta biết : “Một niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai ”.  Chỉ vì một niệm sân khởi lên, ta liền muốn cùng người đôi co, tranh luận hơn thua để rồi các cửa chướng ngại đều mở ra. Công phu thiền định trong phút chốc mất sạch, tâm thanh tịnh theo đó cũng tiêu tan, bản tánh lương thiện của ta chỉ vì cái sai của người mà ta đánh mất.
Vậy thì cái được không đủ để bù vào cái mất, quả thật không đáng! không đáng!  Phàm làm con người, ai cũng thích lời khen, ghét tiếng chê, ưa thích bới móc điều dỡ của người, không dè mình cũng đầy những lỗi lầm, chẳng có chi là tốt đẹp.  Cho nên chúng ta là người tu hành chân chính, cần phải giữ lập trường của chính mình, càng nên tin sâu lý Nhân quả, đừng xao động tiếng hay dỡ bên ngoài.
Kinh pháp cú nói : “Ngọn núi cao đứng vững giữa cơn giông tố, người chân chánh an nhiên giữa tiếng thị phi ”. Tất cả tiếng khen chê bên ngoài, không làm cho ta tốt hay xấu, siêu hay đọa, mà tốt hay xấu, siêu hay đọa là do nơi ta. Nếu ta gây nhân lành, thì dù người ta có khinh ta là xấu xa tội ác, ta vẫn được siêu thăng. Trái lại, ta gây nhân ác, tuy người quý trọng, khen ngợi, ta vẫn chịu đọa lạc.
Ví như tờ giấy trắng bị vết mực lem, cứ để yên thì nó chỉ dơ một chỗ đó, rồi lần theo thời gian sẽ phai nhạt đi. Nếu lấy đồ lau chùi, tất sẽ hoen ố toàn diện. Hãy để tất cả những thị phi, phỉ báng trôi theo dòng thời gian, rồi lần lần tan biến vào hư không.
Hãy biết trân trọng thời gian còn lại của đời mình mà lo tu tập cho tốt, đừng để thời gian trôi qua một cách vô ích trong những phiền não thị phi, để rồi một ngày kia thản thốt nhìn lại mà giật mình sợ hãi hỏi rằng : “Đã bao nhiêu mùa xuân trôi qua, sao ta còn chưa tu tập”
(Lời khai thị: Cố HT Thiện Tâm)

{]{
Trên đời có ba thứ nguy hiểm:  Rượu ngon, tiền bạc và vợ đẹp. Rượu ngon làm người mất trí, tiền bạc nhiều làm người ta bất chính, vợ đẹp làm người đau khổ nhiều. Vì rượu ngon khiến người ta thích uống, tiền bạc nhiều khiến người ta mờ át lương tâm, vợ đẹp thường hay phản bội. Vì thế tốt nhất là mất cả ba.

{]{

NGHĨ NHỚ 5 THỨ KHÔNG THÌ ĐỜI NGƯỜI HẠNH PHÚC

Đời người đổi thay như đất trời đủ bốn mùa, Thu, Đông, Xuân, Hạ.
Mùa xuân thì tuổi trẻ, khí chất bừng bừng, rong ruỗi trên đường gió bụi.
Mùa đông xế bóng, là lúc phải nghỉ đến dưỡng thân và dưỡng tâm,
Bởi thế nhân sinh mới có 5 thứ không này, ai ai cũng cần thấu hiểu.
1/- Việc không làm : không làm việc vô nghĩa, không làm việc quá sức,
Không làm việc  khiến mình hối hận về sau.
Hãy sống thuận theo quy luật đất trời và học cách chấp nhận.
 Nếu không có được những gì mình yêu,
Thì phải yêu những gì mình đang có
2/-  Điều không nhìn : Nhìn bằng hai mắt chẳng bằng nhìn một mắt,
Nhắm một mắt mở một mắt sẽ tốt hơn,
Tính toán chẳng phải kẻ thông minh,
So đo quá không thành người quân tử,
Có những chuyện phải biết buông tâm,
Nâng lên được thì đặt xuống được.
3/-Việc không quản : Đừng nghỉ cách thay đổi người khác,
Trước hết hãy thay đổi thái độ của mình,
Không mợ thì chợ vẫn đông,
Trong đời chớ bao giờ xem mình là người quan trọng nhất,
Việc không cần quản chớ nhọc sức đi làm,
Người không cần quản chớ tổn trí hao tâm,
Nghĩ cho mình một chút, tìm kiếm một niềm vui,
Bớt dần những hằn học, Được vậy, còn lo chi đời chẳng đẹp tươi,
4/- Điều không cho :Về già hãy giữ cho mình một chút vốn luyến,
Những gì không thể chi trả thì đừng chi trả,
Những gì không thể cho, cũng đừng vội vã cho đi,
Để lại cho con cháu càng ít, thì con cháu hiềm mình,
Thứ gì cũng đem cho thì con cháu trở thành kẻ ỷ lại,
Há miệng  chờ sung, tự lực cánh sinh,
Mới là làm người một cách chân chính.
5/- Không  chờ đợi :  Cuộc sống là không chờ đợi,
Đợi chờ quá khứ, tương lai chi bằng sống hết mình cho hiện tại,
Nhưng đời người có biết bao thứ khiến người ta phải đợi, phải chờ,
Đợi nghĩ hưu, đợi tiền tiết kiệm, đợi con cái trưởng thành,
Cuối cùng là đợi đến lễ cử hành tiễn biệt của chính bản thân mình,
Nhân sinh như mộng, một giấc mộng thoáng qua,
Như hoa rơi, như lá rụng, như nước chảy, cứ mãi vô tình
Trăm năm tựa như ánh chớp giữa hư không,
Chợt léo lên rồi chìm sâu vào màng đêm đầy uẩn khúc,
Việc đáng làm thì hãy làm đi, người đáng gặp thì hãy kết duyên,
Nhất định phải sống thật tốt,
Nhất định phải cảm thức được ý nghĩa sinh mệnh của mình.
Bởi con người là tinh hoa của vũ trụ. ./.
                             {]{
 NHẪN
Nhẫn tiếng hơn thua có hại gì
Nhẫn là sửa tánh diệt sân si
Nhẫn trau tâm đạo cho bền chí
Nhẫn ấy cũng là mức cử thi

NHỊN
Nhịn điều sĩ nhục tấm thân yên
Nhịn việc hơn thua tránh lụy phiền
Nhịn kẻ thiểu căn lòng đại lộ
Nhịn mẫm dục vọng đắc Thần Tiên

                          {]{

Đã biết chốn ni là quán trọ
Hơn, thua, hờn,oán để mà chi
Thử ra ngồi xuống bên phần mộ
Hỏi họ mang theo được những gì
                         {]{

Thở đi ! em vẫn sống
Cười đi ! khoảnh khắc đẹp tuyệt vời.
                         {]{

BUÔNG CÁI NGÃ

Vua Trần Thái Tông cảm ngộ thế sự vô thường hưng suy của sự nghiệp chính trị nên đã bỏ ngôi báu, triều thần trốn lên núi Yên tử ẩn tu, ở đấy vua gặp pháp sư Phù Vân, và chính lời khai thị của quốc sư, mà Thái Tông chịu lời thỉnh mời của quần thần và dân chúng tha thiết cầu ngài trở lại kinh đô để tục tục lãnh đạo đất nước, đưa vua trở lại triều đình, tiếp tục sự nghiệp làm vua của mình. Vị vua đã ba lần hướng dẫn đánh thắng quân Mông xâm lược. Một lời khuyên của quốc sư Phù Vân mà làm cho nước nhà được thịnh vượng, thắng giặc ngoại xâm  đem lại thanh bình cho xã tắc. Lời khuyên của quốc sư Phù vân như sau : “ Phàm làm bậc nhân quân thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tấm lòng thiên hạ làm tấm lòng của mình”.
 Khi lấy tâm thiên hạ làm tâm của mình, thì không còn chỗ nào để cho bản ngã trú ngụ, có đất nào cho bản ngã trú ngụ nữa đâu. Cái tôi còn chỗ nào dựa vào đâu để mà ra oai lên mặt. Khi tâm mình chứa đầy tâm thiên hạ thì đấu tranh với ai, hơn thua với ai ? Khi ấy tất cả đã là một, một khối thống nhất, không còn phân biệt ta và người.
Mọi nhu cầu của người cũng là nhu cầu của ta, mọi quan tâm của người cũng là quan tâm của ta. Tiếng nói của người cũng là tiếng nói của ta. Tâm thiên hạ trong tâm ta, thì đâu là ranh giới của cái tôi ? cái tôi tan biến vào hư không, khi tâm ta hòa làm một với tâm thiên hạ, lời khai thị của quốc sư Phù Vân quả là một phát ngôn trác tuyệt về đạo lý vô ngã.
Nguyện vọng phụng sự tha nhân, phục vụ người khác thì phải thực hiện triệt tiêu cái ngã thì việc làm mới có đầy ý nghĩa. Phật, Bồ Tát đã đạt đến vô ngã, vì mỗi giây mỗi phút các ngài đều nguyện phụng sự chúng sanh, làm lợi ích cho chúng sanh, tu tập là cầu làm Phật, làm Thánh, mà làm Phật làm Thánh là làm gì ?  nếu không phải là để phục vụ chúng sanh.
Phật, Thánh quý ngài mỗi người mỗi nguyện, nhưng tất cả đều phục vụ chúng sanh, làm lợi ích cho chúng sanh, làm tốt đẹp cho chúng sanh, mọi ngã chấp đều tan biến trước lời nguyện thiết tha phụng sự tha nhân.
Buông cái tôi xuống thì đạo đức cao, không có đạo đức nào cao hơn đạo đức buông cái tôi xuống. Vì đạo đức ấy không xét trên bình diện thiện ác nữa, mà là đạo đức của giải thoát, hành động vô ngã là hành động của giải thoát, chứ không phải hành động của thiện ác nữa. Hành động ấy đưa ta đến tự do. Hành động mà không thấy mình hành động, không thấy người hành động, không thấy mình, không thấy người thì không bị kẹt ở hai bên. Đó là tự do, là giải thoát, làm mà thấy mình làm, là chấp vào công lao, chấp vào công trạng, chấp vào việc làm, ấy là ta bị kẹt ở ta. Hành động mà không thấy người hành động đó cũng như gió thổi, mây bay, suối chảy, lá rơi..
Không ai giận đám mây che khuất mặt trời, không ai giận gió thổi làm rối mái tóc, không ai giận tiếng suối chảy róc rách suốt ngày đêm. Nếu có giận thì cái giận ấy vô cớ vu vơ, rỗng không..
Có một anh chàng đại gia, muốn thưởng thức một đêm gió mát trăng thanh trên dòng sông, anh bèn thuê một chiếc thuyền nhỏ, ra đậu giữa dòng sông để thưởng thức và ngủ qua đêm. Đêm khuya thanh vắng giấc ngủ êm đềm, một chiếc thuyền khác đứt dây neo trôi tạc vào chiếc thuyền anh đang neo đậu, sức va chạm mạnh chiếc thuyền kia vào thuyền của anh, làm chấn động và lắc lư con thuyền, anh đang ngủ ngon giấc, giật mình thức dậy, cơn giận đùng đùng nổi dậy, anh chửi bới um tùm hướng về chiếc thuyền đang trôi, chửi những lời thô tục, lớn tiếng trong ban đêm. Thế nhưng không thấy thuyền bên kia lên tiếng, anh xem lại thuyền kia rỗng không, không có người, lúc bấy giờ cơn giận của anh mới hạ xuống, may mà không có ai nghe !!
Nếu trước kia anh biết thuyền kia không người, chắc anh không có những lời lẽ thô tục lớn tiếng thịnh nộ với chiếc thuyền trống không làm gì. Cũng thế, chúng ta muốn buông cái ngã, phải tập nhìn và quán con người và hoàn cảnh như chiếc thuyền trôi trống không, thì ta mới không nổi cáu nổi giận  được. Chỉ dừng cái thấy nơi hành động mà không thấy thân ai nữa thì phiền não giận hờn, buồn phiền không có nơi để bám vào.
Cái tôi nếu không được buông xuống, thì mọi hành động, việc làm của mình đều bị vướng kẹt, kể cả việc tu hành. Làm việc thiện mà không buông cái tôi xuống thì tự hào với việc thiện của mình làm. Học nhiều hiểu rộng mà không buông cái tôi xuống thì tự cao về cái học của mình. Tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, trì chú nhiều mà không buông cái tôi xuống, thì tự đắc với việc hành trì của mình. Đức Phật dạy nổ lực tu tập là để vượt qua bản ngã, chiến thắng mình, chứ không phải để tranh hơn tranh thua với ai. Dù một người có nổ lực sống đúng với giới luật, siêng năng tụng kinh, trì chú, nhưng nếu trong tâm còn bóng dáng của cái ngã chấp, quý mình khinh người thì người đó chưa phải là người tu tập đúng nghĩa.
 Vậy tu tập rốt ráo và tối hậu là  nhằm đạt đến tự do và giải thoát, là buông xuống cái Tôi của mình./.
Trích : Sự buông xuống sau cùng _ Hoàng Nguyên- VHPG số 306- 1-10-2018.
                                   {]{

SỐNG VƯỢT QUA THỊ PHI

Từ bây giờ tôi sống cho tôi
Chẳng quan tâm đến miệng đời đàm tiếu
Cũng không cần ai cảm thông thấu hiểu
Tự một mình xoa dịu nỗi thương đau
Mạnh mẽ bước trên muôn vạn nẻo đường
Tiếng thị phi lẽ thường tình nhân thế
Nên chẳng màn hay ưu phiền câu nệ,
Lời điêu ngoa để dạ ích lợi gì
Sống thật thà đạp dư luận mà đi
Lòng phân vân là khi mình lầm lỗi
Cứ thẳng ngay sợ chi ngàn lời nói
Bước nhẹ nhàng trên lối cuộc đời ta
Thấy đủ rồi nhưng cay đắng xót xa
Sống lặng im nào là khờ dại
Quá khứ buồn sẽ không còn tồn tại
Bởi từ giờ tôi phải sống cho tôi.
                                   {]{
Sống nhẫn nhịn không phải là nỗi nhục
Vì yêu đời lắm lúc phải cho qua
Hơn thua chi để cuộc sống bất hòa
Đời biết nhẫn là nhìn xa thấy rộng
Nếu vấp ngã hãy tự mình đứng dậy
Đừng nằm im là thất bại cả cuộc đời./.
                                   {]{

TÀM QUÝ

Tàm quý có nghĩa là hổ thẹn. Hổ với mình và thẹn với người, hỗ thẹn có hai lãnh vực, lãnh vực tiêu cực và lãnh vực tích cực, tức là hỗ thẹn việc ác đã làm và hỗ thẹn việc thiện chưa làm được. Tàm quý là một loại tâm sở thiện trong các tâm sở. Đức Phật dạy: Có hai pháp tịnh diệu thủ hộ thế gian. Thế nào là hai pháp ?  Có tàm có quý. Này các Tỳ kheo, nếu không có hai pháp này, thế gian sẽ không phân biệt, có cha, có mẹ, có anh, có em, có vợ, chồng, con, tri thức, tôn trưởng, lớn nhỏ.v.v
Thật vậy, nguồn gốc sâu xa của mọi tệ nạn xã hội là do con người đã đánh mất tính tàm quý, tức là không còn biết hỗ thẹn với hành vi sai lầm của mình. Và một khi con người không biết hỗ thẹn, thì có thể làm bất cứ điều ác nào mà họ không làm.
Người không biết tàm quý sẽ không biết tự sữa mình, cứ nghĩ mình tốt, mình giỏi, mình là người trong sạch.chỉ thấy lỗi người mà không thấy lỗi của mình, sẽ trở nên người bảo thủ, không biết gạn đục khơi trong, cân nhắc, sữa đổi thân, khẩu, ý của mình, cứ đi chỉ trích, moi móc lỗi người khác. Người như thế thì không được mọi người ưa thích và kính mến, tôn trọng, không nhận được sự chia sẻ cảm thông từ người khác. Đức tính tàm quý là một phương pháp ngăn chận hành vi sai lầm, đồng thời nó cũng là một thứ trang phục đẹp nhất trong mọi trang phục. Muốn có đức tính tàm quý phải có Văn, Tư, Tu.
Văn, Tư,Tu :   “Văn” tức là học hỏi giáo lý, “Tư” tức suy nghĩ thấu đáo nghĩa lý của kinh văn, và “Tu” là thực hành áp dụng những điều đã được suy nghĩa thấu đáo đó vào đời sống. Nếu người chỉ có “ văn ” mà không có “tư”, tức là không có suy nghĩ thấu đáo nghĩa lý ấy, cũng dễ rơi vào mê tín, hiểu sai lệch ý nghĩa giáo điển của Phật. Còn nếu có  “Văn ” có “Tư” mà không có “Tu” tức là không có sự thực hành, thì không thể hiểu sâu và chứng nghiệm lời Phật dạy là đúng. Thì mọi việc làm đều không đạt kết quả, cũng như có đi mà không đến đích.
 Phải biết thực tập chánh niệm vào trong cuộc sống hàng ngày.
  Chánh niệm có hai: Chánh ức niệm và chánh quán niệm.
a/ Chánh ức niệm : là nhớ đến các điều lỗi lầm để thành tâm sám hối, và nghĩ nhớ đến tứ trọng ân : ân cha mẹ, ân tổ quốc, ân chúng sanh, và ân Tam Bảo để lo báo đền.
b/ Chánh quán niệm : là tâm từ bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, tật bệnh, mê mờ mà chúng sanh đang mắt phải, để mở rộng lòng thương và quyết ra tay cứu độ.
   Cũng theo Hòa Thượng Thiện Hoa :  Bát Chánh đạo là 8 con đường ngay thẳng, hay 8 phương tiện mầu nhiệm, đưa chúng sanh đến đời sống chí diệu, và là con đường chánh có 8 nhánh, để đưa chúng sanh đến địa vị Thánh.
 Như vậy, Chánh niệm chính là một trong những phương pháp hành trì của một hành giả Phật giáo, giúp vị này trở thành một bậc Thánh.
 Phật dạy :  “ Dầu sống 100 năm thực hành ác giới, không thiền định, tốt hơn sống một ngày mà có trì giới, có thiền định ”. Mỗi ngày ít nhất để ra 30 phút vào mỗi buổi sáng, ngồi yên lặng, lắng tâm quay về với chính mình, để quan sát dọn dẹp tâm, loại bỏ tâm nhiễm ô, vọng động, lao xao lo nghĩ về công việc, về người thân, gia đình v.v ra khỏi đầu, cho tâm rảnh rang, thư thái, giúp mình có một ngày mới, với sự định tĩnh, sáng suốt trong mọi tình huống.
   Tất cả chúng ta đều đang sống với tâm và bằng tâm, tùy theo chất lượng của tâm mà chúng ta có đời sống như thế nào. Nếu tâm nặng nề, hạn hẹp, ô nhiễm, thì cuộc đời chúng ta hằng ở cấp độ thấp, nhiều khổ đau, lo âu, buồn giận còn nếu tâm nhẹ nhàng, rộng lớn, trong sáng, thì cuộc đời của chúng ta ở cấp độ cao, có nhiều niềm vui và hạnh phúc. Thế nên, ta phải hiểu biết, kinh nghiệm tâm ở chiều cao rộng của nó, đó chính là mục đích thật sự của đời người.
  Mỗi người tu tập đều có thể nâng cao bổn phận và trách nhiệm của mình, tự trang nghiêm lấy mình, tức tự mình thanh cao trong sạch, loại bỏ thói hư tật xấu. Từ đó đức tính thanh cao của mình sẽ lan tỏa từ một người đến những người khác, đến những người chung quanh, và những tệ nạn, tai nạn, những lo âu, buồn khổ, thị phi v.v sẽ giảm. Đó cũng là phương pháp giúp giảm gánh nặng cho cho tâm trí mình, cho tập thể mình, cho gia đình và cho xã hội.
   Giới kinh nói : “ Hương của những loài hoa, không bay ngược gió. Nhưng hương người đức hạnh, ngược gió tung bay ”. Vì vậy, đối với những hành giả tu tập theo Phật học, phải cẩn trọng thân, khẩu, ý của mình để có thể đóng góp chút nhỏ nhoi vào việc làm cho cuộc sống hằng ngày càng tươi đẹp hơn./.
{]{

Ỷ VÀO UY QUYỀN

Một tay che cả bầu trời
Quyền uy rồi cũng hết thời mà thôi
Mai sau gần đất xa trời
Mới hay cõi tạm mới là trần gian
Linh hồn tội lỗi đã mang
Rơi vào địa ngục biết đường nào ra
                                     {]{

BUÔNG GIẬN HỜN

Sống trên đời đừng có hận thù làm chi
Đừng bon chen quá mà làm gì cho khổ
Nụ cười kia mới là liều thuốc bổ
Xua ưu phiền và xóa sạch niềm đau
Sống ở đời ai biết được ngày sau
Ai biết trước phút giây mình tàn lụi
Cát bụi rồi cũng trở về cát bụi
Ai chẳng một lần trở lại cõi hư vô
Hãy vui lên mặc cuộc sống xô bồ
Hãy trân trọng nhau khi còn có thể
Hãy yêu nhau như ngày mai là ngày tận thế,
Mất nhau rồi có khóc cũng để làm chi
Hãy đứng dậy và can đảm bước đi,
Khám phá biết bao chân trời đang rộng  mở
Trân trọng bản thân, nâng niu từng hơi thở
Bởi mỗi bông hoa đâu có nở hai lần.
                                            {]{

                   TIỀN CÓ THỂ MUA ĐƯỢC TẤT CẢ KHÔNG

Tiền có thể mua được ngôi nhà- Nhưng không thể mua được tổ ấm,
Tiền có thể mua được  đồng hồ- Nhưng không thể mua được thời gian,
Tiền có thể mua được chiếc giường- Nhưng không thể mua được giấc ngủ,
Tiền có thể mua được quyển sách - Nhưng không thể mua được kiến thức,
Tiền có thể mua được thuốc - Nhưng không thể mua được sức khỏe,
Tiền có thể mua được máu- Nhưng không thể mua được sự sống,
Tiền có thể mua được thể xác- Nhưng không thể mua được tình yêu,
Tiền có thể mua được nô bộc- Nhưng không thể mua được sự phục tùng
Tiền có thể mua được dự luận- Nhưng không thể mua được sự im lặng,
Bản chất của đồng tiền không tốt không xấu, chỉ do người sử dụng, nó trở thành tốt xấu.
Đừng để bạn làm nô lệ đồng tiền, mà hãy làm chủ nó.
Nếu bạn nô lệ nó bạn mất tự do, nếu bạn muốn tự do, thì phải biết làm chủ nó. Thế mà tiền là cái chi chi, bây giờ cả trên thế giới người ta chỉ có tin đồng tiền.
{]{

QUÁN TÂM TRÊN TÂM

Quán tâm trên tâm là một trong số các phương pháp Thiền quán đưa đến chứng đắc tâm giải thoát, tuệ giải thoát được đề xuất trong kinh Niệm Xứ thuộc tạng Pali. Đó là tập trung nhìn vào tâm, quan sát tâm, nhận rõ các diễn biến của dòng chảy tâm thức và thức tỉnh về chúng. Chuyên tâm làm mỗi công việc như vậy gọi là sống quán tâm trên tâm.
 Nghĩa là :  hành giả quán tâm trên tâm, với tâm có tham biết tâm có tham, với tâm không tham biết tâm không tham. Với tâm có sân, biết tâm có sân, với không sân biết tâm không sân. Với tâm có si biết tâm có si, với tâm không si biết tâm không si. Với tâm tán loạn biết tâm tán loạn, với tâm không tán loạn biết tâm không tán loạn. Với tâm không quảng đại biết tâm không quảng đại, với tâm quảng đại biết tâm quảng đại. Tâm có định biết tâm có định, tâm không định biết tâm không định. Tâm có giải thoát biết tâm có giải thoát, tâm không giải thoát biết tâm không giải thoát v.v
  Như vậy vị ấy sống quán tâm trên nội tâm, hay sống quán tâm trên ngoại tâm; hay sống quán tánh sanh khởi trên tâm, hay sống quán tánh diệt tận trên tâm, hay sống quán tánh sanh diệt trên tâm. “ Có tâm đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời, như vậy là sống quán tâm trên tâm.
 Tâm có tham tức là một âm thức sinh khởi gắn liền với tham dục.
Tâm không tham nghĩa là một tâm thức hiện khởi không đi kèm với tham dục.
Tâm có sân tức là một tâm thức khởi lên gắn kết với sự giận dữ bực phiền.
Tâm không sân tức là một tâm thức sinh khởi không có bóng dáng giận dữ đi kèm.
Tâm có định nghĩa là tâm thức được tu tập trở nên định tĩnh, nhất tâm, không còn dao động, tán loạn.
Tâm không định tức là một tâm thức tán loạn, không tập trung, không định tĩnh,
Tâm giải thoát nghĩa là một tâm thức được tu tập tạm thời thoát khỏi các phiền não tham, sân, si ngay trong sát na tu tập.
Tâm không giải thoát nghĩa là tâm thức không thoát khỏi các phiền não tham, sân si.
 Trước hết, tâm ở đây được hiểu là tâm hành hay dòng chảy tâm thức, tức các trạng huống tâm thức khác nhau sinh khởi và đoạn diệt trong đời sống hàng ngày gắn liền với các hoạt động của thân ngũ uẩn. Chúng là các tâm sở thiện hoặc bất thiện phát sinh do duyên sáu căn tiếp xúc với sáu trần, có tu tập hay không tu tập, có công năng dẫn dắt tâm thức chuyển vận theo hướng này hay hướng khác tùy thuộc vào phẩm chất và diễn biến của chúng. Mặc dầu chúng có những tác động tích cực hoặc tiêu cực lên đời sống con người, các tâm sở này chỉ là pháp hữu vi, sinh khởi và đoạn diệt do nhân duyên, chuyển biến vô thường, không phải của con người, không ảnh hưởng gì đến tâm giải thoát tối hậu, vốn tự chói sáng, không sanh diệt, không tịnh nhiễm; vì vậy chúng được sử dụng làm đối tượng tu tập, giúp cho người thực hành quán niệm thấy được lý vô thường sanh diệt của danh sắc hay ngũ uẩn, đạt đến chánh trí và chánh giải thoát, thể hiện nếp sống “không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời”. Nói cách khác, mục đích của phương pháp quán tâm trên tâm là nhằm thấy rõ tính chất duyên sanh, vô thường, vô ngã của các biểu hiện tâm thức, chúng chỉ là các hiện tượng chuyển biến sanh diệt, không phải là cái gì thường hằng, thường trụ, có thực, đáng được xem là ngã hay đồng hóa chúng là “tôi” và “của tôi”.
 Đức Phật nói về tâm như sau : “Thân do bốn đại tạo thành này được đứng vững một năm,  hai năm, mươi năm, 20, 30, 40  đứng vững 100 năm hay nhiều năm hơn nữa”. Còn cái gọi là tâm này, là ý này, là thức này, cả đêm và ngày khởi lên là khác, là diệt đi là khác.  Ví như một con khỉ trong khi đi lại trong rừng, năm lấy một cành cây, bỏ nhành cây ấy xuống, nó nắm giữ một cành khác. Cũng vậy, cái gọi là tâm, là ý, là thấy cả đêm và ngày, khởi lên là khác, diệt đi là khác.
 Kinh pháp cú xác nhận “
                     Khó nắm giữ, khinh động
            Theo các dục vọng quay cuồng    
            Lành thay, điều phục tâm
            Tâm điều, an lạc đến
Quán tâm trên tâm là tập trung nhận diện và làm việc với các trạng huống khác nhau của tâm. Làm như thế nào thì Kinh Niệm Xứ đã nói rõ, nghĩa là tâm có tham biết  rõ là tâm có tham, tâm không tham biết rõ là tâm không tham tâm giải thoát biết rõ tâm giải thoát, tâm không giải thoát biết rõ tâm không giải thoát. Tập trung nhìn vào tâm và thấy tường tận các diễn biến khác nhau của tâm mà không khởi niệm phân biệt, không tư lương phán xét, không thuận ứng nghịch, không uốn nén chúng theo cách này hay cách khác thì gọi là quán tâm trên tâm, tức chú tâm thấy biết như thật sự sanh diệt, vô thường, vô ngã của dòng chảy tâm thức nhằm dứt bỏ tập quán tham ái và chấp thủ đối với danh sắc, thực chứng tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Đây là hệ quả tất yếu của pháp môn quán niệm lâu ngày đạt đến thuần thục, tức sự thể hiện tâm giải thoát, “không nương tựa, không chấp trước một thứ gì trên đời”, do chứng nghiệm bản chất duyên sanh, vô thường, hư huyễn, không thực thể của tâm hay của mọi sự vật và hiện tượng. Trong kinh Phật dùng các  hình ảnh bong bóng nước, ráng mặt trời, cây chuối không lõi, trò ảo thuật để nói lên tính chất hư huyễn, trống không, không thực thể của các hiện tượng tâm thức một khi quán sát kỷ. Quán sát các diễn biến của tâm với kết quả tâm đi đến ly tham, giải thoát, không nương nấu, không bám víu vào bất cứ ý niệm nào thì được xem là thành tựu pháp môn quán tâm trên tâm, cũng  được gọi là đã điều phục được tâm, không phải bị tâm điều phục.
 Như vậy, nhờ thực tập pháp môn quán tâm trên tâm, mà hành giả có thể chứng đắc tâm giải thoát, tuệ giải thoát, đoạn tận các lậu hoặc, chấm dứt khổ đau sanh tử luân hồi, xứng đáng là một hành giả tu tập có chánh trí, chánh giải thoát.
Trích  : Quán tâm trên tâm : Nguyên Thanh  VHPG số 306- 1-10-2018
{]{

NĂM THIỀN CHI

Trong khi thực hành thiền định, hành giả bắt đầu điều phục thân và điều phục tâm. Lúc này, tâm bắt đầu đi vào trạng thái thiền định dẫn từ cạn đến sâu qua năm cấp độ gọi là năm thiền chi, đó là : tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Năm tâm sở này là những yếu tố của các tâm thiền sắc giới giúp chế ngự năm triền cái. Năm thiền chi có mặt trong các tầng thiền. Ở sơ thiền, ly dục, ly các bất thiện pháp, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm có tứ. Qua nhị thiền, từ bỏ tầm và tứ còn lại hỷ và lạc. Ở tam thiền, do ly hỷ trú xả, thân cảm sự lạc thọ gọi là xả niệm lạc trú. Ơ tứ thiền, tâm hành giả có thể đi thẳng vào định không cần qua tầm, tứ, hỷ, lạc chỉ còn chi thiền nhất tâm.
 Trong thuật ngữ Pali, danh từ và động từ của nó có ý nghĩa gốc rễ là :
  1/ Để suy nghiệm, thiền định.  2/ để tìm kiếm. 3/để đốt cháy. Những thiền chi được gọi như vậy vì chúng tham dự chặt chẽ với đối tượng của tâm, và vì chúng đốt cháy những trạng thái của tâm không có lợi cho sự tập trung để đi vào thiền định. Trong các tác phẩm luận giải Phật học, mỗi nhân tố thiền chi sẽ chế ngự được một triền cái cụ thể. Ý nghĩa của một thiền chi được trình bày như sau :
Tầm (vitakka): có nghĩa là “tư duy”  thường xuất hiện trong kinh cùng với một chữ khác là  vicara (tứ) với nghĩa là   “di chuyển ”. Hai từ này đi chung biểu thị hai phương diện có liên hệ với nhau nhưng khác loại của tiến trình tâm. Vitakka được dịch là “tầm” hoặc đơn giản là  “tư duy”, còn vicara là “tứ”. Thuật ngữ takka có nghĩa đen là “suy nghĩ”, tiền tố “vi” cung cấp cho một cảm giác mạnh, vì vậy vitakka có nghĩa là suy nghĩ rõ rệt hoặc quyết định.
  Tầm là tâm sở có phận sự đánh thức tâm chú hướng đến đề mục thiền định. Giống như con bướm tìm thấy một bông hoa và hăng hái bay về hướng đó. Nhưng tâm cứ bỏ rơi đối tượng do trầm trệ, giải đãi, giống như con bướm chưa tới được cành hoa đã lười biếng bỏ cuộc, tức là tầm chưa đủ tinh cần nổ lực để vượt qua trạng thái buông xuôi tiêu cực. Do vậy khi tầm có đủ lực nhất hướng đến đối tượng thì hôn trầm- thụy miên bị chế ngự.
Tứ (vicara) : Từ vicara thường có nghĩa là kiểm tra. Nhưng ở đây nó biểu thị sự áp dụng bền vững của tâm đối với sự vật. Trong khi tầm là sự chỉ đạo của tâm và các tâm sở của nó trên các đối tượng, thì tứ là sự tiếp tục thi hành nhiệm vụ của tâm trên đối tượng. Tứ là tâm sở có phận sự giữ tâm đứng vững trên đề mục thiền định. Giống như khi con bướm đã bay đến đóa hoa liền tìm cách giữ thăng bằng để đậu lại trên đóa hoa đó. Nhưng nếu tâm chưa đứng yên trên đối tượng do còn lưỡng lự bất quyết, giống như con bướm tuy đã đậu xuống mà vẫn chưa bám chắc lại hẳn nên còn chớp chớp đôi cánh chực bay, tức là tứ chưa vững để dừng lại trên đề mục. Nhưng khi tứ đã vững thì không còn trạng thái phân vân do dự nữa.
  Các bản chú giải, giải thích rất kỹ những dị biệt giữa tầm và tứ bằng cách mô tả tầm như sự xúc chạm đầu tiên của tâm trên đối tượng, tức giai đoạn thô và khởi đầu của tư duy cũng như đánh lên một tiếng chuông, trong khi tứ như hành vi neo tâm trên đối tượng, giai đoạn tạo sức ép liên tục và vi tế hơn này có thể ví như tiếng ngân của chuông. Luân sư Phật Âm đưa ra năm hình ảnh để minh họa cho sự tương quan giữ tầm và tứ.
1/ Tầm ví như sự chuyển động của con chim khi vỗ cánh bay vào hư không, tứ như sự di chuyển của nó qua hư không một cách thung dung, uyển chuyển với đôi cánh dang rộng.
2/ Tầm có thể được so sánh với việc bay đến đóa hoa của con ong, tứ như khi nó bay vo ve quanh đóa hoa ấy.
3/ Tầm giống như bàn tay nắm chắc một cái đĩa kim loại hoen ố cần phải chùi bóng, tứ như tay kia chà đĩa với một miếng giẻ tẩm dầu và bột.
4/ Tầm như bàn tay nâng của người thợ gốm khi anh ta đang làm một cái bình, tứ như tay kia nắn tới nắn lui.
5/ Tầm như mũi kim của chiếc compa cắm chắc vào giữa  khi người ta muốn vẽ một vòng tròn, tứ như mũi kim xoay chung quanh.
 Những ví dụ này cho ta thấy rõ, rằng mặc dù thường đi chung với nhau, tầm và tứ vẫn thực hiện những công việc khác nhau. Tầm hưởng được một quyền ưu tiên hơn tứ về chức năng. Tầm đem tâm đến đối tượng, tứ gắn chặt và neo chắc nó ở đấy. Tầm tập trung tâm trên đối tượng, tứ xem xét và khảo sát kỹ những gì được tập trung vào đó. Tầm đem lại một sự sâu lắng của định nhờ thường xuyên đưa tâm trở lại với cùng đối tượng, tứ duy trì sự định tâm đã thành tựu bằng cách giữ cho tâm neo chắc trên đối tượng đó. Trong sự liên hợp này, tầm-tứ là hai yếu tố cho sự thành tựu và ổn định của sơ thiền.
Hỷ (piti) Chi thiền thứ ba có mặt trong sơ thiền là hỷ. Trong kinh, đôi khi hỷ được nói là khởi sanh từ một yếu tố khác theo thứ tự liên hệ gọi là (hân hoan). Một trạng thái xuất hiện cùng với sự đoạn trừ năm triền cái. Khi hành giả quán xét thấy năm triền cái đã được từ bỏ trong tự thân, “hân hoan sẽ khởi lên trong vị ấy; nhờ hân hoan như vậy, hỷ sẽ sanh, và khi có hỷ, thân vị ấy trở nên khinh an”.
  Nó giống như khi con bướm đang hứng thú thưởng thức mật hoa; nhưng nếu tâm chưa phát sanh hỷ do còn căng thẳng hay cố gắng quá mức, giống như con bướm chưa hút được mật nên chưa vừa ý. Khi tâm đã tìm thấy sự thích thú hoan hỷ trên đề mục thiền định thì sân mới được chế ngự.
Lạc (sukha) : Thiền chi kế tiếp là sukha- lạc. Chữ Sukha được dùng như một danh từ với nghĩa “lạc”, “dễ chịu”, “hạnh phúc” hay sự “hài lòng”, và vừa như một tĩnh từ với nghĩa  “trạng thái an lạc”, “trạng thái dễ chịu”. Như một thiền chi của sơ thiền, lạc biểu thị cảm giác dễ chịu. Từ sukha được định nghĩa chính xác theo nghĩa này trong phân phân tích về sơ thiền của bộ Phân tích: “Ở đây, thế nào là lạc,  Sự sảng khoái về tâm, sự dễ chịu thuộc về tâm, cảm giác sảng khoái và dễ chịu do tâm xúc sanh, trạng thái cảm thọ sảng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Đây gọi là lạc”. Là tâm sở có trạng thái bình yên, an ổn và thỏa mãn trên đề mục thiền định, giống như con bướm đã hút mật đầy đủ, không còn bồn chồn lo lắng hay tìm kiếm lăng xăng nữa, vì thế lạc chế ngự được trạo hối.
Nhất tâm (ekaggata) hay định, là trạng thái an chỉ, bất động trên đề mục, giống như con bướm đã no đủ nằm yên ngơi nghỉ trên đóa hoa, không ham muốn gì nữa, nhờ vậy tham dục được chế ngự.
  Là một thiền chi, nhất tâm luôn luôn hướng đến  một đối tượng thiện. Nó làm công việc ngăn ngừa những ảnh hưởng bất thiện, đặc biệt là dục tham triền cái. Khi các triền cái vắng mặt, nhất tâm tích tụ một sức mạnh đặc biệt trong bậc thiền dựa trên nổ lực tập trung đã được duy trì trước đó. Như vậy, mỗi thiền chi có chức năng và nhiệm vụ để chế ngự và đoạn trừ mỗi triền cái tiêu biểu. Tầm chế ngự và đoạn trừ hôn trầm-thụy miên; tứ đoạn trừ nghi; hỷ đoạn trừ sân; lạc đoạn trừ trạo hối; và nhất tâm đoạn trừ tham dục. Nói như thế không có nghĩa là mỗi thiền chi chỉ duy nhất đoạn trừ mỗi triền cái tương ứng. Ngoài chức năng và nhiệm vụ chính thì chúng còn có sự hỗ trợ nhau trong việc đoạn trừ năm triền cái.
 Bên cạnh chức năng và nhiệm vụ chính, các thiền chi cũng cùng làm nhân làm duyên để hỗ trợ nhau trong việc đoạn trừ năm triền cái. Nhiệm vụ tạo ổn định của nó được tăng cường nhờ sự cộng tác của các thiền chi khác- tức nhờ “tầm” nhấn tâm vào đối tượng, nhờ “tứ” giữ cho nó neo chắc vào ở đó, nhờ “hỷ” và “lạc” kích thích sự thích thú và thỏa mãn của nó trong đối tượng. Bởi vì nhất tâm trong thiền hướng dẫn các yếu tố khác đến công việc hợp nhất này nên nó được gọi là “định căn”. Bởi vì nó duy trì một sức mạnh ổn định khiến các ảnh hưởng phân tán khác không dễ gì vượt qua được nó gọi là “định lực”. Nó đưa tâm đến trạng thái tịnh chỉ, giúp hoàn thiện các căn khác, đồng thời tác thành như một nền tảng cho tuệ giải thoát.
  Khi hành giả tinh tấn hướng tâm tiếp cận đối tượng, không quá cố gắng, cũng không lơ là, chỉ cần vừa đủ để tâm vượt qua trạng thái hôn trầm thụy miên, không còn lười biếng giải đãi thì có thể chú hướng vững vàng về phía đối tượng ấy, đó là trạng thái tầm. Khi đã không còn lười biếng bỏ rơi đối tượng, tâm bắt đầu tìm cách áp sát trên đối tượng, tâm hành giả đã lấy lại được thăng bằng, không nghi hoặc, không phân vân do dự nữa, đó là trạng thái tứ. Nhờ tâm thăng bằng, không nghi hoặc đã cảm giác được sự vui thích, hứng thú trên đối tượng, không còn bực bội, chán nản hay sân hận nữa, đó là trạng thái hỷ. Sự hoan hỷ, phân khởi này lắng dịu dần, để lại một sự bình an, tĩnh lặng, không còn một gợn sóng dao động bất an, đó là trạng thái lạc của thiền. Đến đây tâm đã có thể an trú, tĩnh chỉ, nhất tâm và hoàn toàn quân bình (xả), không còn khởi lên một tham muốn nào  đối với ngũ dục. Đó là trạng thái nhất tâm hay an chỉ định. Với những trải nghiệm trên, hành giả đã chứng sơ thiền sắc giới, tâm vị ấy có đủ năm thiền chi : tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm.
 Không có chi phần nào trong số này tách riêng khỏi nhóm mà có thể tạo thành sơ thiền. Muốn cho thiền sanh, cả năm chi phải cùng có mặt và tác thành những nhiệm vụ đặc biệt của chúng trong bậc thiền như diệt trừ các triền cái đối nghịch với tự thân chúng và đem tâm vào an trú trong đối tượng. Năm hiện tượng tâm lý hay năm danh pháp chỉ được gọi là năm thiền chi nhờ vào những nhiệm vụ đặc biệt này. Chẳng hạn, tầm bình thường, nếu không phản công hôn trầm-thụy miên, không phải là một thiền chi. Hôn trầm-thụy miên và tầm, mặc dù có thể cùng tồn tại trong nhiều trạng thái tâm bình thường, nhưng khi tầm được phát triển để hướng đến một thiền chứng, nó trục xuất và loại trừ hôn trầm-thụy miên triền cái. Do đó, tầm trong thiền chi có một tầm cỡ cao hơn và một nhiệm vụ chuyên biệt hỗ trợ cho định. Tương tự, đối với hoài nghi và tứ. Tứ dù vẫn có thể hiện trong tâm lúc đang trong trạng thái hoài nghi, song bao lâu nghi còn có mặt, tứ không thể thành một thiền chi. Khi tứ được định hướng đến thiền, lúc đó nó đóng cửa không cho hoài nghi vào. Đối với các chi phần khác cũng áp dụng như vậy. Khi tâm còn bị ám ảnh bởi các triền cái, dầu cho hỷ, lạc và nhất tâm có thể trở nên mạnh đến thế nào chăng nữa, chúng cũng không tạo thành sơ thiền cho đến khi các triền cái được trừ diệt.
  Để cho một trạng thái tâm có được tính chất như một tâm sơ thiền, năm thiền chi không những phải có khả năng ngăn chận và bít năm triền cái, mà chúng còn phải có thể  nhất tâm vào đối tượng với cường độ của sự tập trung toàn triệt. Nếu các thiền chi chỉ có mặt một phần, nếu tất cả đều có mặt nhưng không đủ sức mạnh để loại trừ triền cái, nếu chúng có thể loại trừ các triền cái nhưng không có khả năng đem tâm vào an trú, tâm ấy không phải là tâm sơ thiền. Song, nếu chúng khởi lên cùng nhau và thực hiện những nhiệm vụ riêng của chúng trong việc tạo ra an chỉ, sơ thiền sẽ khởi lên viên mãn với năm chi phần của nó.
 Như vậy, năn thiền chi là năm tâm sở vô cùng cần thiết nhằm đoạn trừ năm triền cái để đi vào các tầng thiền. Năm yếu tố này thôi thúc tâm chú hướng, kích thích và  dần dần an trú trên đối tượng để đi vào các trạng thái định sâu hơn. Năm thiền chi như năm cây nêm, nêm vào khúc gỗ để tống năm cái ngạt nằm trong khúc gỗ. Nếu không nhờ cây nêm thì năm cái ngạt sẽ nằm yên trong khúc gỗ mà người thợ mộc khó lấy ra được. Đây được gọi là phương pháp thay thế loại trừ. Dùng các thiện pháp để loại trừ các bất thiện pháp trong tâm. Ở đây, cần phải có sự hỗ trợ của chi phần tinh tấn. Khi các thiện pháp đủ mạnh thì đánh bật các bất thiện pháp một cách hoàn toàn. Năm triền chi là phương thuốc đặc trị năm triền cái. Không thể có một pháp nào khác hơn, hữu hiệu hơn để loại trừ năm chướng ngại này. Thành ra, thiền giả khi hành thiền dùng năm thiền chi đúng pháp, thì việc hành thiền sẽ có kết quả tốt đẹp ./.
Trích : Năm thiền chi : Thích Trung Định- VHPG số 306- 1-10-2018
{]{

THỰC HÀNH CHÁNH NIỆM

 Cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, các học giả phương Tây, thuộc các quốc gia Đức, Nga, Anh, Pháp, đã sớm tiếp cận giáo lý đạo Phật, họ sớm  nhận biết đây là lối sống hiền thiện. Sống theo phương pháp Phật dạy là thực tập lối sống hiền thiện dựa trên tình thương và trí tuệ, có khả năng mang lại cuộc sống hài hòa giữa con người với con người, cũng như giữa người với các sinh vật khác và thiên nhiên, góp phần làm dịu  sự khủng hoảng về niềm tin tâm linh đang gây nên những khổ đau cho con người phương Tây lúc bấy giờ.  Nhưng do lòng tự tôn dân tộc và quan niệm cho rằng người phương Tây vẫn văn minh hơn, nên những sự cố gắng của các học giả tiên phong chưa có kết quả rõ rệt. Sau hai cuộc thế chiến và những cuộc chiến tranh cục bộ ở thế kỷ 20. Nhiều người châu Á sang cư ngụ ở châu Âu và châu Mỹ, trong số họ có nhiều học giả Phật giáo sinh hoạt trong các khu vực dân cư Âu Mỹ, đã dần làm thay đổi cách nhìn của người phương Tây đối với Phật giáo. Tiếp đến việc những người Tây Tạng lưu vong di cư hầu khắp thế giới phương Tây, và sự tích cực giao tiếp với các nhà khoa học phương Tây của vị Đạt Lai lạt ma thứ 14, đã truyền cảm hứng để các nhà khoa học nghiên cứu Phật giáo và các kỷ thuật hành trì Phật giáo một cách nghiêm túc.
  Trong các kỷ thuật hành trì Phật giáo được người phương Tây đánh giá cao nhất là Chánh niệm.  Chánh niệm là một chi phần trong Bát Chánh đạo, thuộc Đạo đế của nhà Phật. Theo Phật Học Phổ Thông của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, giải thích Chánh niệm là : “ ghi nhớ đến những điều hay lẽ phải, những điều lợi lạc cho mình và cho người, những đạo lý chân chính, quý trọng cao siêu ”.  Ngài phân tích Chánh niệm có hai phần :
 a/ Chánh ức niệm : là nhớ đến các điều lỗi lầm để thành tâm sám hối, và nghĩ nhớ đến tứ trọng ân : ân cha mẹ, ân tổ quốc, ân chúng sanh, và ân Tam Bảo để lo báo đền.
b/ Chánh quán niệm : là tâm từ bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, tật bệnh, mê mờ mà chúng sanh đang mắt phải, để mở rộng lòng thương và quyết ra tay cứu độ.
   Cũng theo Hòa Thượng Thiện Hoa :  Bát Chánh đạo là 8 con đường ngay thẳng, hay 8 phương tiện mầu nhiệm, đưa chúng sanh đến đời sống chí diệu, và là con đường chánh có 8 nhánh, để đưa chúng sanh đến địa vị Thánh.
 Như vậy, Chánh niệm chính là một trong những phương pháp hành trì của một hành giả Phật giáo, giúp vị này trở thành một bậc Thánh, một lãnh vực hoàn toàn tôn giáo.
  Thế nhưng gần đây, trong một báo cáo của Nhóm các Nghị sĩ Liên đảng thuộc Nghị viện Anh bảo trợ Chánh niệm, trình bày trước Nghị viện Anh vào tháng 10-2015, các vị này đưa ra kiến nghị về việc đưa Chánh niệm vào ứng dụng trong 4 lãnh vực hoạt động của xã hội Anh gồm : Sức khỏe, Giáo dục, Lao động và hệ thống Tư pháp hình sự.  Trong phần kiến nghị về Giáo dục, nhóm các nghị sĩ này đã yêu cầu hai điểm: Thứ nhất, bộ giáo dục Anh nên chỉ định trước hết ba cơ sở huấn luyện giáo viên cao cấp đi tiên phong trong việc giảng dạy về chánh niệm. Phối hợp và triển khai các cải cách, kiểm chứng những mô hình có khả năng nhân rộng và khả năng chuyển đổi quy mô hoạt động, sau đó phổ biến những ứng dụng thực tế tốt nhất. Thứ hai : Căn cứ vào sự quan tâm của bộ giáo dục về cá tính và sự bền bỉ (của những người được giáo dục). Đề nghị một ngân khoản một triệu bảng Anh hằng năm cho những cơ sở huấn luyện có thể dự thầu để có chi phí cho việc huấn luyện giáo viên trong lãnh vực chánh niệm.
  Qua báo cáo này, người ta có thể thấy Chánh niệm đã bước đầu được người Anh chấp nhận như một kỷ thuật không mang tính cách tôn giáo để góp phần vào việc giáo dục con người của vương quốc Anh.
  Bài này nhằm tìm hiểu Chánh niệm có tác dụng gì đối với việc trồng người và đã được  phương Tây chấp nhận như thế nào, sau đó với tính cách một dân tộc đã hơn 2000 năm theo Phật giáo, và cũng để xét đến trường hợp xã hội Việt Nam và học đường Việt Nam, nghĩ gì về cách tiếp cận Chánh niệm của đạo Phật hiện nay, để ứng dụng cho bản thân mình, cho gia đình và xã hội đem lại đời sống thật sự hạnh phúc an lạc bền lâu.
   Trước hết ta phải biết Niệm và Chánh niệm là gì Thuật ngữ Pali gọi là Sati và Samma-Sati, là một phẩm chất của tâm được nhắc đến nhiều trong 37 phẩm trợ đạo. Niệm- tức là Sati trong ngôn ngữ Pali, có nhiều nghĩa gồm cả : nghĩ đến, nhớ đến, tưởng đến, ghi nhận, chú tâm, nhưng nghĩa của Niệm gần với ghi nhận  và chú tâm hơn.  Chánh niệm tức Samma-Sati, được hiểu là sự nhớ nghĩ chơn chánh, nhớ nghĩ những gì liên quan đến con đường tới đạo giải thoát.
  Chính vì niệm có vai trò rất quan trọng nên niệm xứ đã được xem là trái tim của thiền định Phật giáo.  Trong kinh điển Nguyên thủy, Chánh niệm được gắn liền với Niệm xứ. Kinh Niệm xứ thuộc Trung bộ kinh định nghĩa như sau : “ Này các Tỳ kheo, đây là con đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt qua khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết bàn. Đó là Bốn niệm xứ.”
  Thế nào là Bốn ? “ Này các Tỳ kheo, ở đây Tỳ kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Sống quán thọ trên thọ, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Sống quán pháp trên pháp, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
   Định nghĩa này luôn được các học giả Tây phương tôn trọng, và các nhà khoa học cộng tác với ngài Đạt Lai Lạt ma trong viện Tâm linh và Đời sống, đã có những cố gắng tìm hiểu sâu hơn về những  kết quả thiền định tác động lên não bộ của người hành thiền, và đi đến kết luận rằng, người ta có thể coi Chánh niệm như một quà tặng mà con người có sẵn, chỉ cần thực hành theo đúng hướng dẫn của Đức Phật, để đạt tới trạng thái tỉnh thức cho tâm, từ đó mang lại an lạc cho thân. Một trong những người có nhiều nổ lực nghiên cứu về lãnh vực Chánh niệm này là Jon Kabat-Zinn và ông đã đạt tới những kết quả có thể xác định được.
  Jon Kabat-Zinn là người nổ lực du nhập Chánh niệm vào phương Tây . Kabat-Zin là người Mỹ gốc Do Thái, từ năm 1970, ông bắt đầu tìm hiểu về thiền Phật giáo, lần lượt học hỏi qua các Ngài Philip Kepleau (Hoa Kỳ), Thích Nhất Hạnh (Việt Nam) và Seungsanhn (Hàn quốc). Năm 1979 ông thành lập Dưỡng đường Giảm căng thẳng (Stress-Reduction Clinic) tại trường y khao Viện Đại Học Massachusetts. Tại đây ông ứng dụng giáo lý chánh niệm của Phật giáo vào việc xây dựng một chương trình Giảm căng thẳng và Thư giản. Tiếp theo sau đó cũng tại trường y khao Viện Đại Học Massachusetts, ông lại thành lập Trung tâm ứng dụng Chánh niệm trong y khoa Chăm sóc sức khỏe và xã hội. Mục đích là hướng dẫn các bệnh nhân cách thích ứng với những căng thẳng đau đớn, bệnh tật bằng cách sử dụng đều  được gọi là “ Nhận thức trong từng khoảnh khắc ”. Phương pháp do ông đề nghị có những thành công nhất định và đã lan tỏa trên hầu khắp thế giới phương Tây. Nhiều nơi tổ chức các trung tâm giảm căng thẳng dựa trên Chánh niệm theo mô hình của ông. Giới khoa học từng bước đặt ra những biện pháp đánh giá và đo đạc để kiểm chứng các kết quả cho các trung tâm như vậy đã đạt được. Một số cơ quan chính phủ Hoa Kỳ đã ứng dụng phương pháp của Kabat-Zinn để giúp nhân viên của họ giảm áp lực công việc và tăng năng suất.
  Đầu thế kỷ 19. Kabat-Zinn  được Nghị viện Anh mời đến điều trần về sự kiện liên quan đến Chánh niệm. Một nhóm các Nghị sĩ Liên đảng thuộc nghị viện Anh, đã được quy tụ để bảo trợ cho việc triển khai các hoạt động liên quan đến Chánh niệm trên quy nô cả nước. Để thuyết phục đại chúng Kabat-Zinn khẳng định rằng : “  Chánh niệm là một lối sống dựa trên mối quan hệ sáng suốt và có chủ đích với những kinh nghiệm của chính mình, cả ở nội tâm lẫn ngoại cảnh. Lối sống này, có thể được tu dưỡng bằng cách rèn luyện có hệ thống các khả năng của con người về việc chú tâm có chủ đích vào khoảnh khắc hiện tại và không có phê phán, bằng việc học để sử dụng được và sống trong sự trong sáng, sự nhận thức sâu sắc, sự hiểu biết về đạo đức cũng như sự tỉnh giác xuất hiện từ việc tận dụng những nguồn năng lực nội tại bẩm sinh sâu xa nhất của chính con người. Kết quả của sự tu dưỡng đó giúp con người học tập, tăng trưởng, chuyển hóa, là những phẩm chất có sẵn cho tất cả chúng ta trong suốt quảng thời gian sống còn của ta vì ta là con người. Về bản chất, Chánh niệm hướng tới sự chú tâm tỉnh giác, trạng thái có quan hệ, và sự thận trọng, chính là khả năng phổ quát của con người, chẳng khác gì khả năng tiếp thu ngôn ngữ của chúng ta. Mặc dù việc trình bày rõ ràng mạch lạc đầy đủ và có hệ thống nhất về Chánh niệm cùng những thuộc tính của biện pháp này xuất phát từ truyền thống Phật giáo, Chánh niệm không hề là một tài liệu hỏi đáp về tôn giáo, một ý thức hệ, một hệ thống niềm tin, một kỷ thuật hay một tập hợp những kỷ thuật một tôn giáo hay một nền triết học.
   Chánh niệm có thể được mô tả đúng nhất như là một lối sống, có nhiều đường lối khác nhau để nuôi dưỡng Chánh niệm một cách khôn ngoan và hiệu quả thông qua việc thực hành. Các trung tâm hướng dẫn về Chánh niệm đã trở thành một hoạt động có tiêu chuẩn  và được nhiêu nơi công nhận và thực hiện. Thiền Chánh niệm theo phương pháp của Kabat-Zinn đã có mặt hầu như tất các bang nước Mỹ và ở trên 30 quốc gia khác.
 Chánh niệm từng bước giành được vai trò chính thống ở phương Tây: Chương trình dạy khóa thực tập thiền chánh niệm trong các khóa, ngoài ra con có khóa hàm thụ trực tuyến và các lớp trên tivi nữa.  Trung tâm Y học và giáo dục tỉnh giác thuộc trường đại học y Massachusetts được xem là cơ sở lớn nhất và lâu đời nhất ở Mỹ trong lãnh vực quảng bá, giáo dục và điều trị bằng phương pháp Chánh niệm. Đến nay đã có hàng chục ngàn người đã được hưởng lợi từ chương trình huấn luyện và điều trị này. Kết quả cho thấy phương pháp chánh niệm giúp điều trị những bệnh về tim mạch, các chứng đau nhức mãn tính, rối loạn chức năng, dạ dày, ruột, chứng đau nữa đầu, cao huyết áp, mất ngủ, âu lo, hoảng loạn.
   Chánh niệm đang phát ở quy mô tầm quốc tế. Chánh niệm đã được áp dụng vào các lãnh vực y học, giáo dục và còn được thực hành  chánh niệm trong tổ chức ở quốc hội Mỹ nữa.
 Chánh niệm trong học đường Anh. Chánh niệm đang ngày càng được áp dụng trong hầu hết các trường học ở nước Anh như là một phương pháp để cải thiện sức khỏe và nâng cao thành tích học tập của học sinh. Mặc dù có nguồn gốc truyền thống từ Phật giáo, nhưng tính phổ biến của Chánh niệm trong các lớp học và nơi làm việc đã được lan tỏa ngày một nhiều và đa dạng tại xứ sở sương mù này..
   Vào tháng 12 năm 2013, Nghị viện Anh đã tổ chức một cuộc thảo luận về việc  áp dụng chánh niệm trong đời sống của người Anh. Về lợi ích của chánh niệm trong lãnh vực giáo dục, một nghị sĩ đã phát biểu: “ Chánh niệm có thể cung cấp những chỉ dẫn thực tiễn giúp mang lại một nền giáo dục ưu tú. Tình trạng khủng hoảng về sự chú tâm có thể được cải thiện nhờ chánh niệm. Chánh niệm đang được đào tạo để có được sự tập trung và sự tự nhận thức, đã chứng tỏ là các yếu tố nâng đỡ cho thành tích cao và tình trạng sức khỏe tâm thần tốt đẹp. Chánh niệm là một hình thái đào tạo tâm thức nhằm phát triển sự chú ý bền vững. Việc đào tạo về chánh niệm liên quan đến việc nuôi dưỡng khả năng dự phần vào bất kỳ điều gì đang diễn ra theo những cách có chủ đích và giữ được sự quân bình. Đó là khả năng hiện diện trong thời khắc  hiện tại, không bị truy đuổi bởi quá khứ hay lo lắng về tương lai khiến ta không thể tập trung vào hiện tại. Chánh niệm nhắm vào việc sống trong khoảnh khắc hiện tại và giải phóng tâm thức khỏi khuôn mẫu tư duy quen thuộc dẫn đến lo lắng, trầm uất, chánh niệm cũng mang lại khả năng giúp ta có những phản ứng sáng tạo hơn và đầy trực giác trước những thách thức mới. Xét về khả năng có mặt tại trung tâm sự chú ý trong mọi chức năng tâm thức, hình thức đào tạo ấy có những tiềm năng đáng kể cho sức khỏe tâm thần và thể chất, cho sự tự điều chỉnh và cho giáo dục.
  Nói chung, người Anh cũng đã được thuyết phục về lợi ích của chánh niệm trong trường học, và trên thực tế, “ Chánh niệm đang được sử dụng trong các các trường Trung tiểu học, cao đẳng và Đại học, để giúp trẻ em, các sinh viên và ban giảng huấn cải thiện sức tập trung, sự chú ý, bản lĩnh giải quyết xung đột và khả năng thấu cảm của họ ”. Tuy nhiên, cũng nên ghi nhận rằng đa phần những trường hợp đang áp dụng học hành chánh niệm ở Anh vẫn là các trường tư. Cũng theo trang mạng này, một số tổ chức giáo dục liên quan đến chánh niệm đang hoạt động trên Vương quốc Anh có thể kể đến gồm : Cung cấp tài liệu cho các trường học phù hợp với Chương trình sức khỏe Học đường Quốc gia. Nhóm này sử dụng giáo trình riêng do họ tự soạn với khẩu hiệu “ Dừng lại ! Thở ! Đang là ! ”.
  Một giáo trình gồm 16 bài học nhập môn về chánh niệm cho học sinh từ 7 đến 11 tuổi gồm các trò chơi, những băng ghi hình hướng dẫn và những hoạt động vận động có sự nhấn mạnh đến việc học tập dựa trên kinh nghiệm. Mỗi bài học kéo dài một giờ được xây dựng có tính liên tục, nhằm giới thiệu và thăm dò những phương diện mới của chánh niệm theo từng bài học. Trước hết học sinh được rèn luyện về tính có chủ tâm, sự chú ý và thái độ. Tiếp theo, học sinh được dạy về lòng biết ơn và xử lý những khó khăn về tư tưởng và tình cảm, sau cùng, học sinh được hướng đến sự tử tế đối với chính mình và tha nhân. Mục đích của chương trình là giúp học sinh có nhận thức, có lòng cảm thông với người khác, biết thương người, có thái độ vui vẻ, hòa mình vào thực tại đời sống của lớp học ”.
 Một chương trình “ toàn trường ” được xây dựng trên nền của khoa sinh học thần kinh và khoa tâm lý học tích cực, được kích hoạt bởi sự chú tâm tỉnh giác và là một chất xúc tác cho việc học tập về tình cảm xã hội. Chương trình này đi tiên phong trong việc huấn luyện cho lứa tuổi từ 4 đến 13. Chương trình gồm 15 bài học giúp cho học sinh phát triển sự hiểu biết tha nhân, có khả năng tự điều chỉnh trạng thái cảm xúc của mình và tập trung được sự chú ý.
 Có thể thấy người Anh họ đang tiếp tục bước những bước vững chắc để đưa chánh niệm vào học đường. Những cuộc nghiên cứu về kết quả của việc đưa chánh niệm vào học đường vẫn còn đang tiếp tục, nhưng trước những kết quả của việc áp dụng chánh niệm trong những lãnh vực khác của đời sống, người ta hy vọng việc áp dụng chánh niệm trong học đường cũng sẽ tốt đẹp. Tất nhiên người Anh vẫn còn phải giải quyết nhiều việc, như đào tạo giảng viên của ngành giáo dục này, ổn định giáo trình, xác định rạch ròi khuôn khổ tôn giáo và giáo dục Dù sao, họ cũng đã thực sự biết được vị ngọt của chánh niệm.
Suy nghĩ về học đường Việt Nam và việc đưa chánh niệm vào học đường :
 Cuộc sống với bao lo toan vất vã khiến chúng ta sống trong quên lãng, thất niệm quá nhiều. Chúng ta bị hoàn cảnh chi phối, bị xã hội khuôn đúc, bị tham dục sai sử, bị sân si xâm chiếm, cũng bởi không ý thức giờ phút hiện tại mình đang nghĩ gì, nói gì, làm gì nên gây đau khổ phiền não cho nhau. Chính lối sống xô bồ, chụp giựt vội vàng, mạnh được yếu thua làm cho con người vọng ngoại, điển đảo, tán động, phát sinh nhiều tâm bệnh. Do đó,  Chánh niệm là lương dược cần thiết chữa lành căn bệnh thời đại, có khả năng chuyển hướng tâm niệm cuồng vọng đảo điên, đưa chúng ta trở về thực tại với sự tỉnh thức.
   Người Việt tự hào là một dân tộc đã có trên hơn 2000 năm theo phật giáo, vậy mà chúng ta chưa phổ cập được việc đưa chánh niệm vào cuộc sống, trong khi các nước phương Tây họ đi sau chúng ta, chỉ mấy chục năm mà họ đã đến trước ta, họ gặt hái vô số điều lợi ích từ việc áp dụng chánh niệm vào học đường. Tuy nhiên nền giáo dục của chúng ta đang có nhiều điều cần chấn chỉnh nhưng cho đến nay, hình như chưa có ai quan tâm đến việc áp dụng một vài giáo lý căn bản của Phật giáo vào hệ thống nhà trường. Có những chuyện rất đơn giản có thể thực hiện được mà không gây ra cảm giác lớp học là nơi phổ biến tôn giáo.  Chẳng hạn,  chỉ cần trước khi bắt đầu bài học,  các học sinh để hai tay lên bàn, nhắm hờ mắt lại, hướng về phía bàn tay của mình, thở nhẹ vài hơi để tĩnh tâm trước khi đi vào chính khóa.. Chắc chắn, chỉ với những động tác đơn giản ấy, các em sẽ từng bước cảm nhận được những điều sâu sắc hơn, và không cần ai phải nói với các học sinh rằng đó là kỹ thuật Phật giáo. Chúng ta hy vọng rằng trong tương lai, những điều này sẽ từng bước được áp dụng trong trường học Việt Nam.
Sự lợi ích của chánh niệm :
  Các nước Phật giáo như Thái Lan, Lào, Campuchia mọi người dân họ thực tập chánh niệm một cách nhuần nhuyễn, nên khi gặp việc trắc trở xảy ra trong cuộc sống, những tình huống gần như bế tắc mà họ vần vượt qua được. Đơn cử câu chuyện đội bóng thiếu niên vừa qua của Thái Lan  đi lạc vào hang động và bị nước chận đường không thoát ra được trong 18 ngày đêm, không nước uống, không thức ăn, điện đài mà vẫn sống bình an, thì do đâu, là do các em thực tập chánh niệm trong những ngày đêm bị nước chận không ra được. Những thông tin về đội bóng thiếu niên của Thái Lan như sau :
  Thời gian tháng 6- 7 năm 2018. Đội bóng thiếu niên của Thái Lan một lần di dã ngoại vùng hang động, đã bị một cơn lũ cuốn trôi vào sâu trong hang động, không tìm được lối ra, và chỉ được cứu thoát sau một chiến dịch cứu nạn quốc tế cam go dài ngày. Mười hai đứa trẻ và người thầy huấn luyện viên đã ở trong hang động ẩm ướt suốt 18 ngày đêm đói và lạnh, cho đến khi được cứu hộ hoàn thành ngày 10/7-2018. Cuộc cứu hộ cam go của Thái Lan và Quốc tế, bỏ rất nhiều công sức và hy sinh tính mạng (chết một người)  làm cho cả thế giới hồi họp theo dõi diễn tiến từng giờ. Nhưng bài học để lại cho đội rất bổ ích. Trước hết bọn trẻ đã vẫn định tâm, không hoảng sợ, càng yêu thương chia sẻ lẫn nhau, và đó chính là nhờ thiền định, từ người thầy trẻ biết thiền đã dạy cho các em vô cùng hiệu quả trước mắt Sau khi được giải cứu, các em trở về cuộc sống bình thường. Các em xuất gia có thời hạn để tu tập và cúng dường công đức cho những người đã hy sinh để cứu các em.
  Thầy và trò đội bóng được sống trong truyền thống Phật giáo, cho nên khi gặp việc bất trắc xảy ra, văn hóa Phật giáo và thiền định đã thâm nhập vào tâm trí các em, cho nên các em có thể sống tự tại trong môi trường khắc nghiệt.
   Giáo dục Phật giáo đưa vào nhà trường và gia đình là nền tảng đạo đức cho giới trẻ, là bức tường phòng vệ chống lại những sa đọa vật chất và tinh thần trong xã hội. Mặc dầu Thái Lan là nước có nền kinh tế thị trường sôi động, có ngành du lịch phát triển hàng đầu châu Á. Nhưng họ vẫn giữ được truyền thống giao dục tâm linh cho thế hệ trẻ ./
  (Trích : Đưa chánh niệm vào trường học : Hoa Tâm Thủy  Mẹ ơi ! đừng để con ngủ :Cao Huy Hóa  VHPG- số : 305- 15-9-2018)
{]{



QUÁN CHIẾU VỀ CÁI CHẾT

 Hạnh phúc và khổ đau là hai mặt đối lập nhau trong cuộc đời con người, từ xa xưa đến nay, các nhà tôn giáo, các triết gia, các nhà khoa học luôn đi tìm cho mình và mọi người con đường hạnh phúc và tránh con đường khổ đau. Tâm lý chung con người là muốn cầu an vui hạnh phúc và xa lìa khổ đau. Nhưng việc tránh khổ cầu an chưa có một vị giáo chủ tôn giáo nào đưa ra phương pháp cụ thể và thiết thực, cho đến các triết gia, các khoa học gia cũng vậy. Họ chỉ có đem lại những nổi khổ niềm đau nhiều hơn là an lạc,và làm tâm trí rối loạn hơn là an tịnh. Những lý thuyết và việc làm của họ chưa thực sự tìm ra con đường chấm dứt khổ đau cho con người một cách tuyệt đối hoàn hảo. Chỉ có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người duy nhất tìm ra cho nhân loại con đường thoát khổ được an một cách tuyệt đối mà thôi.
    Con người ai cũng ham sống sợ chết, cho đến các loài cầm thú cũng vậy, đều cùng chung tâm trạng ưa sống sợ chết. Cho nên sanh, già, bệnh, chết là bốn sự thật khổ đau mà con người muôn đời phải tuân chịu, không một ai tránh khỏi, không một ai trường sinh bất tử. Nổi sợ chết là nổi sợ lớn nhất của con người không ai qua mặt thần chết. Vậy chết là luật công bằng nhất  mà ai cũng phải chết, dù có sợ hay không sợ cái chết là cái rất bình đẳng của mọi người và chúng sanh, khỏi phải đòi hỏi công bằng.
   Người đến với đạo Phật là người tìm cho mình cách sống bất tử không sợ chết, và nếu có chết chỉ chết một lần của thân tứ đại này thôi. Vì người tu tập theo Phật giáo, y theo lời Phật dạy thì sẽ đạt được cái lý vô sanh, chứng nhập được tự tánh không sanh không diệt, trừ được tham dục chấp thủ thì ra khỏi con đường sống chết khổ đau, không còn sống trong vòng mê muội, chết trong hoài nghi nữa.  Đức Phật đã dạy cho dân chúng Alavi một bài học về cái chết.
   Một hôm Đức Phật đến Alavi, dân chúng Alavi rất hạnh phúc vui mừng khi được Phật đến xứ sở họ. Dân chúng Alavi thỉnh Phật thọ trai. Thọ trai xong, Đức Phật nói một bài pháp ngắn về  cái chết. Đức Phật nói : “ Này các người hãy quán niệm về cái chết, các người hãy tự nhủ rằng : Đời sống của ta mong manh, cái chết của ta là điều cố nhiên, chắc chắn ta sẽ chết, cái chết sẽ chấm dứt đời ta. Đời sống không cố định, cố định là cái chết.  Ai không quán niệm về cái chết, sẽ sợ hãi khi giờ lâm chung đến, và sẽ chết trong sợ hãi kinh hoàng, như một người đi đường gặp rắn, không có gậy trong tay, run rẫy dường nào !
  Tại làng Alavi cô bé con nhà thợ dệt năm 13 tuổi đã được nghe Đức Phật chỉ dạy về cái chết. Nay duyên lành Phật lại đến làng mình thuyết pháp, cô bé chủng bị sẳn sàng để tham dự, mặc dù cha cô bé bảo phải hoàn thành các thoi chỉ sợi để kịp giao hàng cho khách. Nhưng cô quyết tâm cao độ không phụ lời cha dặn và vẫn hoàn thành ý nguyện của mình là đi gặp Phật.   Năm nay cô bé 16 tuổi con nhà thợ dệt đến gặp Phật nghe pháp. Khi cô bé đến diện kiến trước Đức Phật, Phật  mới hỏi cô bé bốn câu hỏi. Đức phật đã thấu rõ tâm ý của cô bé bèn hỏi rằng :
Con từ đâu đến đây ?
Bạch Thế Tôn con không biết,
Con sẽ đi về đâu ?
Bạch Thế Tôn con không biết,
Con biết hay không biết ?
Bạch Thế Tôn, con biết
Con không biết phải chăng ?
Bạch Thế Tôn, con không biết.
Trong 4 câu hỏi này chỉ có 2 từ KHÔNG và BIẾT. Không ở đây là không biết từ đâu sanh ra, chết đi về đâu, và chết lúc nào. Còn  Biết là biết mình trước sau gì cũng phải chết .
   Trước sự thắc mắc của thính chúng, Ngài hỏi cô bé.
- Này con ! khi Ta hỏi con từ đâu đến, vì sao con trả lời không biết.
-  Bạch Thế Tôn ! Ngài cũng biết rằng con từ nhà cha con, là con của người thợ dệt đến đây. Vì thế khi Ngài hỏi con từ đâu đến, con hiểu rằng ý của câu ấy là con từ đâu sanh ra đây. Nhưng con chẳng biết con từ đâu sanh đến nơi nầy.
  -Ngài hỏi tiếp :  Khi Ta hỏi con đi về đâu, vì sao con trả lời không biết ?
 -Bạch Thế Tôn ! Ngài cũng biết con đến từ xưởng dệt nhà cha con với giỏ thoi trên tay. Nên khi Ngài hỏi con đi đâu, con hiểu ý câu ấy là khi rời nơi đây con tái sanh về đâu. Nhưng đối với con, sau khi chết con chưa biết sanh về đâu.
  -Khi Ta hỏi, con biết hay không, vì sao con trả lời con biết ?
   -Bạch Thế Tôn ! vì con biết rằng chắc chắn con sẽ chết, nên con đáp như thế.
- Vì sao Ta hỏi con không biết hay chăng, con trả lời không biết ?
 - Bạch Thế Tôn !  điều con biết chắc chắn là con sẽ chết, nhưng chết vào lúc nào, vào ban đêm hay ban ngày, buổi sáng hay buổi trưa, khi nào con không thể biết, nên con trả lời không biết.
 Đức Phật dạy thính chúng rằng: Với người không có tuệ nhãn, họ đui mù, chỉ khi nào người có tuệ nhãn mới thấy được điều này, rồi Ngài nói bài kệ :
  Đời này thật mù quáng
  Ít kẻ thấy rõ ràng
  Như chim thoát khỏi lưới
  Rất ít đi thiên giới
  Quả thật câu chuyện của cô bé cho chúng ta  thấm thía ý nghĩa của từng lời giải đáp, bận lòng chi quá khứ từ đâu đến và lo lắng chi ta chết về đâu. Sự có mặt của ta từ vô thủy đến vô chung, không có điểm khởi nguồn và kết thúc, cuộc sống chỉ có thực tại là bây giờ, ở đây và một sự thật hiển nhiên, ai rồi cũng sẽ chết. Tuy nhiên, chết lúc nào ở đâu và chết như thế nào cũng là điều không quan trọng nữa, bởi lẽ chính cái hiện tại mới là yếu tố quyết định con đường tái sanh. Nhưng cũng vì thế gian này “thật mù quáng” không tuệ nhãn cho nên cứ mãi quẩn quanh trong bể khổ trầm luân. Chính sự suy niệm về những điều vô nghĩa trong cuộc sống làm tâm trí họ rối ren, mù quáng, tức như chim tung lưới chỉ biết tung cánh bay trong phương trời vô định, không biết đích điểm là đâu. Con người không ai là bất tử trường sanh, suy niệm về lẽ thật cuộc đời, sanh, già, bệnh, chết, luôn mang ý nghĩa thiết thực. Một khi trong tâm luôn nghĩ về cái chết sẽ đến, lẽ tất nhiên chúng ta sẽ sống có ý nghĩa từng ngày chánh niệm trong từng phút từng giây và quán chiếu tu tập trong từng lời dạy của Đức Phật, đây chính là nền tảng cho hạnh phúc hiện tại và sự chứng đắc giải thoát trong tương lai..
  Mỗi ngày qua là mạng sống con người giảm dần, giống như con bò sắp bị giết, con bò  được dắt từ chuồng trại đến lò mỗ, mỗi bước chân giơ lên là mỗi bước gần đến bị giết, gần đến cái chết. Cũng vậy, đời sống con người cũng thế, như con bò sắp bị giết, con người thật nhỏ bé so với vũ trụ bao la, không đáng kể, nhưng lại có nhiều đau khổ, nhiều phiền muộn, nhiều ưu não. Vì thế hãy giác ngộ, hãy làm những điều lành, hãy sống phạm hạnh, với người đã sanh không có bất tử.  Chính vì thế, với đạo Phật vấn đề trọng tâm không phải là vũ trụ thế giới mà là con người. Mục đích của Đức Phật dạy là đoạn tận khổ đau đem lại an lạc hạnh phúc cho con người. Tính thiết thực hiện tại của Phật giáo không phải ở giáo lý mà còn ở thái độ và hành động của người con Phật, đó là lộ trình tu tập của chính bản thân mỗi người.
   Đức Phật nhấn mạnh sự nổi lực của tự thân tu tập là điều quan trọng, là điều kiện cần thiết để đi đến giải thoát an lạc Niết bàn.  Vấn đề giải thoát giác ngộ là do sự nổ lực của mỗi người chứ không phải cầu xin mà được. không một đấng thiêng liêng nào ban cho chúng ta sự giác ngộ, mà chính tự thân mỗi con người phải nổ lực để giác ngộ. Đức Phật dạy rằng :  “ Hãy tự mình làm ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một cái gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một cái gì khác”.
   Đức Phật đã  xác định cầu xin và ước vọng không có lợi ích gì.  Ngài nêu rõ: “ Nếu có người làm 10 điều ác hạnh, rồi một quần chúng đông đảo đến cầu xin, cầu khẩn chắp tay mong rằng, người ấy sẽ được sanh thiện thú, thiên giới. Sự cầu khẩn như vậy vô ích. Vì người ấy làm 10 điều ác hạnh sẽ bị rơi vào địa ngục. Như một người quăng một tảng đá vào hồ nước, rồi một số đông đảo người đến cầu xin, cầu khẩn chấp tay cầu rằng :  Tảng đá ấy sẽ được nổi lên, sự cầu khẩn như vậy là vô ích. Vì tảng đá ấy với sức nặng của nó không thể nổi lên, không thể trôi vào bờ như lời cầu xin của quần chúng ấy. ”
  Các phương pháp tu tập của đạo Phật, chính là những phương pháp giúp cho con người trở về với nội tâm mình để giải quyết một cách căn bản mọi ưu tư và bất an của nội tâm. Khổ đau chỉ có mặt trong hiện tại, do đó quả quyết  khổ đau cũng được bắt đầu từ trong giờ phút hiện tại. Đức Phật dạy : “ Này các Tỳ kheo, có một con đường độc nhất làm cho chúng sanh thanh tịnh, vượt qua ưu sầu, đoạn trừ hết khổ đau, thành tựu chánh lý, chứng đắc Niết bàn. Đó là Tứ niệm xứ, phương pháp tu tập Tứ niệm xứ là con đường trở về với chính mình, quán chiếu tự thân, tu tập tự mình làm hòn đảo của chính mình. Như vậy tứ niệm xứ, là một nếp sống giúp cho chúng sanh được thanh tịnh trong sạch, khỏi các cấu uế. Với nếp sống như vậy, vị hành giả vượt khỏi sầu bi, chấm dứt ưu khổ, tức sống an lạc hạnh phúc trong chánh pháp. Với nếp sống hỷ lạc định tĩnh, vị hành giả phát triển trí tuệ, trí tuệ được chính lý duyên sanh, duyên diệt của các pháp và cuối cùng chứng ngộ Niết bàn.
  (Trích :Hạnh phúc thực tại giữa thế giới vô thường : Huỳnh Thị Cẩm Nhung- VHPG số 305- 15-9-2018)

{]{


THAY ĐỔI SẮC ĐẸP

Mỗi người sinh ra trong đời ai cũng có một hình tướng khác nhau, người cao, người thấp, người lùn người béo, người gầy, người đủ chân tay người thiếu chân tay, người da vàng, người da đen, da đỏ, người tóc quăn người tóc quắn, người tóc đen người tóc vàng; người mặt tròn người mặt dài, người má đầy người má táp v.v...hình tướng khác nhau, nhưng tâm lý chung ai cũng muốn mình đẹp, đặc biệt là phái nữ nhiều hơn phái nam, nên có nhiều người tìm cách làm cho mình xinh đẹp. Người đã xinh đẹp lại muốn làm cho xinh đẹp thêm bằng cách trang điểm, sửa soạn hay phẫu thuật thẩm mỹ.  Nhưng dù có làm cho đẹp cũng chỉ đẹp bên ngoài thôi, muốn có cái đẹp thật sự phải là cái đẹp bên trong, đó gọi là đẹp nết, còn gọi là đức hạnh. Người có cái đẹp toàn diện, thì phải đẹp cả hai bên ngoài lẫn bên trong. Đẹp bên ngoài làm thì phải tốn kém tiền của, nhưng không đẹp được bền lâu mà còn nguy hiểm đến tính mạng và sức khỏe nữa. Còn cái đẹp bên trong không tốn kém, không nguy hiểm tính mạng và ảnh hưởng sức khỏe, lại bền lâu tâm lý không lo lắng. Sau đây phân tích các cách sửa đổi sắc đẹp :
     Xưa và nay nhu cầu sửa đổi sắc đẹp luôn diễn ra với những người thích sửa đổi sắc đẹp cả phái nam lẫn phái nữ. Ngày nay kỷ thuật y học phát triển việc sửa đổi sắc đẹp lại càng dễ dàng thuận tiện hơn, nên có rất nhiều thẩm mỹ viện  ra đời đáp ứng nhu cầu làm đẹp của mọi người. Các bác sỹ có thể phẫu thuật thay đổi toàn bộ gương mặt cũng như hình thể làm cho con người từ xấu xí trở thành đẹp, từ mất cân đối  thành cân đối hơn. Ngày xưa làm đẹp rất đơn giản, như lông mày rậm thì tỉa thành lông mày lá liễu. Bây giờ có phương pháp xăm chân mày, xăm một lần thì sử dụng mãi. Rồi mắt một mí  có thể sửa thành hai mí, sống mũi thấp thì nâng lên cho cao, môi thâm thành môi đỏ, môi trái tim. Ngực nhỏ nâng lên thành ngực lớn. Bụng mỡ nhiều hơi to thì hút mỡ cho có eo, móng tay dài, nhọn, màu hồng, màu đỏ,màu tím, màu trắng v.v đủ loại. Từ miệng, mũi, môi, răng, mí mắt, lông mi, lông mày, râu coi nón, râu mép, cằm, má, nốt ruồi, trái tai, tóc, làn da v.v... người ta có thể  thay đổi tùy theo ý muốn của mỗi người. Đó là trên cơ thê, còn ngoài cơ thể nào là áo, quần, khăn, mũ, giày dép, son phấn, nước hoa, cà vạt v.v... cũng thuộc loại trang điểm làm đẹp. Ngày nay người ta còn chuyển đổi giới tính từ nam qua nữ, từ nữ qua nam nữa, tất cả các cách làm đẹp người phẫu thuật thẩm mỹ phải chịu các việc như sau :
1/ Phải chịu đau đớn khi phẫu thuật
2/ Phải tốn tiền của
3/ Phải lo lắng cho những sự bị biếng chứng
4/ Cảm giác không bình thường sau khi phẫu thuật thay đổi sắc đẹp
5/ Tâm lý lo lắng khi các hình thức thời trang thay đổi
6/ Khi tuổi lớn cơ thể thay đổi những vật đưa vào cơ thể không phù hợp như trước nữa.
7/ Bệnh tật sẽ phát sinh do những thứ vật ghép vào không phù hợp với cơ thể.
  Mỗi khi phẫu thuật, hoặc xăm tất nhiên phải chịu đau đớn, độ nguy hiểm là sẽ nhiễm trùng, hoại tử đưa đến cơ thể sẽ bị tàn phế suốt đời, đôi lúc dẫn đến tử vong là chuyện thường. Nâng ngực tuổi trẻ chưa có gia đình, không nên phẫu thuật, vì về sau sẽ ảnh hưởng không tốt cho việc con bú. Phẫu thuật không những làm lãng phí tiền bạc mà còn làm cho cơ thể đau đớn, tự mình làm khổ mình vì phải chịu nhiều đau đớn là điều không thể tránh khỏi, đó là điều người đi phẫu thuật phải đối mặt.  Sự lo lắng, là phải mang trong mình một vật giả tạo và phải lo lắng về sự biếng chứng suốt đời. Cơ thể đang bình thường, lại đưa vào một chất liệu khác, chất trơ trung tính, khiến trên mũi luôn có cảm giác khó chịu. Ngực cũng vậy, tự nhiên thoải mái, lại thêm một cái túi độn vào trong đó, trong mình mang thêm một vật giả, cảm giác thấy không bình thường, chưa nói đến việc vật độn đó có thể bị cơ thể đào thải hoặc bị biến chứng về sau. Sự thay đổi này không đẹp bền lâu mãi được, một thời gian sau nó sẽ phai tàn, không còn thích hợp và đẹp nữa. Lúc đó phải xóa đi hoặc phải phẫu thuật lại, cũng đau đớn và tốn kém. Về mặt tâm lý, bây giờ người ta thích chạy theo mốt này, thời gian sau người ta lại đưa ra mốt khác, những hình thức ngày trước cho là đẹp ngày nay không còn phù hợp nữa, bây giờ trở nên lỗi thời. Cũng như thời trang quần áo, ngày trước người ta chọn kiểu quần ống loa ống túm, áo dài khăn đóng. Ngày nay họ lại chọn quần rin, quần cụt, ống ngắn, áo đầm,váy ngắn v.v...
   Thời trang thay đổi thì tâm lý con người cũng thay đổi. Quần áo, khăn lượt thay đổi thì dễ chứ cơ thể thay đổi không  dễ dàng chút nào. Cho nên tốt hơn hết là chúng ta không nên chạy theo xu hướng làm đẹp mà đi phẫu thuật thẩm mỹ để sửa sắc đẹp.  Ông bà ta nói : “cái nết đánh chết cái đẹp”, con người phần đông chú ý làm đẹp cơ thể bên ngoài, chứ ít khi quan tâm làm đẹp bên trong tâm hồn. Cái đẹp bên ngoài không quan trọng bèn cái đẹp bên trong, cái đẹp bên trong mới thật sự là đẹp, đẹp nết quan trọng hơn đẹp người. Đẹp nết là đẹp tâm hồn, là đẹp của đức hạnh.
   Người đến với đạo là người muốn làm đẹp cho mình, muốn làm cho mình đẹp nết, muốn làm cho mình trở thành người tốt, một người có đức hạnh, một người cao thượng, một người khác với mọi người sống xô bồ ngoài xã hội.  Vì thế mới phát nguyện quy y thọ giới ăn chay, niệm Phật tụng kinh, học giáo lý, dự các khóa tu, cúng dường bố thí, làm từ thiện v.v đó là những cách làm đẹp nết, nâng cao đức hạnh.
 Con người có hai thành phần gọi là xấu và đẹp, thành phần đẹp thân mà xấu tánh, thành phần xấu người đẹp tánh. Xấu thân không quan trọng, xấu tâm, xấu tánh,xấu nết mới quan trọng. Vậy đến với đạo Phật dự tu các khóa là cách làm đẹp tâm tánh, đẹp nết đẹp hạnh. Cái xấu của tâm tánh nết na là những thói hư tật xấu như : tham lam, bỏn sẻn, sân giận,si mê, tật đố, cống cao, ngã mạn, bất hiếu bất trung, bất nghĩa, bất lương, ích kỷ, ganh tỵ, giả dối. Đến với đạo là phương pháp, là con đường chuyển hóa thói hư tật xấu thành những tánh tốt, nết na thuần thiện, những việc làm hiền thiện lợi mình lợi người, là cách làm đẹp người đẹp nết. Không còn tham sân si ích kỷ như xưa nữa. Nhưng tánh tham lam ích kỷ tật đố v.v là những thứ độc tố nằm trong tâm, nếu không chuyển hóa lâu ngày nó sẽ làm hại mình và người khác, khổ mình khổ người khổ cả hai, đời nay và đời sau.  Mỗi khi cơn sân giận khởi lên là mình chịu khổ trước, mặt đỏ, môi thâm, chân tay run rẩy, nói năng không được ôn hòa, người khác nhìn thấy cũng thất kinh không vui chút nào, không an lạc không bình an, không khí trở nên ngột ngạt v.v... Khi tâm bị giận làm ô nhiễm thì thân thể cũng ô nhiễm theo. Nếu chuyển hóa được những độc tố này trong tâm thì thân thể được  nhẹ nhàng khinh an. Đó là lý do tại sao người tu học phải loại trừ những tánh hư tật xấu càng sớm càng tốt.
  Tham lam là một tánh xấu, vì những người tham lam trộm cắp, hối lộ, lừa gạt lúc nào cũng sống trong trạng thái lo sợ pháp luật. Quả báo hiện tại là bị người chê cười, luật pháp trừng trị, quả báo tương lai là nghèo khổ, túng thiếu, đọa làm thân trâu ngựa kéo xe chở nặng để đền trả nợ cũ, có thể bị quả báo tay chân không đầy đủ, lành lặn. Người tu học hiểu biết luật nhân quả không dám tham lam trộm cắp và làm các việc ác độc thất đức. Thay vì không tham lam, làm các việc từ thiện, giúp những người nghèo khó, hoạn nạn, đau ốm bệnh tật v.v...  Nếu không có vật chất giúp đỡ thì đem kiến thức sự hiểu biết của mình chia sẻ cho người, nhất là sự hiểu biết về Phật pháp. Chia sẻ lời Phật dạy để người ta hiểu Phật pháp và họ chuyển hóa được những nổi khổ niềm đau, đó là pháp thí. Hoặc gặp những người sầu khổ, lo âu, sợ sệt, phiền muộn, ta đến động viên an ủi để họ bớt lo bớt khổ đó gọi là bố thí vô úy, tức ban cho họ cái không lo không sợ.
   Khi biết tu tập ta mở rộng lòng mình giúp đỡ nhiều người khác, tức là ta có nhiều quyến thuộc thân thiết, được nhiều người mến thương. Còn nếu cả đời chỉ biết lo cho riêng mình thì không ai thương cả. Khi mở rộng lòng mình làm lợi cho nhiều khác, thì tự nhiên  nhiều người dành tình thương cho mình. Còn như cứ bo bo ích kỷ, chỉ biết sống cho riêng mình, thì suốt đời không làm được việc gì đáng giá giúp ích cho đời, của cải chết rồi để lại chứ có ai đem theo được . Người như thế là người sống cuộc sống cô độc.
 Một người dù có ngoại hình xinh đẹp, mà tâm lý tham lam, bực bội, thô lỗ cộc cằn, cống cao ngã mạn, ích kỷ hẹp hòi, ganh tỵ giả dối, bất hiếu, bất trung, bất nghĩa, thì chắc chắn không ai ưa thích và gần gũi, không ai dám đến gần. Ngược lại người tuy không có ngoại hình đẹp, nhưng lúc nào cũng tươi cười, hòa nhã, nhẹ nhàng êm dịu, tấm lòng luôn rộng mở giúp đỡ người khác, không chơi bời, cờ bạc rượu chè say sưa, luôn khiêm hạ, lễ phép, kính trên nhường dưới, tôn trọng người khác, khoan dung, hoan hỷ với mọi người. Sống chân thật từ lời nói đến việc làm, luôn nhớ ơn cha me, thấy tổ và những người có công đức, thì chắc chắn sẽ được nhiều người quý mến và giúp đỡ, thương yêu, tôn trọng và tin tưởng.
 Cổ nhân nói : “tướng tự tâm sanh”, nghĩa là nếu tâm tốt thì dẫn đến tướng tốt, tướng sẽ chuyển thành đẹp người. Người có tâm tốt thì ai cũng thương yêu, quý mến, còn người có tướng đẹp nhưng tâm xấu thì không phải là người đẹp đúng nghĩa, thường bị người ghét bỏ lánh xa. Vì thế việc học phật, làm theo lời Phật dạy là làm con người đẹp toàn diện, đẹp người đẹp nết để làm lợi ích cho mình và mọi người, cũng là thể hiện một người Phật tử chân chính, đem lại lợi đạo ích đời./.
   Trích từ tập: Đẹp người đẹp nết : TT Thích Chân Tính.
{]{

                      TẬP BUÔNG
          Mỗi ngày tôi tập một chữ “buông”
Buông thương, buông ghét, buông buồn, buông vui
          Buông cho nó khỏe người ơi
Buông cho lòng dạ thảnh thơi nhẹ nhàng
                         {]{
          Xin tặng cho nhau một chữ  “ nhàn ”
          Sống đời yên ả khỏi lầm than
          Cầu mong tất cả đừng toan tính
          Để kiếp con người bớt trái ngang
                             {]{

IM LẶNG

Im lặng không phải là hèn
Im lặng là để luyện rèn thân tâm
Im lặng không phải đứng nhìn
Im lặng là để quán mình tịnh tu
Im lặng không phải là ngu
Im lặng không oán không thù thảnh thơi
Im lặng nhìn đất nhìn trời
Im lặng miệng nở nụ cười Chân Như
               TÂM AN VẠN SỰ ĐỀU AN

BUÔNG XẢ

          Thương ghét trong lòng mãi vấn vương
          Hơn thua được mất chuốc thêm phiền
          Vui buồn chẳng qua như gió thoảng
          Tốt xấu khen chê chỉ một lời
          Quẳng gánh lo đi nhẹ cuộc đời
          Hành trang chuẩn bị kiếp lai sinh
          Công danh tài sắc như sương khói
          Buông xả đi rồi sống thảnh thơi
                   ĐÓN TỈNH
          Giữa không và có chẳng bao xa
          Xưa nay Sống Chết một thôi mà
          Hoa nở năm nay hoa năm trước
          Trăng sáng bây giờ trăng tối qua
                 Tuệ Trung Thượng Sỹ                     
            CHÚC NHAU
          Chúc mọi người đẹp như hoa Hồng
          Thành công như hoa Cúc
          Hạnh phúc như hoa Mai
          Phát tài như hoa Pháo
          Độc đáo như hoa Lan
          An khang như hoa Huệ
          Trí huệ như hoa Sen
                   {]{

KHI ĐẾN TUỔI VỀ GIÀ

Con yêu dấu ! khi đến tuổi về già
Bố mẹ không còn tươi như hoa
Mà nhăn nhó, mặt cau, mắt ướt
Con sẽ thấy không còn tươi như trước
Nhưng cũng đừng cau có lại mẹ cha
Vì khi xưa con khóc oe vang nhà
Mà bố mẹ vẫn tươi vui như hội
Nếu bố mẹ tay run không cầm nổi
Một tô cơm mà đánh đỗ ra nhà
Xin con đừng gắt mắng hạn người già
Vì lúc bé con vẫn thường rơi vãi
Bố mẹ vẫn khom lưng mà nhặt lại
Từng miếng cơm chút thịt con làm văng
Mẹ vừa cười, vừa nhìn con lăng xăng
Nghe con xin lỗi mà ấm lòng như tết
Nếu bố mẹ rồi ít năng tắm rửa
Con cũng đừng bịt mũi dang xa
Bởi khi xưa mẹ phải gọi cả nhà
Mới tắm được cho con một lát
Con nghịch chơi người dính đầy bụi cát
Mực lấm lem, tay chân bẩn như ma
Mẹ mới dội nước, con đã khóc la
Không chịu tắm, không chịu vào bồn rửa
Mãi lớn khôn mới đi tắm một mình
Nếu bố mẹ không theo kịp văn minh
Máy móc mới, đủ hình đủ kiểu
Con cũng đừng cười chê ông già hủ lậu
Mà nên giảng cho bố mẹ cách dùng
Vì năm con hai tuổi, cái gì con cũng lạ
Bố mẹ phải cầm tay con chỉ dẫn
Rồi lớn lên bố dạy con cẩn thận
Đừng nghịch máy này, đừng đụng vật kia
Bố dạy con từng chút từng ly
Con đã nở những nụ cười hạnh phúc
Nếu bố mẹ nhớ quên tùy lúc
Đừng cằn nhằn bố mẹ khù khờ
Biết bao lần con để quên sách vở
Bố phải chạy như bay trở về nhà
Mẹ bố đã từng bao đêm quên mệt
Ngồi bên con, nghe hơi thở điều hòa
Dù cho con khó chịu khóc la
Bố mẹ vẫn dấu yêu con trên hết
Và bây giờ khi tới gần cõi chết
Vật dụng mang theo vẫn chỉ bóng hình con
Còn chút hơn tàn, bố mẹ tặng con
Niềm hạnh phúc sướng vui bất tận
Thôi vài dòng của mấy người sắp lẫn
Bố mẹ sẽ quên đã từng tặng hành trang
Kiến thức, thông minh, sắc đẹp con đang mang
Những hiểu biết về cuộc đời gian khó
Những can đảm chai lì không biết sợ
Để con thành người tài giỏi như hôm nay
Những bằng cấp con có trong tay
Là kết quả của bao đêm mẹ khóc
Là rụng rơi của bao nhiêu sợi tóc
Của ngàn ngày đưa đón con đi
Thôi nói làm chi, nhắc làm chi ?
Mẹ đang nói hãy đừng làm con mệt
Nghỉ đi con để vui thỏa ngày mai./.
{]{

TỰ ÁI VÀ HIỂU LẦM

Chuyện tự ái và hiểu lầm  là chuyện cơm bửa trong cuộc sống hằng ngày của con người. Mỗi người ai cũng đều có tự ái theo cách riêng của mình, không tự ái nào giống tự ái nào. Mà hễ tự ái khởi lên đều nguy hiểm và gây hiểu lầm dẫn đến chết người, hoặc gây chia rẻ đấu tranh, thị phi v.v.. hậu quả là mất đoàn kết mọi sự bất thành. Cho nên chúng ta đừng  xem thường tự ái xảy ra hằng ngày với ta.
 Thiếu phụ Nam Xương ngày xưa là một điển hình về câu chuyện tự ái mà phải quyên sinh nơi dòng sông để rồi thiệt mạng, gây cảm xúc đau đớn cho mọi người.
   Vào thời vua Lý Thánh Tông (1054-1072) ở huyện Nam Xương, (nay thuộc huyện Lý Nhân) tỉnh Hà Nam, miền Bắc có cô thiếu nữ nết na  xinh đẹp, tên là Vũ Thị Thiết lấy chồng tên là Trương Sinh, người cùng thôn Vũ Điện. Hai người được cha mẹ hai bên chấp thuận thành nên duyên vợ chồng. Hai vợ chồng sống chung với nhau không được bao lâu, chàng Trương phải theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, lên đường nhập ngũ tòng quân, thực hiện nghĩa vụ cao cả bảo vệ đất nước, và để lại người vợ trẻ có mang hơn hai tháng ở nhà.
  Sau ba năm nghĩa vụ hết hạn, chàng Trương trở về, và đứa con cũng đã hơn hai tuổi. Không có niềm vui sướng nào bằng khi gia đình đoàn tụ. Vừa đặt chân về  đến nhà, chàng Trương có cảm giác buồn vui lẫn lộn. Nỗi buồn lớn nhất của chàng là mất mẹ khi chàng còn trong quân ngũ và niềm vui sướng nhất là được về sum họp với gia đình sau bao nhiêu năm xa cách. Chàng Trương liền bảo với vợ đi chợ mua phẩm vật và nhang đèn  về để làm mâm cơm cúng tạ ông bà tổ tiên  và vong linh người mẹ.
  Trong khi người vợ đi chợ mua đồ, người chồng ở nhà giữ con, chơi với đứa con, anh ta tập làm quen với đứa bé nhưng đứa bé hai mắt nó nhìn thao tháo lấy làm lạ lùng, không chút thân thiện với chàng Trương. Thấy vậy mà chẳng nói gì, anh nghĩ chắc nó vừa thấy vừa  lạ nên nó sợ. Một lúc đứa bé thấy vắng mẹ, nó òa lên khóc kêu mẹ ! Chàng Trương thấy con khóc liền đến dỗ con. Lần đầu tiên trong đời, đứa bé được nghe chàng ta gọi là “con” và xưng là “bố”.
  Thôi, nín đi con, đừng khóc tí nữa mẹ về. Nào đứng lên con, đi chơi với bố, mẹ sắp về đó ..
   Đứa bé giương đôi mắt nhìn người bố ngơ ngác. Trong đầu nó nghĩ có một người bố đen đen, đêm nào cũng trở về với hai mẹ con nó kia mà. Người bố ấy không bao giờ nói, nhưng lần nào mẹ nó cũng bảo đấy là bố nó thật. Nó đã tin theo và trả lời với chàng Trương rằng :  “ Ô  ông  không phải là bố của tôi. Bố tôi đến tối mới về lận !  ”.
Chàng Trương hỏi,   Ai bảo thế ?
Đứa bé giương đôi mắt đáp : Mẹ nói thế !
Cơn cảm xúc tức giận nổi lên trong lòng chàng Trương, máu dồn lên mặt, hai tai ù đặc, tay chân run rẫy, nét mặt hằm hằm, cộc cằn thô lỗ. Khi người vợ đi chợ về chàng Trương không thèm nhìn tới vợ, không nói chuyện với vợ, Anh lạnh nhạt vô cùng.
 Nàng thiếu phụ Nam Xương buồn bã và đau xót vô cùng. Nàng không hiểu tại sao thái độ của chồng thay đổi như thế từ khi nàng đi chợ mua sắm về Nàng thầm lặng chịu đau khổ một mình suốt một thời gian. Chị nấu cơm, anh ấy không ăn, Anh bỏ nhà đi la cà ở các quán rượu tới khuya mới về. Ngày nào cũng vậy. Chị chịu không nổi. Cuối cùng, nàng đi tìm tới cái chết là gieo mình xuống dòng sông. Nghe tin vợ chết anh mới trở về nhà.
  Vợ mất rồi, mỗi tối anh phải dỗ con, đêm đến căn nhà tối om, anh đi tìm đèn châm lửa, vừa thắp cây đèn dầu cho sáng nhà, cái bóng của anh cũng hiện rõ trên vách thì đứa bé dụi mắt đột nhiên la lớn : “Ô ! Mẹ ơi, bố kia kìa !  Mẹ ơi, bố kia kìa !” và nó chỉ vào cái bóng của bố nó trên tường và chạy lại ôm chầm lấy cái bóng. Lúc này, tim chàng Trương thắt lại, nước mắt chàng ứa ra mới hiểu được sự thật là không hề có một ai khác cả.
  Sự thật là trong những tháng ngày chàng Trương đi vắng, buổi tối đứa bé hay hỏi mẹ : “Bố đâu ? ”, người thiếu phụ thường chỉ vào cái bóng của mình trên vách, nói đùa với con :“Bố kia kìa !”.
 Khi hiểu được lời con nói, chàng Trương mới lạnh toát cả người. Tất cả chỉ là sự nhầm lẫn nhưng đưa đến hậu quả giết mất người vợ đảm đang và chung thủy.
   Chàng Trương lập đàn cầu siêu cho người vợ chết oan và thề nhất quyết sống một mình cho đến trọn đời lo nuôi con học hành thành đạt
 Đến đời Hậu Lê, vua Lê Thánh Tông, là vị hoàng đế trị vì lâu nhất thời Hậu Lê 38 năm, có dịp đi kinh lý ngang qua, thấy cái miếu thờ nàng họ Vũ, gọi là “Miếu Vợ Chàng Trương”. Nghe câu chuyện thương tâm ấy, vua liền làm một bài thơ :
            Nghi ngút đầu gành tỏa khói hương
            Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
            Ngọn đèn dầu tắt đừng nghe trẻ
            Dòng nước can chi lụy đến nàng
            Chứng minh có đôi vầng nhật nguyệt
            Giải oan chi mượn đến đàn tràng
            Qua đây mới biết nguồn cơn ấy
            Há trách chàng Trương quá phũ phàng
Câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương cho ta cái nhìn tổng thể là nỗi khổ buồn đau của hai bên quá lớn về “ tự ái”. Tự ái là gốc rễ của si mê mà ra . Nếu hiểu biết được Phật pháp thì ta dùng năng lượng chánh niệm để soi sáng cho ta thì sự tự ái có khả năng hóa giải.
 Chàng  Trương là người bị hiểu lầm về câu chuyện của đứa con nít ngây thơ. Cái thấy của đứa con nít là vậy, thấy sao nói vậy. Do người lớn chủ quan tin vào câu nói : “ Ngoài đàng hỏi ông già, về nhà hỏi trẻ con”, cho nên mới đưa đến nhận thức sai lầm chết người đáng tiếc như vậy. Lúc này chàng Trương thấy mình bị tổn thương nặng, nỗi khổ quá lớn, tự ái tràn ngập trong lòng, tỏ ra khinh thường vợ và nghỉ rằng làm như vậy thì mình mới hết khổ. Chàng càng hắt hủi vợ chừng nào thì chàng càng khổ đau chừng ấy, đây là quy luật, và đương nhiên là nàng cũng khổ đau theo luôn. Mặt khác chàng Trương cũng là người gây ra hiểu lầm cho vợ tự ái và dẫn đến cái chết oan uổng cho vợ
  Trong trường hợp này không trách ai được. Bên nào cũng có tự ái trấn ngự trong lòng, không bên nào chịu nói ra thành lời, nói ra bằng tình thương thì dẫn đến chuyện hiểu lầm là chuyện tất yếu, vì cả hai đều là con người còn yếu kém và vụng về. Cả hai là nạn nhân của câu chuyện con nít ngây thơ kia, xét cho cùng thì đáng thương hơn là đáng trách.
  Trong lúc người bố xa nhà, con hỏi mẹ “bố đâu”, mẹ thương con, chỉ cái bóng của mình trên tường là bố. Đứa bé tưởng thật, trong đầu bé cứ tưởng bố tôi là cái bóng đen đen trên tường đêm đêm mới có, còn ông bố thật trước mặt thì cho rằng không phải bố mình. Người lớn nào nghe mà không tức điên lên được ?  Đức Phật dạy rằng, chúng sanh sống trong cuộc đời  “nhận giả làm chân” là vậy. Cái thật cho là giả, cải giả cho là thật. Cái thật là cái bình an trong bên trong của mình, cái giả là cái bên ngoài đưa vô, không phải mình. Khi nghe, ta phải bình tĩnh mà nghe, Khi thấy ta bình tĩnh mà thấy. Cái khổ của chúng ta hằng ngày là do nghe và thấy sai lầm mà ra.
  Khi nào tâm mình thật sự bình an, khi ấy lời nói, suy nghĩ mới chín chắn và vững vàng, mới không gây sự hiểu lầm và tự ái cho người khác. Ta có thói quen vừa thấy cái gì, vừa nghe cái gì là tâm dao động, lung lay như ngọn đèn trước gió, làm sao sáng suốt được. Chúng ta thường không sống bằng cái thật bên trong của mình.
 Thân ta như cái nhà, mắt tai, mũi lưỡi ta như các cửa sổ. Giông bảo đến ta phải biết về nhà đóng các cửa chính và cửa sổ lại. Cửa không đóng kịp, gió mưa đều sẽ có thể luồn vào trong nhà và gây ảnh hưởng làm cho căn nhà của ta tan hoang lạnh lẽo. Nếu chúng ta không biết đóng các cánh cửa của sáu giác quan thì bão tố cảm xúc sẽ làm cho tâm ta chao đảo liên tục. Thân ta có tổng cộng sáu cánh cửa giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Đây là sáu cửa ngõ chính dẫn lối cho các tự ái phát sinh. Chúng ta không biết cảnh giác đề phòng sáu giác quan đang mở toan thì sáu giác quan kia vẫn sẽ còn lừa gạt ta dài dài.
 Tự ái từ đâu mà có ? Ai tạo ra tự ái cho ta ? Có phải do ta tạo ra tự ái hay do ai khác ngoài ta ?. Nếu ta không phải là người có quyền cao, chức lớn, lộc nhiều, thì chắc ta không có tự ái nhiều. Con người có một chút gì đó thì mới có tự ái. Thí như người vô gia cư, thì lấy đâu ra có tự ái ?  Người đi đường giơ tay cho tiền họ, họ cũng vui, mà không cho họ cũng vui. Thậm chí nói năng họ, họ cũng vui. Thế là không có tự ái. Còn chúng ta có tiền có của, có chức vị đụng đâu tự ái đó, sẵn sàng tự ái, đầy dẫy tự ái mỗi ngày. Làm sao đem lại sự an vui cho những người thân chung sống với mình được ?
  Chàng Trương là con nhà khá giả nên dễ tự ái. Nàng kia xinh đẹp giỏi giang nên cũng dễ có tự ái riêng. Càng giàu càng đẹp càng có quyền có chức càng dễ có tự ái nhiều hơn, và càng khổ đau nhiều hơn. Lòng có tự ái không biết kiềm chế, không biết tu tập chuyển hóa, thì việc vung vãi khổ đau và những thái độ thiếu tôn trọng lẫn nhau là chuyện đương nhiên.
  Nếu người thiếu phụ Nam Xương kia mà chịu ngồi xuống trong sự bình tĩnh để hỏi chàng Trương đôi câu. Tại sao anh có thái độ lạnh nhạt với em như thế từ khi em đi chợ mua sắm về. Em có làm việc gì cho anh tổn thương không, em có lỗi gì với anh không v.v ?  Và anh cũng biết đấy !  Trong em vẫn còn nhiều thứ non dại vụng về chưa làm  được việc gì cho anh hài lòng v.v Khi cô ta nói được vài câu như thế thì lòng cô ta nhẹ nhỏm trước,  và có thể tháo gỡ được gút mắt khó khăn trong lòng mình và người kia. Tại vì ai cũng có tự ái trong lòng mà không biết tháo gỡ.
  Tự ái thật nguy hại lắm. Tự ái khóa chặt cái lưỡi đôi bên, nó không cho ai mở miệng nói ra được một lời nào. Nhưng một khi được nói ra bằng tình thương và sự hiểu biết thì cứu vãng được tình thế khó khăn của đôi bên.
   Con người muốn có hạnh phúc thì đừng để tự ái xen vào. Mà hễ tự ái nổi lên trấn ngự  thì đánh mất hạnh phúc của ta ngay. Ở đâu cũng có tự ái, lãnh vực nào cũng có tự ái. Cấp bậc nào cũng có tự ái. Chỉ trừ khi nào chúng ta có hành trì lời Phật dạy. Ở đây xin nhấn mạnh là sự “hành trì” chứ không nói hiểu biết Phật pháp. Có rất nhiều người thông hiểu Phật pháp lắm nhưng không hành trì, đụng chuyện dù nhỏ, thì tự ái vẫn nổi lên là chuyện thường.
   Hành trì là sự thực tập ngồi yên lặng, nhắm mắt quay vào bên trong khoảng 10, 15 hay 30 phút mỗi ngày, vài ngày trong tuần. Một năm sau bạn là người có thể làm chủ được cơn cảm xúc tự ái bộc phát bất chợt. Nếu không thực tập như thế, bạn là người làm nô lệ cho tự ái. Khi đã bị làm nô lệ cho tự ái, thì nhìn bạn thấy khủng khiếp lắm. Có ai nổi tự ái lên mà đẹp đẽ đâu, vui vẻ đâu ?
  Cho nên cả người chồng và người vợ phải thực tập sống nhẹ nhàng thong thả, tức là thiền tập. Thiền tập là tập nhận diện những khi tự ái, những cơn giận, hờn ghen sắp có trong tâm mình. Thiền tập là ý thức rất rõ ràng tâm niệm động tịnh sắp diễn ra trên thân mình, xung quanh môi trường đang sống. Tuyệt đối làm cái gì cũng phải nhẹ tay, không gây ra tiếng ồn trong nhà. Ai cũng thích nhẹ nhàng yên lặng.
  Người mẹ muốn có đứa con sinh ra khôi ngô tuấn tú, thông minh học giỏi, thì người mẹ phải biết mỉm cười với con từng giây từng phút. Cười mỉm là thẻ hiện sự thoải mái nhẹ nhàng trong lòng. Cười nhẹ là người mẹ đang thể hiện tình thương sâu sắc đối với đứa con sắp chào đời.
   Con là tài sản quý báu của cha mẹ, nhưng cha mẹ không biết cách giữ gìn thân tâm mình an lạc, đi đứng khoan thai nhẹ nhàng  thì đứa con sẽ ảnh hưởng không tốt do hành vi cha mẹ gây ra. Cho nên, nhẹ nhàng và mỉm cười là liều thuốc tâm lý hay nhất mầu nhiệm nhất cho con.
Như vậy muốn có một gia đình hạnh phúc chân thật, mỗi người thành viên trong gia đình phải thực tập chánh niệm thường xuyên, tức là lắng lòng nhìn vào bên trong mỗi ngày, và nhận diện rõ từng hành động cử chỉ của ta mọi lúc mọi nơi, mọi việc nhẹ nhàng thong thả, không vội vàng hấp tấp. Như thế ta sẽ có cuộc sống bình an bên trong cả bên ngoài./.                                          
{]{

DỤC LẠC VÀ THIỀN LẠC

Dục lạc : là thứ hạnh phúc thường tình giữa thế gian, tức sự  thỏa mãn các khoái cảm của giác quan như sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm,vị ngọn, cảm xúc êm dịu hay sự sở hữu và thụ hưởng các lạc thú trần thế như tiền tài vật chất (tài), sắc đẹp khác phái (sắc) danh vọng quyền lực (danh), ăn uống no say (thực) ngủ nghỉ êm ái (thùy). Đây là loại hạnh phúc hấp dẫn và đặc trưng nhất trong thế giới con người, gắng liền với nghiệp thức của loài người, trở thành món ăn ưa chuộng và đối tượng tìm cầu của hết thảy mọi người. Loại lạc thú này có công năng bảo dưỡng sự sống của con người, kích thích các hoạt động tạo tác của con người, thôi thúc con người tạo ra thế giới văn minh vật chất, một thế giới mà Đức Phật đã định danh là “thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho lòng tham”, vì ở đó con người không bao giờ biết đủ và cảm thấy thỏa mãn.
     Dầu mưa bằng tiền vàng
  Các dục khó thỏa mãn
  Dục đắng nhiều ngọt ít
  Biết vậy là bậc trí
 Chính vì bản chất luôn luôn thiếu thốn và khao khát của dục vọng nên Đức Phật gọi hạnh phúc này là dục trưởng dưỡng, nghĩa là lạc thú nuôi lớn lòng tham, kích thích bản chất ham muốn của con người, khiến cho con người luôn luôn nghèo đói, khao khát tìm kiếm, sở hữu bao nhiêu cũng không thấy đủ. Cũng do tính chất càng khao khát thỏa mãn càng nghèo đói thiếu thốn, dục lạc được xem là động cơ của mọi hành vi bất thiện đưa đến bất hạnh khổ đau cho con người và cuộc đời. Đại kinh Khổ uẩn thuộc tuyển tập Trung bộ nêu môt loạt các hậu quả nguy hại do lòng tham muốn dục lạc gây ra.
     Này các Tỳ kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, vua tranh đoạt với vua, Sát đế lỵ tranh đoạt với Sát đế lỵ, Bà la môn tranh đoạt với Bà la môn, gia chủ tranh đoạt với gia chủ, mẹ tranh đoạt với con, con tranh đoạt với mẹ, cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha, anh em tranh đoạt với anh em, anh tranh đoạt với chị, chị tranh đoạt với anh, bạn bè tranh đoạt với bạn bè. Khi họ đã dấn  mình vào tranh chấp, tranh luận, tranh đoạt, họ công phá nhau bằng tay, họ công phá nhau bằng đá, bằng gậy, bằng kiếm v.v. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến đau khổ gần như tử vong.
  Chính do dục làm nhân, do dục làm duyên,, họ cầm mâu, cầm kiếm, họ đeo cung và tên,họ dàn trận hai mặt, và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Họ bắn nhau bằng tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự khổ đau gần như tử vong.
   Do dục làm nhân, do dục làm duyên, họ đột nhập nhà cửa, họ cướp giật đồ đạc, họ hành động như kẻ cướp, họ phục kích các đường lớn, họ đến với vợ người. Các vua chúa khi bắt được một người như vậy liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh bằng côn, họ chặt tay, chặt chân họ lấy gươm chặt đầu. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong..
   Chính do  dục làm nhân.. họ sống làm các ác hạnh về thân, làm các ác hạnh về lời nói, làm các ác hạnh về ý, khi thân hoại mạng chung họ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
   Do dục lạc tiềm ẩn nhiều nguy cơ đưa đến khổ đau cho con người và cuộc đời, Đức Phật gọi loại lạc này là hạnh phúc có đau khổ, có phiền lao, có ưu não, có nhiệt não, đưa đến tranh chấp, đáng sợ hãi, không nên tìm cầu, không nên làm cho sung mãn, cần hạn chế, cần nhiếp phục, cần buông bỏ. Ngài xem dục lạc là ô uế lạc, phàm phu lạc, phi Thánh lạc, tức các lạc làm ô uế tâm thức con người, khiến cho con người trở nên hèn hạ tầm thường, không nâng cao phẩm giá con người.
 Theo lời Phật  thì dục lạc vui ít khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm càng nhiều hơn, nhưng con người không thể thoát khỏi sự trói buộc và phi phối của các dục, trừ khi có sự chuyển hóa và thăng hoa tâm thức gọi là hành Thiền.
            Ham muốn không dừng
            Suốt ngày bận rộn cũng chỉ vì
            Lo ăn lo mặc chuyện áo y
            Ăn mặc đủ rồi, lại suy nghĩ
            Phòng trung còn thiếu vợ đương thì
            Vợ đẹp hầu non đều đã đủ
            Ra vào xe ngựa lấy đâu đi ?
            Ngựa đã thành bầy, xe đã sẵn
            Lại lo ruộng ít, khó thu chi
            Mua được ruộng vườn trăm vạn mẫu
            Sợ không quan chức bị người khi
            Tam phẩm, tứ phẩm còn chê nhỏ
            Ngũ phẩm thất phẩm có ra gì
            Nhất phẩm vừa lên ngôi tể tướng
            Lại muốn làm vua chắc có khi ?
            Thỏa lòng lên được ngôi thiên tử
            Mơ ước thành tiên sống trường kỳ
            Tham vọng leo thang không dừng nghỉ
            Vô thường chợt đến, ôm hận đi
                             {]{
            Một mai vô thường đến
            Mới hay mộng huyễn thân
            Muôn việc đem chẳng được
            Chỉ nghiệp theo thức thần
                             {]{
Thiền lạc :  nghĩa là niềm hân hoan an lạc nội tâm, đạt được nhờ chuyển hóa và thanh lọc tâm thông qua hành Thiền. Đây là phương pháp chuyển hóa tâm thức rất quan trọng, làm phát sinh các cấp  độ an lạc tinh tế sâu lắng thuộc tâm thức gọi là nội lạc, có khả năng thay đổi cảm thức của con người về kinh nghiệm hạnh phúc. Theo kinh nghiệm tu tập của Đức Phật thì Thiền lạc có khả năng đối trị và nhiếp phục dục lạc, vì Thiền lạc vi diệu, thù thắng và an ổn hơn dục lạc. Bậc Giác ngộ đánh giá cao Thiền lạc, gọi hành Thiền là Tăng thượng tâm và hiện tại lạc trú, tức sự thăng hoa tâm thức và sống an lạc ngay trong hiện tại.
  Sau đây là các minh họa  liên quan đến Thiền lạc :
Cảm giác sung sướng hân hoan do gột rửa tâm khỏi năm triền cái (tham, sân, hôn trầm thùy miên, trạo hối, nghi ngờ), như người mắc nợ thoát khỏi nợ nần, như người bị bệnh thoát khỏi bệnh tật, như người tù được thả tự do, như người nô lệ thoát khỏi cảnh nô lệ, như người buôn băng qua sa mạc được an toàn.
 Hành giả khéo tu tập trừ diệt được  năm triền cái, tùy theo năng lực tu tập mà lần lượt chứng qua bốn trạng thái thiền. Gọi là sơ Thiền, nhị Thiền, tam Thiền và tứ Thiền.  Lạc sơ Thiền là cái cảm giác niềm vui khi ly dục, ly ác,bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh.
Lạc đệ nhị Thiền là vị hành giả  diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.
 Lạc đệ tam Thiền : hành giả ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là “ xả niệm lạc trú ”, chứng và trú Thiền thư ba.
Lạc đệ tứ Thiền :  hành giả xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
 Các mô tả về bốn trạng thái Thiền của kinh tạng cho chúng ta thấy một hình ảnh  sống động về kinh nghiệm hạnh phúc an lạc của pháp môn hành Thiền. Một người hành thiền là một người đang sống trong  hạnh phúc an lạc. Vị ấy hạnh phúc an lạc bởi thân và tâm vị ấy được thấm nhuần, tẩm ướt, tràn đầy với hỷ lạc do ly dục sanh, với hỷ lạc do định sanh, với xả niệm lạc trú và với xả niệm thanh tịnh. Kinh tạng nói ví như người hành Thiền giống như một người đứng trên núi cao,  có thể hít thở không khí trong lành và thưởng thức vẻ đẹp của một cảnh quan thiên nhiên rộng lớn, so với cảm thức giới hạn của người không hành Thiền, đứng dưới chân đồi.
  Như vậy, hành Thiền là bước chuyển hóa và thực nghiệm tâm thức to lớn với kết quả thân được khinh an, thoải mái, tâm được hân hoan, định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản. Chính trên nền tảng một tâm thức được khéo huấn luyện như vậy mà hành giả có thể dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh nhằm đoạn tận các lậu hoặc, thành tựu quả vị giải thoát giác ngộ.
  Do Thiền lạc có khả năng làm trong sáng và an tịnh nội tâm, giúp cho người thực hành thành tựu trí tuệ đưa đến đoạn tận các lậu hoặc, Đức Phật xem loại hạnh phúc này là lạc thọ họp pháp, tức loại hạnh phúc của sự thoát khỏi mọi trói buộc thế gian, của nếp sống thanh tịnh, nội tâm vắng lặng, của tâm thức an tịnh, vắng bặt các cấu uế tham, sân  si hay năm triền cái, hay niềm vui có khả năng đưa đến giải thoát giác ngộ, gọi là xuất ly lạc, độc cư lạc, an tịnh lạc, Chánh giác lạc. Cũng theo lời Phật thì Thiền lạc là loại hạnh phúc không có đau khổ, không có phiền lao, không có ưu não, không có nhiệt não, không đưa đến tranh chấp mà mọi người nên thực hành, nên tu tập, nên làm chi sung mãn.
 Tóm lại : Như vậy, Đức Phật khuyên mọi người tu Thiền, chú tâm vào nội lạc, vì các lẽ sau đây :
  Hạnh phúc là ước mong muôn thuở của con người và loài người. Con người sống là để được hạnh phúc và kiến tạo hạnh phúc. Tuy nhiên, hạnh phúc có nhiều loại và nhiều cấp độ khác nhau, tùy thuộc vào quan niệm và khuynh hướng tâm thức của mỗi người. Đạo Phật đã phân định rõ ràng từng loại hạnh phúc, xác định rõ loại hạnh phúc nào cần vượt qua, loại hạnh phúc nào nên kiến lập, đồng thời chỉ rõ phương pháp cụ thể giúp cho con người tìm thấy lối đi đưa đến thăng tiến hạnh phúc.
 Dục lạc là hạnh phúc thường tình giữa thế gian gắn liền với đời sống của con người, có chức năng thôi thúc con người nỗ lực kiến tạo và hoàn thiện đời sống vật chất và thụ hưởng các thành quả của đời sống văn minh vật chất. Dục lạc có công năng nuôi lớn lòng tham hay dục vọng của con người, vì vậy, dục lạc chính là nguyên nhân của mọi xu hướng cạnh tranh, tranh chấp, tranh đoạt, công kích và chiến tranh xảy ra giữa con người và con người, giữa các giai cấp, giữa các quốc gia hay các khối chủ nghĩa. Tính chất nguy hiểm của dục lạc trải dài lịch sử loài người, khiến cho đời sống nhân loại không có được nhiều hạnh phúc an ổn so với cảm thức bất an sầu muộn.
  Dục lạc vui ít khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm càng nhiều hơn, nhưng con người hầu như không tìm thấy giải pháp để khắc phục và vượt qua. May mắn thay, Đức Phật thị hiện ở đời đã giúp cho nhân loại tìm thấy giải pháp cứu nguy cho lối sống bất an bị trói buộc bởi dục lạc thế gian. Đó là con đường chuyển hóa tâm thức mà bậc Giác ngộ đã chứng nghiệm và tuyên thuyết, con đường của sự tu tập thăng tiến đạo đức, tâm thức và trí tuệ, có khả năng chuyển đổi các thói quen của đời sống con người, từ nhận thức đến hành  động và cảm nghiệm, giúp cho con người tìm thấy lối sống giải thoát an lạc ngay trong thế giới bị trói buộc khổ não bởi dục lạc. Theo kinh nghiệm của Đức Phật thì hành Thiền chính là con được vượt qua sự trói buộc và chi phối của dục lạc, vì Thiền làm phát sinh Thiền lạc, tức sự thanh thản an lạc sâu sắc thuộc nội tâm, có khả năng thay thế và đối trị dục lạc.
 So với dục lạc ẩn nhiều nguy hiểm bởi bản chất vị kỷ, hướng hạ của nó, Thiền lạc hay hạnh phúc của sự chuyển hóa và thăng tiến tâm thức được xem là hạnh phúc chân chính, hướng thượng, vì đó là loại hạnh phúc ly dục, ly tham, vắng bặt các cấu uế, đưa đến giác ngộ, hướng đến Niết bàn. Đó là loại hạnh phúc của người leo núi cao Thiền định và trí tuệ, cảm nghiệm cả một bầu không gian khoáng đảng và giải thoát, so với cảm thức ô nhiễm và ngột ngạt của những người đứng dưới chân đồi, không hành Thiền, bị dục lạc chi phối.
Thiền có khả năng chuyển hóa con người, chuyển hóa đời sống và hạnh phúc của con người theo chiều hướng tốt đẹp tiến gần mục tiêu giác ngộ. Thiền nâng cao tâm thức cao người, nâng cao hạnh phúc con người. Thiền mang lại cho con người thân khỏe tâm an, giúp cho con người tìm thấy lẽ sống giải thoát an lạc trong đời sống hàng ngày, một lối sống sáng suốt tin cần, thiểu dục tri túc, có hiểu biết, có tỉnh thức, cảm nghiệm trọn vẹn tính chất mầu nhiệm của sự sống an lạc tự nội, không còn quay cuồng tìm kiếm một cách mệt mỏi và bất an các lạc thú ở bên ngoài.
 Thiền là tiến trình khai mở tuệ giác giải thoát, vì Thiền có công năng thanh lọc tâm, khiến cho tâm đạt đến trong sáng, định tĩnh, thấu suốt bản chất duyên sinh, vô thường, vô ngã của mọi sự vật và hiện tượng giúp cho người thực hành dễ dàng buông bỏ các tập quán tham ái và chấp thủ, đưa đến chứng đắc tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chấm dứt khổ đau sanh tử luân hồi./.
   Trích :  Chú tâm vào nội lạc của Huyền Hương  VHPG- 1-8-2018
{]{              

BỐN CÔNG NĂNG CỦA THIỀN

  Đức Phật nói cho chúng ta biết về những lợi ích của Tâm khéo tu tập Thiền chỉ và Thiền quán, lần lượt đạt đến an tịnh, đạt đến trong sáng, đạt đến tăng thượng, đạt đến định tỉnh, đạt đến giải thoát. Tùy thuộc vào công phu nhiếp tâm và dụng tâm mà Thiền có thể mang lại những kết quả hết sức đặt biệt. Đức Thế Tôn xác nhận có bốn công năng gắn liền với hành Thiền, phát sinh do chuyên tâm tu tập Tăng thượng tâm, Tăng thượng trí tuệ. Đó là công năng thực nghiệm đời sống an lạc ngay trong giây phút hiện tại, gọi là hiện tại lạc trú. Công năng thứ hai là thành tựu tri kiến, tức đạt được cái năng lực kỳ diệu siêu việt khả năng loài người, gọi là chứng đắc thần thông. Thứ ba là Thiền có công năng giúp ích cho con người chánh niệm tỉnh giác, tức là năng lực của tâm tỉnh thức hiện diện trong đời sống xúc chạm hằng ngày. Công năng thứ tư là Thiền đưa đến đoạn tận các lậu hoặc, tức là Thiền có công năng dứt sạch các cấu uế nội tâm, đoạn tận dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, hướng đến chấm dứt tái sanh, chấm dứt khổ đau sanh tử luân hồi.
  Như vậy, có bốn công năng gắn liền với công phu Thiền định, giúp cho người hành Thiền có được một đời sống lợi lạc về phương diện nâng cao phẩm chất an lạc của cuộc sống, nâng cao giá trị giải thoát, tâm thức, hướng đến đoạn tận các lậu hoặc, thành tựu mục tiêu giải thoát khổ đau sanh tử luân hồi.
  Trước hết Thiền đưa đến hiện tại lạc trú, nghĩa là Thiền có công năng làm phát sinh cảm giác thoải mái an lạc trong đời sống hàng ngày, nhờ không gian hành Thiền. Không gian hành Thiền nghĩa là một môi trường tương đối thuận lợi cho việc ngồi Thiền, một nơi chốn yên tỉnh thoáng mát, không ồn ào, giúp cho việc ngồi thiền được dễ dàng và thoải mái trong một thời gian dài. Tư thế ngồi thiền, nghĩa là thế ngồi kiết già hay bán già, giữ lưng ngay thẳng, giữ hơi thở điều hòa, tạo nên cảm giác thư thái và thoải mái trong lúc hành Thiền.
  Phương pháp nhiếp niệm hành Thiền, nghĩa là chọn một đối tượng rồi Thiền tư trên đối tượng ấy khiến  đốt cháy các pháp đối nghịch (năm triền cái). Ơ đây ngụ ý chọn hơi thở vô, hơi thở ra làm đối tượng nhiếp tâm và an trú tâm, khiến cho tâm lần lượt đi đến yên lắng an tịnh trong sáng, định tĩnh, nhất tâm, tức sự vắng bặt các bất thiện pháp tham, sân, si hay năm triền cái (tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi) sự sinh khởi các thiện pháp tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm, tạo cho tâm các cảm giác khoan khoái, thoải mái an tịnh gọi là “hỷ lạc do ly dục sinh” hay  “lạc do Định sanh”  “ xả niệm lạc trú ” và “xả niệm thanh tịnh”

NĂM THỨ TRIỀN CÁI

Triền cái là gì ? Triền là trói buộc, trói buộc gì, trói buộc chúng sanh trong  khổ đau sanh tử luân hồi. Cái là che đậy, tức màng vô minh che lấp bản tâm thanh tịnh và trí tuệ sáng suốt. Khi thực hành Thiền quán, hành giả thường hay vướng vào 5 chướng ngại này mà thuật ngữ Phật học gọi là 5 triền cái hay ngũ triền cái, làm cho việc thực tập thiền khó được như ý muốn.  Năm thứ này thường hay hiện khởi làm cho các đề mục Thiền quán bị tán loạn, phân tâm và khó chú tâm đưa đến tịnh chỉ, an trú trên các đề mục thiền. Năm triền cái là năm pháp làm trở ngại và che lấp tâm định, làm yếu ớt trí tuệ.
  Năm triền cái là : tham dục, sân giận, hôn trầm thụy miên, trạo cử hối quá và hoài nghi. Những phiền não này không chỉ chướng ngại cho sự thiền quán mà còn áp lực chính đối với nguyện vọng giải thoát giác ngộ của người tu tập.
  Chúng có tên là “triền cái” là vì chúng che án và bao phủ tâm, ngăn cảng sự phát triển thiền ở hai lãnh vực, tịnh chỉ và tuệ giác. Về mặt kỷ thuật đối lập với Thiền, chúng thường khá tinh tế trong hình thức. Khi hành Thiền đạt đến mức độ cuối cùng của sự đoạn tận các triền cái  là đạt được quả vị A La Hán, khi đó chúng bị cắt đi như một gốc cây cọ, vĩnh viễn không thể mọc lại được nữa. Vì lý do đó mà Đức Phật gọi năm triền cái này là “những chướng ngại, ngăn che, làm uế nhiễm tâm, làm yếu trí tuệ”. Năm triền cái này tác thành si ám, tác thành không mắt, tác thành vô trí, đoạn diệt trí tuệ, dự phần vào tổn hại, không đưa đến Niết bàn.
   Năm triền cái này được ví như sự vẩn đục của hồ nước theo 5 cách khác nhau :
  Triền cái đầu là tham dục,  ví như nước bị nhuộm màu, do đó không còn trong sạch, tinh khiết nữa. Sân hận giống như nước bị đun sôi, trở nên hổn loạn. Hôn trầm thụy miên, ví như nước bị rong rêu bao phủ. Trạo cử hối quá, ví như gió thổi làm tung tóe. Và nghi ngờ ví như nước được đặt trong bóng tối và làm rối loạn tâm. Với việc loại trừ 5 thứ trở ngại “triền cái” ấy, nước sẽ trong sạch tinh khiết trở lại.
 Kinh Tạng Nikaya còn phản ánh ý thức về sự hiện diện của những triền cái diễn ra trong cuộc sống hằng ngày. Một số bản kinh mô tả chúng hoạt động trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, kể cả trong khi buôn bán làm việc. Chúng tác động trực tiếp lên tâm ý và cơ thể. Chúng chi phối đến mọi hoạt động của con người làm nảy sinh ra những trạng thái tâm: chẳng hạng như không muốn làm những gì chúng ta đang làm, khởi lên những ham muốn cái gì khác, làm cho chúng ta trở nên bực bội, mệt mỏi, bồn chồn, hưng phấn và nghi ngờ tất cả những gì chúng ta đang làm. Một vòng tròn luẩn quẩn có nguyên nhân và điều kiện chi phối thân tâm chúng ta. Và nó được thấy rõ ràng nhất khi chúng ta thực hành thiền định.
  Nội dung của năm triền cái .
1/ Tham dục : Tâm sở tham dục có trạng thái ưa thích, đam mê, ham muốn, dính mắc sự khát khao “năm dục lạc” làm cho tâm phân tán khó tập trung. Nó là một hình thức của phiền não gốc tham, đó là một cách biểu hiện của ái mà Đức Phật xác nhận là nhân sanh khổ. Quá ham muốn đắc định cũng là một trở ngại cho tâm định
2/ Sân hận : Tâm sở sân biểu thị sự ghét bỏ, trạng thái bất mãn, bất bình, không hài lòng đối với người hay vật, không vừa ý. Tầm mức của nó thay đổi từ bực mình nhẹ nhàng đến lòng oán hận thâm sâu. Sân làm cho tâm nóng nảy, khó hoan hỷ, an vui trong đề mục thiền định.
3/ Hôn tầm-thụy miên : Đây là một chướng ngại kép. Hôn trầm là sự đình trệ, dã dượi của tâm. Thụy miên là trạng thái mơ màng, ngái ngủ của thân. Hai tâm sở này đồng một tính chất ươn hèn, nhu nhược và thụ động, khiến cho tâm không thể chú hướng vào đề mục thiền định được.
4/ Trạo-hối : Tâm sở trạo cử có trạng thái phóng tâm, suy nghĩ vẩn vơ, nhất là về tương lai. Tâm sở hối quá có trạng thái nóng nảy, ray rứt, hối tiếc về những sai lầm hay tội lỗi đã làm trong quá khứ (tránh lầm lẫn với trạng thái ăn năn, hối cải thuộc thiện). Hai tâm sở này đồng một tính chất tháo động, bồn chồn, bất an khiến cho tâm không an lạc trên đề mục thiền định. Ví dụ như khi đang cố gắng chú tâm được vài giây thì tâm đã trược khỏi đề mục. Nếu do lười chán hay giải đãi mà không an lạc, đó là triền cái hôn trầm thụy miên, nếu do suy nghĩ vẩn vơ hay hối tiếc bứt rứt mà không an ổn thì đó là triền cái trạo hối.
5- Nghi :  Đức Phật giải thích nghi ngờ là sự không chắc chắn chủ yếu và sự thiếu tín nhiệm đối với bốn hạng mục: Phật, pháp, Tăng và Giới. Ở những nơi khác, Ngài giải thích tâm sở nghi là nghi ngờ liên quan đến quá khứ, hiện tại và tương lai. Do vậy, đoạn trừ được tâm sở này thì phải hiểu rõ định lý nguyên nhân và điều kiện. Tâm sở nghi có trạng thái lưỡng lự, phân vân, do dự, bất quyết. Tâm sở này làm cho tâm không đứng vững được trên đề mục thiền định.
  Hôn trầm thụy miên là tâm sở có trạng thái thụ động, thiếu tinh tấn cho nên có mặt trong các tâm hữu trợ. Trạo hối và nghi là tâm sở có trạng thái dao động, làm cho tâm không sáng suốt, cho nên thay nhau có mặt trong hai tâm si.
 Các triền cái tiêu biểu cho toàn bộ những trạng thái tâm ô nhiễm bao gồm ba bất thiện căn, tứ bộc, tứ kết, tứ lậu, tứ thủ, thập phiền não,  thập kiết sử. Các triền cái được Đức Phật  so sánh như món nợ, như bệnh hoạn, như ngục tù, như cảnh nô lệ, như con đường đi qua sa mạc. Chúng che mắt con người khiến họ không thể được lợi ích của bản thân mình, lợi ích của người khác hoặc lợi ích của cả hai. Do ảnh hưởng của các triền cái, con người làm những điều lẽ ra họ không nên làm và xao lãng những bổn phận lẽ ra họ phải làm. Chúng làm uế nhiễm tâm, suy yếu trí tuệ, tác thành si ám, tác thành không mắt, đoạn diệt trí tuệ, dự phần vào tổn hại, không đưa đến Niết bàn. Ví như vàng bị suy kém bởi năm tạp chất- sắt, đồng, chì, thiếc và bạc- “ không mềm dẽo, không dễ dùng, không chói sáng, dễ bể vụn và không thể chạm đồ tinh xảo được”. Tâm cũng vậy, bị uế nhiễm bởi năm triền cái, không nhu nhuyến, không dễ dùng, không chói sáng, cứng rắn và không thể định tâm chân chánh vào việc đoạn trừ các lậu hoặc. Chính vì vậy mà Đức Phật nói về chúng “ này các Tỳ kheo, nếu ai nói một cách chân chánh về các triền cái, người ấy phải nói chúng là ‘ một đống tâm bất thiện  vì quả thực năm triền cái này là một đống tâm bất thiện hoàn toàn.”.
   Các hình ảnh tiêu cực của những triền cái :
  Trong kinh Đức Phật đưa ra ví dụ, so sánh năm triền cái giống như năm loại tạp chất chứa trong vàng. Đức Phật lại bảo rằng : “ Cũng vậy, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo tự mình, quán năm triền cái chưa xả ly, như món nợ, như bệnh hoạn, như ngục tù, như cảnh nô lệ, như con đường qua sa mạc.”
 Ham muốn nhục dục như các con nợ :  Triền cái đầu tiên là ham muốn đối với các đối tượng giác quan, nó cũng được gọi là sự khao khát thèm muốn với mọi thứ. Tham dục là triền cái phổ biến nhất, sự biểu hiện của tham dục đối với sáu trần cảnh, cảm giác mơ mộng, hoặc bị phân tâm bởi một số kích thích tham muốn (đặc biệt âm thanh và suy nghĩ). Đức Phật ví sự tham dục như thể đi vay nợ, các sự khoái lạc ta có qua năm căn đều phải trả lại qua các đau khổ về biệt ly, mất mát hoặc sự trống rỗng đói khát, vốn sẽ theo đuổi mãnh liệt sau khi các khoái lạc đã bị tiêu tan, cũng như bất cứ món nợ nào đều phải trả thêm lời, và như thế Đức Phật dạy rằng sự khoái lạc đó thật ra là nhỏ bé so với các đau khổ phải hoàn trả.
 Sân hận như người bệnh :  Triền cái thứ hai là sân hận, sân hận là mặt trái của tham dục, nó là một cặp song sinh đi liền với nhau. Bởi không thỏa mãn tham dục thì tâm sân hận hiện khởi. Mỗi khi tân sân hận hiện khởi, thì chúng đốt cháy cả rừng công đức. Sân hận không chừa một ai, làm mất lý trí, nên có thể bất kính với người lớn hơn hoặc ngang hàng, hoặc thậm chí trở nên khó chịu với những người khác, tạo ra tiếng ồn, thiếu khiếm nhã và không thể kiềm chế. Giống như một bát nước được đem đun sôi dữ dội trên một ngọn lửa mạnh.
  Hôn trầm, thụy miên như các tù nhân : Triền cái kép này đưa đến sự dã dượi thân và tâm, làm mất nhuệ khí, thiếu tinh tấn và tiến bộ tâm linh, đó là hôn trầm và thụy miên. Lý do thật sự là năng lượng của một người rất nặng nề và bị tắt nghẽn do hậu quả của quá nhiều suy nghĩ và nhạo báng tinh thần. Giống như một hồ nước bị tràn ngập với những  cây rêu mọc đầy trong nước.  Đức Phật ví  hôn trầm thụy miên như ngục tù. Người bị giam cầm trong ngục tù thì không bao giờ thấy tự do và thoải mái. Hôn trầm và thụy miên là một trạng thái khó chịu của thân và tâm, quá cứng đọng không thể đi vào sự an lạc của thiền tập, và mù quáng không thể khám phá ra các Tuệ quán. Tóm lại, đây hoàn toàn là một sự phí phạm thời gian.
 Bồn chồn và trạo hối như nô lệ :  Khi tâm trí của ta bị lôi kéo vào trong quá khứ, nhớ lại những điều mình đã làm hoàn thiện hoặc chưa hoàn thiện, nó cũng có thể có khả năng để trở thành hối hận. Khi tâm trí của ta đi lang thang vào tương lai, tự hỏi phải làm gì sau khi thiền định, và như vậy, chúng ta có khả năng để trở nên bồn chồn, cả thân và tâm, hoặc chúng ta có thể vui mừng với tiến trình rõ ràng của chúng ta, hoặc nản lòng vì chúng ta thiếu tiến bộ, đó là sự bồn chồn và hối hận, đây là triền cái thứ tư. Điều này cũng giống như tìm kiếm sự phản chiếu của chúng ta trong hồ nước đang bị khuấy động và bị gió mạnh thổi cuốn tung.  Đức Phật ví trạo cử như một tên nô lệ, tiếp tục chạy nhảy theo lệnh của ông chủ khắc nghiệt luôn luôn đòi hỏi sự toàn hảo và như thế không bao giờ cho phép nó được dừng nghỉ. Hối hận là một trạng thái đặc biệt của trạo cử, là nghiệp quả của các hành động bất thiện.  Cách duy nhất vượt qua hối hận, sự trạo cử do lương tâm cắn rứt, là phải giữ giới đức, tập sống tử tế, khôn ngoan và dịu dàng. Một người không có đạo đức hoặc sống buông lung thì không thể nào có được các kết quả sâu sắc trong khi hành thiền.
 Nghi ngờ  như các du khách :  Cuối cùng,  người ta có thể cảm thấy rất nản lòng do những khó khăn và phiền nhiễu khác nhau, người ta bắt đầu nghi ngờ khả năng suy niệm của người hoặc không chắc chắn về mục đích thật sự của thiền định. Sự hoài nghi này là một chướng ngại tâm thần thứ năm. Điều này cũng giống như việc tìm kiếm sự phản chiếu của chúng ta trong một bát nước bùn đục trong bóng tối. Đức Phật ví nghi ngờ như thể bị lạc trong sa mạc, không nhận ra được các mốc điểm. Người hành thiền vượt qua bằng cách thu thập các lời hướng dẫn rõ ràng, có một bản đồ tốt, để giúp chúng ta thấy được các mốc điểm vi tế trong vùng đất không quen thuộc của tâm thiền sâu kín, và từ đó biết được con đường phải đi.
  Như vậy, năm triền cái là năm hình ảnh tiêu cực, nguy hiểm đối với người thực hành thiền định. Nhiệm vụ chính của thiền sinh là vượt qua năm triền cái để đạt được các mức độ thiền. Kinh Trung Bộ dạy : “ cũng vậy, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo tự mình, quan sát năm triền cái chưa xả ly, như con đường qua sa mạc, này các Tỳ kheo, cũng như không mắc nợ, không bị bệnh tật, được ra khỏi tù, được tự do, đến được đất bình yên.Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo quán năm triền cái khi chúng được diệt trừ ”
  Đoạn trừ năm triền cái : Theo thiền sư Henepola Gunaratana, con đường duy nhất để đoạn trừ tối hậu các triền cái là bốn đạo siêu thế, và để đạt đến các siêu thế đạo này tất yếu phải có sự tu tập minh sát (Vipassana), vì lẽ sự thâm nhập vào thực tánh của mọi hiện tượng (thấy rõ tam tướng), chỉ có ở đạo tuệ siêu thế mà thôi. Thế nhưng, muốn minh sát tuệ sanh khởi các triền cái phải được làm cho suy yếu đến một mức nào đó. Ở đây, chúng không còn làm gián đoạn tiến trình quán chiếu. Do đó, việc khắc phục sơ bộ các triền cái, kinh điển thường đưa ra hai giải pháp. Một là sự đè nén các triền cái bằng cách tu tập tịnh chỉ (samatha) ở mức cận định hoặc an chỉ định (jhana). Hai, là sự trừ diệt các triền cái trong quá trình tu tập minh sát.
 Muốn đoạn trừ sạch năm triền cái thì các điều cần thiết là phải chứng năm thiền chi: Tứ, hỷ, lạc và nhất tâm.  Năm tâm sở này là yếu tố của các tâm thiền sắc giới giúp chế ngự năm triền cái. Mỗi thiền chi có chức năng và nhiệm vụ để chế ngự và đoạn trừ, mỗi triền cái tiêu biểu. Tầm chế ngự và đoạn trừ hôn trầm thụy miên, Tứ đoạn trừ nghi, hỷ đoạn trừ sân, lạc đoạn trừ trạo hối, và nhất tâm đoạn trừ tham dục. Nói như thế không có nghĩa là mỗi thiền chi chỉ duy nhất đoạn trừ một triền cái tương ưng. Ngoài chức năng và nhiệm vụ chính thì chúng còn có sự hỗ trợ nhau trong việc đoạn trừ năm triền cái để đi đến an trú trong các tầng thiền.
  Việc đoạn trừ năm triền cái khiến cho tâm trở nên thiền tịnh, trong sáng, giống như vàng đã loại từ các tạp chất. “ Và khi nào, Này các Tỳ kheo, tâm được giải thoát khỏi năm uế nhiễm ấy, khi ấy tâm ấy được nhu nhuyến, dễ sử dụng, sáng chói, không bể vụn, chơn chánh định tỉnh để đoạn diệt các lậu hoặc”.
 Khi năm triền cái được đoạn trừ, hành giả sống an lạc tự tại, làm chủ được cảm xúc, làm chủ được tâm ý. Trung bộ kinh dạy rằng :  “ Vị ấy bỏ tham ác ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái, từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa hết tâm trạo cử, hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.”
  Việc đoạn trừ năm triền cái đánh dấu bước mở đầu của giải thoát, như kinh nói : “ Khi năm tiền cái đã được đoạn trừ, vị Tỳ kheo tự mình quán thấy như người đã thoát nợ, như người hết bịnh, như người ra khỏi tù, như người được tự do,  và như đất lành an ổn”. Cùng với sự đoạn trừ các triền cái, khả năng phát triển tâm linh của hành giả cũng được khai mở, không còn bị hạn chế, cũng như vàng đã được tinh lọc, khỏi năm tạp chất sẽ trở nên mềm dẽo, tinh chất, chói sáng và bền vững, có thể chạm trổ dễ dàng.
 Như vậy, chúng ta đã đưa ra một cái nhìn tổng quan về  tiềm năng của tâm trí để đạt được hạnh phúc cao nhất và tự giải thoát. Con người sẽ bị hạn chế nhiều mặt, trí tuệ yếu kém khi bị năm triền cái làm che lấp tâm tánh, Đức Phật bậc thầy giác ngộ, đã chỉ ra cho chúng ta nhiều phương pháp khác nhau để hành giả ứng dụng tu tập nhằm vượt qua sự trở ngại từ chúng./.
  Trích : Năm chướng ngại trong khi hành thiền. : Thích Trung Định. VHPG số 305- 15-9-2018
         Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
          Đi đâu loanh quanh cho đời mõi mệt
                                              (Trịnh Công Sơn)

{]{

TĂNG THƯỢNG AN LẠC

 Nguyên An
Với kinh nghiệm của một bậc Giác ngộ, Đức Phật nói cho chúng ta biết rằng con người có khả năng sở hữu nhiều niềm vui hay cảm  thức an lạc vi diệu hơn và thù thắng hơn những gì mà nhân loại từng kinh nghiệm. Đó là những niềm vui hay các cấp độ an lạc thanh thoát phát sanh do nổ lực chuyển hóa và thanh lọc nội tâm, tu tập tâm, phát triển tâm, khiến cho tâm đạt đến trong sáng, đạt đến định tĩnh, đạt đến tăng thượng, đạt đến giải thoát. Tùy thuộc vào công phu chuyển hóa và phát triển tâm thức mà an lạc phát sinh và tăng thượng theo các cấp độ khác nhau. Ngoài các lạc thú trần thế  gọi chung là hạnh phúc thế gian, bậc Giác ngộ nói đến các cấp độ an lạc thù thắng mà con người có thể chứng nghiệm, cơ bản do chuyển hóa và thanh lọc tâm, gọi là Tăng thượng tâm- Tăng thượng an lạc.
  Tăng thượng an lạc, nghĩa là hạnh phúc hướng thượng hay nâng cao giá trị hạnh phúc gắn liền với Tăng thượng tâm, là hệ quả của tiến trình tu học theo giáo pháp Giới-Định-Tuệ của đức Phật. Đạo Phật- Bát Thánh đạo- được biết là nếp sống Tăng thượng giới, Tăng thượng tâm, Tăng thượng trí tuệ, có công năng giúp cho con người nâng cao giá trị an lạc trên nền tảng nâng cao các phẩm chất giác ngộ tự nội. Đức Phật chủ trương nâng cao giá trị hạnh phúc trên cơ sở nâng cao giới đức, tâm đức và tuệ đức của con người.
  Để giúp cho mọi người nhận rõ lối đi của Tăng thượng tâm, Tăng thượng an lạc, đạo Phật phân biệt rõ các cấp độ hạnh phúc khác nhau, gồm dục lạc, thiện lạc, thiền lạc và giải thoát lạc.
  Dục lạc :  nghĩa là hạnh phúc hay lạc thú thế gian, bao gồm các đối tượng ham muốn thường tình của con người, như tiền tài vật chất(tài), danh vọng quyền lực (danh) sắc đẹp khác phái (sắc), ăn uống no say (thực), ngủ nghỉ êm ái (thùy) hay còn gọi là các khoái cảm giác quan sinh khởi do duyên tiếp xúc với sắc đẹp, tiếng hay,hương thơm,vị ngon, cảm xúc êm dịu.Đây là loại lạc thú mang tính  đắc trưng và hấp dẫn nhất trong thế giới con người dến độ nó được xem như một căn bệnh phổ biến của loài người : bệnh tham dục. Bậc giác ngộ xác chứng: “ Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham dục”.
   Dục lạc có công năng kích thích đời sống con người thôi thúc các hoạt động tạo tác của con người, kích động bản năng ham muốn và làm tăng trưởng lòng tham không giới hạn của con người. Đạo Phật gọi các đối tượng kích thích như vậy là các dục trưởng dưỡng, tức các yếu tố quyến rũ, hấp dẫn, gây cảm kích, tạo khoái lạc, làm lớn mạnh lòng tham hay dục vọng của con người. Đức  Phật  nêu định nghĩa về dục lạc :
  “ Này Ananda, có năm dục trưởng dưỡng này. Thế nào là năm ? Các sắc do nhãn căn nhận thức, khả ái, khả lạc, khả hỷ, tương ứng với dục, hấp dẫn, các tiếng do tai nhận thức các hương do mũi nhận thức các vị do lưỡi nhận thức các xúc do thân cảm xúc, khả ái, khả lạc, khả hỷ, tương ứng với dục, hấp dẫn, này Ananda, như vậy là năm dục trưởng dưỡng, Này Ananda, duyên năm dục trưởng dưỡng này khởi lên lạc và hỷ, như vậy gọi là dục lạc”.
  Theo kinh nghiệm của Đức Phật thì dục lạc có vị ngọt làm say đắm lòng người nhưng chúng nguy hiểm, vì chúng là nguyên nhân gây nên nhiều tổn thất và bất hạnh lớn cho con người.  Bậc giác ngộ định danh dục lạc là “Vui ít, khổ nhiều, não nhiều, nguy hiểm càng nhiều hơn”, bởi dục lạc làm lớn mạnh lòng tham gây nên nhiều phiền muộn khổ đau cho con người và cuộc đời. Đại kinh khổ uẩn thuộc tuyển tập Trung bộ nêu một loạt các hậu quả nguy hại do lòng tham hay dục vọng gây ra.
-Khiến cho con người lao tâm khổ tứ, làm việc vất vã cực nhọc, thức khuya dậy sớm, chịu nắng chịu mưa.
- Rơi vào sầu muộn khổ não, nếu công ăn việc làm bị thất bại.
- Lo lắng tài sản bị tổn thất bởi nạn trộm cướp, bởi quan lại nhũng nhiễu, bởi thiên tai hỏa hoạn,nước cuốn hay bởi con cái phá tán.
-Rơi vào các việc làm xấu ác, vi phạm pháp luật khiến bị tù tội, chịu nhiều cực hình tra tấn khổ đau.
- Rơi vào tranh chấp cãi vã xâu xé lẫn nhau giữa cha mẹ và con cái, giữa anh em hay giữa bạn bè với nhau chỉ vì mục đích thỏa mãn dục vọng.
- Tranh chấp dòng tộc, đấu tranh giai cấp dẫn đến đả thương, tàn sát lẫn nhau vì lý do danh vọng quyền lợi không được chia đều.
  Tranh chấp lãnh thổ, xâm chiếm đất đai, chiếm đoạt tài nguyên giữa các quốc gia hay các khối chủ nghĩa khiến chiến tranh, hận thù xảy ra gây chết chóc khổ đau cho vô số người.
-Tạo tác các ác nghiệp về thân, về lời, về ý do duyên dục vọng gây nên sau khi thân hoại mạng chung, tái sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
 Do dục lạc là nguyên nhân gây nên nhiều phiền toái khổ đau cho con người và cho cuộc đời, Đức Phật gọi dục lạc này là hạnh phúc có đau khổ, có phiền lao, có ưu não, có nhiệt não, đưa đến tranh chấp, đáng sợ hãi, không nên tìm cầu, không nên làm cho sung mãn, cần hạn chế, cần nhiếp phục, cần buông bỏ. Ngài xem dục lạc là ô uế lạc, tức các lạc thú làm ô uế tâm thức con người, khiến cho con người trở nên hèn hạ tầm thường, không nâng cao phẩm giá của con người.
Thiện lạc : tức là niềm vui của lẽ sống tuân theo thiện pháp hay hạnh phúc phát khởi do sinh sống chơn chánh đúng pháp, nổ lực làm các việc lành, làm các công đức. Đây cũng là hạnh phúc thế gian, được thực nghiệm bởi người gia chủ tầm cầu tài sản đúng pháp; sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp, vị ấy tự mình an lạc, hân hoan, chia sẻ và làm các công đức. Người ấy hưởng thọ các tài sản ấy, không có tham đắm, không có đắm say, không có mê loạn, thấy được sự nguy hại, có xuất ly với trí tuệ. Bản kinh không nợ thuộc tuyển tập Tăng chi bộ đề cập một người gia chủ biết đầu tư làm ăn hợp pháp, thu hoạch nhiều tài sản, rồi dùng lợi tức ấy nuôi sống gia đình vợ con, phụng dưỡng cha mẹ, chia sẻ bố thí cho nhiều người khác, nhờ đó có được bốn loại lạc :
1. Lạc sở hữu : Nghĩa là vị ấy sinh sống chân chính đúng pháp, thu hoạch được tài sản và nghỉ về thành quả ấy mà sinh tâm hoan hỷ.
2. Lạc tài sản : Vị ấy sinh sống chân chính đúng pháp, thu hoạch được tài sản và dùng tài sản ấy vào việc thọ dụng, chia sẻ, bố thí, cúng dường nhờ đó có được hân hoan hỷ lạc.
3. Lạc không mắc nợ :  Vị ấy sống chân chính đúng pháp, không mắc nợ ai điều gì và do đó cảm thấy được an ổn an lạc.
4.Lạc không phạm tội : Vị ấy sinh sống chân chính đúng pháp, không phạm phải các lỗi lầm về thân, về lời, về ý, hiểu rõ mình không phạm tội do đó đạt được niềm vui lớn.
  Như vậy, thiện lạc là hạnh phúc thế gian mà người cư sĩ có thể thành tựu trên cơ sở nổ lực tìm cầu tài sản đúng pháp, tạo dựng của cải vật chất chính đáng, thể hiện lối sống thiểu dục tri túc, hân hoan chia sẻ lợi ích vật chất với nhiều người khác, chuyên tâm làm các việc lành, làm các việc công đức. Đạo Phật khuyến khích loại hạnh phúc này bởi nó đi đôi với thiện, đi đôi với nếp sống có giới đức và tiết độ, đi đôi với hiểu biết chia sẻ và mở tâm bố thí, đi đôi với công đức làm lành lánh dữ. Có thể nói rằng thiện lạc là hạnh phúc thế gian nhưng khác với dục lạc, vì loại hạnh phúc này gắn liền với giới đức và trí tuệ, gắn liền với nhiều dục tri túc, gắn liền với từ tâm bố thí, gắn liền với nhiếp hóa lòng tham. Có thể xem đây là bước chuyển hóa và thăng hoa tâm thức căn bản mà người cư sĩ có thể thực hiện trong đời sống tại gia vốn có nhiều bổn phận và trách nhiệm phải làm đối với gia đình và xã hội. Đức Phật tán dương lối sống đưa đến thiện lạc.
  Học nhiều, nghề nghiệp giỏi,
  Khéo huấn luyện, học tập,
  Nói những lời khéo nói,
  Là điềm lành tối thượng,
  Hiếu dưỡng mẹ và cha,
  Nuôi dưỡng vợ và con,
  Làm nghề không rắc rối,
  Là điềm lành tối thượng,
  Bố thí, hành động đúng pháp,
  Săn sóc các bà con,
  Làm nghề không lỗi lầm
  Là điềm lành tối thượng,
  Chấm dứt, từ bỏ ác,
  Chế ngự đam mê rượu,
  Trong pháp, không phóng dật,
  Là điềm lành tối thượng.
Thiền lạc : nghĩa là niềm hân hoan an lạc nội tâm, đạt được nhờ chuyển hóa và thanh lọc tâm thông qua hành Thiền. Đây là phương pháp chuyển hóa tâm thức rất quan trọng, làm phát sinh các cấp độ an lạc tinh tế sâu lắng thuộc nội tâm, có khả năng làm thay đổi cảm thức của con người về kinh nghiệm hạnh phúc. Đức Phật khuyên gia chủ thực nghiệm cho được  Thiền lạc, bên cạnh các thiện lạc mà vị cư sĩ này đã có được nhờ nếp sống cúng dường bố thí và giữ giới. Theo kinh nghiệm của Đức Phật thì Thiền lạc có khả năng đối trị và nhiếp phục dục lạc, vì Thiền lạc vi diệu, thù thắng và an ổn hơn dục lạc. Bậc Giác ngộ đánh giá cao Thiền lạc, gọi hành Thiền là Tăng thượng tâm và hiện tại lạc trú, tức sự thăng hoa tâm thức và sống an lạc ngay trong hiện tại. Sau đây là các minh họa về Thiền lạc.
  -Cảm  giác sung sướng hân hoan do gột rửa tâm khỏi năm triền cái (tham, sân, si, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi ngờ) như người mắt nợ thoát khỏi nợ nần, như người bệnh thoát khỏi bệnh tật, như người tù được trả tự do, như người nô lệ thoát khỏi cảnh nô lệ, như người buôn băng qua sa mạc được an toàn : “ Này các Tỳ kheo, như một người mắc nợ liền làm các nghề nghiệp. Những nghề này được phát đạt, người ấy không những trả được nợ cũ, còn có tiền dư nuôi dưỡng vợ con..  Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Này các Tỳ kheo, như một người bị bệnh, đau đớn, trầm trọng, ăn uống không tiêu, thể lực suy yếu. Sau thời gian, người ấy khỏi bệnh, ăn uống tiêu thông, thể lực khôi phục.. Người ấy nhờ vậy sung sướng hoan hỷ. Này các Tỳ kheo, như một người bị nhốt trong ngục. Người ấy sau một thời gian được khỏi tù tội, an lạc kiện toàn, tài sản không bị giảm tổn Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Này các Tỳ kheo, như một người nô lệ, không được tự chủ, lệ thuộc người khác, không được tự do đi lại. Người ấy sau một thời gian thoát khỏi cảnh nô lệ, được tự chủ, không lệ thuộc người khác, được tự do đi lại Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Này các Tỳ kheo, như một người giàu có, nhiều tài sản, đang đi qua sa mạc. Người ấy sau một thời gian đã đi khỏi sa mạc ấy, đến đầu làng yên ổn, không có nguy hiểm, tài sản không bị tổn giảm Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Cũng vậy này các Tỳ kheo, Tỳ kheo tự mình quán năm triền cái  chưa xả ly, như món nợ, như bệnh hoạn, như ngục tù, như cảnh nô lệ, như con đường qua sa mạc. Này các Tỳ kheo, cũng như không mắc nợ, không bị bệnh tật được khỏi tù tội, được tự do, đến được đất lành yên ổn. Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo quán năm triền cái khi chúng được diệt trừ.”
- Lạc sơ thiền : “Vị Tỳ kheo ly  dục, ly ác, bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không có hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.”.
-Lạc đệ nhị thiền : “Lại nữa, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần .”.
- Lạc đệ tam thiền : “ Lại nữa, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tĩnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là “Xả niệm lạc trú” chứng và trú Thiền thứ ba. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân này với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần.”
- Lạc đệ tứ thiền : “ Lại nữa, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo xả lạc khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần.”
 Các mô tả về bốn trạng thái Thiền trên đây của Kinh tạng Pali cho chúng ta một hình ảnh sống động về kinh nghiệm hạnh phúc an lạc của pháp môn hành Thiền. Một người hành Thiền tức là một người đang sống trong hạnh phúc an lạc. Vì hạnh phúc an lạc bởi thân tâm vị ấy được thấm nhuần, tẩm ướt, tràn đầy với hỷ lạc do ly dục sanh, với hỷ lạc do định sanh, với xả niệm lạc trú và với xả niệm thanh tịnh. Kinh tạng Pali ví người hành thiền giống như một người đứng trên núi cao, có thể hít thở  không khí trong lành và thưởng thức vẻ đẹp của một cảnh quan thiên nhiên rộng lớn, so với cảm thức giới hạn của người không hành thiền, đứng dưới chân đồi.
  Như vậy, hành Thiền là bước chuyển hóa và thực nghiệm tâm linh to lớn với kết quả thân được khinh an, thoải mái, tâm được hân hoan, định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản. Chính trên nền tảng một tâm thức được khéo huấn luyện như vậy mà hành giả có thể dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh nhằm đoạn tận các lậu hoặc, thành tựu quả giải thoát giác ngộ.
    Do Thiền lạc có khả năng làm trong sáng và an tịnh nội tâm, giúp cho người thực hành thành tựu trí tuệ đưa đến đoạn tận các lậu hoặc, Đức Phật xem loại lạc này là lạc hợp pháp, tức xuất ly lạc, hạnh phúc của sự từ bỏ dục lạc, an tịnh lạc, niềm vui của tâm thức an tịnh, vắng bặt các cấu uế tham, sân, si hay năm triền cái; độc cư, hạnh phúc của nếp sống thanh tịnh vắng lặng; Chánh giác lạc, niềm vui có khả năng đưa đến giác ngộ. Cũng theo lời Phật thì Thiền là loại hạnh phúc không có đau khổ, không có phiền lao, không có ưu não, không có nhiệt não, không đưa đến tranh chấp mà mọi người nên thực hành, nên tu tập, nên làm cho sung mãn trong đời sống hằng ngày.
Giải thoát lạc : Nghĩa là hạnh phúc của tâm thức giác ngộ, bặt dứt các cấu uế tham  sân-si, thoát khỏi các lậu hoặc và kiết sử, đạt đến hoàn toàn tịch tịnh, an nhiên tự tại, không còn bị quy luật vô thường sanh diệt làm cho phiền muộn khổ não. Đó là niềm an tịnh tuyệt đối của Niết bàn, vượt ra ngoài cảm thức hạnh phúc thông thường của thế gian, được chứng nghiệm bởi những người đã hành sâu Bát Thánh đạo, đã đạt đến Chánh trí và Chánh giải thoát, tức đã đạt đến liễu tri và đoạn tận khổ đau.
   Nói cách khác, đó là lẽ sống tịch tịnh, giải thoát, an nhiên tự tại của những người đã chứng ngộ sự thật duyên sanh, vô thường, khổ, vô ngã của tự thân (ngũ uẩn) và của hết thảy những gì gắn liền với bản thân mình, không còn xem những gì mắt thấy tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm, ý nhận thức là mình hay của mình, không còn bị chi phối (vui hay buồn, hân hoan hay sầu khổ) bởi tính chất sanh diệt của hiện hữu.
  Khi xúc chạm việc đời,
  Tâm không động, không sầu,
  Không uế nhiễm, an ổn,
  Là hạnh phúc tối thượng
  Theo sự mô tả của Kinh tạng Pali đó là cảm thức của một người đã thoát khỏi các lậu hoặc, biết rõ mình đã giải thoát: “ Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn tái sanh nữa”. Sự an tịnh vắng lặng hoàn toàn của một người sống toàn tâm toàn ý với phút giây hiện tại, không còn vọng tâm truy tìm quá khứ hay phóng tưởng mơ ước tương lai. Cảm giác hỷ lạc khởi lên  nơi một người đã đoạn tận các lậu hoặc, quán sát tâm mình đã giải thoát khỏi tham,sân,si. Sự tịnh lạc của một người mà thân, khẩu, ý nghiệp đã đạt đến an tịnh, đã thành tựu chánh trí và chơn chánh giải thoát. Cảm thức bình an tuyệt đối của một người mà tâm không còn luyến ái, không còn chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy đối với bất cứ điều gì. Sự giải thoát tất cả, không còn sầu muộn, không còn nhiệt não của một người đã đạt đến đích, đã đoạn trừ mọi ràng buộc. Sự tịnh chỉ hoàn toàn của một người không còn, tham, sân, si, không ái luyến, không chấp thủ, có trí tuệ, không thuận ứng, không nghịch ứng, không ưa hý luận, không thích hý luận. Sự thoát khỏi mọi hy cầu, được tịch tịnh, được thanh lương, cảm thấy an lạc của một người rõ biết mình đã thoát khỏi tham, sân, si. Cảm giác của một người không tự làm khổ mình, không làm khổ người, ngay trong hiện tại không có tham dục, không có khao khát, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ. Tâm trạng của một người không còn âu lo sợ hãi, ngày đêm không khởi phiền não, ý vui niềm bất hại, luôn luôn đỏ đầy tâm từ thương tưởng chúng sinh. Thái độ tịch tịnh, không hoan hỷ, không sầu muộn của một người đã đã dứt sạch mọi ý niệm phân biệt, thấy rõ mọi thứ đến và đi, sanh và diệt do nhân duyên, không phải của mình, đã an toàn vượt khỏi chỗ người đời đắm say. Tóm lại, đó là cảm giác an lạc tuyệt đối của một người đã đoạn tận tham,sân, si, đã thực chứng Niết bàn là hạnh phúc tối thượng.
 Nhìn chung, đạo Phật là con đường của hạnh phúc an lạc hướng thượng mà càng nổ lực thực hành thì hạnh phúc càng tăng thượng cho đến khi đạt đến tối thượng (giải thoát lạc hay Niết bàn). Đó là con đường Bát Chánh đạo hay nếp sống Giới-Định-Tuệ, có công năng giúp cho con người phát huy các phẩm chất giác ngộ tự nội, giúp cho con người có đủ năng lực chuyển hóa và nhiếp phục tham,sân,si, từng bước nâng cao giá trị an lạc giải thoát trong đời sống, không còn bị trói buộc khổ não bởi thế giới dục lạc thấp kém. Rõ ràng trong một thế giới ngày càng bộc lộ bản chất hư huyển và bất an cơ bản do lòng tham muốn dục lạc của con người tạo nên, con đường thiện lạc, thiền lạc, giải thoát lạc do Đức Phật khuyến khích đang hiện rõ sức sống an lạc vững bền, như tiếng gọi mùa xuân mang lại niềm tin yêu và lối sống hòa ái cho muôn loài vậy./.
 Trích VHPG Xuân :1-2-2018
{]{

SỨC MẠNH CỦA NIỀM TIN

 Niềm tin có khả năng sẽ đưa con người từ vực thẳm tối tăm tiến lên phía trước, có thể cứu họ từ gục ngả mà vươn lên đỉnh điểm của vinh quang. Niềm tin mang một sức mạnh siêu nhiên mà con người luôn cần tới nó.
    Trong phật giáo, niềm tin vô cùng quan trọng, vì : “ Tín là căn nguyên của Đạo, là  mẹ đẻ của công đức, nuôi lớn hết thảy thiện pháp, đoạn trừ lưới nghi, đưa vượt qua dòng nước ái dục, khai thị con đường tối thượng dẫn đến Niết bàn ”. Niềm tin có một sức mạnh tiềm tàng vô tận, thôi thúc con người vươn tới mục đích cao xa để thực hiện hoài bảo cao đẹp của mình. Tín là chi đầu tiên trong Ngũ căn và Ngũ lực. Tín căn là gốc của niềm tin, tức niềm tin được xác lập một cách kiên định. Tín lực là sức mạnh của niềm tin, Khi niềm tin được xác lập thì có sức mạnh vượt trội. Sức mạnh niềm tin có thể công phá được tất cả mọi thành trì chướng duyên, phiền não. Và khi mà tín căn được tu tập, làm cho sung mãn thì sẽ biến thành tín lực, tức là tạo nên sức mạnh, hỗ trợ hữu hiệu cho hành giả  thực hành thiền định và thiền tuệ.
  Trong Ngũ thường của Nho giáo (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín), tín có một vai trò quan trọng. Đây là lòng tin tưởng giữa người và người, là giữ trọn lời hứa để tạo lòng tin với nhau; không được bội ước, thất tín. Người mà không có chữ tín sẽ đánh mất nhân phẩm, tư cách của đạo làm người. Khổng Nho nói :  “ Nhân vô tín, bất lập”; có nghĩa là người không giữ chữ tín thì không  đặt để vào đâu được cả, ý nói là không thể đứng được trong thế gian, không thể làm người được nữa. Tín trong ngũ thường, như vậy, là một trong năm yếu tố, điều kiện để  hoàn thiện nhân văn, nhân bản theo quan niệm chung của nền minh triết Đông phương.
 Người con Phật luôn thiết lập niềm tin trên nền tảng của Tứ bất hoại tín hay còn gọi là Tứ chứng tín. Ấy là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin vào Thánh giới. Đó là bốn niềm tin trong sáng, thuần tịnh và không bị hủy hoại đối với người đệ tử Phật trong bất cứ trường hợp nào. Với bốn niềm tin này, người đệ tử Phật có thể đi vào dòng dõi của bậc Thánh, sống an vui trong từng giây phút hiện tại, do sự thấy pháp và chứng nghiệm pháp đem lại.
 Tuy nhiên, bên cạnh niềm tin cần phải có trí tuệ. Nếu chỉ tin mà không có trí tuệ soi xét thì đó là niềm tin mù quáng. Do vậy, cần phải có đủ niềm tin và sự hiểu biết (tín và giải) để từ đó chúng ta đi trên lộ trình tu tập luôn được tự tại và ít có sự chướng ngại. Thành ra, tín và giải luôn song hành, hỗ trợ nhau để đi đến sự thành tựu hạnh và chứng. Đây là nấc thang đầu tiên để hướng đến Chánh đạo giải thoát. Nếu không thì chúng ta sẽ rất mù mờ, dẫn đến sai đường lạc lối. Do vậy,  Đức Phật  phân định rõ ràng qua bốn căn cơ như sau :
1- Có tín mà không có giải đó là hạng người độn căn mà lại chánh kiến. 2- Có giải mà không có tín là hạng người lợi căn mà lại tà kiến. 3-  Vừa có tín mà vừa có giải là hạng người vừa lợi căn mà vừa chánh kiến. 4-  Không tín không giải đó là hạng người vừa độn căn vừa tà kiến.
  Niềm tin và trí tuệ luôn đi đôi với nhau, hỗ trợ nhau trên con đường tu tập. Do đó, Ngài Long Thọ khẳng định : “ Niềm tin là lối vào biển thánh pháp của đức Phật, và trí tuệ là con thuyền mà người ta dùng nó để vượt qua biển ấy”. Sức mạnh của niềm tin sẽ thúc giục trí tuệ đi vào khám phá diệu nghĩa và nếm trải hương vị của Phật pháp. Như vậy, niềm tin là căn bản để phát sanh thiện pháp, và niềm tin là chánh nhân để hành giả có thể nhập vào biển cả Phật pháp. Cho nên,  đối với người tu học không thể không có niềm tin. Mất niềm tin là mất phương hướng tu học chắc chắn là sẽ thoái đọa. Khi đã kiên định trên tứ bất hoại tín, tức là tin Phật- Bậc giác ngộ vẹn toàn; tin Pháp- đạo thoát ly tham dục, đưa đến giải thoát., tin Tăng- đoàn thể xuất gia tu hành cao cả, thay mặt Phật truyền trao Chánh pháp, tin vào thánh giới- nguyên tắc phòng hộ đưa đến biệt giải thoát, và xứ xứ giải thoát; còn có một yếu tố hết sức quan trọng, đó là tin vào chính mình. Tin vào chính mình là tin vào khả năng, năng lực sức mạnh tiềm tàng trong con người chính mình. Ai cũng có khả năng, năng lực, và sức mạnh tự nội. Nhưng do thiếu niềm tin nên có khi chúng ta để thui chột các năng lực và sức mạnh tự nội đó. “ Lạc quan là niềm tin dẫn tới thành tựu. bạn chẳng thể làm được  điều gì mà thiếu đi hy vọng và sự tự tin” (Helen Keller).
    Thật vậy, niềm tin có sức mạnh vô cùng kỳ diệu. Nó là  một cảm xúc trong ý chí của con người. Nó đi liền với sự hy vọng bùng cháy trong tâm hồn. Niềm tin được ví như một động lực để giúp con người vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Và để vượt qua chúng thì niềm tin vào bản thân luôn là điều không thể thiếu. Niềm tin vào bản thân là sự ý thức về năng lực, phẩm chất, giá trị của bản thân, đánh giá được vị trí vai trò của mình trong cuộc sống. Niềm tin vào bản thân thực sự rất quan trọng. Bởi nó không đơn thuần là một cảm xúc thông thường. Nó là một động lực lớn của con người. Chắc hẳn chúng ta đã từng nghe câu : “ mất niềm tin là mất tất cả”. Tại sao lại như vậy ? Bởi thứ nhất bạn sẽ là người hiểu rõ bạn nhất. Bạn sẽ biết được toàn bộ suy nghĩ, thế mạnh, điểm yếu của chính bản thân bạn. Bạn sẽ là người duy nhất biết rõ bạn cần gì, ước mơ những gì, hy vọng điều gì cho cuộc sống. Nếu bạn mất niềm tin, bạn sẽ chẳng còn quan tâm đến những điều này nữa. Bạn sẽ chẳng còn ý chí, nghị lực để bước tiếp trên con đường mình đã chọn. Mất niềm tin, bạn sẽ chẳng còn mục đích sống của mình là gì, vì  thế mà trở thành  buông thả bất cần, lúc đó hậu quả sẽ thật khó lường. Không có niềm tin, sống buông thả, bất cứ lúc nào bạn cũng có thể sa ngã rồi đánh mất bản thân mình.
  Trên con đường tu tập, niềm tin sẽ định hướng, vạch lối đưa dường cho mình bước tiếp một cách vững chãi. Đức Phật dạy: “ mỗi người hãy là một hòn đảo cho chính mình, Đức Như Lai chỉ là bậc Đạo sư ”.  Khả năng tu tập của mình là nhân tố quyết định thành công, đừng trông chờ hy vọng ở tha nhân nào khác, phải phát triển nghị lực sẳn có của chính mình, và sự thật mỗi người đều có khả năng nghị lực đó.
 Theo tinh thần của kinh Pháp Hoa, mỗi người đều có Phật tánh và có khả năng thành Phật, là một vị Phật tương lại. Sự xác tín này đã mở ra cơ hội và hy vọng lớn cho tất cả mọi người. Họ tin rằng mình có khả năng làm Phật, nên họ luôn hành động, suy nghĩ và  nói năng đúng đắn, chánh đáng. Nên tất cả mọi việc làm đều là Phật sự, đều mang sự lợi ích cho tất cả mọi người.
 Theo Đại Thừa Khửi Tín Luận, niềm tin chân chính phải được xác lập  từ nơi tâm thức của chính mình, vì chỉ tâm ấy mới có khả năng làm Phật, chứ không phải tìm vào một tâm nào khác. “ Phát khởi lòng tin vào chính cái tâm bình thường ở ngay nơi mình. Từ cái tâm bình thường đó, chúng ta sẽ đi đến đất Phật, như chư Bồ tát đang đi và sẽ đến như chư Phật đã đến ”. Bộ luận này cũng khẳng định rằng tín căn của Đại thừa là chỉ cho Phật tánh đầy đủ trong mỗi chúng sanh. Phật tánh là nhân thì Phật quả mới là Niết bàn thực sự .
   Niềm tin tương lai mình sẽ làm Phật đã thực sự  thổi một luồng sinh khí mới mẻ vào  tâm thức tất cả mọi người. Vì rằng mai này mình là người hoàn thiện về phước đức và trí tuệ, nên trong mọi lúc, mọi nơi, sẽ cố nỗ lực để kiện toàn về nhân cách đạo đức, xa lìa ác pháp, viễn ly các tư tưởng chấp thủ cố hữu để đi đến chân trời giải thoát đích thực. Chân trời ấy là chân trời vô tham, vô sân, vô si, an lạc tự tại, vô ngã, Niết bàn. Chính niềm tin này là nhân tố căn bản để thiết lập bất thối chuyển tâm, dù có trải qua vô lượng kiếp thì tâm này cũng không bao giờ thối đọa.
   Niềm tin làm Phật ở tương lai không những giúp mọi người ý thức đến giá trị bản chất của sự sống, sự lợi lạc của cộng đồng; trái lại, nhờ niềm tin của ta đã được kiên định, nên nó có hiệu năng tiêu diệt và chuyển hóa những ác nghiệp của ta từ bao đời kiếp. Nhờ có niềm tin, nên ta tinh tấn nỗ lực hành trì theo Pháp Phật  một cách chí thành, không nghi ngờ, do dự, nên nghiệp nặng chuyển thành nghiệp nhẹ, quả báo nặng chuyển thánh quả báo không đáng kể, không những vậy mà còn có cơ hội hóa giải tam độc tham sân si nơi tự tâm của mình. Do vậy, với niềm tin kiên định, bất hoại, thì không những chuyển hóa được những nghiệp chủng của tâm thức bằng công năng của Giới-Định-Huệ; chuyển từ nhiễm sanh tịnh, từ những nhận thức sai lầm về một bản ngã cố hữu, về con người, về chúng sanh, mà còn chuyển hóa được tất cả dư báo xấu trong quá khứ cũng như hiện tại đều theo hướng Vô thượng Bồ đề. “ Người ta không thể giữ giới nếu không có niềm tin. Do giữ giới, người ta sẽ nhập vào trạng thái tâm thức của thiền định và cũng có thể đạt đến trí tuệ”.
 Bằng đức tin này, ta sẽ tinh cần thực hành lục độ một cách vô trú và vô tướng, chuyển hóa những vọng tưởng sai lầm đối với tự thân, đối với con người, đối với chúng sanh, đối với thọ mạng thành chánh trí và có khả năng chuyển hóa Khổ đế thành Diệt đế, hay sanh tử thành Niết bàn, chứng nhập vô vi pháp thân, có khả năng sinh khởi tuệ giác, biến tri một cách như thực đối với mọi sự hiện hữu và không hiện hữu, rồi hưng khởi lòng từ vô biên, sử dụng vô số phương tiện thiện xảo, dạo khắp mười phương, rưới nước cam lồ, dập tắt mọi ưu não và khơi mở tuệ giác cho hết thảy muôn loài.
   Thành ra niềm tin có một sức mạnh kỳ diệu, có một năng lực mầu nhiệm. năng lực mầu nhiệm này có thể chuyển hóa, làm thay đổi cuộc đời của bạn. Sức mạnh của niềm tin luôn thúc giục ta tiến tới, vượt qua mọi gian lao trắc trở. Sức mạnh của niềm tin sẽ là sợi chỉ hồng gắn kết con người lại với nhau trong sự thương yêu, tin tưởng. Niềm tin là chất liệu mầu nhiệm để đưa đến diệu quả thù thắng. Nhờ đó, cuộc đời sẽ trở nên ý vị hơn, với niềm tin hy vọng tràn trề. Để con người vươn tới xây dựng một tương lai tươi sáng, đẹp đẽ hơn ./.
    Thích Trung Định  VHPG: 1-4-2018  số 294
{]{

PHẢN TƯỞNG KHỔ LÀ LẠC

Trong Trung Bộ Kinh, đức Phật giảng cho du sĩ Magandiya về sự lợi ích  của sự nhiếp phục lòng tham và phân tích về sự nguy hiểm  của các dục, tức những tổn hại lòng tham muốn các lạc thú thế gian (sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, cảm xúc êm dịu)  gây ra, Đức Phật xác nhận  những ai chưa đoạn trừ tham ái đối với các dục, đang bị các dục ái nhai nghiến, đang bị dục nhiệt não thiêu đốt, với các căn bị hư hoại, do sự xúc chạm đau khổ với các dục, lại có phản tưởng là hạnh phúc.
   Thông thường, con người sống ở đời xem các lạc thú thế gian là hạnh phúc, đôi khi còn cho đó là hạnh phúc tối thượng, tức sự thỏa mãn lòng khao khát sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, cảm xúc êm dịu hay sự sở hữu và thụ hưởng đầy đủ các thứ khoái lạc như tiền tài vật chất (tài), danh vọng quyền lực (danh), sắc đẹp khác phái (sắc), ăn uống no say (thực), ngủ nghỉ êm ái (thùy). Hẳn là quan niệm và kinh nghiệm thực dụng này có công năng kích thích đời sống con người, khuyến khích các hoạt động tạo tác của con người, thôi thúc con người nỗ lực tìm kiếm và sở hữu các khoái lạc trần thế, càng nhiều càng tốt, càng nhiều càng hạnh phúc. Đó không khác gì là chủ đích và xu thế vượt trội của nền văn minh vật chất đã và đang ngự trị mạnh mẽ trong đời sống nhân loại, một nền văn minh được xây dựng trên lòng tham, cổ vũ lòng tham và làm tăng trưởng lòng tham dục ở bên trong con người. Chắc chắn không ai có thể phủ nhận và chối bỏ một đời sống gắn liền với sự sở hữu các tiện nghi khoái lạc vật chất. Tuy nhiên, chính do quan niệm và kinh nghiệm thực dụng này mà nhân loại thường xuyên phải đối mặt với các khủng hoảng và thách thức, không ngừng rơi vào tranh chấp, tranh đoạt, cướp bóc, xâm lăng và tàn hại lẫn nhau chỉ vì mục đích thỏa mãn lòng tham, khiến cho lịch sử loài người ngập tràn chiến tranh hơn hòa bình, đời sống nhân loại đổ đầy nước mắt hơn nụ cười, vì “ dầu mua bằng tiền vàng, các dục khó thỏa mãn”  và bởi “các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm càng nhiều hơn”.
  Trong kinh Phật dạy : “ Này các Tỳ kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, vua tranh đoạt với vua, Sát đề lỵ tranh đoạt với Sát đế Lỵ, Bà la môn tranh đoạt với Bà la môn, gia chủ tranh đoạt với gia chủ, mẹ tranh đoạt với con, con tranh đoạt với mẹ, cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha, anh em tranh đoạt với anh em, anh tranh đoạt với chị, chị tranh đoạt với anh, bạn bè tranh đoạt với bạn bè. Khi họ đã dấn mình vào tranh chấp, tranh luận, tranh đoạt, họ công phá nhau bằng tay; họ công phá nhau bằng đá, họ công phá nhau bằng gậy, họ công phá nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này các Tỳ kheo, như vậy là sự nguy  hiển các dục là nguyên nhân của dục.
   Lại nữa, này các Tỳ kheo, do dục làm nhân do chính dục làm nhân, họ cầm mâu và thuẫn, họ đeo cung và tên, họ dàn trận hai mặt, và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Họ bắn đâm nhau bằng tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này các Tỳ kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục là nguyên nhân của dục.
   Lại nữa, này các Tỳ kheo, do dục làm nhân..do chính dục làm nhân, họ cầm mâu và thuẫn, họ đeo cung và tên, họ công phá thành quách mới trét vôi hồ và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Ở đây họ, họ bắn đâm nhau bằng tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ đổ nước phân sôi, họ đè bẹp nhau bằng đá, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này các Tỳ kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục là nguyên nhân của dục.
    Lại nữa, này các Tỳ kheo, do dục làm nhân  do chính dục làm nhân, họ đột nhập nhà cửa, họ cướp giật đồ đạc, họ hành động như kẻ cướp, họ phục kích các đường lớn, họ đi đến vợ người. Các vua chúa khi bắt được một người như vậy liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh bằng côn, họ chặt tay, họ chặt chân, họ chặt tay chân, họ xẻo tai, họ cắt mũi, họ xẻo tai cắt mũi, họ dùng hình phạt vạc dầu sôi . v.v ..họ cho chó cắn, cho cọp nhai, voi dày, họ đóng đinh  v.v  Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự khổ đau gần như tử vong. Này các Tỳ kheo, như vậy là sự nguy hiểm của dục là nguyên nhân của dục.
  Lại nữa, này các Tỳ kheo, do dục làm nhân do chính dục làm nhân, họ sống làm các ác hạnh về thân, làm các ác hạnh về lời nói, làm các ác hạnh về ý. Do họ sống làm các ác hạnh về thân, làm các ác hạnh về lời nói,  làm các ác hạnh về ý, khi thân hoại mạng chung, họ sanh về cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Tỳ kheo, như vậy là sự nguy hiểm  các dục, đưa đến khổ đau tương lai, là khổ uẩn, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nhân duyên. Do chính dục làm nhân”.
 Sự phân tích của bậc Giác ngộ cho chúng ta thấy dục lạc hay các lạc thú thế gian là nguyên nhân của mọi bất hạnh khổ đau xảy ra cho con người và cuộc đời. Chúng được xem là loại hạnh phúc có khổ đau, có phiền não, có ưu não, có nhiệt não, vì chúng đưa đến tranh chấp, tranh đoạt, chiến tranh, gây nên nhiều tai họa khổ đau cho nhân thế. Hẳn nhiên, bất hạnh khổ đau xảy ra không hoàn toàn do dục lạc mà do con người thiếu hiểu biết đầy đủ về dục lạc; con người chỉ thấy vị ngọt của các dục lạc mà không thấy sự nguy hiểm của các dục lạc, càng không biết cách chế ngự và thoát ly các dục; vì thế con người mới bị lòng tham trói buộc và chi phối, mới mê say  khao khát dục lạc, mới đi đến tranh chấp, tranh đoạt, cấu xé và tàn hại lẫn nhau chỉ vì mục đích sở hữu và thỏa mãn các dục. Sự thiếu hiểu biết này thật tai hại vì nó khiến cho con người hoàn toàn mê mờ và mù lòa, nhầm tưởng khổ là lạc, tiếp tục lôi kéo và giam hãm loài người trong thế giới tranh chấp khổ đau.
 Đạo Phật không phủ nhận dục lạc hay các lạc thú thế gian. Đạo Phật chỉ nêu rõ dục lạc vui ít khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm càng nhiều hơn và khuyến khích mọi người nỗ lực tu tập, nâng cao đời sống  tâm thức để hạn chế và vượt qua các phiền toái khổ đau do lòng tham muốn dục lạc gây ra. Với kinh nghiệm  của bậc Giác ngộ, Đức Phật nói cho chúng ta biết con người không thể thoát khỏi  phiền não khổ đau do lòng tham muốn dục lạc tạo nên, trừ phi người ấy có sự tu tập chuyển hóa đời sống nội tâm, thực nghiệm các cấp độ an lạc tự nội. Nói cách khác,  con người có thể khắc phục và đoạn trừ mọi bất hạnh khổ đau cơ bản do dục vọng gây ra, nếu con người có được sự hiểu biết đầy đủ về vị ngọt và sự nguy hiểm của các dục, cùng lúc có phương pháp tu tập thoát khỏi sự  trói buộc và chi phối của các dục.
 Đức  Phật nói với Mahanama rằng : thuở xưa, khi ta còn là Bồ tát, chưa chứng Bồ đề, chưa thành Chánh đẳng Chánh giác, Ta khéo thấy với như thật chánh trí tuệ, “ Các dục vui ít khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhều hơn”  dầu Ta có thấy với như thật  chánh trí tuệ như vậy, nhưng Ta chưa chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay một pháp nào khác cao thượng hơn. Và như vậy Ta biết rằng, Ta chưa khỏi bị các dục chi phối. Và này Mahanama, khi nào Ta khéo thấy với như thật chánh trí tuệ : “Các dục, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn ”, và Ta chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp hay một pháp nào khác cao thượng hơn, như vậy Ta khỏi bị các dục chi phối .
  Này Magandiya, Ta thuở trước, khi còn tại gia, Ta sống hưởng thụ một cách đầy đủ, một cách sung mãn, năm dục lạc trưởng dưỡng, các sắc pháp do mắt nhận thức, các sắc pháp này là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn, các tiếng do tai nhận thức các hương do mũi nhận thức các vị do lưỡi nhận thức các xúc do thân nhận thức,các xúc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nay Magandiya, Ta có ba tòa lâu đài, một cho mùa mưa, một cho mùa đông, một cho mùa hạ. Này Magandiya, trong bốn tháng mùa mưa, Ta sống hưởng thụ trong lâu đài mùa mưa, được những nữ nhạc công giúp vui và không bước xuống khỏi lâu đài ấy. Rồi Ta sau một thời gian, sau khi như chơn biết được sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các dục vọng; sau khi đoạn tận dục ái, sau khi trừ diệt nhiệt não của các dục, Ta trú với khát ái được đoạn trừ, với nội tâm an tịnh. Rồi Ta thấy chúng sanh khác, chưa xả ly tham ái đối với các dục đang bị các dục ái nhai nghiến, đang bị dục nhiệt não thiêu đốt, đang chạy theo dục lạc. Ta không ước vọng được như họ; ở đây, Ta không ham thích. Vì sao vậy ? vì rằng, này Magandiya, có hỷ lạc này, ly dục, y bất thiện pháp, sau khi chứng đạt Thiền lạc, được an trú, hoan hỷ trong hỷ lạc ấy. Ta không ao ước cái gì thấp kém, ở đây, Ta không ham thích.
  Kinh nghiệm tu chứng của Đức Phật xác nhận rằng ngoài dục lạc hay các lạc thú thế gian dễ làm cho con người rơi vào mê say tham đắm, nhầm tưởng khổ là lạc, tự mình bị sầu lại tìm cầu cái bị sầu, con người có khả năng sở hữu nhiều niềm vui hay nhiều loại hạnh phúc khác cao cả hơn, sâu lắng hơn, an ổn hơn dục lạc hay các khoái cảm trần thế. Đó là sự thanh thản an lạc nội tâm, đạt được nhờ chuyển hóa và thanh lọc tâm thông qua hành Thiền. Đây chính là phương pháp chuyển hóa tâm thức rất quan trọng, làm phát sinh các cấp độ an lạc tinh tế sâu lắng thuộc nội tâm gọi là Thiền lạc, có khả năng  làm thay đổi cảm thức của con người về kinh nghiệm hạnh phúc.
 Theo kinh nghiệm của Đức Phật thì Thiền lạc có khả năng đối trị và loại trừ lòng đam mê dục lạc, vì Thiền lạc vi diệu, thù thắng và an ổn hơn dục lạc. Bậc giác ngộ đánh giá cao Thiền lạc, gọi hành thiền là Tăng thượng tâm và hiện tại lạc trú, vì việc hành Thiền, chứng đạt Tăng thượng tâm, giống như người đứng trên núi cao, có thể hít thở không khí trong lành và thưởng thức vẻ đẹp kỳ diệu của một cảnh quan thiên nhiên rộng lớn, so với cảm thức giới hạn của người không hành thiền, đứng dưới chân đồi, bị dục lạc chi phối. Đây hẳn là kinh nghiệm và giải pháp thiết thực bổ ích cho đời sống của con người, giúp cho con người tìm thấy lối đi quân bình và hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống tâm thức, giải tỏa được các tâm lý ngột ngạt và tẻ nhạt của lối sống một chiều tìm kiếm và thụ hưởng dục lạc.
 Nhìn chung, sự hiểu biết đầy đủ về các dục khiến cho con người bị trói buộc và chi phối bởi dục lạc, nhầm tưởng dục lạc là hạnh phúc, không thấy được sự nguy hại khổ não của các dục hay lòng khao khát thỏa mãn các lạc thú thế gian. Con người càng thích thú chạy theo dục lạc, càng khao khát thỏa mãn các dục, thì càng bị các dục trói buộc và chi phối đến độ trở thành nô lệ hoàn toàn cho các dục, thực thi lối sống bị trói buộc khổ đau giữa các dục mà không hay biết; giống như người bị bệnh cùi càng hơ đốt thân mình trên hố than hừng chừng nào thời miệng các vết thương lại càng thêm bất tịnh, càng thêm hôi thối và càng thêm thối nát, và người ấy chỉ có cảm giác dễ chịu, thỏa thích do nhân duyên gãi ngứa miệng vết thương.
  Đáng chú ý rằng có sự khác biệt hoàn toàn về kinh nghiệm và khuynh hướng tìm cầu hạnh phúc giữa chúng sanh và các bậc giác ngộ. Những gì chúng sanh xem là hạnh phúc thì các bậc giác ngộ thấy là khổ đau. Những gì chúng sanh khao khát tìm cầu thì các bậc giác ngộ lặng lẽ rời bỏ. Với các bậc giác ngộ thì các dục lạc là phiền toái khổ đau, buông bỏ được lòng tham dục thì giải thoát an lạc. Nhưng đối với chúng sanh thì các dục lạc là vui thích là hạnh phúc, rời xa các dục là sầu muộn khổ đau. Vì sao như vậy ? vì chúng sanh không tìm thấy và chưa tìm thấy được loại hạnh phúc nào khác, ngoài dục lạc hay các lạc thú thế gian. Một người chỉ có một món ăn duy nhất là dục lạc thì không bao giờ rời bỏ được dục lạc, dù biết rằng đó là khổ đau. Nhưng một người sở hữu nhiều loại hạnh phúc khác vi diệu và thù thắng hơn dục lạc thì không có gì khó để buông bỏ dục lạc, cũng đồng nghĩa là buông bỏ trói buộc khổ đau.
   Đó là lý do vì sao Đức Phật khuyên các học trò mình cần phải nhận thức cho thật đầy đủ về các dục, về vị ngọt, sự nguy hiểm của các dục lạc và trên hết, phải thực hành con đường chế ngự và xuất ly các dục (hành Thiền) để có được sự thăng tiến tâm thức (Tăng thượng tâm),  sự thăng hoa hạnh phúc (tăng thượng an lạc) từng bước nâng cao đời sống nhận thức, nâng cao đời sống tâm thức, nâng cao đới sống giải thoát trong đời sống hằng ngày, ngăn tránh sự quyến rũ và trói buộc của dục lạc vốn tiềm ẩn nhiều nguy cơ tranh chấp đưa đến bất hạnh khổ đau của thế giới loài người./.
   Trích từ :    Nguyên Hoàn . VHPG .1-4-2018. Số 294.

{]{

THÁNH SANH

 Angulimala là một người sát sanh, giết 99 người  để lấy ngón tay, còn một người cuối cùng nữa mới đủ số 100, mẹ Angulimala nghe con mình người ta đồn giết người mới đi tìm con, đi đến tìm gặp con Angulimala, Angulimala lại định giết luôn mẹ cho đủ số 100. Ngay lúc đó đức Phật quán thấy nhân duyên lành của Angulimala đã hội đủ, đức Phật liền xuất hiện, Angulimala bỏ ý định giết mẹ bèn rượt theo đức Phật để giết, đức Phật thong thả đi còn Angulimala chạy theo mãi mà không kịp, mệt quá không đuổi kịp Angulimala bèn kêu Phật đứng lại. Đức Phật chậm rãi trả lời : “ Như Lai đã đứng từ lâu, con người chưa chịu dừng đó thôi”. Angulimala nghe Phật nói vậy bèn tỉnh ngộ cái hành động sát nhân của mình, bèn buông dao sám hối xin làm đệ tử xuất gia của Phật. Và được Phật độ  cho xuất gia phát tâm tu học sau thành một vị Tỳ kheo mẫu mực. Angulimala tỏ ra là một Tỳ kheo có đức kham nhẫn và lòng từ bi rộng lớn. Một hôm trên đường đi khất thực, Angulimala trông thấy một người phụ nữ sinh nở khó khăn, khởi lòng từ bi cứu giúp cho cả hai mẹ tròn con vuông. Ông liền quay về cầu xin đức phật chỉ cho cách cứu độ. Phật bảo Angulimala, ông đến nói với người phụ nữ ấy là kể từ khi tôi được Thánh sanh, mình không còn cố ý sát hại ai nữa, mong rằng sự thật ấy bà được an toàn và sanh đẻ được an toàn. Angulimala theo lời Phật dạy kết quả người phụ nữ ấy thoát tình trạng nguy nan, sanh nỡ được vẹn toàn.
   Như vậy Thánh sanh được dùng trong ngụ ý dừng lại các việc ác, không gây hại chúng sanh, đã buông đao trong tâm, quy y Phật,Pháp, Tăng, xuất gia tu học thoát thai trong đời sống mới, một đời sống “không làm các điều ác, thành tựu các việc lành, giữ tâm ý thanh tịnh, theo lời Phật dạy”. Angulimala chấm dứt sát sanh, quyết tâm đi theo con đường giác ngộ của Phật, chính đó là Thánh sanh, được tái sanh vào thế giới của chư phật và các Thánh giả giác ngộ, tuyệt đối hiền thiện và an toàn, không còn tổn thương, không còn tai họa, không còn khổ đau, không còn sầu muộn. Đó chính là thế giới của pháp giải thoát tịch tịnh mà bậc giác ngộ đã từng tuyên bố “ ở đây, không có sầu khổ, không có nguy hiểm”. Đó là thế giới của đức Từ bi hỷ xả, của tâm giải thoát, tuệ giải thoát, không còn tham sân si, không còn thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Chỉ có thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện.  Đó là thế giới không sát sanh, tôn trọng sự sống và quyền sống của muôn loài chúng sanh, không lấy của không cho, tôn trọng sở hữu và quyền sở hữu của người khác, không tà hạnh trong các dục, tôn trọng hạnh phúc hôn nhân và hạnh phúc gia đình người khác, không nói dối, nói lời chân thật, không nói lưỡi hai chiều, nói lời đưa đến hòa hợp, không nói ác khẩu, nói lời từ ái, không nói lời phù phiếm, nói lời có ý nghĩa lợi lạc, không tham lam, bỏn xẻn, còn bố thí lợi tha, không sân hận, mà thể hiện đức tính từ bi khoang dung độ lượng, không si mê tà kiến, mà giữ tâm sáng suốt, chánh kiến.
   Thánh sanh tức là thức tỉnh quay về với bản tánh giác ngộ thanh tịnh vốn sẳn có trong chính mình, hay quyết tâm chuyển đổi đời sống theo hướng  “ không làm các việc ác, thực hành các việc lành, giữ tâm ý trong sạch”, nhờ đó con người dần đi đến hoàn thiện về đạo đức tâm thức và trí tuệ, đi đến giác ngộ giải thoát.
   Câu chyện về Thánh sanh của Angulimala là một bài học khởi dậy phát huy tiềm năng giác ngộ vốn sẳn có trong mỗi người chúng ta, mãi mãi là gợi niềm  tin hướng  thiện cho con người và cuộc đời. Đó là sự chuyển hóa kỳ diệu của một con người mà chỉ có Phật pháp mới làm được. Không ai có thể tin một con người tàn ác như Angulimala là có thể được nhiếp hóa trở thành một con người hiền thiện bậc nhất trên cuộc đời. Chỉ có đức Phật mới thấy được khả năng chuyển hóa kỳ diệu ấy ở bên trong con người hung ác như Angulimala, và chỉ có đức từ bi của Phật mới cho Angulimala cơ hội và cơ duyên thay đổi, Đức Phật được tôn xưng là Đại từ Đại bi là thế.
 Phật là Từ bi vì Phật có trí tuệ thấy được tiềm năng giác ngộ vốn sẵn có trong mỗi chúng sanh, chỉ cần có cơ hội và có duyên thuận lợi thì chúng sanh đều tiến lên thành Phật. Phật khác với thế gian và làm những việc mà thế gian không làm được. Một bậc giác ngộ như Phật mới cho Angulimala cơ hội được Thánh sanh, mới tạo cơ duyên cho Angulimala được tiếp cận học tập thánh pháp, thực hành thánh đạo để đạt đến thánh quả giác ngộ, thế gian cần phải học hỏi nhiều ở trí tuệ của Phật.
   Nhờ tuệ giác và đức từ bi của Phật nên không chỉ Angulimala  mà hết thảy chúng sanh được Thánh sanh, dù rằng  Phật không còn nữa, nhưng với giáo pháp của Ngài để lại, chúng sanh buông bỏ tâm làm ác, miệng nói ác, thâm làm ác, thì người ấy được Thánh sanh, vì đã biết dừng lại các nghiệp ác, và biết phát huy các nghiệp lành. Người Phật tử khởi lòng tin Tam bảo, và phát nguyện thọ trì 5 giới, tức là được Thánh sanh, đã  được Thánh sanh thì không còn làm ác, không còn đọa ba cõi dữ, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, quyết chắc đi trên con đường lành, sớm muộn gì cũng sẽ ra khỏi luân hồi  khổ đau.
  Đức Phật đã tạo nhiều duyên Thánh sanh cho mọi người bằng một lời khuyên sáng suốt và công bằng “ Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”  Như vậy đức Phật đến với thế giới gian một lần mà để lại cơ duyên Thánh sanh cho muôn đời chúng sanh. Ai biết lắng nghe và tuân theo lời dạy của Phật thì chắc chắn được Thánh sanh, đạt được sự may mắn tốt lành hết mê làm khổ đau ở đời này và nhiều đời sau, chúng ta may mắn hơn Angulimala, vì không rời vào lối sống sai lầm xấu ác như Angulimala. Nhưng nếu chúng ta sẽ không may mắn như Angulimala, nếu chúng ta không  được Thánh sanh, không được Thánh sanh thì không bao giờ hết khổ .
    Trích từ : Thánh Sanh của Huyền Giác  VHPG – 15-7-2018

{]{

ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA

Devadatta, phiên âm là Đề Bà Đạt Đa, là anh em họ với đức Phật. Sau khi yêu cầu Phật giao phó Tăng đoàn cho mình lãnh đạo không thành, ông mượn thế lực của vua A Xà Thế thực hiện âm mưu sát hại Phật, bằng cách cử người sát thủ hại phật, thả voi say, lăn đá .. Nhưng tất cả  không thành, chỉ có hòn đá nhỏ lăn làm chân Phật tổn thương nhẹ.
  Đề Bà Đạt Đa bèn lập Tăng đoàn riêng và đề ra 5 tà pháp để thu hút mọi người.
1/ Trọn đời sống ở ẩn trong rừng sâu, không ở làng xóm.
2/Trọn đời sống khất thực, không nhận mời ăn
3/Trọn đời mặc y phấn tảo, không nhận y phục của cư sĩ
4/ Trọn đời ngồi dưới gốc cây, không ngồi trong phòng nhà
5/ Trọn đời không ăn cá thịt, ăn cá thịt là có tội.
  Có đến 500 Tỳ kheo  sơ học đi theo, sống biệt lập dưới núi Già Da.
  Nghiệm lại thời Phật có một Đề Bà Đạt Đa, nhưng đạo Phật ngày nay xuất hiện rất nhiều Đề Bà Đạt Đa, có nhiều vị Tăng giới hạnh không nghiêm, gây chia rẽ hay nghi kỵ trong Tăng đoàn và quần chúng. Chúng ta thường nghe và thường thấy ngoài đời hay  trên mạng xã hội bình phẩm về  đạo hạnh của những tu sĩ này nọ. Có những vị bon chen phấn đấu cho được địa vị trong giáo hội, hay xây chùa to Phật lớn mà thiếu phần thời gian tu dưỡng bản thân, nhất là không giữ mình trong giới luật. Lại có những vị giữ giới đức phẩm hạnh, nhưng lại mang biên kiến tư tưởng sùng bái “Đạo Phật thời Nguyên thủy” và phỉ báng kinh điển Đại thừa, cho rằng kinh điển Đại thừa là  sự ngụy tạo của những người đời sau. Ngược lại những vị cho mình là Đại thừa mới thật là tu rốt ráo.  Theo sự nhận xét của Hòa Thượng Nhất Hạnh  thì : “ Phật giáo Bắc Phương, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Không Tông cũng như Hữu tông, bản chất là những hạt giống, hạt giống Bồ đề. Các hạt giống ấy tùy theo ta gieo trồng sẽ mọc lên thành nhiều cây Bồ đề khác nhau. Nhưng bao giờ Bồ đề ấy cũng vẫn là cây Bồ đề”.
  Nhất Hạnh-Đạo Phật Ngày nay, xuất bản Lá Bối 1965.
  Những người xuất gia làm tu sĩ Phật giáo có nhiều động cơ không thuần nhất, nên đương nhiên  xuất hiện những vị tu sĩ thiếu đạo hạnh làm ảnh hưởng không tốt cho Phật giáo và xã hội. Ban đầu Đề Bà Đạt Đa xuất gia với tâm chân chánh, nhưng chưa đắc được thánh quả, nên tâm ông chưa thuần tịnh, tâm chưa thuần tịnh nên vẫn bị danh lợi, quyền thế chi phối và che lấp thiện tâm, vì tham vọng lãnh đạo một tôn giáo lớn nhất xã hội Ấn Độ bấy giờ mà ông đã đánh mất lý tưởng xuất gia chân chánh của mình..
   Về thực trạng học Phật hiện nay theo sự nhận xét của Hòa Thượng Nhất Hạnh: “ Tôi đã từng gặp nhiều người học Phật lâu năm, họ có thể thuộc lòng bộ Phật giáo Bách khoa tự điển. Họ có thể giải thích cho ta về bất cứ một câu một chữ nào trong Tam tạng. Họ chất chứa trong đầu những cái biết rất bác học. Nhưng họ không hiểu đạo Phật, Lý do là tôi không thấy những kiến thức của họ về đạo phật có dính líu gì đến sự sống của chính bản thân họ và đoàn thể họ. Họ không tiếp nhận đạo Phật, không tiếp nhận được sinh khí của đạo Phật, họ chỉ mâm mê  trong tay họ  cái xác cũ của đạo phật  mà thôi. Họ chỉ ưa xem đồ cổ trong viện bảo tàng, cái học đó không có ích ”.
  Đạo Phật là con đường dẫn đưa mọi người đến Chân, Thiện,Mỹ, chứ không phải đạo phật cho những kẻ lợi dụng thời cơ, những người không hiểu đạo Phật là những kẻ thất học, thất nghiệp, thất tình, chán đời v.v. Mà là người học Phật có tâm kiên cố, tinh thần minh mẫn, biết phân biệt chánh tà hư ngụy.
   Bi kịch đời người xảy ra khi con người không biết giới hạn lòng tham. Ai biết đủ là người đó hạnh  phúc và yên vui, khi tham dục bị ngăn cản thì trở thành bất mãn và phẫn nộ. khi đã vướng mắc vào tham dục thì lúc nào con người chỉ nghĩ về mình, làm sao đẹp đẽ, giàu sang, có địa vị cao..v.v.. từ đó họ bất chấp mọi thủ đoạn kể cả tướt đoạt hạnh phúc quyền lợi của người khác. Đó là nguồn cơ của “tham nhũng” thiếu công tâm, công bằng, bất chấp lợi ích của quần chúng. Vị ngọt của tham dục trần thế khiến cho con người vong tâm chạy theo 8 ngọn gió của cuộc đời, xa rời tâm Phật của chính mình, như gả cùng tử quên mất hạt ngọc trong tay áo. Đức Phật dạy trong kinh A Hàm : “ Quả thật vậy,  này các Tỳ kheo, do tham ái thúc đẩy mà vua gây chiến với vua, hoàng tử với Hoàng tử, quan với quan, dân với dân, cha, mẹ, vợ, chồng, con cháu, làng xóm láng giềng với nhau v.v..  họ giành giật bêu xấu nhau, hận thù nhau, còn thù nghịch với nhau, dùng binh khí giết hại nhau, để sau đó nhận lấy hậu quả kẻ chết, người sợ hãi, rồi sanh ra hận thù, đau đớn khốn cùng”. Chúng ta đang chứng kiến hằng ngày, hằng giờ những tội ác trên đài, trên báo, trên mạng. Nguyên nhân là do những tâm sở bất thiện, trong đó tham ái là hàng đầu, gây ra những áp bức, bất công làm rối loạn xã hội. Chỉ có cách bứng tận gốc rễ của tham dục, con người mới giải quyết được những vấn đề khổ đau của chính mình và xã hội.
    Thời đại hiện nay văn minh tiến bộ, giàu có kỷ thuật hiện đại phục vụ con người đầy đủ về vật chất, nhưng chưa chắc đem lại hạnh phúc cho nhân loại, bởi lẽ xã hội càng phát triển thì con người càng rơi vào khủng hoảng, vì suy thoái về đạo đức và môi sinh. Con người chỉ biết tìm kiếm những phát minh mới, những thành tựu về trí tuệ nhân tạo, có thể là những hiểm họa hủy diệt con người do chiến tranh, nguyên tử, hóa chất và ô nhiễm môi sinh. Rốt cuộc con người không thể thật sự có hạnh phúc.
  Cách đây 2500 đức Phật đã giải đáp phương pháp đi tìm con đường hạnh phúc. Ngài dạy rằng : Con người chỉ thật sự hạnh phúc, khi đoạn tận lòng tham ái và chấp thủ, Đức Phật dạy: “ chúng ta là kết quả của những việc chúng ta làm bây giờ”, điều này có nghĩa là chúng ta chịu trách nhiệm mọi điều trong đời sống của chúng ta, không ai tu tập thế cho mình, cũng không ai có thể cỡi bỏ mọi ràng buộc, đau khổ thay cho mình.
 Cội rễ khủng hoảng  nằm ở vô minh và tham ái, chúng ta phải hiểu sự thật về duyên sinh hay nguyên lý cộng sinh của mọi sự hiện hữu. Nhận thức rõ, hoạch định đời sống theo hướng thiểu dục tri túc, kiềm chế tiết độ, phát huy năng lực nội tâm (thực hành bát chánh đạo). Đây là nếp sống tu tập mà người tu sĩ hay cư sĩ hay bất cứ ai muốn sống hạnh phúc trong xã hội, hòa hợp với môi trường, trân trọng thiên nhiên và để lại di sản cho thế hệ mai sau. Nếu không chúng ta sẽ không  chỉ bất an trong đời sống hôm nay mà còn di hại mai sau nữa.
Đức Phật cảm ơn Đề Bà Đạt Đa :  Tuy Đề Bà Đạt Đa luôn luôn hại Phật, nhưng đức Phật  xem Đề Bà Đạt Đa như là người bạn tốt, đức Phật thường nói : “ Hãy lấy ma quân làm đạo bạn, lấy kẻ tệ bạc làm  người giúp đỡ,  lấy người chống đối làm  bạn giao du”.  Trong kinh ghi : “Do người bạn tốt Đề Bà Đạt Đa, mà làm cho Như Lai hoàn bị sáu  Ba la mật,  bốn Vô lượng tâm, 32 tướng tốt, 80 vẽ đẹp, thân màu vàng kim,  10 đại năng lực, 4 sự Vô úy,  4 sự nhiếp hóa, 18 sự đặc biệt, sức mạnh thần thông, sức mạnh tuệ giác, trở thành bậc chánh biến tri, hóa độ sâu rộng các loài chúng sanh, toàn là do người bạn tốt  Đề Bà Đạt Đa vậy”  Kinh Pháp Hoa.
  Nghĩa là nhờ Đề Bà Đạt Đa mà Phật thành Phật, Đề Bà Đạt Đa cũng sẽ thành Phật, vì Đề Bà Đạt Đa luôn có mặt bên ta, trong ta, như một thử thách, chướng ngại phải vượt qua, khiến người tu hành chân chính thêm nghị lực dũng mãnh thêm tinh tấn./.         
{]{








GIÁO LÝ TẬP 15 Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét