GIÁO LÝ TẬP 15
MỤC LỤC
NĂM TIÊU CHUẨN ĐỂ CÓ HẠNH PHÚC
SINH RA TRONG CUỘC ĐỜI ĐỂ LÀM GÌ ?
CUỘC ĐỜI LÀ CÕI TẠM
NHỮNG NỔI SỢ CỦA CON NGƯỜI
CHÍN CÁCH QUÁN NIỆM VỀ CÁI CHẾT
HỌC PHẬT NHƯ THẾ NÀO CHO ĐÚNG
TU THẾ NÀO CHO ĐÚNG
TU LÀ CHUYỂN NGHIỆP
GIẬN
CHẾT VUI
SỰ TÁC ĐỘNG CỦA LỜI NÓI
GANH GHÉT VÀ THÙ HẬN
NHỊN VÀ NHỊN
KHÁC ĐƯỜNG CHUNG LỐI
SỐNG TRÊN ĐỜI HÃY NHỚ
TỰ LỰC
BẤT HIẾU BỞI VÌ ĐÂU
NUÔI CON
NHỚ ƠN MẸ
NỢ MẸ
HOA SEN TÁM CÁNH
PHẬT GIÁO TRONG DÒNG CHẢY DÂN TỘC
ĐÂU HỀ CÓ MỘT TÌNH YÊU SUNG SƯỚNG
TÁN TỤNG KINH PHẬT
ỨNG PHÓ VỚI BỆNH TRẦM CẢM
ĐỪNG VÌ CÁI SAI CỦA NGƯỜI MÀ ĐÁNH MẤT CÁI THIỆN CỦA MÌNH
NGHĨ NHỚ 5 THỨ KHÔNG THÌ ĐỜI NGƯỜI HẠNH PHÚC
BUÔNG CÁI NGÃ
SỐNG VƯỢT QUA THỊ PHI
TÀM QUÝ
Ỷ VÀO UY QUYỀN
BUÔNG GIẬN HỜN
TIỀN CÓ THỂ MUA ĐƯỢC TẤT CẢ KHÔNG
QUÁN TÂM TRÊN TÂM
NĂM THIỀN CHI
THỰC HÀNH CHÁNH NIỆM
QUÁN CHIẾU VỀ CÁI CHẾT
THAY ĐỔI SẮC ĐẸP
IM LẶNG
BUÔNG XẢ
KHI ĐẾN TUỔI VỀ GIÀ
TỰ ÁI VÀ HIỂU LẦM
DỤC LẠC VÀ THIỀN LẠC
BỐN CÔNG NĂNG CỦA THIỀN
NĂM THỨ TRIỀN CÁI
TĂNG THƯỢNG AN LẠC
SỨC MẠNH CỦA NIỀM TIN
PHẢN TƯỞNG KHỔ LÀ LẠC
THÁNH SANH
ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA
KHÁC ĐƯỜNG CHUNG LỐI
SỐNG TRÊN ĐỜI HÃY NHỚ
TỰ LỰC
BẤT HIẾU BỞI VÌ ĐÂU
NUÔI CON
NHỚ ƠN MẸ
NỢ MẸ
HOA SEN TÁM CÁNH
PHẬT GIÁO TRONG DÒNG CHẢY DÂN TỘC
ĐÂU HỀ CÓ MỘT TÌNH YÊU SUNG SƯỚNG
TÁN TỤNG KINH PHẬT
ỨNG PHÓ VỚI BỆNH TRẦM CẢM
ĐỪNG VÌ CÁI SAI CỦA NGƯỜI MÀ ĐÁNH MẤT CÁI THIỆN CỦA MÌNH
NGHĨ NHỚ 5 THỨ KHÔNG THÌ ĐỜI NGƯỜI HẠNH PHÚC
BUÔNG CÁI NGÃ
SỐNG VƯỢT QUA THỊ PHI
TÀM QUÝ
Ỷ VÀO UY QUYỀN
BUÔNG GIẬN HỜN
TIỀN CÓ THỂ MUA ĐƯỢC TẤT CẢ KHÔNG
QUÁN TÂM TRÊN TÂM
NĂM THIỀN CHI
THỰC HÀNH CHÁNH NIỆM
QUÁN CHIẾU VỀ CÁI CHẾT
THAY ĐỔI SẮC ĐẸP
IM LẶNG
BUÔNG XẢ
KHI ĐẾN TUỔI VỀ GIÀ
TỰ ÁI VÀ HIỂU LẦM
DỤC LẠC VÀ THIỀN LẠC
BỐN CÔNG NĂNG CỦA THIỀN
NĂM THỨ TRIỀN CÁI
TĂNG THƯỢNG AN LẠC
SỨC MẠNH CỦA NIỀM TIN
PHẢN TƯỞNG KHỔ LÀ LẠC
THÁNH SANH
ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA
NĂM TIÊU CHUẨN ĐỂ CÓ HẠNH PHÚC
Nhất: Mệnh, nhì: Vận,
tam: Phong thủy, tứ: Âm đức, ngũ: Kinh thư.
1/ Mệnh: tức là nghiệp lành, làm những việc thiện có lợi ích cho chúng sanh.
2/ Vận: tức thời cuộc thuận tiện, không mưa gió, bão lũ, không giặc dã chiến
tranh v.v...
3/ Phong thủy: tức ở chỗ khí hậu ôn hòa, đường đi không ngăn trở, nơi có
nước, gió, ánh sáng giúp sức khỏe con người được khỏe mạnh.
4/ Âm đức: tức người có lòng từ luôn có tâm giúp người, làm những việc
có lợi cho người, là người nhân hậu.
5/ Ngũ kinh thư: là người có học hỏi, có kiến thức cả đạo lẫn đời. Kiến thức
ở đời giúp con người bớt khổ về thân, ví như bác sĩ, kỹ sư, hay thầy giáo. Kiến
thức đạo giáo, giúp người hết khổ về tâm, hướng dẫn họ những điều hay lẽ phải,
bỏ dữ làm lành, giảm tánh tham, sân, si v.v... Kiến thức của đời giúp người hết
khổ về thân chứ không hết khổ về tâm. Ví như bác sĩ chỉ chữa trị cho người hết
cơn đau của bịnh tật chứ không thể chữa trị cho con người hết buồn khổ về tâm.
Còn kiến thức về đạo đức Phật học chữa trị hết khổ thân lẫn tâm. Vì bịnh có ba
nguyên nhân sanh ra bịnh. Bịnh do thân, bịnh do tâm, và bịnh do nghiệp báo.
Bịnh do thân là thứ bịnh do ăn uống hay do chổ ở thiếu vệ sinh, sanh ra bịnh,
thứ bịnh này phải dùng thuốc trị, tức bịnh thân dùng thuốc trị. Bịnh do tâm thì
phải tu để trị. Tâm tức giận, tâm giận hờn, tâm đố kị, tham lam v.v...làm con
người mất năng lượng, khiến cơ thể thiếu sự cân bằng nên sinh ra bịnh. Khi cơ
thể thiếu năng lượng (tức điện năng trong con người, giống như xe có bình ất
quy yếu điện) thì các huyệt đạo trong cơ thể bị bế tắc, do bế tắc không thông
nên sinh ra đủ thứ bệnh. Trong y học có một nguyên tắc chữa bịnh là : “Thống
thì bất thông, còn Thông thì bất thống” . Tức là đau là do không thông, và
thông được thì hết đau. Đi vào con đường tu tập
giảm được các tính tham, sân, giận, hờn ganh v.v... thì năng lượng (điện
năng) khôi phục trở lại nên hết bịnh. Tức đã thông được các huyệt đạo trong cơ
thể. Hiện nay ba trường phái Yoga, Thiền
nhân điện, Pháp luân công đều chiết xuất từ thiền Phật giáo mà để chữa trị
bịnh, nên được nhiều người hưởng ứng. Nhưng đó chỉ chữa trị bịnh ngọn chứ chưa
chấm dứt đau khổ, nó chỉ tạm bớt khổ trong hiện đời chứ không hết khổ sâu xa về
con đường sanh tử được. Nhưng mà để cho con người thấu hiểu được sự khổ về con
đường sanh tử luân hồi thì ít ai hiểu nên họ không quan tâm đến việc sâu xa, họ
chỉ nhìn nhận sự việc hiện đời thôi. Vả lại kiến thức những người thấu hiểu con
đường sanh tử khổ đau có ít nên nhiều người không được hướng dẫn.
Nghiệp bệnh là do quá khứ
cũng như hiện tại đã làm những việc không được thuần thiện nên phải trả lại kết
quả mình đã tạo. Nghiệp bịnh phải tu tập, sám hối và làm những việc lành, như
phóng sanh, bố thí, cúng dường v.v...rồi đem những công đức đã làm hồi hướng
cho những oan gia trái chủ, nhờ thế mới xả bỏ được oán kết từ lâu thì bịnh tình
mình thuyên giảm.
Tu tập về tâm cũng vậy,
muốn có mau kết quả có nhiều năng lượng. Bên trong phải từ bỏ tham, sân, si
v.v... bên ngoài phải biết bố thí làm thiện, cúng dường, phóng sanh v.v...người
tu tập có đủ cả hai, phước và huệ thì mau hết bịnh. Ví như thuyền đi thuận gió
và xuôi dòng nước thì mau đến. Tu tập cũng vậy phải đủ sự và lý viên dung mới
mau hoàn tất mục tiêu chấm dứt khổ đau sanh tử luân hồi được ./.
{]{
SINH RA TRONG CUỘC ĐỜI ĐỂ LÀM GÌ ?
Không có ai tự đặt câu hỏi cho mình : “Mình
sinh ra trên cuộc đời này để làm gì, sau khi chết sẽ đi về đâu ? ”. Chúng ta
chỉ biết nghĩ đến chuyện làm sao được ăn
ngon, ngủ kỷ, có tiền, có tình, có danh lợi, địa vị. Con người cứ luẩn quẩn với
ba việc ăn, ngủ, làm, rồi đến ngày nào đó nhắm mắt lìa đời, thế là xong một
kiếp người. Câu chuyện như sau :
Có hai người bạn lâu ngày gặp nhau, mừng hỏi
nhau về cuộc sống.
Lâu nay anh làm gì ?
Anh kia trả lời: Tôi đạp xích lô.
Anh đạp xích lô để làm gì
?
Để kiếm tiền
Kiếm tiền để làm gì ?
Để ăn
Ăn để làm gì ?
Để sống
Sống để làm gì ?
Để đạp xích lô.
Cuộc sống phần đông của
mọi người là như vậy, như hai anh của câu chuyện trên, ngày này sang ngày khác,
cứ luẩn quẩn trong vòng kiếm tiền, để ăn uống, vui chơi, ngủ nghỉ.. Nhiều khi
vì miếng ăn mà giết hại chúng sanh, tàn sát lẫn nhau con người với con người.
Con người giết con vật để ăn đã đành. Lại con người giết con người để dành
miếng ăn, chỗ ở và tình cảm, địa vị nữa. Vì muốn có tiền bạc, sắc đẹp, danh lợi
địa vị, chỗ ở mà con người làm những điều tội lỗi. Tạo nghiệp như vậy chắc chắn
phải trả quả báo, phải quay vần trong vòng sanh tử luân hồi đau khổ. Thanh Sĩ
có bài thơ như sau :
Kiếp thì bị treo thân lủng lẳng
Kiếp thì ngồi chổng cẳng ra oai,
Kiếp thì chết chẳng chôn thây,
Kiếp thì tống táng chật ngoài chật trong
Khi thì xác trôi sông chập chã,
Khi thì thây tan rã giữa đồng,
Kể sao cho hết chuyện não lòng,
Của tiền kiếp khách trần hồng đã mang,
Kiếp làm gái chịu đàng đẻ chửa
Kiếp làm trai con vợ đùm đề
Khi thì trọn kiếp phu thê
Khi thì bướm chán ong chê giữa chừng
Có khi bị cùi phong xụi bại
Có khi thì điên dại mù câm
Sống không nhà cửa ăn nằm
Lang thang đường phố ăn xin qua ngày
Có kiếp bị bọn trai lừa gạt
Có kiếp thì bị thác vì tình
Kiếp thì làm đĩ bán mình,
Kiếp thì cô quạnh trong tình cấm cung
Khi thì được anh hùng vang dội,
Khi thì mang lấy tội phản thần
Lúc thì quý tựa vàng cân
Khi thì rẻ nát còn hơn con dòi,
Kiếp thì được người coi vua chúa
Kiếp thì ra thân đứa ăn mày
Mới cười kể khóc chua cay
Cứ như thế đó đổi thay không ngừng.
(Trích đường giải
thoát - tập 3)
{]{
CUỘC ĐỜI LÀ CÕI TẠM
Đời này cõi tạm mà thôi
Giàu sang, nghèo khó, chết rồi như nhau
Cùng nằm dưới một hố sâu
Lấp xong là hết nào đâu khác gì
Vậy nên đừng có so bì
Tham sang bỏ ngãi chỉ vì háo danh
Đừng kèn cựa, đừng đua tranh
Đừng dìm người khác để dành phần hơn
Đói mà nhân cách sạch thơm
Hơn giàu mà dạ tối om muôn lần
Nên ăn ở có phúc phần
Chớ nên làm chuyện ngu đần hại nhau
Sống là phải nghĩ về sau
Đừng vì ham lợi mà mau quên nghĩa tình
Người ta cũng sống như mình
Sang giàu rồi chớ coi khinh người hèn
Kẻ nghèo thì chớ hờn ghen
Thấy người giàu có đừng đem lòng hờn
Vô ưu, vô ngã, là hơn
Chết rồi của có đem chôn cùng người
Trần gian là chốn tạm thời
Đừng vì danh lợi mà đánh rơi hồn mình
Sống sao trọn nghĩa vẹn tình
Sống sao cho dạ thanh bình thảnh thơi
Sống sao cho đúng người ơi
Sống sao cho khỏi tiếng đời chê bai ./.
{]{
NHỮNG NỔI SỢ CỦA CON NGƯỜI
Con người sinh ra từ nhỏ
đến lớn ai ai cũng có nhiều nổi sợ hãi. Có các loại sợ như sau : Sợ khổ về thân, sợ khổ về Tâm, sợ khổ về hoàn
cảnh,
Sợ khổ về thân: Như đau bệnh, đói khát, nóng
lạnh v.v
Sợ khổ về Tâm : Như lo buồn, sầu muộn, giận
tức v.v
Sợ khổ về hoàn cảnh : Như sợ trộm cướp, giặc
giả chiến tranh, mưa gió, bão lụt v.v..
Nhưng có một cái đáng Sợ mà con người vì vô
minh không biết sợ đó là cái Sanh tử luân hồi.
Chính cái đáng sợ nhất là cái sanh tử luân hồi mà mọi người không biết
nên phải chịu đau khổ dài dài. Nếu con người biết được cái khổ này tìm đường đi
ra khỏi cái khổ này thì ba cái khổ kia không cần sợ và không thể làm khổ con
người được. Khổ của con người thì vô số : Khổ hiện tại, khổ bị tái sanh, khổ
sanh vào ba đường ác, là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nhưng nổi khổ nào rồi
cũng qua đi, vào ba đường ác hết nghiệp rồi cũng tái sanh làm trời, người v.v.
Nhưng khổ luân hồi sanh tử là cái đáng sợ nhất, tất cả con người từ vô thủy đến
nay chưa có ai tự mình ra khỏi con đường sanh tử, chỉ có Đức Phật Ngài đã tu
chứng và tìm ra con đường thoát khổ sanh tử, và dạy lại cho chúng sanh nếu ai
biết tin theo lời dạy và thực hành đúng thì sẽ đi ra khỏi con đường sanh tử.
Trong kinh ví như một khinh thành lớn rộng mà chỉ có một cửa ra vào. Rất khó ai
biết được con đường để đi ra nếu không có người chỉ dẫn. Cũng vậy con đường
sanh tử dài lâu nếu không có bậc giác ngộ chỉ dẫn thì chúng sanh không biết
đường đi ra. Trong sáu loại chúng sanh, trời, người, A tu la, địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh, chỉ có một loại chúng sanh ưu việt có khả năng đi ra mà thôi, đó
là loài người có đủ điều kiện để đi ra khỏi con đường khổ này.
Con người sau khi chết được tái sanh lại
làm người rất khó, vì sao, vì được tái sanh làm người phải có phước mới được
tái sanh. Khi tái sanh vào một gia đình nào đó ta phải có phước và nhân duyên
với gia đình đó thì mới vào được, còn không có phước và nhân duyên thì khó mà
vào được để tái sanh. Thứ đến ta có phước mà gia đình kia không có phước thì ta
cũng không có thể tái sanh vào được. Cho nên đức Phật nói được làm thân người
rất khó là vậy, vì thế nay ta đã được làm thân người phải quý mến là cơ hội
chúng ta tu tập tạo phước để đi ra khỏi con đường sanh tử đau khổ này.
Vậy khổ này là do đâu mà phải chịu tái sanh
luân hồi, đó là do chúng sanh thiếu trí tuệ. Nếu chúng ta có trí tuệ thì có thể
chấm dứt khổ sanh tử luân hồi. Vậy làm sao để có trí tuệ để chấm dứt sanh tử
luân hồi ? Có ba cách để phát triển trí tuệ :
a/ Cách thứ nhất đối với
người chưa phải là người Phật tử. b/ Cách thứ hai đối với người đã quy y Tam
bảo và thọ trì 5 giới c/ Cách thứ ba đối với những người đã xuât gia tu tập.
Đối với người không phải
phật tử phải có 5 điều : Tín, tàm, quý,
tinh tấn, và tuệ.
Tín của người không phải
phật tử là tin vào các điều thiện lành khác với tín của người có đạo tin vào
Tam bảo. Tàm là biết xấu hổ. Quý là biết thẹn. Tấn là siêng năng. Tuệ là phải
biết 6 nguyên tắc sống hòa thuận. Đó là
thân hòa, khẩu hòa, ý hòa, kiến hòa, giới hòa, và lợi hòa. 1/Tức là thân không
đấu tranh gây gổ,2/ miệng không nói lời thô ác,3/ ý không đối nghịch,4/ Kiến
thức cùng chia sẻ, 5/Các nguyên tắc bổn phận phải tuân thủ, sống có tôn ty trật
tự, 6/của cải vật chất cùng chung hưởng chia đều.
Đối với người tại gia có
lòng tin Tam Bảo, quy y Tam Bảo thì có 5 điều
là : Tín, giới, văn, thí và Huệ. Là có lòng tin Tam bảo, có giữ giới đã
lành thọ, phải nghe giáo pháp, phải biết bố thí cúng dường, phải có trí
tuệ. Trí tuệ của người Phật tử là: Tín,
Giới, văn, Thí. Tín đây là tin Phật, pháp, tăng. Người phật tử tại gia có hai
thành phần, Phật tử thuần thành và Phật tử không thuần thành. Phật tử thuần
thành thì thực hiện cả hai pháp học và pháp hành, tức có học có tu, có ứng dụng
lời dạy của Phật vào trong cuộc sống. Phật tử không thuần thành chỉ có lòng tin
không có sự thực hành, không có sự hiểu biết về Phật pháp. Người tu tập mà
không biết làm công đức thì tu khó thành. Làm công đức mà không biết tu thì
công đức chuyển thành phước báo, thọ hưởng phước báo chuyển thành nghiệp báo
đời đời kiếp sanh tử luân hồi. Người biết tu chuyển công đức thành phước trí,
phước đức chuyển thành phước trí. Thế nào là Phật tử thuần thành, phật tử thuần
thành là người có lòng tin bất động, đối với ba ngôi Tam Bảo lòng tin bất động, không bao giờ thay đổi. Người
có lòng tin bất động khác với người có lòng tin thay đổi. Thân tâm, hoàn cảnh
có thay đổi nhưng tuệ giác không thay đổi.
Nếu người thế tục chưa là Phật tử và người
Phật tử tại gia thực hành trọn vẹn 5 điều như trên thì gọi là người đang đi
trên ccon đường giải thoát và sẽ đến con đường giải thoát đời này và những đời
sau./.
{]{
CHÍN CÁCH QUÁN NIỆM VỀ CÁI CHẾT
1/ Chết là điều không thể
tránh khỏi,
2/ Ai rồi cũng sẽ chết,
3/ Tuổi thọ của bạn đang
liên tục giảm
a- Bạn dành thời gian cho việc tu tập
tâm linh
b- Bạn không biết chắc chết vào thời
gian nào
4/ Tuổi thọ của con người
là không chắc,
5/
Có nhiều nguyên nhân gây nên cái chết,
6/
Thân thể con người rất mong manh,
7/
Những người thân yêu của bạn không thể giúp bạn
8/
Tài sản và những thứ mà bạn yêu thích cũng không thể giúp bạn,
9/
Cơ thể của bạn cũng không thể giúp bạn.
A-
1 - Chết là điều không thể tránh.
Chúng ta lên kế hoạch
nhiều hoạt động và dự án cho những ngày tháng và năm sắp tới. Mặc dù cái chết
là sự kiện duy nhất chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng chúng ta thường không nghĩ về nó
hoặc dự định cho nó, ngay cả khi ý nghĩ về cái chết nảy sinh trong đầu, chúng
ta cũng thường xua nó đi thật nhanh. Chúng ta không muốn nghĩ về cái chết.
Nhưng điều quan trọng ở đây là phải nghĩ và chuẩn bị về nó. Hãy thực hành ba
phép quán sau đây để cảm nhận về cái chết chắc chắn sẽ xảy ra với bạn như thế
nào ?
2-Ai rồi cũng phải chết : Để tạo ra
một trải nghiệm về cái chết, hãy nhớ những người trong quá khứ, như những nhân
vật nổi tiếng trong giới cầm quyền, văn sĩ, nhạc sĩ, triết gia, các bậc thánh,
nhà khoa học, tội phạm và những người dân thường. Những người này đã từng sống,
từng làm việc và tranh đấu, tận hưởng niềm vui của cuộc sống cũng như đã trải
qua những nổi khổ niềm đau, và cuối cùng họ đều đã chết.
Thử nghĩ, có một người
nào đó sinh ra trên trái đất này mà họ không chết ? Dù có thông minh như thế nào, giàu có ra sao,
quyền lực và nổi tiếng như thế nào, thì cuộc đời của các vị ấy cũng phải đi đến
cái chết. Đó là sự thật cho tất cả sinh
vật đang sống trên trái đất này. Dù sự phát triển của khoa học và y học đến mức
cỡ nào thì cũng không có ai tìm ra được
phương pháp cứu chữa cái chết, và cũng sẽ mài mãi không có ai làm được điều đó.
Và hãy nghĩ đến những người quen biết mà họ đã chết và nghĩ về những người bạn
quen biết mà họ đang còn sống. Quán tưởng rằng mỗi người ấy sẽ chết vào một
ngày nào đó, và dĩ nhiên bạn cũng thế.
Hiện tại mấy tỷ người
trên hành tinh này, nhưng 100 năm sau, tất cả những người này đều chết, ngoài
trừ những người bây giờ rất trẻ. Bản thân bạn cũng sẽ chết. Hãy thử trải nghiệm
sự thật này với toàn thể đời sống của bạn.
3- Tuổi thọ của bạn đang liên tục giảm dần. Thời gian không bao giờ đứng yên,
nó liên tục trôi qua. Giây trở thành phút, phút trở thành giờ, giờ trở thành
ngày, ngày trở thành tháng, tháng trở thành năm, và khi thời gian trôi qua theo
cách này, bạn đang đi mỗi lúc mỗi gần hơn về cái chết. Hãy quán sát dòng thời
gian không ngừng trôi đang đưa bạn đến cuối đời của bạn.
Và một cách khác để nhận
biết cuộc sống của bạn, như bạn đang ở trên một chuyến tàu với tốc độ đều đều,
nó không chậm hay dừng hẳn, và cũng không có cách nào để bạn có thể xuống tàu,
chuyến tàu này đang đưa bạn ngày càng gần hơn đến đích của nó, chấm dứt cuộc
đời của bạn. Cố gắng hiểu được điều này, kiểm lại những ý nghĩ và cảm xúc khởi
sinh trong tâm bạn.
Bạn dành rất ít thời gian cho việc tu tập tâm linh.
Khi ta biết ta đang ngày
càng tiến dần đến cái chết bất kể lúc nào, vậy ta đang làm gì để chuẩn bị cho
cái chết ? Cách tốt nhất để chuẩn bị
cho cái chết là tu tập tâm linh. Bởi vì điều duy nhất vẫn còn sau cái chết là
tâm thức, và tu tập tâm linh là cách duy nhất thực sự mang lại lợi ích cho tâm,
là chuẩn bị cho cái chết và cuộc hành trình tới đời sống kế tiếp. Nhưng bạn
dành bao nhiêu thời gian để thực hành tâm linh, làm giảm tâm tiêu cực như giận
dữ và chấp trước, phát triển tâm tích cực như lòng tốt và trí tuệ, và hành xử theo cách có lợi cho người khác.
Hãy thử tính bạn dùng
thời quỹ thời gian của mình như thế nào ?
Trung bình một ngày bạn dành bao nhiêu giờ để ngủ, để làm việc, để nấu
nướng ăn uống, và giao tiếp ? Bạn tốn bao nhiêu thời gian cho những cảm thọ
phiền muộn, thất vọng, lười biếng hay chê bai ? Và bạn dành bao nhiêu thời gian để cố gắng
cải thiện trạng thái không tốt của tâm, hoặc làm những việc có ích như giúp đỡ
người khác, hoặc nghiên cứu tâm linh hay
thiền định. Hãy làm cái phép tính này một cách trung thực. Đánh giá cuộc sống
của bạn theo cách thực tế này để thấy rõ bạn đã dành bao nhiêu thời gian để làm
những điều thực sự lợi ích cho bản thân và người khác và điều đó rất hữu ích cho tâm thức của bạn
lúc lâm chung và ở kiếp sau.
Bằng cách thực tập thiền
quán về ba đề mục đầu tiên này, bạn sẽ có thể phát huy quyết tâm sử dụng cuộc
đời của bạn một cách không ngoan và có ý thức.
Không chắc về thời gian chết
Bằng cách suy gẫm về ba
đề mục đầu tiên, bạn chấp nhận rằng, chắc chắn mình sẽ chết. Nhưng bạn cũng có
nghĩ rằng cái chết còn lâu mới xảy ra. Tại sao bạn nghĩ như vậy ? Có cách nào
để bạn có thể biết chắc chắn khi nào bạn
chết không ?, hãy quán tưởng ba phép sau đây để ý thức khi nào chết là hoàn
toàn không chắc và không biết trước.
4- Tuổi thọ của con người là không chắc .
Nếu con người chết ở một
độ tuổi nhất định, ví dụ như nói 85 tuổi, chúng ta sẽ có nhiều thời gian và
không gian để chuẩn bị cho cái chết. Nhưng ở đây, không có sự chắc chắn như
thế, hầu hết chúng ta bị thần chết tóm lấy bất ngờ.
Sự sống có thể kết thúc
tại bất kỳ thời điểm nào, lúc vừa mới sinh ra, hoặc trong thời thơ ấu, hoặc ở
tuổi thanh niên, ở tuổi 20, hoặc 50 hay 90 v.v.. Hãy nghĩ về những người đã
chết trước khi họ đến tuổi bạn bây giờ mà bạn biết hoặc đã từng nghe nói tới.
Một người trẻ và khỏe
mạnh cũng không dám bảo đảm là họ sẽ sống lâu. Trẻ em đôi khi chết trước cha
mẹ, người khỏe có khi chết trước những người đang mắt bệnh hiểm nghèo như ung
thư .. Chúng ta có thể hy vọng sống cho đến 70 hay 80, nhưng chúng ta không thể
chắc chắn điều đó, chúng ta cũng không bảo đảm rằng liệu sau ngày hôm nay mình
còn sống không ?
Rất khó để chúng ta nhận thức được việc cái
chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào, chúng ta có xu hướng nghĩ mình sống đến ngày
hôm nay thì cứ yên tâm mà sống tiếp. Nhưng hàng ngàn người từ giả cõi đời này
mỗi ngày và rất ít người trong số họ mong đợi cái chết. Hãy khởi lên ý nghĩ
nhận thức rõ bạn sẽ chết khi nào là điều không thể biết trước được, hoàn toàn
không có cam đoan là bạn còn sống đến lúc nào.
5- Có nhiều nguyên nhân gây nên cái chết.
Cái chết có thể đến với
mọi người bằng nhiều cách khác nhau. Đôi khi tử vong xảy ra do nguyên nhân bên
ngoài, bao gồm tại nạn thiên nhiên như động
đất, lũ lụt và núi lửa, hoặc các tai nạn như tai nạn xe hơi hoặc máy bay. Con
người cũng có thể chết do bị con người
giết, khủng bố hoặc do động vật nguy hiểm hoặc trùng độc gây nên.
Cũng có khi cái chết xảy
ra do nguyên nhân bên trong. Có hàng trăm thứ bệnh khác nhau có thể cướp đi sức
khỏe của chúng ta và dẫn đến cái chết. Ngoài ra còn có những trường hợp của
những người không bị bệnh, nhưng cơ thể của họ ngưng hoạt động hoàn toàn và họ
đột nhiên chết.
Ngay cả những thứ bình
thường hỗ trợ cho cuộc sống cũng có thể trở thành nguyên nhân gây nên cái chết.
Ví dụ như thực phẩm, thứ mà chúng ta cần để duy trì sự sống, nhưng đôi khi nó
có thể dẫn đến cái chết, như khi một người ăn quá nhiều, hoặc ăn thực phẩm bị
nhiễm độc. Y học thì khác nữa, nó thường hỗ trợ cho sự sống, nhưng đôi khi
người ta chết vì uống nhầm thuốc, hoặc dùng sai liều lượng. Những ngôi nhà hay
căn hộ có thể giúp chúng ta sống một cách an toàn thoải mái hơn, nhưng đôi khi
nó có thể giết chết người bên trong do hỏa hoạn thiêu rụi hay sụp đổ.
Hãy nghĩ đến những trường hợp qua đời của
những người mà bạn biết hoặc đã nghe nói đến, và họ đã chết như thế nào. Hãy
nhớ rằng bất kể điều gì cũng có thể xảy ra với bạn.
6- Thân thể con người rất mong manh .
Thân thể chúng ta rất dễ bị tổn thương. Nó có thể bị thương hay bị bệnh
tật tấn công. Chỉ trong vài phút, thân này có thể thay đổi từ mạnh khỏe, năng
động thành bất lực và đau đớn.
Ngay bây giờ, bạn có thể
cảm thấy khỏe mạnh, tràn đầy năng lượng và vững chắc, nhưng đôi khi có thứ gì
đó nhỏ như loại virus hay cái gai cũng có thể trở thành nguyên nhân gây ra cái
chết của bạn.
Hãy nghĩ về điều này, nhớ
lại những lần bạn bị đau hoặc cơ thể bị thương và việc này có thể lập lại, thậm
chí gây ra cái chết của bạn dễ đến mức nào.
Cơ thể của bạn sẽ không
tồn tại mãi mãi.Trong suốt cuộc đời, bạn có thể điều khiển để tránh bệnh tật và
tai nạn, nhưng những năm tháng cuối cùng sẽ bỏ mặc bạn. Cơ thể bị thoái hóa,
mất đi vẻ đẹp và sức sống của nó, và cuối cùng là chết.
Bằng cách thiền quán về ba điểm thứ hai này, chúng
ta sẽ nâng cao quyết tâm, bắt đầu thực hành con đường tâm linh ngay bây giờ, vì
tương lai là điều không chức chắn.
Thực tế là chỉ tu tập tâm linh mới có thể giúp bạn lúc lâm
chung.
Dù cho ta có tích cóp
được bao nhiêu hay phát đạt đến cỡ nào trong suốt cuộc đời những thứ như gia
đình bạn bè, sự giàu có, quyền lực, trải nghiệm du lịch, và nhiều hơn thế nữa
thì không có thứ nào trong số đó đi với chúng ta lúc lìa trần. Chỉ có tâm thức
của ta tiếp tục đi cùng, mang theo tất cả những gì ta đã suy nghĩ, cảm nhận,
nói năng và hành động.
Điều quan trọng là khi
chết, chúng ta có được nhiều điểm tích cực thì sẽ đem lại những trải nghiệm tốt
đẹp, và nếu như có vài tiêu cực, có thể sẽ làm cho tâm thức chúng ta đau khổ.
Vì thế, chúng ta nên cố gắng để chết hòa bình với chính mình, cảm thấy hài lòng
khi ta đã sống một cuộc đời tốt đẹp làm sao, và không nên để lại bất kỳ cuộc
xung đột nào với mọi người mà chưa được giải quyết.
Điều duy nhất đem lại lợi
ích thực sự cho chúng ta khi chết là trạng thái tích cực của tâm thức như đức
tin, không bám chấp và bình tỉnh chấp nhận những thay đổi đang diễn ra, lòng từ
bi, sự nhẫn nại và trí tuệ. Nhưng để có được trạng thái tâm như vậy vào thời
khắc lâm chung, chúng ta cần phải tập sống với những tâm hành ấy trong suốt
cuộc đời của mình và đây là cốt lõi của Phật pháp, hay còn gọi là tu tập tâm
linh. Nhận ra được điều này sẽ giúp ta có được sự khích lệ và nghị lực để bắt
đầu thực hành ngay bây giờ. Và tu tập nhiều nhất có thể khi chúng ta vẫn còn
thời gian.
Bạn có thể trải nghiệm cảm
giác mạnh về sự thực này bằng cách tưởng tượng bản thân mình vào thời khắc lâm
chung và quán chiếu mục sau đây.
7- Người thân yêu của bạn không thể giúp.
Khi ta bệnh nằm trên
giường, hay khi ta đi xe đi tàu bị tai nạn, chúng ta nghĩ gì về thời khắc đó ?
Tâm luyến ái mạnh mẽ của chúng ta thường dành cho gia đình và bạn bè, do đó ta
nghĩ về họ, và cảm thấy mong muốn được ở bên họ. Nhưng ngay khi họ có mặt với
bạn vào thời điểm lâm chung, liệu họ có thể giúp bạn được gì không ? Dù cho họ
yêu mến bạn rất nhiều và không muốn bạn lìa đời, họ cũng không thể ngăn điều
này xảy ra. Có lẽ hầu hết họ cũng không biết phải nói gì hay làm gì để đem lại
sự bình an cho bạn, mà thay vào đó, nổi buồn bã và lo lắng của họ về sự chia ly
sắp tới sẽ ảnh hưởng đến bạn, khuấy động những cảm xúc tương tự trong tâm thức
bạn.
Khi chết, chúng ta ra đi
một mình, không có ai đi cùng, dù cho đó là người thân yêu nhất. Do không chấp
nhận việc từ giả cõi đời và buông bỏ luyến ái với người thân yêu, nên dễ khiến
cho tâm ta hoảng loạn, và vì vậy mà rất khó để có một cái chết thanh thản.
Nên nhận ra là bạn có sự
luyến ái với gia đình và bạn bè của mình. Phải biết là nếu bạn luyến ái sâu đậm
với mọi người, điều này sẽ gây nên trở ngại cho việc có được tâm thức an tịnh
lúc lìa trần. Vì vậy tốt hơn hết hãy tu tập để giảm sự ái chấp và học cách
buông xả.
8- Tài sản và những thứ mà bạn yêu thích cũng không thể giúp.
Lúc lâm chung, có thể tâm
thức của bạn sẽ nghĩ về tài sản và những thứ mà bạn sở hữu, vì những thứ này đã
chiếm phần lớn thời gian trong cuộc đời bạn, mà nó cũng là nguồn mang lại nhiều
niềm vui và sự thỏa mãn. Nhưng liệu trong những số đó có thứ nào có thể đem lại
cho bạn sự an nhiên lúc lâm chung không ?
Sự giàu có có thể giúp bạn có được một phòng riêng trong bệnh viện và
được chăm sóc y tế tốt nhất, nhưng đó là tất cả những gì tài sản có thể làm
được cho bạn. Nhưng nó không thể ngăn chặn cái chết ngừng xảy ra. Và khi chết
bạn cũng không đem theo bất kể thứ gì, dù chỉ đồng xu hay một cái áo.
Không những tài sản không thể giúp
được gì cho bạn vào thời khắc lâm chung, mà nó còn làm cho tâm thức của bạn bị
cuốn vào những lo lắng về tài sản của
mình. Cho nên, điều đó sẽ làm cho chúng ta khó có được trạng thái tâm
bình an khi đang hấp hối.
Hãy suy gẫm những điều
này, và liệu xem bạn có thể hiểu được tầm quan trọng của việc thực tập ít phụ
thuộc và dính mắc với vật chất hay không.
9- Cơ thể của bạn cũng không thể giúp.
Thân thể của bạn đồng
hành với bạn từ khi sanh ra cho đến bây giờ. Bạn biết rõ nó hơn bất cứ điều gì hay bất cứ ai khác. Bạn đã
chăm sóc bảo vệ, lo lắng, giữ gìn cho thân thể thoải mái và khỏe mạnh, cho nó
ăn và tắm rửa, trả nệm cho giấc ngủ, tìm tất cả các niềm vui dành cho nó, và
nổi khổ cùng với nó. Đó là thứ quý giá nhất mà bạn đang sở hữu.
Nhưng bây giờ bạn sắp
chết và điều đó có nghĩa là bạn sẽ bị tách ra khỏi thân thể, nó sẽ trở nên yếu
dần và cuối cùng hoàn toàn vô dụng, nằm im bất động. Tâm thức bạn sẽ tách rời
khỏi cơ thể và sẽ đưa đến nghĩa trang hoặc nhà xác. Vậy lúc này nó có thể giúp
được gì cho bạn ?
Hãy quán tưởng tâm thức
của bạn luôn bám chấp vào thân thể của bạn một cách mạnh mẽ, và điều đó sẽ
không có chút lợi nào cho bạn khi cái chết đến. Sợ đau đớn và hối tiếc về việc
rời bỏ thân này sẽ làm cho bạn đau khổ hơn thôi.
Bằng cách thiền quán về
ba điểm cuối cùng này, chúng ta nhận ra tâm quan trọng của việc tu tập để giảm
đi sự ái luyến đối với gia đình, bạn bè, tài sản, sự nghiệp và thân thể của ta.
Chúng ta cũng nên nhận ra tầm quan trọng của việc chăm sóc cho tâm thức mình,
vì đó là điều duy nhất sẽ tiếp tục cho đời sống kế tiếp. “ chăm sóc tâm” có
nghĩa là làm giảm các trạng thái tiêu cực như giận dữ và chấp trước, và tu
dưỡng những phẩm chất tích cực như đức tin, lòng từ bi, kiên nhẫn và trí tuệ.
Hơn nữa, dấu ấn của tất
cả nghiệp mà ta tạo ra trong đời này cũng sẽ đi cùng với tâm thức của chúng ta,
quyết định cảnh giới mà mình sẽ tái sanh và kinh nghiệm mình sẽ có. Điều cần
thiết là chúng ta phải cố gắng hết sức để tránh tạo ra những nghiệp bất thiện,
và tạo ra nghiệp thiện càng nhiều càng tốt trong cuộc sống của mình.
Có thể bạn sẽ cảm thấy sợ
hay không thích thú khi tu tập theo phép thiền quán này (quán cái chết). Về mặt
nào đó, nó cũng là điều tốt, vì cho thấy rằng bạn đã tiếp nhận những ý niệm này
một cách nghiêm túc và đã suy ngẫm về chúng một cách sâu sắc. Lại nữa, điều
quan trọng là bạn cảm nhận về cái chết như thế nào để bạn có thể tu tập, chuẩn
bị khi nó xảy ra. Tuy nhiên, mục đích của thiền không phải làm cho bạn sợ. Sợ
chết là điều vô ích. Điều hữu ích là sợ phải chết với tâm hoảng loạn và nhiều
nghiệp bất thiện lưu dấu trong tâm mà bạn đã tạo ra trong suốt cuộc đời của
mình. Bạn cần phải nhận thức được là thật khủng khiếp khi mình ra đi với tâm
thức như vậy, để bạn sống một cách khôn ngoan, làm nhiều điều tốt, có lợi nhất
có thể.
Lại nữa, nỗi sợ hãi nảy sinh vì chấp vào ý
tưởng thân thể này là vĩnh cửu. Thật ra không có thứ gì là thường hằng, vì vậy
đây là một ảo tưởng chỉ khiến cho chúng ta đau khổ thêm mà thôi. Nếu chúng ta
lưu giữ cái chết trong tâm một cách nhẹ nhàng, cởi mở, thì sự níu bám này sẽ
dần dần giản ra, để cho ta có được chánh niệm và làm những việc thiện có ích
cho mình và cho người . Hiểu biết về cái chết cho chúng ta năng lượng lớn
để không lãng phí cuộc sống của mình, để
sống một cuộc đời hiệu quả nhất có thể được.
(Trích : Chín phép thiền quán về
cái chết : Ni Trưởng Sangye Khadro- Lệ Nghiêm:
dịch) VHPG số 304-
1-9-2018.)
{]{
HỌC PHẬT NHƯ THẾ NÀO CHO ĐÚNG
Ngoài
thế gian người ta nói “ rừng Nho
biển Thánh” cái học ở thế gian cũng vô cùng tận, cái học của Đạo lại mênh mông.
Trong đạo Phật có ba tạng kinh điển, tám vạn bốn ngàn pháp môn tu, làm sao hiểu
hết và thực hành cho đúng là cả một vấn đề khó khăn cho người tu tập . Hiểu
biết là một phần nhưng quan trọng là
phải thực hành cho đúng với tinh thần tu tập của đạo Phật là giác ngộ và giải
thoát, ra khỏi tà kiến mê lầm là chuyện không phải dễ đối với người mới tu tập
cũng như người tu lâu. Phật đã huyền ký đời mạt pháp thầy tà bạn ác đông như
kiến cỏ, làm sao không bị mê hoặc bởi thầy tà bạc ác là điều không thể đối với
người tu thời nay.
Trong đạo có nhiều giảng sư thuyết giảng
rất hay, có vị giảng không nên xem kinh đọc sách nhiều, xem kinh đọc sách nhiều
sẽ loạn tâm, có vị lại giảng khuyến khích nên đọc tụng nhiều mới mở mang trí
tuệ, mới phân biệt được chánh tà phải trái. Cái lý nào cũng đúng, nhưng người tu học phải xem mình thích ứng với pháp
nào nên tu hay nên vừa học vừa tu. Ví như các vị tuổi cao sức yếu mắt mờ tại
điếc thì nên chuyên tu hơn là chuyên tụng đọc, còn những vị có trí nhớ, có mắt
sáng tai nghe thì nên tu cả hai, vừa tu vừa học. Cái học rất có lợi cho mình và
người khác, cái học nó bổ sung cho cái hành, cái hành nó làm sáng tỏ cho cái
học. Tu là Sự học là Lý, Lý Sự đồng hành thì mau thành công và ít bị sai lệch.
Trong đạo Phật có ba tạng kinh điển nghĩa lý
rất sâu rộng, thế nhưng lại có người tu học lại cho rằng chỉ cần tụng đọc một
bộ kinh là đủ rồi, hay chỉ cần niệm một danh hiệu Phật, hoặc chỉ trì một câu
chú là đủ rồi, không cần tụng đọc các kinh khác. Vậy đức Phật khuyên chúng ta
nên học rộng hiểu nhiều để làm gì. Cho nên chúng ta cần phải học thật nhiều
kinh, đời nay chưa xong thời đời sau, đừng bao giờ cho rằng mình tu chỉ cần
tụng một bộ kinh là đủ. Người mới tu học chưa đủ trình độ để chuyên tụng chuyên
tu một bộ kinh đâu. Thế học ngoài đời người ta còn phải học nhiều môn, nhiều
lớp khác nhau, nhiều thầy nhiều bạn mới học chuyên ngành. Tu học Phật pháp cũng
thế, cần phải học nhiều môn nhiều pháp mới mở rộng tâm trí, tu tập mới mau tiến
bộ. Nếu chỉ chọn đọc tụng một bộ kinh cho là đủ chúng ta rơi vào cực đoan, phải
học nhiều trí tuệ mới khai mở, và sự hiểu biết mới phong phú. Ngoài tụng kinh
đọc sách chúng ta cần phải nghe các vị giảng sư giảng, nhưng khi nghe ta phải
suy xét đúng hay không, hợp hay không hợp với hoàn cảnh của mình. Nếu đúng thì
tin, hợp thì áp dụng, còn không đúng không hợp ta có quyền không tin. Đừng bao
giờ chúng ta gặp một vị thầy nào đó đáng kính đáng ưa, rồi tin theo người đó
một cách tuyệt đối, đừng bao giờ thần thánh hóa
một vị nào đó, vì tất cả con người dù tu sĩ hay thế tục đều còn nằm
trong địa vị phàm nhơn chứ chưa thật là thánh. Nhưng một ngày nào đó, vị thầy
ấy phá trai phạm giới hoặc thôi tu, thì chúng ta mất cả lòng tin và định hướng.
Ví như con tàu ra khơi bị gãy bánh lái mênh mông trên biển không quay vào bờ
được.
Người
tu học không có sự hiểu biết bèn chạy theo ai đó, rồi không phân biệt phải
trái, vậy nên cần phải có chánh kiến, muốn có chánh kiến cần phải nghiên cứu
kinh điển. Học nhiều hiểu rộng chúng ta mới thấu hiểu những lời thâm sâu Phật
dạy trong kinh điển, mới biết đâu đúng sai chánh tà. Còn không dễ bị lừa gạt,
dễ bị dụ dỗ bằng những chiêu bài “ không cần đọc tụng chỉ cần lễ lạy là có phước rồi” v.v.. tu ích mà
hưởng nhiều. Đức Phật còn phải tu qua vô lượng kiếp mới thành, huống nữa phàm
phu chúng ta, sự tu phải trãi qua các giai đoạn, Văn, Tư, Tu trong thời gian dài mới thành, chứ không phải
một sớm một chiều mà thành được.
Khi đã hiểu
được pháp Phật thì chúng ta phải áp dụng lời dạy của Phật vào trong cuộc sống của mình, phần đông
người ta tu trên cửa miệng thì nhiều, còn tu thay tâm đổi tánh thì ít. Nhiều
người siêng đi chùa, siêng tụng kinh bái sám, niệm Phật rất giỏi, thế nhưng
thực hành thì không được bao nhiêu, vì thế có một số người, trước chưa biết
Phật pháp thì cuộc sống gia đình rất hạnh phúc, nhưng sau khi đi chùa, hiểu
biết chút ít Phật pháp rồi, cuộc sống
gia đình không còn hạnh phúc như xưa nữa, gia đình trở nên xào xáo, cuối cùng
gia đình ly tán. Điều này do hiểu sai, tu sai. Người học Phật tại gia phải có
trách nhiệm với gia đình, vợ, chồng, con cái
gia đình, sự nghiệp v.v Không
phải chỉ lo tu mà không cần quan tâm đến ai, cũng không cần làm việc gì. Tu như
vậy chúng ta sẽ đánh mất hạnh phúc của chính mình và gia đình mình và mọi người
chung quanh. Nếu là người tu tại gia thì
phải tròn trách nhiệm mà mình đang gánh vác, có người bỏ hết công việc gia đình
để chuyên tu, cho rằng tu như thế mới đúng, là tinh tấn, thật ra tu như thế
chưa đúng, tu thế nào đừng rơi vào những trạng thái cực đoan, đừng quá căng và
quá dùn, đi con đường trung đạo. Bất luận người tu niệm Phật, tu thiền hay tu
mật hay tụng kinh như thế nào, chỉ cần thấy gương mặt luôn có sự hoan hỷ, làm
nhiều việc tốt, được mọi người kính trọng, có trách nhiệm với gia đình và xã
hội, thì biết rằng người đó tu đúng, còn anh niệm Phật, ngồi thiền nhiều, tụng
kinh nhiều mà tánh khí khó chịu, gương mặt không vui, không chút hiền hòa, phúc
hậu, càng tu càng làm cho người khác phiền não, kinh sợ thì biết người đó tu
sai rồi.
Vậy người tu làm thế nào để cho gia đình mỗi
ngày một an vui hạnh phúc, làm sao cho gia đình, con cái, thân quyến biết ăn chay, niệm Phật, đi chùa tìm hiểu
Phật pháp như mình, và nhất là làm sao bản thân mình càng ngày càng trở nên vui
vẻ hiền hòa, dễ chịu được mọi người quý mến, gần gũi. Tu như thế nào để cuộc sống của mình càng
ngày càng đầy đủ, ấm no, mọi người thấy như vậy mới thích tu, thích đi
chùa, mới có cảm tình với Phật pháp .
Có người càng tu lâu càng cố chấp, cứ nghĩ
mình tu là đúng, còn người khác tu sai, ai làm việc gì cũng khó chịu, nhăn nhó,
bực tức, người khác gặp thấy lo sợ, không dám đến gần tiếp chuyện, Tu rốt rồi
trở thành người khó tính khó gần. trong khi Phật dạy, tu thì phải ba nghiệp cho
thanh tịnh, tâm hồn luôn luôn hoan hỷ, từ bi, tu làm sao trở thành người dễ
mến, dễ gần và hạt giống từ bi hỷ xả của mình mỗi ngày càng tăng trưởng, thực
hành như thế mới đúng lời Phật dạy ./.
{]{
TU THẾ NÀO CHO ĐÚNG
Ăn chay niệm phật chưa
phải là tu,
Đi chùa vái lạy cũng chỉ
tu mù
Tụng kinh trì giới sanh
trí tuệ
Quán tâm sửa tánh thật
chân tu
Tu thì phải sửa đổi mới
là tu
Sửa tánh tham thành bố
thí
Sửa tánh ganh tỵ thành
hoan hỷ
Sửa tánh ích kỷ thành vị
tha
Sửa tánh vô tâm thành hòa
nhã
Sửa tánh cố chấp thành
buông xả
Sửa tánh khinh khi thành
kính mến
Sửa tánh cao ngạo thành
khiêm cung
Sửa tánh hẹp hòi thành
bao dung
Sửa tánh bi quan thành
tích cực,
Sửa tánh lười biếng thành
siêng năng
Sửa tánh hơn thua thành
nhẫn nhịn
Sửa tánh si mê thành trí
tuệ
Sửa hết được như thế mới
gọi là tu ./
{]{
TU LÀ CHUYỂN NGHIỆP
Nói đến Đạo là người ta
nghĩ đến việc Tu, Tu nói cho trọn là Tu sửa, sửa xấu thành tốt, sửa dỡ thành
hay đồng nghĩa với bỏ ác làm lành. Tại sao ta phải tu, tu có lợi ích gì. Tu có
nghĩa là sửa đổi, tu bao gồm trong ba trường hợp : tu thân, tu tâm và tu hoàn
cảnh. Tu sửa thân là làm cho thân khỏe mạnh cường tráng, không bịnh tật, sạch
sẻ thanh thoát; Tu sửa Tâm là làm cho tâm
sáng suốt minh mẫn, không tham lam tật đố ganh ghét,tỵ hiềm, giận hờn,
ích kỷ, không phiền não đau buồn,lo âu v.v.. Tu hoàn cảnh là làm cho môi trường
mình đang ở sạch sẻ khang trang, thoáng mát . Như nhà cửa, đường sá,sân vườn
v.v
Như vậy, nói tu là cách làm cho một con người
từ xấu trở nên tốt cả thân lẫn tâm và hoàn cảnh tốt đẹp khang trang. Ngược lại
là người xấu, người xấu là người có thói hư tật xấu; như tham lam, sân giận, si
mê, bỏn sẻn, ích kỷ, gạnh tỵ bất trung, bất hiếu v.v..
Sân giận ai cũng có ít nhiều khác nhau tùy
theo tuổi tác và địa vị mà thể hiện sự nóng giận. Đứa bé thể hiện sự giận dữ
bèn khóc la, người giám đốc thể hiện giận dữ khác so với người làm công nhân,
tất cả ai cũng có nóng giận. Nhưng tất cả sự sân giận là gốc rễ của phiền não
bắt nguồn từ tam độc tham,sân, si. Nên người tu cần phải thấy được những tập
khí xấu này để cố gắng sửa đổi, có thấy
được mới biết sửa đổi, nếu không thấy được nó sẽ âm thầm chi phối ta suốt đời.
Như một vị tướng ra trận phải biết giặc ở đâu mới đánh được, bằng không sẽ bị
giặc bao vây khống chế. Người tu là phải thấy được cái tật xấu của mình để sửa
đổi, thế mới gọi là tu. Niệm Phật, lạy Phật tụng kinh thì dễ, chứ điều phục
được phiền não tham, sân, si thì rất khó; đòi hỏi chúng ta phải nhận diện được
tam độc, tham sân si và phải trải qua quá trình nổ lực lâu dài để chuyển hóa.
Phải thường xuyên nhìn lại ba nghiệp thân, khẩu, ý của mình, và tu sửa dần dần
đến tiến bộ, hoàn thiện bản thân để trở thành một người tốt hoàn toàn.
Có ba loại giận, loại giận khó xóa khó trừ,
loại giận dễ xóa dễ trừ, loại giận không cần phải xóa trừ. Loại giận thứ nhất
như chữ khắc trên đá khó xóa khó trừ. Loại giận thứ hai dễ xóa dễ trừ như chữ
viết trên đất. Loại giận thứ ba không cần xóa trừ như chữ viết trên nước. Dù là Phật tử hay không Phật tử, có duyên
biết đến chùa, biết đến Phật pháp, tiếp cận được giáo pháp, hiểu được lời Phật
dạy, giúp chúng ta mở mang được sự hiểu biết, tăng trưởng trí tuệ, từ đó có
được cuộc sống an lạc hạnh phúc ở hiện tại và tương lai.
Muốn giảm trừ sự sân giận ta cần phải tập
Nhẫn nhịn. HT Giác Nhiên có bài thơ khuyên Nhẫn như sau :
Nhẫn là điều, dầu có họ nói không
Không nói có, mặc tình ai thêu dệt
Con quyết tu, thì chi chi nhịn hết
Nhịn, nhịn hoài, nhịn nhịn mãi con ơi !
Chẳng phải là nhìn có ba lần thôi
Mà nhịn mãi đến khi thành Chánh giác
Con nhịn được dầu thân con có thác
Thác thân con mà tâm thức nhẹ nhàng
Cõi Tây phương con chắc chắn bước sang
Bằng con đọa Thầy nguyện ra chịu thế.
Biết rằng, tham,sân, si là xấu nhưng để
chuyển hóa được nó thì không đơn giản, đòi hỏi phải có một quá trình lâu dài
công phu tu tập. Những người chấp vào việc đi chùa lâu năm cho là tu, từ đó làm
tăng trưởng bản ngã. Bản ngã càng lớn thì phiền não càng nhiều. Hồi mới đi chùa
thì bản ngã còn nhỏ, đi chùa lâu, có công có việc, có chức vụ trong chùa, thì
bản ngã lại lớn dần, phiền não cũng từ đó mà tăng lên. Chỉ cần có một người
đụng đến mình là phiền não nổi lên ngay. Rốt cuộc không biết đến chùa là để tu
cái chi. Mục đích ban đầu đến chùa là tu để gột rửa bớt tham, sân, si, nhưng tu
riết rồi tham, sân, si lại càng tăng
trưởng. Cho nên có nhiều người đi chùa càng lâu càng trở nên khó tính, khó ưa,
bởi vì cái ngã, cái Ta của họ quá lớn.
Nhiều người đi chùa hay vướng vào khẩu
nghiệp, cứ nghĩ đến chùa là để tụng kinh, niệm Phật, nhưng đến rồi lại bắt đầu
bàn luận lung tung, huyên thuyên đủ thứ chuyện, rồi trở thành “Bà Tám” lúc nào
không hay. Đi chùa nói về những điều tốt, nói về tu học Phật pháp lại không
nói, nói toàn những chuyện thị phi, nói người này xấu, người kia tốt, rồi gây
chia rẽ hiềm khích với nhau, rốt cuộc tạo thêm khẩu nghiệp. Lời nói có sức mạnh rất lớn, nhiều khi chỉ
một lời nói mà làm người ta buồn khổ phiền não mất ăn mất ngủ, có khi đưa đến
cái chết. Cho nên Phật dạy chúng ta không nên nói dối, không nói lời thô lô độc
ác cộc cằn, không nói lời phù phiếm. Mà phải nói lời chân thật, hiền hòa êm
dịu. Nói lời lợi ích đem lại sự an vui lợi lạc cho người khác. Có bốn cách nói : Lời nói như mật, lời nói
như hoa, lời nói như nước, và lời nói như phân. Lời nói như mật là lời nói ra
ai nghe cũng thấy an lạc vui mừng, cảm thấy như được nếm mật. Nói như hoa là lời
nói ra người nghe như đang ngửi mùi hương dễ chịu. Nói như nước là lời nói
người nghe xóa tan nghi ngờ, hận thù, buồn giận. Lời nói như phân là nói ra
người nghe buồn bực tức giận, lo âu đau khổ. Người tu học theo Phật pháp nên
tạp nói theo như mật, như hoa và như nước tránh nói như phân.
Câu ca dao rằng :
Lời nói không mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Ngoài ra phải tập nói ái ngữ, nghĩa là phải
nói những lời yêu thương, nhẹ nhàng hòa nhã, lễ phép. Như vậy sẽ được nhiều
người yêu thương cảm mến. Có thể mình tụng kinh nhiều, niệm Phật nhiều rất
giỏi, nhưng để nói được một lời yêu thương hòa hợp lại thì rất khó, đôi khi nói
không được. Ta phải suy gẩm lại khẩu nghiệp của mình chưa thanh tịnh, nên khi
nói những lời chân chính, ái ngữ là ta khó nói, nói không được. Cho nên phải cố
gắng tập nói những lời hòa nhã êm dịu ôn hòa, khiến người nghe nhớ mãi không
quên.
Tất cả lời nói, hành động của ta đều bắt đầu
từ ý, ý nghĩ tốt sẽ biểu hiện thành lời
nói và hành động tốt, còn ý nghĩ xấu thì
biểu hiện lời nói và hành động cũng xấu theo.
Để có được ý nghĩ tốt, nhận biết đúng sai, thì chúng ta phải học Phật
pháp. Nhờ giáo pháp của Phật, nhờ ánh sáng chân lý nên mình mới nhận ra ý
nghĩ,lời nói việc làm của mình là sai. Nếu chúng ta không thấy được lỗi của
mình, không biết điều mình làm đúng hay sai, thì không thể sửa đổi được, cho
nên cần phải học phật pháp mới sửa đổi được.
Như vậy muốn trở thành người tốt, thì đều
phải tu tập, học hỏi Phật pháp. Tu là sửa đổi ba nghiệp thân, khẩu, ý của mình
từ xấu qua tốt, biết được tập khí tham sân si trong mình còn nhiều hay ít, mỗi
ngày bớt hay tăng. Nếu bớt thì mình tu có tiến bộ, còn tăng thì mình tu sai rồi
./.
Trích từ : Sửa đổi ba nghiệp : TT Thích Chơn Tính
{]{
GIẬN
Giận
làm cho trí bất minh
Giận
làm cho họ khinh mình mà thôi
Giận
làm cho ta nói những lời không hay
Giận
làm cho kẻ địch vỗ tay
Giận
làm cho cuộc sống ngày càng ngắn đi
Giận
làm cho phu phụ chia ly
Giận
làm cho ta chuốc sầu bi vào lòng
Giận
làm cho sự nghiệp long đong
Giận
làm cho ta vướng vào vòng bê tha
Giận
làm cho xấu hỗ mẹ cha
Giận
làm cho ta dính Ta-bà nhiều hơn
Giận
làm cho mất nghĩa anh em
Giậm
làm cho suy nghĩ đớn hèn tối tăm
Giận
làm cho hành xử hung hăng
Giận
làm cho đối thủ nhăn răng chê cười
Giận
cuối cùng chẳng có được chi
Chỉ
mang thêm nghiệp suốt đời mà thôi../.
{]{
CHẾT VUI
Sống
thì ăn cháo, ăn rau
Chết
con mấy đứa đua nhau cúng gà
Sống
thì nhà chẳng ra nhà
Chết
con xây mả, xây mồ cao to
Sống
thì bữa đói bữa no
Chết
con nó gửi xuống cho đủ đầy
Bây
giờ mình sướng hơn Tây
Biết
vậy mình xuống đây lâu rồi
Ngày xưa mình sống trên đời
Con
cháu nhăn nhó nói lời đắng cay
Mình
chết chúng đã đổi thay
Nghiêm
trang cung kính chắp tay đàng hoàng
Năm
nào cũng gởi tiền vàng
Mình
tiêu không hết phải mang cho người
Bây
giờ mình quá vui tươi
Sống
lặng lẽ khóc, chết cười nhăn răng ./.
{]{
Tín ngưỡng
thiên chúa giáo :
Ai tin Ta thì sẽ gặp Ta, ai tìm hiểu Ta thì không gặp Ta
Tín ngưỡng Phật giáo :
Ai
nghi ngờ ta thì sẽ gặp Ta,
Ai tin Ta mà không hiểu Ta là hủy báng
Ta
{]{
SỰ TÁC ĐỘNG CỦA LỜI NÓI
Một
lời nói bất cẩn, có thể
Nhóm
lên sự xung đột,
Một
lời nói cộc cằn tàn nhẫn, có thể
Phá
hỏng cả một cuộc đời người khác
Một
lời nói đúng lúc, có thể
Xua
tan hết căng thẳng khổ đau của người
Nhưng
một lời nói yêu thương, có thể
Chữa
lành những vết thương lòng và đưa người hạnh phúc.
{]{
Làm người
đừng nên lợi dụng, sự thông minh và quyền lực của mình, để dối gạt mọi người
khác. Cái mà ta được chỉ là vật chất,
còn cái mà ta mất đi là Nhân Cách của một con người.
{]{
Cái
thân làm tội cuộc đời
Cái
miệng nói lắm thành lời hại thân
Bao
nhiêu cái họa đường trần
Đều từ
cái miệng mới cần phải tu
{]{
GANH GHÉT VÀ THÙ HẬN
Ở đời
ganh ghét chẳng được chi
Thù
hận hại nhau chẳng được gì
Xã hội
bao la người mỗi tánh
Rộng
lượng bao dung bớt sầu bi
Những
người hiểu biết gạt sân si
Kẻ kém
nhận thức hay so bì
Học
nhiều, học ít, không quan trọng
Hơn
nhau, đạo đức, mặt lễ nghi
Giỏi
thì làm tướng, dốt làm ku ly
Đèn ai
nấy sáng, chớ khinh khi
Hơn
thua, đức độ, tâm hiếu, nghĩa
Giàu,
giỏi, hẹp tâm, cũng vứt đi ./.
TÂM AN-TRÍ
TỊNH THÌ MỌI VIỆC THÀNH CÔNG
{]{
NHỊN VÀ NHỊN
Nhịn
để đối phó người hay ghét mình
Nhịn
để tâm trí anh minh
Nhịn để tình nghĩa mãi còn vẹn nguyên
Nhịn để nghe một lời khuyên
Nhịn để quan sát người ta làm càn
Nhịn để kiên nhẫn bền gan
Nhịn để mình được bình an trong đời
Nhịn để nắm bắt thiên thời
Nhịn để thấu hiểu miệng đời thế gian
Nhịn để thoát khỏi gian nan
Nhịn để cảnh giác kẻ gian hai lòng
Nhịn để thấy rõ đục trong
Nhịn để suy nghĩ sẽ không làm liều
Nhịn để qua cơn bão chiều
Nhịn để giảm bớt những điều xấu xa
Nhịn để phòng kẻ hại ta
Nhịn để tỉnh thức cho qua hận thù
Nhịn để giác ngộ đường tu
Nhịn để ta được giác ngộ Chân Như rạng ngời ./.
{]{
KHÁC ĐƯỜNG CHUNG
LỐI
Ô kìa ! ta lại gặp nhau
Bọn mình kẻ trước người sau chung đường
Có chăng là khác môi trường (chiến trường)
Nhưng chung quy lại cũng một đường như nhau.
{]{
Đời người có bao nhiêu toan tính
Thì có bấy nhiêu đau khổ
Có bao nhiêu khoan dung
Thì có bấy nhiêu niềm vui
{]{
Cuộc
đời là một dòng sông
Kẻ nào không
chịu học bơi
Thì sẽ bị nhấn
chìm thế thôi
{]{
SỐNG TRÊN ĐỜI HÃY NHỚ
Hoa đẹp hoa tươi hoa lại héo
Tình đẹp, tình sâu tình vẫn tàn
Rượu đắng rượu cay rượu vẫn hết
Người hứa người thề người vẫn quên
Trăng lên trăng tròn trăng lại khuyết
Tuyết rơi tuyết phủ tuyết lại tan
Hoa nở hoa rơi hoa lại tàn
Tình đẹp tình sầu tình ly tan
Người xấu người đẹp rồi cũng chết
Thiên tài địa vị rồi cũng sẽ tan
Cao sang danh vọng cũng sẽ tàn
Phấn son nhan sắc đâu còn mãi
Chỉ có chân thành tồn tại với thời gian ./.
{]{
TỰ LỰC
Con
Ngài tự nó thoát ra ngoài cái kén để trở thành con bướm, Thì con bướm ấy mạnh
mẻ tung bay. Nhưng cái kén được người khác Mở dùm cái kén để con Ngài ra khỏi
thì con Ngài ấy thành con bướm sau này yếu ớt không thể bay cao bay xa. Cũng vậy cái trứng ấp con gà con tự nó mỗ bể
võ trứng nó ra thì con gà con ấy mạnh khỏe, nhưng con người phá võ trứng cho
con gà con thoát ra con gà yếu ớt sau này.
Cũng vậy, con người muốn thành công, trở thành người trưởng thành phải
tự đứng lên bằng hai đôi chân của mình chứ đừng dựa dẫm vào người khác, để đến
lúc khó khăn đến bằng buông tay xuôi theo dòng nước lũ./.
{]{
BẤT HIẾU BỞI VÌ ĐÂU
Một thời Thế Tôn trú tại vườn ông Cấp Cô Độc tinh xá Kỳ Viên
nước Xá Vệ. Bấy giờ vào buổi sáng mai, Thế Tôn đắp y mang bát vào thành Xá Vệ
khất thực, có một Bà la môn tuổi già sức yếu, chống gậy cầm bát đi khất thực
từng nhà. Bầy giờ Đức Thế Tôn bảo Bà la môn :
- Này ông, tuổi già sức yếu rồi, sao lại còn
phải chống gậy cầm bát đi khất thực từng nhà?
- Bà
la môn bạch Phật: Bạch Cù Đàm, bao nhiêu tài vật có được ở trong nhà tôi,
tất cả đều giao cho con trai, cưới vợ cho con trai. Nhưng sau đó chúng đuổi tôi
ra khỏi nhà, nên tôi phải chống gậy cầm bát đi khất thực từng nhà.
Phật
bảo Bà la môn, này ông có thể học thuộc một bài kệ của ta, rồi trở về nhà ở
giữa mọi người Bà la môn đọc cho con trai ông nghe được không ?
Bà la
môn bạch Phật, bạch Cù Đàm có thể được.
Bây
giờ Đức Phật liền nói kệ rằng :
Sanh
con lòng vui mừng
Vì con
mà tích chứa của,
Rồi
cưới vợ cho con
Nhưng
mình phải bỏ nhà đi
Đứa
con quê mùa kia
Nghịch
phụ ân cha mẹ
Thân
người tâm la sát
Xua đuổi
bậc già cả
Như
ngựa già vô dụng
Bị
cướp mất thóc lúa
Con
trẻ mà cha già
Phải
xin ăn từng nhà
Gậy
cong này hơn hết
Ân ác
hơn con đẻ
Vì ta
ngừa trâu dữ
Tránh
đất hiểm được an,
Xua đuổi
loài chó dữ
Giúp
ta qua chổ tối
Tránh
hầm sâu hố thẳm
Cây cỏ
và gai góc
Nhờ
sức oai cây gậy
Đứng
vững không té ngả
Sau khi nhận bài kệ của Đức Thế Tôn, người
Bà la môn trở về, giữa đám đông Bà la môn, đọc lại cho con trai nghe. Trước hết
ông cáo bạch mọi người: “ Hãy nghe tôi nói”, sau đó ông đọc bài kệ như trên.
Người con trai vừa xấu hỗ vừa sợ hãi, liền ôm choàng người cha của mình đưa vào
nhà, tắm rửa lau mình, mặc quần áo sạch sẻ và lập làm gia chủ.
Bà
la môn tự nghỉ “ Ta có được dòng họ tôn quý như ngày hôm nay, là nhờ ân đức của
Sa môn Cù Đàm”. Bạch Cù Đàm, ngày nay
gia cư con được thành tựu là nhờ vào oai lực của Đức Cù Đàm. Bạch Đức Cù Đàm
Thế Tôn, con xin quy y làm đệ tử Thế Tôn ./.
{]{
NUÔI CON
Cuộc
đời vất vả nuôi con
Cầu
mong con lớn nhờ con về già
Vậy
mà khi tuổi xế tà
Sức
lực cạn kiệt thân già ốm đau
Con
cái thì lại ganh nhau
Chăm
được ba bữa càu nhàu rên la.
{]{
NHỚ ƠN MẸ
Cảm ơn Mẹ ! đã một đời
vất vả
Ẳm bồng con từ thuở mới
còn thơ,
Dìu dắt con trên những
chặng đường đời
Bao khó nhọc, nụ cười
luôn vẫn nở
Cảm ơn Mẹ, cho con từng
nhịp thở
Từ lời ru, tình yêu ấy là
vô bờ
Dù cuộc đời có những lúc
chơi vơi
Mẹ luôn đến bên con hàng
như thế
Nhớ đến mẹ lòng con thầm
rơi lệ
Ơn cù lao muôn một trả
chưa xong
Nợ mẹ cha con tạc dạ ghi
lòng
Nguyện đáp trả ơn sinh
thành biển rộng
{]{
NỢ MẸ
Con nợ mẹ suốt đời không trả hết
Nghĩa tình kia cao vợi tựa núi sông
Chữ hiếu ân canh cánh mãi bên lòng
Con đã cố nhưng cũng đành dang dỡ.
{]{
HOA SEN TÁM CÁNH
Trong ý nghĩa biểu tượng
của hoa sen 8 cánh, người ta quy ước rằng : 5 cánh trên tượng trưng cho 5 hạnh
: Tinh tấn, Hỷ xả, Thanh tịnh, Trí tuệ và Từ bi. Ba cánh dưới, tượng trưng cho
Tam Bảo, Phật, Pháp, Tăng.
-
Tinh
tấn là hạnh của Đức Phật Thích Ca
-
Hỷ
xả là hạnh của Phật Di Lặc
-
Thanh
tịnh là hạnh của Phật Di Đà
-
Trí
tuệ là hạnh của Bồ Tát Văn Thù
-
Từ
bi là hạnh của Bồ tát Quan Thế Âm.
Hạnh hỷ xả chính là yếu
tố cơ bản giúp cho chúng ta thăng tiến trên con đường hoàn thiện nhân cách và
đạo đức của mình.. Hỷ xả là chất liệu quý báu để cho mọi người có thể bảo bọc
thương yêu nhau cùng nhau hòa giải những oán kết, hận thù gây đau khổ triền
miên, mang lại an lạc hạnh phúc cho mọi người. Nếu trên đường tu tập, chúng ta
không có tâm hỷ xả thì khó tháo gỡ những vướng
mắc cố chấp dẫn đến kiến thủ và giới cấm thủ. Đây là trở ngại lớn nhất
đối với thánh đạo giải thoát. Bản chất trong tâm thức của mọi loài chúng sanh
là chấp thủ. Do vậy, khổ đau là điều không tránh khỏi, chỉ khi nào trong chúng
ta luôn có sự hiện hữu của tâm hỷ xả, biết buông bỏ những cố chấp hẹp hòi, vị
kỷ, xóa bớt những hận thù oan trái thì lúc ấy chúng ta mới cảm nhận được niềm
an lạc hạnh phúc thật sự. Bằng không cứ chấp chặt thì chúng ta không bao giờ có được hạnh phúc.
Hẳn nhiên, hỷ xả ở đây
không đơn thuần chỉ có một chiều. Mà hỷ xả phải đi đôi với trí tuệ. Thực
vậy, nếu tâm thức mù mờ, không hiểu biết
một cái gì cả thì khó tu tập xả tâm. Nói xả thì xả cái gì? Chúng ta phải biết đời là vô thường, là khổ là không,
cho nên chẳng có gì mà phải chấp chặt cái này là “Tôi” là “ của tôi”. Khi nhận
thức tường tận được như vậy, ta mới thật sự xả bỏ mọi chuyện một cách triệt để.
Cho nên thành tựu được xả tâm là thành tựu được cả Tứ vô lượng tâm, lục Ba la
mật.
Muốn xả bỏ thì phải có
chánh tri kiến, thấy rõ được các pháp vô thường vô ngã, trên tinh thần lấy từ
bi xóa bỏ hận thù, lấy hỷ xả thắng xan tham, lấy trí tuệ thắng si mê, lấy buông
bỏ thắng cố chấp, lấy giác ngộ thắng giải thoát khổ đau sanh tử luân hồi.
Ngài Di Lặc tu tâm này từ
vô lượng kiếp đã thành tựu viên mãn, nên danh hiệu của Ngài là Từ Thị Di Lặc
./.
{]{
PHẬT GIÁO TRONG DÒNG CHẢY DÂN TỘC
Từ khi du nhập vào nước
ta Phật giáo đã đóng vai trò quan trọng góp phần không nhỏ vào lịch sử dựng
nước giữ nước và phát triển đất nước. Trong lịch sử có những vị đóng góp to lớn
của Phật giáo vào các công cuộc giữ nước dựng nước qua các thời đại từ xưa đến
nay như các nhân vật như sau:
Vào
năm 40-43 sau tây lịch, hai chị em Trưng Trắc Trưng Nhị đứng lên lãnh đạo nhân
dân chống lại sự đô hộ của ngoại bang. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, một
cuộc khởi nghĩa do hai nữ tướng lãnh đạo đánh đuổi được quân Đông Hán xâm lược
và đô hộ ra khỏi đất Giao Chỉ. Trong số 8 vị tướng dưới tướng của hai Bà Trưng
có 5 vị là Ni sư. Ni sư Phương Dung một trong 5 vị nữ tướng của Hai Bà ngày
nay được thờ ở chùa Yên Phú, Thanh Trì
Hà Nội.
Triều đại nhà Minh (968-980)
vua Đinh Tiên Hoàng (924- 979), sau khi thống nhất giang sơn lập nên triều đại
nhà Đinh. Đặt tên nước là Đại Cồ Việt, là vị vua đầu tiên của nước Việt Nam.
Sau thời Bắc thuộc khi lên ngôi Đinh Tiên Hoàng mời thiền sư Vô Ngôn Thông là Ngô Chân Lưu (933- 1011) là
vị sư đạo cao đức trọng trong Phật giáo bấy giờ ra giúp vua, giúp nước tôn là
Khuông Việt Đại sư, Ngô Chân Lưu là vị sư được phong Tăng Thống đầu tiên trong
lịch sử Phật giáo Việt Nam vào năm 971, đây là sự khẳng định vai trò quan trọng
của Phật giáo trong đời sống xã hội lúc bấy giờ, vua đề cao Phật giáo nhằm xây
dựng nền đạo đức, mở mang trí tuệ, đoàn kết nhân tâm, sáng suốt trong chính
trị, uyển chuyển trong ngoại giao.
Khi nhà tiền Lê thay thế nhà Đinh (980-1009)
vua Lê Đại Hành (941-1005) sứ thần nhà
Tống sang, vua nhờ hai nhà sư Khuông Việt và Pháp Thuận đứng ra tiếp sứ nhà
Tống là Lý Giác. Trước khi đoàn sứ bộ ra về, vua Lê Đại Hành đã nhờ sư Khuông
việt viết bài thơ “Ngọc lan quy” tặng để tiễn đưa sứ thần và đoàn sứ bộ. Điều
này cho ta thấy văn chương đã khéo vận dụng để đưa vào phục vụ sự nghiệp chính
trị ngoại giao của đất nước.
Triều đại nhà Lý (101-1225) Lý Thái Tổ (Lý
Công Uẩn 974-1028) là vị vua sáng lập triều Lý, sau khi lên ngôi, đã chuyển
kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Thăng Long (Hà Nội). Trong những năm đầu ra
Thăng Long, vua không cho xây lăng miếu mà sắc cho dân tu sửa và xây dựng mới
nhiều ngôi chùa để thờ Phật, có người hỏi tại sao vua không cho xây tông miếu ?
Vua trả lời : “ Nước nhỏ dân còn nghèo, ngoài
thì giặc phương Bắc luôn dòm ngó, trong thì nội trị chưa yên, nếu xây tông miếu
chỉ làm khổ cho dân và chắc gì xây xong
đã giữ được. Dựng chùa thờ Phật để dân biết Phật pháp khởi tâm từ bi, nâng cao trí giác ngộ Phật
giáo, mọi người càng tin nhân quả, đua nhau làm việc tốt, tránh việc xấu, khi
dân đã giàu nước đã mạnh lo gì tông miếu không được xây.
Đúng như lời của Lý Thái Tổ, dưới triều đại
nhà Lý Phật giáo rực rỡ cùng với sự phát triển mọi mặt về đời sống xã hội. Hiền
tài được trưng dụng, đất nước thanh bình, bờ cõi được yên, trong ngoài, trên
dưới đoàn kết thuận hòa, nhà nhà no đủ, khắp nơi rộn tiếng hát ca, công đức của
Triều Lý muôn đời sáng mãi, trải hơn ngàn năm. Thành Thăng Long ngày xưa nay là
Hà Nội mở rộng gấp nhiều hơn xưa.
Triều đại nhà Trần (1225-1400) tiếp nối dòng
chảy, Phật giáo thời Trần còn phát triển
hơn các thời đại trước. Trong triều đại từ vua đến quan đều biết Phật pháp. Vị
vua thứ ba của triều Trần, là Trần Nhân Tông (1279-1293) 20 tuổi làm vua, 2 lần
đánh thắng quân Nguyên Mông. Năm 35 tuổi nhường ngôi cho con lên làm Thái
thượng hoàng, năm 41 tuổi xuất gia tu học, hiệu Trúc Lâm Đầu Đà lập dòng thiền
phái Trúc Lâm.
Ngài đến tận Chiêm Thành để ngoại giao thực
hiện mối đoàn kết với nước láng giềng, cùng nhau chống giặc phương Bắc, với
công hạnh ấy, Ngài được nhân dân tôn vinh là Phật hoàng. Từ chuyến công du
ngoại giao này, phong thái và đức độ đã cảm phục được vị vua Chiêm Thành là Chế
Mân, xin làm con rể của Ngài, gả công chùa Huyền Trân làm vợ, Chế Mân dâng hai Châu Ô và Châu Lý làm sính
lễ. Đất nước Việt Nam không đánh không tranh mà thêm hai châu, nay là vùng đất
Thừa Thiên Huế,
Triều Hậu Lê (1427- 1789) thời vua Lê Hy Tông
(1662-1716) vị vua thứ 21 nhà Hậu Lê và là vị vua thứ 10 thời Lê Trung Hưng,
ông được đánh giá là vị vua anh minh, dưới triều vua đất nước ổn định thái
bình. Vua Hy Tông để lại một câu chuyện về một bậc minh quân và đúc tượng vua
cõng Phật ở chùa Hòe Nhai (Hồng Phúc Hà Nội), vào thời vua Lê Trung Hưng, Phật
giáo trong nước có biểu hiện suy vi, không còn đứng vững ở vị trí độc tôn, lúc
này Nho giáo phát triển, nên nhiều người xem nhẹ Phật giáo. Đến thời vua Lê Hy
Tông có quan dâng sớ tâu vua về những sai phạm, phá giới của một số tăng sĩ.
Nghe lời tâu, vua đã ra sắc chỉ đuổi hết các sư về vùng thôn quê, hoặc lên rừng
núi, ai không đi sẽ nghiêm trị. Từ đó các ngôi chùa trong kinh thành vắng sư đã
tạo cơ hội cho tín ngưỡng mê tín vào chùa. Trước cảnh Tăng chúng phải chịu sắc
chỉ rời chùa về nơi thôn dã, Hòa Thượng Tông Diễn, một vị sư có đạo hạnh và trí
tuệ lúc bấy giờ đã tìm cách làm cho vua hồi tỉnh. Biết không thể mang danh nhà
sư để gặp được vua. Hòa thượng Tông Diễn phải nhờ một vị quan tâu với vua : “
có một người được ngọc quý muốn dâng vua, tuy nhiên để ngọc quý linh nghiệm vua
phải trai giới và cho một vị quan văn uy tín mở hộp đựng ngọc. Đúng hẹn, người
mang ngọc đến dâng vua, nhưng khi mở hộp ra không thấy ngọc mà chỉ có tờ biểu.
Vua truyền trị tội kẻ xấc xược, song vị quan mở hộp tâu, xin vua xem biểu tấu
gì rồi trị tội cũng chưa muộn. Vua đồng ý, quan đưa tờ biểu lên đọc : “ Phật
giáo tuy không phải ngọc, nhưng từ xưa đã được nghe, Phật giáo lấy trí đức làm
đầu không gì sánh bằng, nên có câu, trí cao trời người trọng, đức lớn quỷ thần
kinh. Nước ta, từ đời Lý, Trần các vua hết sức coi trọng Phật giáo, vì thế mà
người theo đạo phật dốc lòng phò vua giúp nước, nên quốc gia hưng thịnh. Đạo
Phật với lối sống lục hòa, chính tín và nhân quả, khiến người người biết thương
yêu, kính trọng nhau, bỏ điều xấu làm
việc tốt, xem ra đạo Phật nếu biết dùng thì có lợi cho quốc gia còn hơn cả ngọc
quý. Vậy tại sao nay đạo Phật lại bị cho rằng không mang lại lợi ích gì cho xã
tắc”Nghe xong biểu tấu vua Hy Tông
chuyển ý, ngộ ra sự vi diệu của Phật pháp, vua cho mời Hòa thượng Tông
Diễn vào và tuyên bố hủy sắc chỉ củ. Lại cho chọn những nhà sư đủ trí tuệ và
nghiêm giữ giới luật được vào trụ trì các chùa trong kinh thành. Sau đó vua sai
thợ khắc làm pho tượng vua cõng Phật trên lưng, để tỏ lòng sám hối tội lỗi hủy
báng Phật giáo.
Triết lý pho tượng vua cõng Phật không chỉ tôn
trọng phật pháp, tôn vinh phật giáo, mà còn thể hiện sự thành khẩn trung thực,
dám làm dám nhận, biết nghe lời nói phải, sai dám sửa. Vì thế dưới thời vua Hy
Tông người tài cũng nhiều, việc tốt cũng lắm, nhân dân ca ngợi ông vua là ông
vua anh minh để dân an nước thái.
Thời Nguyễn (1600- 1945) Chúa Nguyễn Hoàng
hay Nguyễn Thái Tổ, chúa Tiên (1525-1613) là vị chúa Nguyễn đầu tiên đặt nền
móng cho vương triều Nguyễn lập kinh đô ở Huế ngày nay. Chúa Nguyễn cho xây
dựng chùa Thiên Mụ.
Thời đại Hồ Chí Minh (1945-1969 đến nay) ,
vào năm 1963 trong bối cảnh Phật giáo miền Nam, lúc bấy giờ bị chính quyền họ
Ngô hà khắc. Hòa Thượng Thích Quảng Đức (1897-1963) một vị sự Phật giáo đã đỗ
xăng tự thiêu tại Sài Gòn vào ngày 11-6-1963 để phản đối sự đàn áp Phật giáo
của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Tấm ảnh chụp Hòa Thượng tự thiêu đã được
truyền đi khắp thế giới và gây nên sự chú ý đặc biệt tới chính sách của chế độ
Ngô Đình Diệm. Phóng viên Malcom Browne đã giành giải thưởng ảnh báo chí thế
giới năm 1963. Nhờ bức ảnh chụp cảnh Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu.
Sau khi chết Hòa Thượng được hỏa táng lại,
nhưng trái tim vẫn còn nguyên vẹn không cháy. Đây được coi là biểu tượng của
tinh thần vô úy xả thân vì Phật pháp. Phật tử suy tôn Ngài Quảng Đức là Bồ Tát,
sự tôn vinh ấy càng làm tăng sức mạnh ảnh hưởng của vụ tự thiêu trước dư luận,
và tăng sức ép của quốc tế đối với chính quyền Ngô Đình Diệm, dẫn đến Tổng
Thống Diệm phải tuyên bố đưa ra một số cải cách nhằm xoa dịu giới Phật tử. Tuy
nhiên, những cải cách như đã hứa đó
không thực hiện, khiến tình hình trở nên xấu hơn.
Khi phong trào phản kháng vẫn tiếp tục dâng
cao, lực lượng trung thành với tổng thống đã tiến hành nhiều cuộc khủng bố chùa
chiền. Cuối cùng cuộc đảo chính quân sự tháng 11-1963 cùng năm đã lật đổ chính
quyền và giết chết anh em Ngô Đình Diệm. Việc tự thiêu của Ngài Thích Quảng Đức
được coi như là một bước ngoặc trong cuộc đấu tranh của Phật giáo Việt Nam, góp
phần dẫn đến xóa bỏ nền Đệ Nhất Cộng Hòa
tại miền Nam Việt Nam vào năm 1963. Mà cũng là tiền đề cho thế mạnh bên cách
mạng (khối Cộng Sản) thắng lợi sau này 1975.
Hay tin sự tự thiêu vô úy của Hòa Thượng Thích
Quảng Đức, từ Hà Nội thủ đô của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, chủ tịch Hồ Chí
Minh (1890-1969) đã làm câu đối tặng :
Vì pháp thiêu thân, vạn cổ hưng huy thiên
nhật nguyệt
Lưu danh thiên cổ, bách niên chính khí
rạng sơn hà.
Câu đối của chủ Tịch Hồ Chí Minh dành cho tấm
gương vô úy của một nhà sư vì chính nghĩa đã nói lên cảm mến sâu sắc, vì bảo hộ
Phật pháp mà thiêu thân, vạn cổ cho đến nay hiếm có, việc làm huy hoàng, anh
hùng đó sáng như mặt trăng, mặt trời, việc làm vô úy ấy sẽ được sử sách lưu
danh hàng ngàn năm không quên, trăm năm về sau hào khí của việc làm rạng rỡ
cho sông núi Việt Nam. Câu đối ý nghĩa
đó càng làm thêm nức lòng nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới trên con đường
đấu tranh cho hòa bình và độc lập dân tộc.
Thế mới hay Phật giáo Việt Nam thời đại nào
cũng gắn liền với lịch sử dân tộc, thời đại nào Phật giáo cũng xuất hiện điển
hình đáng trân trọng, thật đúng với nhận định : “ Phật giáo Việt Nam luôn là
tấm gương giúp đời hộ quốc an dân”.
(trích : Phật giáo trong dòng chảy dân tộc _
TS Bùi Hữu Dược- Vụ trưởng Vụ Phật giáo của Ban Tôn giáo Chính phủ) VHPG xuân Mậu Tuất -1-2-2018)
ĐÂU HỀ CÓ MỘT TÌNH YÊU SUNG SƯỚNG
Thơ của Louis Aragon bài dịch của Cao Huy Thuần.
Đâu hề có một tình yêu sung sướng
Chưa sống bao nhiêu thì đã quá sầu
Giữa đêm khuya đôi tim trẻ khóc thầm
Bao nhiêu sầu để được nghe câu hát
Bao nhiêu tiếc thương để được rùng mình
Bao nhiêu nghẹn ngào dổi ghi ta tiếng nấc
Có tình yêu nào sung sướng được đâu
Có tình yêu nào mà không đau khổ
Có tình yêu nào mà chẳng xót xa
Có tình yêu nào mà không bi án
Có tình yêu nào mà chẳng lệ nhòa
Đâu hề có một tình yêu sung sướng
Nhưng đó là tình của cả đời tôi
Platon định nghĩa tình yêu là muốn “muốn cái mình không có, muốn cái mình
thiếu”, vậy khi mình không có thì mình muốn, và có rồi thì mình hết thiếu. Mà
hết thiếu thì không còn tình yêu. Cả hai trường hợp đều đưa đến khổ. Không có
cũng khổ vì thèm yêu, mà có cũng khổ vì hết thèm thì hết yêu.
{]{
TÁN TỤNG KINH PHẬT
Trong kinh Phật có ba
trường phái tán tụng :
1/ Hệ Bắc tông : 2/ Hệ Nam tông 3/ Hệ Mật tông
Bắc tông hay Đại thừa : Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn
Quốc, Triều tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Kinh chép bằng tiếng Phạn (Sanskrit).
Nam tông hay Tiểu thừa
các nước Silanka, Thái Lan, Campuchia, Lào,
(Silanka: Tích Lan), kinh chép theo âm Pali
Mật tông gồm :Tây Tạng,
Mông Cổ, gồm những mật ngôn đọc theo một giọng thật trầm.
Người Việt Nam ngoài tán
tụng ra còn có niệm, đọc, hô, xướng, niệm hương.
Tán có ba loại : tán rơi,
tán xắp và tán trạo.
Ba bài nhạc được đưa vào
nghi lễ Phật giáo trong các lễ hội và nghi lễ là :
Trầm hương đốt là bài ca chính thức của Gia
Đình Phật tử, do Nhạc sĩ Nguyễn Phúc Bửu Bác sáng tác. Bài Phật giáo Việt Nam làm bài Đạo ca Phật
giáo Việt Nam mỗi lần chào Đạo kỳ sáng tác của nhạc sĩ Lê Cao Phan. Vào năm
1951 Hội nghị Phật giáo Việt Nam toàn quốc tại Huế
{]{
Bằng cấp không phải thước đo giá trị con người, Mà đạo
đức mới là thước đo giá trị của con người.
{]{
ỨNG PHÓ VỚI BỆNH TRẦM CẢM
Trầm cảm là một căn bệnh
thuộc về sức khỏe và tinh thần, không phân biệt độ tuổi, hoàn cảnh, kinh tế,
yếu tố chủng tộc, giới tính v.v.. Trầm cảm có ảnh hưởng tiêu cực và dai dẳng
đến cả tinh thần lẫn thể chất của con người. Trầm cảm trở thành nguyên nhân gây
mất sức lao động thứ hai trong các nguyên nhân.
Chữa trị bệnh trầm cảm
khó chữa trị hơn các loại bệnh thông thường, một loại bệnh nghiên về tâm thần
hơn là thể chất, vì thế cách chữa trị hiệu quả và cao nhất là dựa vào niềm tin
tôn giáo. Trong tôn giáo có nhiều phương pháp để hóa giải bệnh trầm cảm, với niềm
tin và ứng dụng các nghi thức sinh hoạt trong tôn giáo, tâm thần người bệnh dễ
mau bình phục và cân bằng. Ví như thực tập các phương thức như tụng kinh, niệm
Phật, nghe pháp, thiền định, là những phương pháp giúp cho tâm trí được cân
bằng trở lại. Đồng thời họ có đủ niềm tin để tự mình đối diện, giải quyết những
trở ngại trong cuộc sống.
Tôn giáo là chỗ dựa vững
chắc, là nơi quay về nương tựa sau những thất bại, đau buồn trong cuộc
sống. Những người có niềm tin tôn giáo
có thể có sức khỏe tâm thần và tình cảm tốt hơn những người khác, người ta
nghiên cứu rằng một cá nhân thường xuyên đi chùa, đi nhà thờ thì tuổi đời càng
cao hơn những người khác. Và người ta nghiên cứu cho biết những người đi nhà thờ, đi chùa
chiền có tỷ lệ mắc bệnh, tử vong và chống chọi với khó khăn tốt hơn so với
những người không tham gia tôn giáo. Có nhiều lý do khiến tôn giáo có nhiều lợi
ích đối với sức khỏe và tâm thần con người. Chùa chiền, nhà thờ sẽ giúp con
người có một mạng lưới xã hội rộng lớn, có nhiều hỗ trợ hơn. Điều đó sẽ giúp cá
nhân có cái nhìn tích cực hơn về cuộc sống cũng như cảm thấy được nâng đỡ khi
cần. Qua đó để thấy được mỗi đối tượng có cách biểu hiện, nương tựa khác nhau
khi gặp những thất bại, đau buồn, khó khăn trong cuộc sống. Từ đó chúng ta thấy
sức mạnh của tôn giáo có thể chuyển hóa đau khổ để con người tự tin đối đầu với
những khó khăn phía trước.
Từ đó, các kết quả trên
cho thấy, mức độ hỗ trợ từ nhà chùa, các cư sĩ, phật tử lựa chọn và ứng dụng
cao nhất so với các hỗ trợ khác. Chính niềm tin tôn giáo và nghi lễ tôn giáo đã
giúp cho con người biết chấp nhận và cũng giúp con người vượt qua những khó
khăn khắc nghiệt của cuộc sống./.
{]{
ĐỪNG VÌ CÁI SAI CỦA NGƯỜI MÀ ĐÁNH MẤT CÁI THIỆN CỦA MÌNH
Phàm đã sinh ra làm kiếp
con người, không ai có thể tránh khỏi những thị phi khen chê, những phỉ báng vu
khống, những hàm oan cay nghiệt. Cho nên, không có ai chẳng bị kẻ khác chỉ
trích chê bai sau lưng, nhưng ở trước mặt người ta không nói ra mà thôi.
Đối với những thứ thị
phi, vu oan, phỉ báng này sẽ làm cho chúng ta nếu không sáng suốt bình tĩnh,
nếu không tu dưỡng đàng hoàn, nhiều khi phải xao động mà sanh phiền não, gây
chướng ngại trên đường tu.
Cho nên khi đứng trước
thị phi vu oan, phỉ báng, ta nên ẩn nhẫn mà vượt qua, không nên đi tranh chấp
hơn thua cùng người.
Vì sao?
Vì người cố tình vu oan, phỉ báng, lôi kéo thị phi với ta là người sai,
nay ta vì cái sai của người, mà đánh mất cái thiện, cái thanh tịnh, bình an của
ta. Vậy có đúng hay không?
Tranh cải hơn thua cùng
người chỉ thỏa mãn cái bản Ngã của ta lúc đó mà thôi, nhưng hậu quả thì sao?
Phật nói trong kinh cho
ta biết : “Một niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai ”. Chỉ vì một niệm sân khởi lên, ta liền muốn
cùng người đôi co, tranh luận hơn thua để rồi các cửa chướng ngại đều mở ra.
Công phu thiền định trong phút chốc mất sạch, tâm thanh tịnh theo đó cũng tiêu
tan, bản tánh lương thiện của ta chỉ vì cái sai của người mà ta đánh mất.
Vậy thì cái được không đủ
để bù vào cái mất, quả thật không đáng! không đáng! Phàm làm con người, ai cũng thích lời khen,
ghét tiếng chê, ưa thích bới móc điều dỡ của người, không dè mình cũng đầy
những lỗi lầm, chẳng có chi là tốt đẹp.
Cho nên chúng ta là người tu hành chân chính, cần phải giữ lập trường
của chính mình, càng nên tin sâu lý Nhân quả, đừng xao động tiếng hay dỡ bên
ngoài.
Kinh pháp cú nói : “Ngọn
núi cao đứng vững giữa cơn giông tố, người chân chánh an nhiên giữa tiếng thị
phi ”. Tất cả tiếng khen chê bên ngoài, không làm cho ta tốt hay xấu, siêu hay
đọa, mà tốt hay xấu, siêu hay đọa là do nơi ta. Nếu ta gây nhân lành, thì dù
người ta có khinh ta là xấu xa tội ác, ta vẫn được siêu thăng. Trái lại, ta gây
nhân ác, tuy người quý trọng, khen ngợi, ta vẫn chịu đọa lạc.
Ví như tờ giấy trắng bị
vết mực lem, cứ để yên thì nó chỉ dơ một chỗ đó, rồi lần theo thời gian sẽ phai
nhạt đi. Nếu lấy đồ lau chùi, tất sẽ hoen ố toàn diện. Hãy để tất cả những thị
phi, phỉ báng trôi theo dòng thời gian, rồi lần lần tan biến vào hư không.
Hãy biết trân trọng thời
gian còn lại của đời mình mà lo tu tập cho tốt, đừng để thời gian trôi qua một
cách vô ích trong những phiền não thị phi, để rồi một ngày kia thản thốt nhìn
lại mà giật mình sợ hãi hỏi rằng : “Đã bao nhiêu mùa xuân trôi qua, sao ta còn
chưa tu tập”
(Lời khai thị:
Cố HT Thiện Tâm)
{]{
Trên đời có
ba thứ nguy hiểm: Rượu ngon, tiền bạc và
vợ đẹp. Rượu ngon làm người mất trí, tiền bạc nhiều làm người ta bất chính, vợ
đẹp làm người đau khổ nhiều. Vì rượu ngon khiến người ta thích uống, tiền bạc
nhiều khiến người ta mờ át lương tâm, vợ đẹp thường hay phản bội. Vì thế tốt
nhất là mất cả ba.
{]{
NGHĨ NHỚ 5 THỨ KHÔNG THÌ ĐỜI NGƯỜI HẠNH
PHÚC
Đời người đổi thay như
đất trời đủ bốn mùa, Thu, Đông, Xuân, Hạ.
Mùa xuân thì tuổi trẻ,
khí chất bừng bừng, rong ruỗi trên đường gió bụi.
Mùa đông xế bóng, là lúc
phải nghỉ đến dưỡng thân và dưỡng tâm,
Bởi thế nhân sinh mới có
5 thứ không này, ai ai cũng cần thấu hiểu.
1/- Việc không làm : không làm việc vô nghĩa, không làm việc quá sức,
Không làm việc khiến mình hối hận về sau.
Hãy sống thuận theo quy
luật đất trời và học cách chấp nhận.
Nếu không có được những gì mình yêu,
Thì phải yêu những gì
mình đang có
2/- Điều
không nhìn : Nhìn bằng hai mắt chẳng bằng nhìn một mắt,
Nhắm một mắt mở một mắt
sẽ tốt hơn,
Tính toán chẳng phải kẻ
thông minh,
So đo quá không thành
người quân tử,
Có những chuyện phải biết
buông tâm,
Nâng lên được thì đặt
xuống được.
3/-Việc không quản : Đừng nghỉ cách thay đổi người khác,
Trước hết hãy thay đổi
thái độ của mình,
Không mợ thì chợ vẫn
đông,
Trong đời chớ bao giờ xem
mình là người quan trọng nhất,
Việc không cần quản chớ
nhọc sức đi làm,
Người không cần quản chớ
tổn trí hao tâm,
Nghĩ cho mình một chút,
tìm kiếm một niềm vui,
Bớt dần những hằn học,
Được vậy, còn lo chi đời chẳng đẹp tươi,
4/- Điều không cho :Về già hãy giữ cho mình một chút vốn luyến,
Những gì không thể chi
trả thì đừng chi trả,
Những gì không thể cho,
cũng đừng vội vã cho đi,
Để lại cho con cháu càng
ít, thì con cháu hiềm mình,
Thứ gì cũng đem cho thì
con cháu trở thành kẻ ỷ lại,
Há miệng chờ sung, tự lực cánh sinh,
Mới là làm người một cách
chân chính.
5/- Không chờ đợi : Cuộc sống là không chờ đợi,
Đợi chờ quá khứ, tương
lai chi bằng sống hết mình cho hiện tại,
Nhưng đời người có biết
bao thứ khiến người ta phải đợi, phải chờ,
Đợi nghĩ hưu, đợi tiền
tiết kiệm, đợi con cái trưởng thành,
Cuối cùng là đợi đến lễ
cử hành tiễn biệt của chính bản thân mình,
Nhân sinh như mộng, một
giấc mộng thoáng qua,
Như hoa rơi, như lá rụng,
như nước chảy, cứ mãi vô tình
Trăm năm tựa như ánh chớp
giữa hư không,
Chợt léo lên rồi chìm sâu
vào màng đêm đầy uẩn khúc,
Việc đáng làm thì hãy làm
đi, người đáng gặp thì hãy kết duyên,
Nhất định phải sống thật
tốt,
Nhất định phải cảm thức
được ý nghĩa sinh mệnh của mình.
Bởi con người là tinh hoa
của vũ trụ. ./.
{]{
NHẪN
Nhẫn tiếng
hơn thua có hại gì
Nhẫn là sửa
tánh diệt sân si
Nhẫn trau
tâm đạo cho bền chí
Nhẫn ấy cũng
là mức cử thi
NHỊN
Nhịn điều sĩ
nhục tấm thân yên
Nhịn việc
hơn thua tránh lụy phiền
Nhịn kẻ
thiểu căn lòng đại lộ
Nhịn mẫm dục
vọng đắc Thần Tiên
{]{
Đã biết chốn
ni là quán trọ
Hơn, thua,
hờn,oán để mà chi
Thử ra ngồi
xuống bên phần mộ
Hỏi họ mang
theo được những gì
{]{
Thở đi ! em
vẫn sống
Cười đi !
khoảnh khắc đẹp tuyệt vời.
{]{
BUÔNG CÁI NGÃ
Vua Trần Thái Tông cảm
ngộ thế sự vô thường hưng suy của sự nghiệp chính trị nên đã bỏ ngôi báu, triều
thần trốn lên núi Yên tử ẩn tu, ở đấy vua gặp pháp sư Phù Vân, và chính lời
khai thị của quốc sư, mà Thái Tông chịu lời thỉnh mời của quần thần và dân
chúng tha thiết cầu ngài trở lại kinh đô để tục tục lãnh đạo đất nước, đưa vua
trở lại triều đình, tiếp tục sự nghiệp làm vua của mình. Vị vua đã ba lần hướng
dẫn đánh thắng quân Mông xâm lược. Một lời khuyên của quốc sư Phù Vân mà làm
cho nước nhà được thịnh vượng, thắng giặc ngoại xâm đem lại thanh bình cho xã tắc. Lời khuyên của
quốc sư Phù vân như sau : “ Phàm làm bậc nhân quân thì phải lấy ý muốn của
thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tấm lòng thiên hạ làm tấm lòng của mình”.
Khi lấy tâm thiên hạ làm tâm của mình, thì
không còn chỗ nào để cho bản ngã trú ngụ, có đất nào cho bản ngã trú ngụ nữa
đâu. Cái tôi còn chỗ nào dựa vào đâu để mà ra oai lên mặt. Khi tâm mình chứa
đầy tâm thiên hạ thì đấu tranh với ai, hơn thua với ai ? Khi ấy tất cả đã là
một, một khối thống nhất, không còn phân biệt ta và người.
Mọi nhu cầu của người
cũng là nhu cầu của ta, mọi quan tâm của người cũng là quan tâm của ta. Tiếng
nói của người cũng là tiếng nói của ta. Tâm thiên hạ trong tâm ta, thì đâu là
ranh giới của cái tôi ? cái tôi tan biến vào hư không, khi tâm ta hòa làm một
với tâm thiên hạ, lời khai thị của quốc sư Phù Vân quả là một phát ngôn trác
tuyệt về đạo lý vô ngã.
Nguyện vọng phụng sự tha
nhân, phục vụ người khác thì phải thực hiện triệt tiêu cái ngã thì việc làm mới
có đầy ý nghĩa. Phật, Bồ Tát đã đạt đến vô ngã, vì mỗi giây mỗi phút các ngài
đều nguyện phụng sự chúng sanh, làm lợi ích cho chúng sanh, tu tập là cầu làm
Phật, làm Thánh, mà làm Phật làm Thánh là làm gì ? nếu không phải là để phục vụ chúng sanh.
Phật, Thánh quý ngài mỗi
người mỗi nguyện, nhưng tất cả đều phục vụ chúng sanh, làm lợi ích cho chúng
sanh, làm tốt đẹp cho chúng sanh, mọi ngã chấp đều tan biến trước lời nguyện
thiết tha phụng sự tha nhân.
Buông cái tôi xuống thì
đạo đức cao, không có đạo đức nào cao hơn đạo đức buông cái tôi xuống. Vì đạo
đức ấy không xét trên bình diện thiện ác nữa, mà là đạo đức của giải thoát,
hành động vô ngã là hành động của giải thoát, chứ không phải hành động của
thiện ác nữa. Hành động ấy đưa ta đến tự do. Hành động mà không thấy mình hành
động, không thấy người hành động, không thấy mình, không thấy người thì không
bị kẹt ở hai bên. Đó là tự do, là giải thoát, làm mà thấy mình làm, là chấp vào
công lao, chấp vào công trạng, chấp vào việc làm, ấy là ta bị kẹt ở ta. Hành
động mà không thấy người hành động đó cũng như gió thổi, mây bay, suối chảy, lá
rơi..
Không ai giận đám mây che
khuất mặt trời, không ai giận gió thổi làm rối mái tóc, không ai giận tiếng
suối chảy róc rách suốt ngày đêm. Nếu có giận thì cái giận ấy vô cớ vu vơ, rỗng
không..
Có một anh chàng đại gia,
muốn thưởng thức một đêm gió mát trăng thanh trên dòng sông, anh bèn thuê một
chiếc thuyền nhỏ, ra đậu giữa dòng sông để thưởng thức và ngủ qua đêm. Đêm
khuya thanh vắng giấc ngủ êm đềm, một chiếc thuyền khác đứt dây neo trôi tạc
vào chiếc thuyền anh đang neo đậu, sức va chạm mạnh chiếc thuyền kia vào thuyền
của anh, làm chấn động và lắc lư con thuyền, anh đang ngủ ngon giấc, giật mình
thức dậy, cơn giận đùng đùng nổi dậy, anh chửi bới um tùm hướng về chiếc thuyền
đang trôi, chửi những lời thô tục, lớn tiếng trong ban đêm. Thế nhưng không
thấy thuyền bên kia lên tiếng, anh xem lại thuyền kia rỗng không, không có
người, lúc bấy giờ cơn giận của anh mới hạ xuống, may mà không có ai nghe !!
Nếu trước kia anh biết
thuyền kia không người, chắc anh không có những lời lẽ thô tục lớn tiếng thịnh
nộ với chiếc thuyền trống không làm gì. Cũng thế, chúng ta muốn buông cái ngã,
phải tập nhìn và quán con người và hoàn cảnh như chiếc thuyền trôi trống không,
thì ta mới không nổi cáu nổi giận được.
Chỉ dừng cái thấy nơi hành động mà không thấy thân ai nữa thì phiền não giận
hờn, buồn phiền không có nơi để bám vào.
Cái tôi nếu không được
buông xuống, thì mọi hành động, việc làm của mình đều bị vướng kẹt, kể cả việc
tu hành. Làm việc thiện mà không buông cái tôi xuống thì tự hào với việc thiện
của mình làm. Học nhiều hiểu rộng mà không buông cái tôi xuống thì tự cao về
cái học của mình. Tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, trì chú nhiều mà không
buông cái tôi xuống, thì tự đắc với việc hành trì của mình. Đức Phật dạy nổ lực
tu tập là để vượt qua bản ngã, chiến thắng mình, chứ không phải để tranh hơn
tranh thua với ai. Dù một người có nổ lực sống đúng với giới luật, siêng năng
tụng kinh, trì chú, nhưng nếu trong tâm còn bóng dáng của cái ngã chấp, quý
mình khinh người thì người đó chưa phải là người tu tập đúng nghĩa.
Vậy tu tập rốt ráo và tối hậu là nhằm đạt đến tự do và giải thoát, là buông
xuống cái Tôi của mình./.
Trích : Sự buông xuống sau cùng _ Hoàng Nguyên- VHPG
số 306- 1-10-2018.
{]{
SỐNG VƯỢT QUA THỊ PHI
Từ bây giờ tôi sống cho
tôi
Chẳng quan tâm đến miệng
đời đàm tiếu
Cũng không cần ai cảm
thông thấu hiểu
Tự một mình xoa dịu nỗi
thương đau
Mạnh mẽ bước trên muôn
vạn nẻo đường
Tiếng thị phi lẽ thường
tình nhân thế
Nên chẳng màn hay ưu
phiền câu nệ,
Lời điêu ngoa để dạ ích
lợi gì
Sống thật thà đạp dư luận
mà đi
Lòng phân vân là khi mình
lầm lỗi
Cứ thẳng ngay sợ chi ngàn
lời nói
Bước nhẹ nhàng trên lối
cuộc đời ta
Thấy đủ rồi nhưng cay
đắng xót xa
Sống lặng im nào là khờ
dại
Quá khứ buồn sẽ không còn
tồn tại
Bởi từ giờ tôi phải sống
cho tôi.
{]{
Sống nhẫn nhịn không phải
là nỗi nhục
Vì yêu đời lắm lúc phải
cho qua
Hơn thua chi để cuộc sống
bất hòa
Đời biết nhẫn là nhìn xa
thấy rộng
Nếu vấp ngã hãy tự mình
đứng dậy
Đừng nằm im là thất bại
cả cuộc đời./.
{]{
TÀM QUÝ
Tàm quý có nghĩa là hổ
thẹn. Hổ với mình và thẹn với người, hỗ thẹn có hai lãnh vực, lãnh vực tiêu cực
và lãnh vực tích cực, tức là hỗ thẹn việc ác đã làm và hỗ thẹn việc thiện chưa
làm được. Tàm quý là một loại tâm sở thiện trong các tâm sở. Đức Phật dạy: Có
hai pháp tịnh diệu thủ hộ thế gian. Thế nào là hai pháp ? Có tàm có quý. Này các Tỳ kheo, nếu không có
hai pháp này, thế gian sẽ không phân biệt, có cha, có mẹ, có anh, có em, có vợ,
chồng, con, tri thức, tôn trưởng, lớn nhỏ.v.v
Thật vậy, nguồn gốc sâu
xa của mọi tệ nạn xã hội là do con người đã đánh mất tính tàm quý, tức là không
còn biết hỗ thẹn với hành vi sai lầm của mình. Và một khi con người không biết
hỗ thẹn, thì có thể làm bất cứ điều ác nào mà họ không làm.
Người không biết tàm quý
sẽ không biết tự sữa mình, cứ nghĩ mình tốt, mình giỏi, mình là người trong
sạch.chỉ thấy lỗi người mà không thấy lỗi của mình, sẽ trở nên người bảo thủ,
không biết gạn đục khơi trong, cân nhắc, sữa đổi thân, khẩu, ý của mình, cứ đi
chỉ trích, moi móc lỗi người khác. Người như thế thì không được mọi người ưa
thích và kính mến, tôn trọng, không nhận được sự chia sẻ cảm thông từ người
khác. Đức tính tàm quý là một phương pháp ngăn chận hành vi sai lầm, đồng thời
nó cũng là một thứ trang phục đẹp nhất trong mọi trang phục. Muốn có đức tính
tàm quý phải có Văn, Tư, Tu.
Văn, Tư,Tu : “Văn” tức là học hỏi giáo lý, “Tư” tức suy
nghĩ thấu đáo nghĩa lý của kinh văn, và “Tu” là thực hành áp dụng những điều đã
được suy nghĩa thấu đáo đó vào đời sống. Nếu người chỉ có “ văn ” mà không có
“tư”, tức là không có suy nghĩ thấu đáo nghĩa lý ấy, cũng dễ rơi vào mê tín,
hiểu sai lệch ý nghĩa giáo điển của Phật. Còn nếu có “Văn ” có “Tư” mà không có “Tu” tức là không
có sự thực hành, thì không thể hiểu sâu và chứng nghiệm lời Phật dạy là đúng.
Thì mọi việc làm đều không đạt kết quả, cũng như có đi mà không đến đích.
Phải biết thực tập chánh niệm vào trong cuộc
sống hàng ngày.
Chánh niệm có hai: Chánh ức niệm và chánh
quán niệm.
a/ Chánh ức niệm : là nhớ
đến các điều lỗi lầm để thành tâm sám hối, và nghĩ nhớ đến tứ trọng ân : ân cha
mẹ, ân tổ quốc, ân chúng sanh, và ân Tam Bảo để lo báo đền.
b/ Chánh quán niệm : là
tâm từ bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, tật bệnh, mê mờ mà chúng sanh đang mắt
phải, để mở rộng lòng thương và quyết ra tay cứu độ.
Cũng theo Hòa Thượng Thiện Hoa : Bát Chánh đạo là 8 con đường ngay thẳng, hay
8 phương tiện mầu nhiệm, đưa chúng sanh đến đời sống chí diệu, và là con đường
chánh có 8 nhánh, để đưa chúng sanh đến địa vị Thánh.
Như vậy, Chánh niệm chính là một trong những
phương pháp hành trì của một hành giả Phật giáo, giúp vị này trở thành một bậc
Thánh.
Phật dạy : “ Dầu sống 100 năm thực hành ác giới, không
thiền định, tốt hơn sống một ngày mà có trì giới, có thiền định ”. Mỗi ngày ít
nhất để ra 30 phút vào mỗi buổi sáng, ngồi yên lặng, lắng tâm quay về với chính
mình, để quan sát dọn dẹp tâm, loại bỏ tâm nhiễm ô, vọng động, lao xao lo nghĩ
về công việc, về người thân, gia đình v.v ra khỏi đầu, cho tâm rảnh rang, thư
thái, giúp mình có một ngày mới, với sự định tĩnh, sáng suốt trong mọi tình
huống.
Tất cả chúng ta đều đang sống với tâm và
bằng tâm, tùy theo chất lượng của tâm mà chúng ta có đời sống như thế nào. Nếu
tâm nặng nề, hạn hẹp, ô nhiễm, thì cuộc đời chúng ta hằng ở cấp độ thấp, nhiều
khổ đau, lo âu, buồn giận còn nếu tâm nhẹ nhàng, rộng lớn, trong sáng, thì cuộc
đời của chúng ta ở cấp độ cao, có nhiều niềm vui và hạnh phúc. Thế nên, ta phải
hiểu biết, kinh nghiệm tâm ở chiều cao rộng của nó, đó chính là mục đích thật
sự của đời người.
Mỗi người tu tập đều có thể nâng cao bổn phận
và trách nhiệm của mình, tự trang nghiêm lấy mình, tức tự mình thanh cao trong
sạch, loại bỏ thói hư tật xấu. Từ đó đức tính thanh cao của mình sẽ lan tỏa từ
một người đến những người khác, đến những người chung quanh, và những tệ nạn,
tai nạn, những lo âu, buồn khổ, thị phi v.v sẽ giảm. Đó cũng là phương pháp
giúp giảm gánh nặng cho cho tâm trí mình, cho tập thể mình, cho gia đình và cho
xã hội.
Giới kinh nói : “ Hương của những loài hoa,
không bay ngược gió. Nhưng hương người đức hạnh, ngược gió tung bay ”. Vì vậy,
đối với những hành giả tu tập theo Phật học, phải cẩn trọng thân, khẩu, ý của
mình để có thể đóng góp chút nhỏ nhoi vào việc làm cho cuộc sống hằng ngày càng
tươi đẹp hơn./.
{]{
Ỷ VÀO UY QUYỀN
Một tay che cả bầu trời
Quyền uy rồi cũng hết
thời mà thôi
Mai sau gần đất xa trời
Mới hay cõi tạm mới là
trần gian
Linh hồn tội lỗi đã mang
Rơi vào địa ngục biết
đường nào ra
{]{
BUÔNG
GIẬN HỜN
Sống trên đời đừng có hận thù làm chi
Đừng bon chen quá mà làm gì cho khổ
Nụ cười kia mới là liều thuốc bổ
Xua ưu phiền và xóa sạch niềm đau
Sống ở đời ai biết được ngày sau
Ai biết trước phút giây mình tàn lụi
Cát bụi rồi cũng trở về cát bụi
Ai chẳng một lần trở lại cõi hư vô
Hãy vui lên mặc cuộc sống xô bồ
Hãy trân trọng nhau khi còn có thể
Hãy yêu nhau như ngày mai là ngày tận
thế,
Mất nhau rồi có khóc cũng để làm chi
Hãy đứng dậy và can đảm bước đi,
Khám phá biết bao chân trời đang
rộng mở
Trân trọng bản thân, nâng niu từng hơi
thở
Bởi mỗi bông hoa đâu có nở hai lần.
{]{
TIỀN CÓ THỂ MUA ĐƯỢC TẤT CẢ KHÔNG
Tiền có thể mua được ngôi nhà- Nhưng không thể mua được tổ ấm,
Tiền có thể mua được đồng hồ-
Nhưng không thể mua được thời gian,
Tiền có thể mua được chiếc giường- Nhưng không thể mua được giấc ngủ,
Tiền có thể mua được quyển sách - Nhưng không thể mua được kiến thức,
Tiền có thể mua được thuốc - Nhưng không thể mua được sức khỏe,
Tiền có thể mua được máu- Nhưng không thể mua được sự sống,
Tiền có thể mua được thể xác- Nhưng không thể mua được tình yêu,
Tiền có thể mua được nô bộc- Nhưng không thể mua được sự phục tùng
Tiền có thể mua được dự luận- Nhưng không thể mua được sự im lặng,
Bản chất của đồng tiền không tốt không xấu, chỉ do người sử dụng, nó trở
thành tốt xấu.
Đừng để bạn làm nô lệ đồng tiền, mà hãy làm chủ nó.
Nếu bạn nô lệ nó bạn mất tự do, nếu bạn muốn tự do, thì phải
biết làm chủ nó. Thế mà tiền là cái chi chi, bây giờ cả trên thế giới người ta
chỉ có tin đồng tiền.
{]{
QUÁN TÂM TRÊN TÂM
Quán tâm trên tâm là một
trong số các phương pháp Thiền quán đưa đến chứng đắc tâm giải thoát, tuệ giải
thoát được đề xuất trong kinh Niệm Xứ thuộc tạng Pali. Đó là tập trung nhìn vào
tâm, quan sát tâm, nhận rõ các diễn biến của dòng chảy tâm thức và thức tỉnh về
chúng. Chuyên tâm làm mỗi công việc như vậy gọi là sống quán tâm trên tâm.
Nghĩa là :
hành giả quán tâm trên tâm, với tâm có tham biết tâm có tham, với tâm
không tham biết tâm không tham. Với tâm có sân, biết tâm có sân, với không sân
biết tâm không sân. Với tâm có si biết tâm có si, với tâm không si biết tâm
không si. Với tâm tán loạn biết tâm tán loạn, với tâm không tán loạn biết tâm
không tán loạn. Với tâm không quảng đại biết tâm không quảng đại, với tâm quảng
đại biết tâm quảng đại. Tâm có định biết tâm có định, tâm không định biết tâm
không định. Tâm có giải thoát biết tâm có giải thoát, tâm không giải thoát biết
tâm không giải thoát v.v
Như vậy vị ấy sống quán tâm trên nội tâm, hay
sống quán tâm trên ngoại tâm; hay sống quán tánh sanh khởi trên tâm, hay sống
quán tánh diệt tận trên tâm, hay sống quán tánh sanh diệt trên tâm. “ Có tâm
đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy với hy vọng hướng đến chánh trí,
chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên
đời, như vậy là sống quán tâm trên tâm.
Tâm có tham tức là một âm thức sinh khởi gắn
liền với tham dục.
Tâm không tham nghĩa là
một tâm thức hiện khởi không đi kèm với tham dục.
Tâm có sân tức là một tâm
thức khởi lên gắn kết với sự giận dữ bực phiền.
Tâm không sân tức là một
tâm thức sinh khởi không có bóng dáng giận dữ đi kèm.
Tâm có định nghĩa là tâm
thức được tu tập trở nên định tĩnh, nhất tâm, không còn dao động, tán loạn.
Tâm không định tức là một
tâm thức tán loạn, không tập trung, không định tĩnh,
Tâm giải thoát nghĩa là
một tâm thức được tu tập tạm thời thoát khỏi các phiền não tham, sân, si ngay
trong sát na tu tập.
Tâm không giải thoát
nghĩa là tâm thức không thoát khỏi các phiền não tham, sân si.
Trước hết, tâm ở đây được hiểu là tâm hành hay
dòng chảy tâm thức, tức các trạng huống tâm thức khác nhau sinh khởi và đoạn
diệt trong đời sống hàng ngày gắn liền với các hoạt động của thân ngũ uẩn.
Chúng là các tâm sở thiện hoặc bất thiện phát sinh do duyên sáu căn tiếp xúc với
sáu trần, có tu tập hay không tu tập, có công năng dẫn dắt tâm thức chuyển vận
theo hướng này hay hướng khác tùy thuộc vào phẩm chất và diễn biến của chúng.
Mặc dầu chúng có những tác động tích cực hoặc tiêu cực lên đời sống con người,
các tâm sở này chỉ là pháp hữu vi, sinh khởi và đoạn diệt do nhân duyên, chuyển
biến vô thường, không phải của con người, không ảnh hưởng gì đến tâm giải thoát
tối hậu, vốn tự chói sáng, không sanh diệt, không tịnh nhiễm; vì vậy chúng được
sử dụng làm đối tượng tu tập, giúp cho người thực hành quán niệm thấy được lý
vô thường sanh diệt của danh sắc hay ngũ uẩn, đạt đến chánh trí và chánh giải
thoát, thể hiện nếp sống “không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên
đời”. Nói cách khác, mục đích của phương pháp quán tâm trên tâm là nhằm thấy rõ
tính chất duyên sanh, vô thường, vô ngã của các biểu hiện tâm thức, chúng chỉ
là các hiện tượng chuyển biến sanh diệt, không phải là cái gì thường hằng,
thường trụ, có thực, đáng được xem là ngã hay đồng hóa chúng là “tôi” và “của
tôi”.
Đức Phật nói về tâm như sau : “Thân do bốn đại
tạo thành này được đứng vững một năm,
hai năm, mươi năm, 20, 30, 40 đứng
vững 100 năm hay nhiều năm hơn nữa”. Còn cái gọi là tâm này, là ý này, là thức
này, cả đêm và ngày khởi lên là khác, là diệt đi là khác. Ví như một con khỉ trong khi đi lại trong
rừng, năm lấy một cành cây, bỏ nhành cây ấy xuống, nó nắm giữ một cành khác.
Cũng vậy, cái gọi là tâm, là ý, là thấy cả đêm và ngày, khởi lên là khác, diệt
đi là khác.
Kinh pháp cú xác nhận “
Khó
nắm giữ, khinh động
Theo các dục vọng quay cuồng
Lành thay, điều phục tâm
Tâm điều, an lạc đến
Quán tâm trên tâm là tập
trung nhận diện và làm việc với các trạng huống khác nhau của tâm. Làm như thế
nào thì Kinh Niệm Xứ đã nói rõ, nghĩa là tâm có tham biết rõ là tâm có tham, tâm không tham biết rõ là
tâm không tham tâm giải thoát biết rõ tâm giải thoát, tâm không giải thoát biết
rõ tâm không giải thoát. Tập trung nhìn vào tâm và thấy tường tận các diễn biến
khác nhau của tâm mà không khởi niệm phân biệt, không tư lương phán xét, không
thuận ứng nghịch, không uốn nén chúng theo cách này hay cách khác thì gọi là
quán tâm trên tâm, tức chú tâm thấy biết như thật sự sanh diệt, vô thường, vô
ngã của dòng chảy tâm thức nhằm dứt bỏ tập quán tham ái và chấp thủ đối với
danh sắc, thực chứng tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Đây là hệ quả tất yếu của
pháp môn quán niệm lâu ngày đạt đến thuần thục, tức sự thể hiện tâm giải thoát,
“không nương tựa, không chấp trước một thứ gì trên đời”, do chứng nghiệm bản
chất duyên sanh, vô thường, hư huyễn, không thực thể của tâm hay của mọi sự vật
và hiện tượng. Trong kinh Phật dùng các
hình ảnh bong bóng nước, ráng mặt trời, cây chuối không lõi, trò ảo
thuật để nói lên tính chất hư huyễn, trống không, không thực thể của các hiện
tượng tâm thức một khi quán sát kỷ. Quán sát các diễn biến của tâm với kết quả
tâm đi đến ly tham, giải thoát, không nương nấu, không bám víu vào bất cứ ý
niệm nào thì được xem là thành tựu pháp môn quán tâm trên tâm, cũng được gọi là đã điều phục được tâm, không phải
bị tâm điều phục.
Như vậy, nhờ thực tập pháp môn quán tâm trên
tâm, mà hành giả có thể chứng đắc tâm giải thoát, tuệ giải thoát, đoạn tận các
lậu hoặc, chấm dứt khổ đau sanh tử luân hồi, xứng đáng là một hành giả tu tập
có chánh trí, chánh giải thoát.
Trích : Quán tâm trên
tâm : Nguyên Thanh VHPG số 306-
1-10-2018
{]{
NĂM THIỀN CHI
Trong khi thực hành thiền
định, hành giả bắt đầu điều phục thân và điều phục tâm. Lúc này, tâm bắt đầu đi
vào trạng thái thiền định dẫn từ cạn đến sâu qua năm cấp độ gọi là năm thiền
chi, đó là : tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Năm tâm sở này là những yếu tố của
các tâm thiền sắc giới giúp chế ngự năm triền cái. Năm thiền chi có mặt trong
các tầng thiền. Ở sơ thiền, ly dục, ly các bất thiện pháp, một trạng thái hỷ
lạc do ly dục sanh có tầm có tứ. Qua nhị thiền, từ bỏ tầm và tứ còn lại hỷ và
lạc. Ở tam thiền, do ly hỷ trú xả, thân cảm sự lạc thọ gọi là xả niệm lạc trú.
Ơ tứ thiền, tâm hành giả có thể đi thẳng vào định không cần qua tầm, tứ, hỷ,
lạc chỉ còn chi thiền nhất tâm.
Trong thuật ngữ Pali, danh từ và động từ của
nó có ý nghĩa gốc rễ là :
1/ Để suy nghiệm, thiền định. 2/ để tìm kiếm. 3/để đốt cháy. Những thiền
chi được gọi như vậy vì chúng tham dự chặt chẽ với đối tượng của tâm, và vì
chúng đốt cháy những trạng thái của tâm không có lợi cho sự tập trung để đi vào
thiền định. Trong các tác phẩm luận giải Phật học, mỗi nhân tố thiền chi sẽ chế
ngự được một triền cái cụ thể. Ý nghĩa của một thiền chi được trình bày như sau
:
Tầm (vitakka): có nghĩa là “tư duy”
thường xuất hiện trong kinh cùng với một chữ khác là vicara (tứ) với nghĩa là “di chuyển ”. Hai từ này đi chung biểu thị
hai phương diện có liên hệ với nhau nhưng khác loại của tiến trình tâm. Vitakka
được dịch là “tầm” hoặc đơn giản là “tư
duy”, còn vicara là “tứ”. Thuật ngữ takka có nghĩa đen là “suy nghĩ”, tiền tố
“vi” cung cấp cho một cảm giác mạnh, vì vậy vitakka có nghĩa là suy nghĩ rõ rệt
hoặc quyết định.
Tầm là tâm sở có phận sự đánh thức tâm chú
hướng đến đề mục thiền định. Giống như con bướm tìm thấy một bông hoa và hăng
hái bay về hướng đó. Nhưng tâm cứ bỏ rơi đối tượng do trầm trệ, giải đãi, giống
như con bướm chưa tới được cành hoa đã lười biếng bỏ cuộc, tức là tầm chưa đủ
tinh cần nổ lực để vượt qua trạng thái buông xuôi tiêu cực. Do vậy khi tầm có
đủ lực nhất hướng đến đối tượng thì hôn trầm- thụy miên bị chế ngự.
Tứ (vicara) : Từ vicara thường có nghĩa là kiểm tra. Nhưng ở đây nó biểu
thị sự áp dụng bền vững của tâm đối với sự vật. Trong khi tầm là sự chỉ đạo của
tâm và các tâm sở của nó trên các đối tượng, thì tứ là sự tiếp tục thi hành
nhiệm vụ của tâm trên đối tượng. Tứ là tâm sở có phận sự giữ tâm đứng vững trên
đề mục thiền định. Giống như khi con bướm đã bay đến đóa hoa liền tìm cách giữ
thăng bằng để đậu lại trên đóa hoa đó. Nhưng nếu tâm chưa đứng yên trên đối
tượng do còn lưỡng lự bất quyết, giống như con bướm tuy đã đậu xuống mà vẫn
chưa bám chắc lại hẳn nên còn chớp chớp đôi cánh chực bay, tức là tứ chưa vững
để dừng lại trên đề mục. Nhưng khi tứ đã vững thì không còn trạng thái phân vân
do dự nữa.
Các bản chú giải, giải thích rất kỹ những dị
biệt giữa tầm và tứ bằng cách mô tả tầm như sự xúc chạm đầu tiên của tâm trên
đối tượng, tức giai đoạn thô và khởi đầu của tư duy cũng như đánh lên một tiếng
chuông, trong khi tứ như hành vi neo tâm trên đối tượng, giai đoạn tạo sức ép
liên tục và vi tế hơn này có thể ví như tiếng ngân của chuông. Luân sư Phật Âm
đưa ra năm hình ảnh để minh họa cho sự tương quan giữ tầm và tứ.
1/ Tầm ví như sự chuyển
động của con chim khi vỗ cánh bay vào hư không, tứ như sự di chuyển của nó qua
hư không một cách thung dung, uyển chuyển với đôi cánh dang rộng.
2/ Tầm có thể được so
sánh với việc bay đến đóa hoa của con ong, tứ như khi nó bay vo ve quanh đóa
hoa ấy.
3/ Tầm giống như bàn tay
nắm chắc một cái đĩa kim loại hoen ố cần phải chùi bóng, tứ như tay kia chà đĩa
với một miếng giẻ tẩm dầu và bột.
4/ Tầm như bàn tay nâng
của người thợ gốm khi anh ta đang làm một cái bình, tứ như tay kia nắn tới nắn
lui.
5/ Tầm như mũi kim của
chiếc compa cắm chắc vào giữa khi người
ta muốn vẽ một vòng tròn, tứ như mũi kim xoay chung quanh.
Những ví dụ này cho ta thấy rõ, rằng mặc dù
thường đi chung với nhau, tầm và tứ vẫn thực hiện những công việc khác nhau.
Tầm hưởng được một quyền ưu tiên hơn tứ về chức năng. Tầm đem tâm đến đối
tượng, tứ gắn chặt và neo chắc nó ở đấy. Tầm tập trung tâm trên đối tượng, tứ
xem xét và khảo sát kỹ những gì được tập trung vào đó. Tầm đem lại một sự sâu
lắng của định nhờ thường xuyên đưa tâm trở lại với cùng đối tượng, tứ duy trì
sự định tâm đã thành tựu bằng cách giữ cho tâm neo chắc trên đối tượng đó.
Trong sự liên hợp này, tầm-tứ là hai yếu tố cho sự thành tựu và ổn định của sơ
thiền.
Hỷ (piti) Chi thiền thứ ba có mặt trong sơ thiền là hỷ. Trong kinh, đôi khi hỷ
được nói là khởi sanh từ một yếu tố khác theo thứ tự liên hệ gọi là (hân hoan).
Một trạng thái xuất hiện cùng với sự đoạn trừ năm triền cái. Khi hành giả quán
xét thấy năm triền cái đã được từ bỏ trong tự thân, “hân hoan sẽ khởi lên trong
vị ấy; nhờ hân hoan như vậy, hỷ sẽ sanh, và khi có hỷ, thân vị ấy trở nên khinh
an”.
Nó giống như khi con bướm đang hứng thú
thưởng thức mật hoa; nhưng nếu tâm chưa phát sanh hỷ do còn căng thẳng hay cố
gắng quá mức, giống như con bướm chưa hút được mật nên chưa vừa ý. Khi tâm đã
tìm thấy sự thích thú hoan hỷ trên đề mục thiền định thì sân mới được chế ngự.
Lạc (sukha) : Thiền chi kế tiếp là sukha- lạc. Chữ Sukha được dùng như một
danh từ với nghĩa “lạc”, “dễ chịu”, “hạnh phúc” hay sự “hài lòng”, và vừa như
một tĩnh từ với nghĩa “trạng thái an
lạc”, “trạng thái dễ chịu”. Như một thiền chi của sơ thiền, lạc biểu thị cảm
giác dễ chịu. Từ sukha được định nghĩa chính xác theo nghĩa này trong phân phân
tích về sơ thiền của bộ Phân tích: “Ở đây, thế nào là lạc, Sự sảng khoái về tâm, sự dễ chịu thuộc về
tâm, cảm giác sảng khoái và dễ chịu do tâm xúc sanh, trạng thái cảm thọ sảng
khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Đây gọi là lạc”. Là tâm sở có trạng thái bình
yên, an ổn và thỏa mãn trên đề mục thiền định, giống như con bướm đã hút mật
đầy đủ, không còn bồn chồn lo lắng hay tìm kiếm lăng xăng nữa, vì thế lạc chế
ngự được trạo hối.
Nhất tâm (ekaggata) hay định, là trạng thái an chỉ, bất động trên đề mục, giống
như con bướm đã no đủ nằm yên ngơi nghỉ trên đóa hoa, không ham muốn gì nữa,
nhờ vậy tham dục được chế ngự.
Là một thiền chi, nhất tâm luôn luôn hướng
đến một đối tượng thiện. Nó làm công
việc ngăn ngừa những ảnh hưởng bất thiện, đặc biệt là dục tham triền cái. Khi
các triền cái vắng mặt, nhất tâm tích tụ một sức mạnh đặc biệt trong bậc thiền
dựa trên nổ lực tập trung đã được duy trì trước đó. Như vậy, mỗi thiền chi có
chức năng và nhiệm vụ để chế ngự và đoạn trừ mỗi triền cái tiêu biểu. Tầm chế
ngự và đoạn trừ hôn trầm-thụy miên; tứ đoạn trừ nghi; hỷ đoạn trừ sân; lạc đoạn
trừ trạo hối; và nhất tâm đoạn trừ tham dục. Nói như thế không có nghĩa là mỗi
thiền chi chỉ duy nhất đoạn trừ mỗi triền cái tương ứng. Ngoài chức năng và
nhiệm vụ chính thì chúng còn có sự hỗ trợ nhau trong việc đoạn trừ năm triền
cái.
Bên cạnh chức năng và nhiệm vụ chính, các
thiền chi cũng cùng làm nhân làm duyên để hỗ trợ nhau trong việc đoạn trừ năm
triền cái. Nhiệm vụ tạo ổn định của nó được tăng cường nhờ sự cộng tác của các
thiền chi khác- tức nhờ “tầm” nhấn tâm vào đối tượng, nhờ “tứ” giữ cho nó neo
chắc vào ở đó, nhờ “hỷ” và “lạc” kích thích sự thích thú và thỏa mãn của nó
trong đối tượng. Bởi vì nhất tâm trong thiền hướng dẫn các yếu tố khác đến công
việc hợp nhất này nên nó được gọi là “định căn”. Bởi vì nó duy trì một sức mạnh
ổn định khiến các ảnh hưởng phân tán khác không dễ gì vượt qua được nó gọi là
“định lực”. Nó đưa tâm đến trạng thái tịnh chỉ, giúp hoàn thiện các căn khác,
đồng thời tác thành như một nền tảng cho tuệ giải thoát.
Khi hành giả tinh tấn hướng tâm tiếp cận đối
tượng, không quá cố gắng, cũng không lơ là, chỉ cần vừa đủ để tâm vượt qua
trạng thái hôn trầm thụy miên, không còn lười biếng giải đãi thì có thể chú
hướng vững vàng về phía đối tượng ấy, đó là trạng thái tầm. Khi đã không còn
lười biếng bỏ rơi đối tượng, tâm bắt đầu tìm cách áp sát trên đối tượng, tâm
hành giả đã lấy lại được thăng bằng, không nghi hoặc, không phân vân do dự nữa,
đó là trạng thái tứ. Nhờ tâm thăng bằng, không nghi hoặc đã cảm giác được sự
vui thích, hứng thú trên đối tượng, không còn bực bội, chán nản hay sân hận
nữa, đó là trạng thái hỷ. Sự hoan hỷ, phân khởi này lắng dịu dần, để lại một sự
bình an, tĩnh lặng, không còn một gợn sóng dao động bất an, đó là trạng thái
lạc của thiền. Đến đây tâm đã có thể an trú, tĩnh chỉ, nhất tâm và hoàn toàn
quân bình (xả), không còn khởi lên một tham muốn nào đối với ngũ dục. Đó là trạng thái nhất tâm
hay an chỉ định. Với những trải nghiệm trên, hành giả đã chứng sơ thiền sắc
giới, tâm vị ấy có đủ năm thiền chi : tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm.
Không có chi phần nào trong số này tách riêng
khỏi nhóm mà có thể tạo thành sơ thiền. Muốn cho thiền sanh, cả năm chi phải
cùng có mặt và tác thành những nhiệm vụ đặc biệt của chúng trong bậc thiền như
diệt trừ các triền cái đối nghịch với tự thân chúng và đem tâm vào an trú trong
đối tượng. Năm hiện tượng tâm lý hay năm danh pháp chỉ được gọi là năm thiền
chi nhờ vào những nhiệm vụ đặc biệt này. Chẳng hạn, tầm bình thường, nếu không
phản công hôn trầm-thụy miên, không phải là một thiền chi. Hôn trầm-thụy miên
và tầm, mặc dù có thể cùng tồn tại trong nhiều trạng thái tâm bình thường,
nhưng khi tầm được phát triển để hướng đến một thiền chứng, nó trục xuất và
loại trừ hôn trầm-thụy miên triền cái. Do đó, tầm trong thiền chi có một tầm cỡ
cao hơn và một nhiệm vụ chuyên biệt hỗ trợ cho định. Tương tự, đối với hoài
nghi và tứ. Tứ dù vẫn có thể hiện trong tâm lúc đang trong trạng thái hoài
nghi, song bao lâu nghi còn có mặt, tứ không thể thành một thiền chi. Khi tứ
được định hướng đến thiền, lúc đó nó đóng cửa không cho hoài nghi vào. Đối với
các chi phần khác cũng áp dụng như vậy. Khi tâm còn bị ám ảnh bởi các triền
cái, dầu cho hỷ, lạc và nhất tâm có thể trở nên mạnh đến thế nào chăng nữa,
chúng cũng không tạo thành sơ thiền cho đến khi các triền cái được trừ diệt.
Để cho một trạng thái tâm có được tính chất
như một tâm sơ thiền, năm thiền chi không những phải có khả năng ngăn chận và
bít năm triền cái, mà chúng còn phải có thể
nhất tâm vào đối tượng với cường độ của sự tập trung toàn triệt. Nếu các
thiền chi chỉ có mặt một phần, nếu tất cả đều có mặt nhưng không đủ sức mạnh để
loại trừ triền cái, nếu chúng có thể loại trừ các triền cái nhưng không có khả
năng đem tâm vào an trú, tâm ấy không phải là tâm sơ thiền. Song, nếu chúng
khởi lên cùng nhau và thực hiện những nhiệm vụ riêng của chúng trong việc tạo
ra an chỉ, sơ thiền sẽ khởi lên viên mãn với năm chi phần của nó.
Như vậy, năn thiền chi là năm tâm sở vô cùng
cần thiết nhằm đoạn trừ năm triền cái để đi vào các tầng thiền. Năm yếu tố này
thôi thúc tâm chú hướng, kích thích và
dần dần an trú trên đối tượng để đi vào các trạng thái định sâu hơn. Năm
thiền chi như năm cây nêm, nêm vào khúc gỗ để tống năm cái ngạt nằm trong khúc
gỗ. Nếu không nhờ cây nêm thì năm cái ngạt sẽ nằm yên trong khúc gỗ mà người
thợ mộc khó lấy ra được. Đây được gọi là phương pháp thay thế loại trừ. Dùng
các thiện pháp để loại trừ các bất thiện pháp trong tâm. Ở đây, cần phải có sự
hỗ trợ của chi phần tinh tấn. Khi các thiện pháp đủ mạnh thì đánh bật các bất
thiện pháp một cách hoàn toàn. Năm triền chi là phương thuốc đặc trị năm triền
cái. Không thể có một pháp nào khác hơn, hữu hiệu hơn để loại trừ năm chướng
ngại này. Thành ra, thiền giả khi hành thiền dùng năm thiền chi đúng pháp, thì
việc hành thiền sẽ có kết quả tốt đẹp ./.
Trích : Năm thiền chi : Thích Trung Định- VHPG số 306- 1-10-2018
{]{
THỰC HÀNH CHÁNH NIỆM
Cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, các học giả
phương Tây, thuộc các quốc gia Đức, Nga, Anh, Pháp, đã sớm tiếp cận giáo lý đạo
Phật, họ sớm nhận biết đây là lối sống
hiền thiện. Sống theo phương pháp Phật dạy là thực tập lối sống hiền thiện dựa
trên tình thương và trí tuệ, có khả năng mang lại cuộc sống hài hòa giữa con
người với con người, cũng như giữa người với các sinh vật khác và thiên nhiên,
góp phần làm dịu sự khủng hoảng về niềm
tin tâm linh đang gây nên những khổ đau cho con người phương Tây lúc bấy giờ. Nhưng do lòng tự tôn dân tộc và quan niệm cho
rằng người phương Tây vẫn văn minh hơn, nên những sự cố gắng của các học giả
tiên phong chưa có kết quả rõ rệt. Sau hai cuộc thế chiến và những cuộc chiến
tranh cục bộ ở thế kỷ 20. Nhiều người châu Á sang cư ngụ ở châu Âu và châu Mỹ,
trong số họ có nhiều học giả Phật giáo sinh hoạt trong các khu vực dân cư Âu
Mỹ, đã dần làm thay đổi cách nhìn của người phương Tây đối với Phật giáo. Tiếp
đến việc những người Tây Tạng lưu vong di cư hầu khắp thế giới phương Tây, và
sự tích cực giao tiếp với các nhà khoa học phương Tây của vị Đạt Lai lạt ma thứ
14, đã truyền cảm hứng để các nhà khoa học nghiên cứu Phật giáo và các kỷ thuật
hành trì Phật giáo một cách nghiêm túc.
Trong các kỷ thuật hành trì Phật giáo được
người phương Tây đánh giá cao nhất là Chánh niệm. Chánh niệm là một chi phần trong Bát Chánh
đạo, thuộc Đạo đế của nhà Phật. Theo Phật Học Phổ Thông của Hòa Thượng Thích
Thiện Hoa, giải thích Chánh niệm là : “ ghi nhớ đến những điều hay lẽ phải,
những điều lợi lạc cho mình và cho người, những đạo lý chân chính, quý trọng
cao siêu ”. Ngài phân tích Chánh niệm có
hai phần :
a/ Chánh ức niệm : là nhớ đến các điều lỗi lầm
để thành tâm sám hối, và nghĩ nhớ đến tứ trọng ân : ân cha mẹ, ân tổ quốc, ân
chúng sanh, và ân Tam Bảo để lo báo đền.
b/ Chánh quán niệm : là
tâm từ bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, tật bệnh, mê mờ mà chúng sanh đang mắt
phải, để mở rộng lòng thương và quyết ra tay cứu độ.
Cũng theo Hòa Thượng Thiện Hoa : Bát Chánh đạo là 8 con đường ngay thẳng, hay
8 phương tiện mầu nhiệm, đưa chúng sanh đến đời sống chí diệu, và là con đường
chánh có 8 nhánh, để đưa chúng sanh đến địa vị Thánh.
Như vậy, Chánh niệm chính là một trong những
phương pháp hành trì của một hành giả Phật giáo, giúp vị này trở thành một bậc
Thánh, một lãnh vực hoàn toàn tôn giáo.
Thế nhưng gần đây, trong một báo cáo của Nhóm
các Nghị sĩ Liên đảng thuộc Nghị viện Anh bảo trợ Chánh niệm, trình bày trước
Nghị viện Anh vào tháng 10-2015, các vị này đưa ra kiến nghị về việc đưa Chánh
niệm vào ứng dụng trong 4 lãnh vực hoạt động của xã hội Anh gồm : Sức khỏe,
Giáo dục, Lao động và hệ thống Tư pháp hình sự.
Trong phần kiến nghị về Giáo dục, nhóm các nghị sĩ này đã yêu cầu hai
điểm: Thứ nhất, bộ giáo dục Anh nên chỉ định trước hết ba cơ sở huấn luyện giáo
viên cao cấp đi tiên phong trong việc giảng dạy về chánh niệm. Phối hợp và
triển khai các cải cách, kiểm chứng những mô hình có khả năng nhân rộng và khả
năng chuyển đổi quy mô hoạt động, sau đó phổ biến những ứng dụng thực tế tốt
nhất. Thứ hai : Căn cứ vào sự quan tâm của bộ giáo dục về cá tính và sự bền bỉ (của
những người được giáo dục). Đề nghị một ngân khoản một triệu bảng Anh hằng năm
cho những cơ sở huấn luyện có thể dự thầu để có chi phí cho việc huấn luyện
giáo viên trong lãnh vực chánh niệm.
Qua báo cáo này, người ta có thể thấy Chánh
niệm đã bước đầu được người Anh chấp nhận như một kỷ thuật không mang tính cách
tôn giáo để góp phần vào việc giáo dục con người của vương quốc Anh.
Bài này nhằm tìm hiểu Chánh niệm có tác dụng
gì đối với việc trồng người và đã được
phương Tây chấp nhận như thế nào, sau đó với tính cách một dân tộc đã
hơn 2000 năm theo Phật giáo, và cũng để xét đến trường hợp xã hội Việt Nam và
học đường Việt Nam, nghĩ gì về cách tiếp cận Chánh niệm của đạo Phật hiện nay,
để ứng dụng cho bản thân mình, cho gia đình và xã hội đem lại đời sống thật sự
hạnh phúc an lạc bền lâu.
Trước hết ta phải biết Niệm và Chánh niệm là
gì Thuật ngữ Pali gọi là Sati và Samma-Sati, là một phẩm chất của tâm được nhắc
đến nhiều trong 37 phẩm trợ đạo. Niệm- tức là Sati trong ngôn ngữ Pali, có
nhiều nghĩa gồm cả : nghĩ đến, nhớ đến, tưởng đến, ghi nhận, chú tâm, nhưng
nghĩa của Niệm gần với ghi nhận và chú
tâm hơn. Chánh niệm tức Samma-Sati, được
hiểu là sự nhớ nghĩ chơn chánh, nhớ nghĩ những gì liên quan đến con đường tới
đạo giải thoát.
Chính vì niệm có vai trò rất quan trọng nên
niệm xứ đã được xem là trái tim của thiền định Phật giáo. Trong kinh điển Nguyên thủy, Chánh niệm được
gắn liền với Niệm xứ. Kinh Niệm xứ thuộc Trung bộ kinh định nghĩa như sau : “
Này các Tỳ kheo, đây là con đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh,
vượt qua khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết
bàn. Đó là Bốn niệm xứ.”
Thế nào là Bốn ? “ Này các Tỳ kheo, ở đây Tỳ
kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham
ưu ở đời. Sống quán thọ trên thọ, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự
tham ưu ở đời. Sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế
ngự tham ưu ở đời. Sống quán pháp trên pháp, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để
chế ngự tham ưu ở đời.
Định nghĩa này luôn được các học giả Tây
phương tôn trọng, và các nhà khoa học cộng tác với ngài Đạt Lai Lạt ma trong
viện Tâm linh và Đời sống, đã có những cố gắng tìm hiểu sâu hơn về những kết quả thiền định tác động lên não bộ của
người hành thiền, và đi đến kết luận rằng, người ta có thể coi Chánh niệm như
một quà tặng mà con người có sẵn, chỉ cần thực hành theo đúng hướng dẫn của Đức
Phật, để đạt tới trạng thái tỉnh thức cho tâm, từ đó mang lại an lạc cho thân.
Một trong những người có nhiều nổ lực nghiên cứu về lãnh vực Chánh niệm này là
Jon Kabat-Zinn và ông đã đạt tới những kết quả có thể xác định được.
Jon Kabat-Zinn là
người nổ lực du nhập Chánh niệm vào phương Tây . Kabat-Zin là người Mỹ gốc Do Thái,
từ năm 1970, ông bắt đầu tìm hiểu về thiền Phật giáo, lần lượt học hỏi qua các
Ngài Philip Kepleau (Hoa Kỳ), Thích Nhất Hạnh (Việt Nam) và Seungsanhn (Hàn
quốc). Năm 1979 ông thành lập Dưỡng đường Giảm căng thẳng (Stress-Reduction
Clinic) tại trường y khao Viện Đại Học Massachusetts. Tại đây ông ứng dụng giáo
lý chánh niệm của Phật giáo vào việc xây dựng một chương trình Giảm căng thẳng
và Thư giản. Tiếp theo sau đó cũng tại trường y khao Viện Đại Học
Massachusetts, ông lại thành lập Trung tâm ứng dụng Chánh niệm trong y khoa
Chăm sóc sức khỏe và xã hội. Mục đích là hướng dẫn các bệnh nhân cách thích ứng
với những căng thẳng đau đớn, bệnh tật bằng cách sử dụng đều được gọi là “ Nhận thức trong từng khoảnh
khắc ”. Phương pháp do ông đề nghị có những thành công nhất định và đã lan tỏa
trên hầu khắp thế giới phương Tây. Nhiều nơi tổ chức các trung tâm giảm căng
thẳng dựa trên Chánh niệm theo mô hình của ông. Giới khoa học từng bước đặt ra
những biện pháp đánh giá và đo đạc để kiểm chứng các kết quả cho các trung tâm
như vậy đã đạt được. Một số cơ quan chính phủ Hoa Kỳ đã ứng dụng phương pháp
của Kabat-Zinn để giúp nhân viên của họ giảm áp lực công việc và tăng năng
suất.
Đầu thế kỷ 19. Kabat-Zinn được Nghị viện Anh mời đến điều trần về sự
kiện liên quan đến Chánh niệm. Một nhóm các Nghị sĩ Liên đảng thuộc nghị viện
Anh, đã được quy tụ để bảo trợ cho việc triển khai các hoạt động liên quan đến
Chánh niệm trên quy nô cả nước. Để thuyết phục đại chúng Kabat-Zinn khẳng định
rằng : “ Chánh niệm là một lối sống dựa
trên mối quan hệ sáng suốt và có chủ đích với những kinh nghiệm của chính mình,
cả ở nội tâm lẫn ngoại cảnh. Lối sống này, có thể được tu dưỡng bằng cách rèn
luyện có hệ thống các khả năng của con người về việc chú tâm có chủ đích vào
khoảnh khắc hiện tại và không có phê phán, bằng việc học để sử dụng được và
sống trong sự trong sáng, sự nhận thức sâu sắc, sự hiểu biết về đạo đức cũng
như sự tỉnh giác xuất hiện từ việc tận dụng những nguồn năng lực nội tại bẩm
sinh sâu xa nhất của chính con người. Kết quả của sự tu dưỡng đó giúp con người
học tập, tăng trưởng, chuyển hóa, là những phẩm chất có sẵn cho tất cả chúng ta
trong suốt quảng thời gian sống còn của ta vì ta là con người. Về bản chất,
Chánh niệm hướng tới sự chú tâm tỉnh giác, trạng thái có quan hệ, và sự thận
trọng, chính là khả năng phổ quát của con người, chẳng khác gì khả năng tiếp
thu ngôn ngữ của chúng ta. Mặc dù việc trình bày rõ ràng mạch lạc đầy đủ và có
hệ thống nhất về Chánh niệm cùng những thuộc tính của biện pháp này xuất phát
từ truyền thống Phật giáo, Chánh niệm không hề là một tài liệu hỏi đáp về tôn
giáo, một ý thức hệ, một hệ thống niềm tin, một kỷ thuật hay một tập hợp những
kỷ thuật một tôn giáo hay một nền triết học.
Chánh niệm có thể được mô tả đúng nhất như
là một lối sống, có nhiều đường lối khác nhau để nuôi dưỡng Chánh niệm một cách
khôn ngoan và hiệu quả thông qua việc thực hành. Các trung tâm hướng dẫn về
Chánh niệm đã trở thành một hoạt động có tiêu chuẩn và được nhiêu nơi công nhận và thực hiện.
Thiền Chánh niệm theo phương pháp của Kabat-Zinn đã có mặt hầu như tất các bang
nước Mỹ và ở trên 30 quốc gia khác.
Chánh niệm từng bước
giành được vai trò chính thống ở phương Tây: Chương trình dạy khóa thực tập thiền chánh niệm trong
các khóa, ngoài ra con có khóa hàm thụ trực tuyến và các lớp trên tivi nữa. Trung tâm Y học và giáo dục tỉnh giác thuộc
trường đại học y Massachusetts được xem là cơ sở lớn nhất và lâu đời nhất ở Mỹ
trong lãnh vực quảng bá, giáo dục và điều trị bằng phương pháp Chánh niệm. Đến
nay đã có hàng chục ngàn người đã được hưởng lợi từ chương trình huấn luyện và
điều trị này. Kết quả cho thấy phương pháp chánh niệm giúp điều trị những bệnh
về tim mạch, các chứng đau nhức mãn tính, rối loạn chức năng, dạ dày, ruột,
chứng đau nữa đầu, cao huyết áp, mất ngủ, âu lo, hoảng loạn.
Chánh niệm đang phát ở quy mô tầm quốc tế.
Chánh niệm đã được áp dụng vào các lãnh vực y học, giáo dục và còn được thực
hành chánh niệm trong tổ chức ở quốc hội
Mỹ nữa.
Chánh niệm trong học
đường Anh. Chánh
niệm đang ngày càng được áp dụng trong hầu hết các trường học ở nước Anh như là
một phương pháp để cải thiện sức khỏe và nâng cao thành tích học tập của học
sinh. Mặc dù có nguồn gốc truyền thống từ Phật giáo, nhưng tính phổ biến của
Chánh niệm trong các lớp học và nơi làm việc đã được lan tỏa ngày một nhiều và
đa dạng tại xứ sở sương mù này..
Vào tháng 12 năm 2013, Nghị viện Anh đã tổ
chức một cuộc thảo luận về việc áp dụng
chánh niệm trong đời sống của người Anh. Về lợi ích của chánh niệm trong lãnh
vực giáo dục, một nghị sĩ đã phát biểu: “ Chánh niệm có thể cung cấp những chỉ
dẫn thực tiễn giúp mang lại một nền giáo dục ưu tú. Tình trạng khủng hoảng về
sự chú tâm có thể được cải thiện nhờ chánh niệm. Chánh niệm đang được đào tạo
để có được sự tập trung và sự tự nhận thức, đã chứng tỏ là các yếu tố nâng đỡ
cho thành tích cao và tình trạng sức khỏe tâm thần tốt đẹp. Chánh niệm là một
hình thái đào tạo tâm thức nhằm phát triển sự chú ý bền vững. Việc đào tạo về
chánh niệm liên quan đến việc nuôi dưỡng khả năng dự phần vào bất kỳ điều gì
đang diễn ra theo những cách có chủ đích và giữ được sự quân bình. Đó là khả
năng hiện diện trong thời khắc hiện tại,
không bị truy đuổi bởi quá khứ hay lo lắng về tương lai khiến ta không thể tập
trung vào hiện tại. Chánh niệm nhắm vào việc sống trong khoảnh khắc hiện tại và
giải phóng tâm thức khỏi khuôn mẫu tư duy quen thuộc dẫn đến lo lắng, trầm uất,
chánh niệm cũng mang lại khả năng giúp ta có những phản ứng sáng tạo hơn và đầy
trực giác trước những thách thức mới. Xét về khả năng có mặt tại trung tâm sự
chú ý trong mọi chức năng tâm thức, hình thức đào tạo ấy có những tiềm năng
đáng kể cho sức khỏe tâm thần và thể chất, cho sự tự điều chỉnh và cho giáo
dục.
Nói chung, người Anh cũng đã được thuyết phục
về lợi ích của chánh niệm trong trường học, và trên thực tế, “ Chánh niệm đang
được sử dụng trong các các trường Trung tiểu học, cao đẳng và Đại học, để giúp
trẻ em, các sinh viên và ban giảng huấn cải thiện sức tập trung, sự chú ý, bản
lĩnh giải quyết xung đột và khả năng thấu cảm của họ ”. Tuy nhiên, cũng nên ghi
nhận rằng đa phần những trường hợp đang áp dụng học hành chánh niệm ở Anh vẫn
là các trường tư. Cũng theo trang mạng này, một số tổ chức giáo dục liên quan
đến chánh niệm đang hoạt động trên Vương quốc Anh có thể kể đến gồm : Cung cấp
tài liệu cho các trường học phù hợp với Chương trình sức khỏe Học đường Quốc
gia. Nhóm này sử dụng giáo trình riêng do họ tự soạn với khẩu hiệu “ Dừng lại !
Thở ! Đang là ! ”.
Một giáo trình gồm 16 bài học nhập môn về
chánh niệm cho học sinh từ 7 đến 11 tuổi gồm các trò chơi, những băng ghi hình
hướng dẫn và những hoạt động vận động có sự nhấn mạnh đến việc học tập dựa trên
kinh nghiệm. Mỗi bài học kéo dài một giờ được xây dựng có tính liên tục, nhằm
giới thiệu và thăm dò những phương diện mới của chánh niệm theo từng bài học.
Trước hết học sinh được rèn luyện về tính có chủ tâm, sự chú ý và thái độ. Tiếp
theo, học sinh được dạy về lòng biết ơn và xử lý những khó khăn về tư tưởng và
tình cảm, sau cùng, học sinh được hướng đến sự tử tế đối với chính mình và tha
nhân. Mục đích của chương trình là giúp học sinh có nhận thức, có lòng cảm
thông với người khác, biết thương người, có thái độ vui vẻ, hòa mình vào thực
tại đời sống của lớp học ”.
Một chương trình “ toàn trường ” được xây dựng
trên nền của khoa sinh học thần kinh và khoa tâm lý học tích cực, được kích
hoạt bởi sự chú tâm tỉnh giác và là một chất xúc tác cho việc học tập về tình
cảm xã hội. Chương trình này đi tiên phong trong việc huấn luyện cho lứa tuổi
từ 4 đến 13. Chương trình gồm 15 bài học giúp cho học sinh phát triển sự hiểu
biết tha nhân, có khả năng tự điều chỉnh trạng thái cảm xúc của mình và tập
trung được sự chú ý.
Có thể thấy người Anh họ đang tiếp tục bước
những bước vững chắc để đưa chánh niệm vào học đường. Những cuộc nghiên cứu về
kết quả của việc đưa chánh niệm vào học đường vẫn còn đang tiếp tục, nhưng
trước những kết quả của việc áp dụng chánh niệm trong những lãnh vực khác của
đời sống, người ta hy vọng việc áp dụng chánh niệm trong học đường cũng sẽ tốt
đẹp. Tất nhiên người Anh vẫn còn phải giải quyết nhiều việc, như đào tạo giảng
viên của ngành giáo dục này, ổn định giáo trình, xác định rạch ròi khuôn khổ
tôn giáo và giáo dục Dù sao, họ cũng đã thực sự biết được vị ngọt của chánh
niệm.
Suy nghĩ về học đường Việt Nam và việc đưa chánh niệm vào học
đường :
Cuộc sống với bao lo toan vất vã khiến chúng
ta sống trong quên lãng, thất niệm quá nhiều. Chúng ta bị hoàn cảnh chi phối,
bị xã hội khuôn đúc, bị tham dục sai sử, bị sân si xâm chiếm, cũng bởi không ý
thức giờ phút hiện tại mình đang nghĩ gì, nói gì, làm gì nên gây đau khổ phiền
não cho nhau. Chính lối sống xô bồ, chụp giựt vội vàng, mạnh được yếu thua làm
cho con người vọng ngoại, điển đảo, tán động, phát sinh nhiều tâm bệnh. Do
đó, Chánh niệm là lương dược cần thiết
chữa lành căn bệnh thời đại, có khả năng chuyển hướng tâm niệm cuồng vọng đảo
điên, đưa chúng ta trở về thực tại với sự tỉnh thức.
Người Việt tự hào là một dân tộc đã có trên
hơn 2000 năm theo phật giáo, vậy mà chúng ta chưa phổ cập được việc đưa chánh
niệm vào cuộc sống, trong khi các nước phương Tây họ đi sau chúng ta, chỉ mấy
chục năm mà họ đã đến trước ta, họ gặt hái vô số điều lợi ích từ việc áp dụng
chánh niệm vào học đường. Tuy nhiên nền giáo dục của chúng ta đang có nhiều
điều cần chấn chỉnh nhưng cho đến nay, hình như chưa có ai quan tâm đến việc áp
dụng một vài giáo lý căn bản của Phật giáo vào hệ thống nhà trường. Có những
chuyện rất đơn giản có thể thực hiện được mà không gây ra cảm giác lớp học là
nơi phổ biến tôn giáo. Chẳng hạn, chỉ cần trước khi bắt đầu bài học, các học sinh để hai tay lên bàn, nhắm hờ mắt
lại, hướng về phía bàn tay của mình, thở nhẹ vài hơi để tĩnh tâm trước khi đi
vào chính khóa.. Chắc chắn, chỉ với những động tác đơn giản ấy, các em sẽ từng
bước cảm nhận được những điều sâu sắc hơn, và không cần ai phải nói với các học
sinh rằng đó là kỹ thuật Phật giáo. Chúng ta hy vọng rằng trong tương lai,
những điều này sẽ từng bước được áp dụng trong trường học Việt Nam.
Sự lợi ích
của chánh niệm :
Các nước Phật giáo như Thái Lan, Lào, Campuchia
mọi người dân họ thực tập chánh niệm một cách nhuần nhuyễn, nên khi gặp việc
trắc trở xảy ra trong cuộc sống, những tình huống gần như bế tắc mà họ vần vượt
qua được. Đơn cử câu chuyện đội bóng thiếu niên vừa qua của Thái Lan đi lạc vào hang động và bị nước chận đường
không thoát ra được trong 18 ngày đêm, không nước uống, không thức ăn, điện đài
mà vẫn sống bình an, thì do đâu, là do các em thực tập chánh niệm trong những
ngày đêm bị nước chận không ra được. Những thông tin về đội bóng thiếu niên của
Thái Lan như sau :
Thời gian tháng 6- 7 năm 2018. Đội bóng thiếu
niên của Thái Lan một lần di dã ngoại vùng hang động, đã bị một cơn lũ cuốn
trôi vào sâu trong hang động, không tìm được lối ra, và chỉ được cứu thoát sau
một chiến dịch cứu nạn quốc tế cam go dài ngày. Mười hai đứa trẻ và người thầy
huấn luyện viên đã ở trong hang động ẩm ướt suốt 18 ngày đêm đói và lạnh, cho
đến khi được cứu hộ hoàn thành ngày 10/7-2018. Cuộc cứu hộ cam go của Thái Lan
và Quốc tế, bỏ rất nhiều công sức và hy sinh tính mạng (chết một người) làm cho cả thế giới hồi họp theo dõi diễn
tiến từng giờ. Nhưng bài học để lại cho đội rất bổ ích. Trước hết bọn trẻ đã
vẫn định tâm, không hoảng sợ, càng yêu thương chia sẻ lẫn nhau, và đó chính là
nhờ thiền định, từ người thầy trẻ biết thiền đã dạy cho các em vô cùng hiệu quả
trước mắt Sau khi được giải cứu, các em trở về cuộc sống bình thường. Các em
xuất gia có thời hạn để tu tập và cúng dường công đức cho những người đã hy
sinh để cứu các em.
Thầy và trò đội bóng được sống trong truyền
thống Phật giáo, cho nên khi gặp việc bất trắc xảy ra, văn hóa Phật giáo và
thiền định đã thâm nhập vào tâm trí các em, cho nên các em có thể sống tự tại
trong môi trường khắc nghiệt.
Giáo dục Phật giáo đưa vào nhà trường và gia
đình là nền tảng đạo đức cho giới trẻ, là bức tường phòng vệ chống lại những sa
đọa vật chất và tinh thần trong xã hội. Mặc dầu Thái Lan là nước có nền kinh tế
thị trường sôi động, có ngành du lịch phát triển hàng đầu châu Á. Nhưng họ vẫn
giữ được truyền thống giao dục tâm linh cho thế hệ trẻ ./
(Trích : Đưa chánh
niệm vào trường học : Hoa Tâm Thủy Mẹ ơi
! đừng để con ngủ :Cao Huy Hóa VHPG- số
: 305- 15-9-2018)
{]{
QUÁN CHIẾU VỀ CÁI CHẾT
Hạnh phúc và khổ đau là hai mặt đối lập nhau
trong cuộc đời con người, từ xa xưa đến nay, các nhà tôn giáo, các triết gia,
các nhà khoa học luôn đi tìm cho mình và mọi người con đường hạnh phúc và tránh
con đường khổ đau. Tâm lý chung con người là muốn cầu an vui hạnh phúc và xa
lìa khổ đau. Nhưng việc tránh khổ cầu an chưa có một vị giáo chủ tôn giáo nào
đưa ra phương pháp cụ thể và thiết thực, cho đến các triết gia, các khoa học
gia cũng vậy. Họ chỉ có đem lại những nổi khổ niềm đau nhiều hơn là an lạc,và
làm tâm trí rối loạn hơn là an tịnh. Những lý thuyết và việc làm của họ chưa
thực sự tìm ra con đường chấm dứt khổ đau cho con người một cách tuyệt đối hoàn
hảo. Chỉ có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người duy nhất tìm ra cho nhân loại con
đường thoát khổ được an một cách tuyệt đối mà thôi.
Con người ai cũng ham sống sợ chết, cho đến
các loài cầm thú cũng vậy, đều cùng chung tâm trạng ưa sống sợ chết. Cho nên
sanh, già, bệnh, chết là bốn sự thật khổ đau mà con người muôn đời phải tuân
chịu, không một ai tránh khỏi, không một ai trường sinh bất tử. Nổi sợ chết là
nổi sợ lớn nhất của con người không ai qua mặt thần chết. Vậy chết là luật công
bằng nhất mà ai cũng phải chết, dù có sợ
hay không sợ cái chết là cái rất bình đẳng của mọi người và chúng sanh, khỏi
phải đòi hỏi công bằng.
Người đến với đạo Phật là người tìm cho mình
cách sống bất tử không sợ chết, và nếu có chết chỉ chết một lần của thân tứ đại
này thôi. Vì người tu tập theo Phật giáo, y theo lời Phật dạy thì sẽ đạt được
cái lý vô sanh, chứng nhập được tự tánh không sanh không diệt, trừ được tham
dục chấp thủ thì ra khỏi con đường sống chết khổ đau, không còn sống trong vòng
mê muội, chết trong hoài nghi nữa. Đức
Phật đã dạy cho dân chúng Alavi một bài học về cái chết.
Một hôm Đức Phật đến Alavi, dân chúng Alavi
rất hạnh phúc vui mừng khi được Phật đến xứ sở họ. Dân chúng Alavi thỉnh Phật
thọ trai. Thọ trai xong, Đức Phật nói một bài pháp ngắn về cái chết. Đức Phật nói : “ Này các người hãy
quán niệm về cái chết, các người hãy tự nhủ rằng : Đời sống của ta mong manh,
cái chết của ta là điều cố nhiên, chắc chắn ta sẽ chết, cái chết sẽ chấm dứt
đời ta. Đời sống không cố định, cố định là cái chết. Ai không quán niệm về cái chết, sẽ sợ hãi khi
giờ lâm chung đến, và sẽ chết trong sợ hãi kinh hoàng, như một người đi đường
gặp rắn, không có gậy trong tay, run rẫy dường nào !
Tại làng Alavi cô bé con nhà thợ dệt năm 13
tuổi đã được nghe Đức Phật chỉ dạy về cái chết. Nay duyên lành Phật lại đến
làng mình thuyết pháp, cô bé chủng bị sẳn sàng để tham dự, mặc dù cha cô bé bảo
phải hoàn thành các thoi chỉ sợi để kịp giao hàng cho khách. Nhưng cô quyết tâm
cao độ không phụ lời cha dặn và vẫn hoàn thành ý nguyện của mình là đi gặp
Phật. Năm nay cô bé 16 tuổi con nhà thợ
dệt đến gặp Phật nghe pháp. Khi cô bé đến diện kiến trước Đức Phật, Phật mới hỏi cô bé bốn câu hỏi. Đức phật đã thấu
rõ tâm ý của cô bé bèn hỏi rằng :
Con từ
đâu đến đây ?
Bạch
Thế Tôn con không biết,
Con sẽ
đi về đâu ?
Bạch
Thế Tôn con không biết,
Con
biết hay không biết ?
Bạch
Thế Tôn, con biết
Con
không biết phải chăng ?
Bạch Thế
Tôn, con không biết.
Trong 4 câu hỏi này chỉ
có 2 từ KHÔNG và BIẾT. Không ở đây là không biết từ đâu sanh ra, chết đi về
đâu, và chết lúc nào. Còn Biết là biết
mình trước sau gì cũng phải chết .
Trước sự thắc mắc của thính chúng, Ngài hỏi
cô bé.
- Này con ! khi Ta hỏi
con từ đâu đến, vì sao con trả lời không biết.
- Bạch Thế Tôn ! Ngài cũng biết rằng con từ nhà
cha con, là con của người thợ dệt đến đây. Vì thế khi Ngài hỏi con từ đâu đến,
con hiểu rằng ý của câu ấy là con từ đâu sanh ra đây. Nhưng con chẳng biết con
từ đâu sanh đến nơi nầy.
-Ngài hỏi tiếp : Khi Ta hỏi con đi về đâu, vì sao con trả lời
không biết ?
-Bạch Thế Tôn ! Ngài cũng biết con đến từ
xưởng dệt nhà cha con với giỏ thoi trên tay. Nên khi Ngài hỏi con đi đâu, con
hiểu ý câu ấy là khi rời nơi đây con tái sanh về đâu. Nhưng đối với con, sau
khi chết con chưa biết sanh về đâu.
-Khi Ta hỏi, con biết hay không, vì sao con
trả lời con biết ?
-Bạch
Thế Tôn ! vì con biết rằng chắc chắn con sẽ chết, nên con đáp như thế.
- Vì sao Ta hỏi con không
biết hay chăng, con trả lời không biết ?
- Bạch Thế Tôn ! điều con biết chắc chắn là con sẽ chết, nhưng
chết vào lúc nào, vào ban đêm hay ban ngày, buổi sáng hay buổi trưa, khi nào
con không thể biết, nên con trả lời không biết.
Đức Phật dạy thính chúng rằng: Với người không
có tuệ nhãn, họ đui mù, chỉ khi nào người có tuệ nhãn mới thấy được điều này, rồi
Ngài nói bài kệ :
Đời này thật mù quáng
Ít kẻ thấy rõ ràng
Như chim thoát khỏi lưới
Rất ít đi thiên giới
Quả thật câu chuyện của cô bé cho chúng ta thấm thía ý nghĩa của từng lời giải đáp, bận
lòng chi quá khứ từ đâu đến và lo lắng chi ta chết về đâu. Sự có mặt của ta từ
vô thủy đến vô chung, không có điểm khởi nguồn và kết thúc, cuộc sống chỉ có
thực tại là bây giờ, ở đây và một sự thật hiển nhiên, ai rồi cũng sẽ chết. Tuy
nhiên, chết lúc nào ở đâu và chết như thế nào cũng là điều không quan trọng
nữa, bởi lẽ chính cái hiện tại mới là yếu tố quyết định con đường tái sanh.
Nhưng cũng vì thế gian này “thật mù quáng” không tuệ nhãn cho nên cứ mãi quẩn
quanh trong bể khổ trầm luân. Chính sự suy niệm về những điều vô nghĩa trong
cuộc sống làm tâm trí họ rối ren, mù quáng, tức như chim tung lưới chỉ biết
tung cánh bay trong phương trời vô định, không biết đích điểm là đâu. Con người
không ai là bất tử trường sanh, suy niệm về lẽ thật cuộc đời, sanh, già, bệnh,
chết, luôn mang ý nghĩa thiết thực. Một khi trong tâm luôn nghĩ về cái chết sẽ
đến, lẽ tất nhiên chúng ta sẽ sống có ý nghĩa từng ngày chánh niệm trong từng
phút từng giây và quán chiếu tu tập trong từng lời dạy của Đức Phật, đây chính
là nền tảng cho hạnh phúc hiện tại và sự chứng đắc giải thoát trong tương lai..
Mỗi ngày qua là mạng sống con người giảm dần,
giống như con bò sắp bị giết, con bò
được dắt từ chuồng trại đến lò mỗ, mỗi bước chân giơ lên là mỗi bước gần
đến bị giết, gần đến cái chết. Cũng vậy, đời sống con người cũng thế, như con
bò sắp bị giết, con người thật nhỏ bé so với vũ trụ bao la, không đáng kể,
nhưng lại có nhiều đau khổ, nhiều phiền muộn, nhiều ưu não. Vì thế hãy giác
ngộ, hãy làm những điều lành, hãy sống phạm hạnh, với người đã sanh không có
bất tử. Chính vì thế, với đạo Phật vấn
đề trọng tâm không phải là vũ trụ thế giới mà là con người. Mục đích của Đức
Phật dạy là đoạn tận khổ đau đem lại an lạc hạnh phúc cho con người. Tính thiết
thực hiện tại của Phật giáo không phải ở giáo lý mà còn ở thái độ và hành động
của người con Phật, đó là lộ trình tu tập của chính bản thân mỗi người.
Đức Phật nhấn mạnh sự nổi lực của tự thân tu
tập là điều quan trọng, là điều kiện cần thiết để đi đến giải thoát an lạc Niết
bàn. Vấn đề giải thoát giác ngộ là do sự
nổ lực của mỗi người chứ không phải cầu xin mà được. không một đấng thiêng
liêng nào ban cho chúng ta sự giác ngộ, mà chính tự thân mỗi con người phải nổ
lực để giác ngộ. Đức Phật dạy rằng : “
Hãy tự mình làm ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ
nương tựa một cái gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm
chỗ nương tựa, chớ nương tựa một cái gì khác”.
Đức Phật đã
xác định cầu xin và ước vọng không có lợi ích gì. Ngài nêu rõ: “ Nếu có người làm 10 điều ác
hạnh, rồi một quần chúng đông đảo đến cầu xin, cầu khẩn chắp tay mong rằng, người
ấy sẽ được sanh thiện thú, thiên giới. Sự cầu khẩn như vậy vô ích. Vì người ấy
làm 10 điều ác hạnh sẽ bị rơi vào địa ngục. Như một người quăng một tảng đá vào
hồ nước, rồi một số đông đảo người đến cầu xin, cầu khẩn chấp tay cầu rằng
: Tảng đá ấy sẽ được nổi lên, sự cầu
khẩn như vậy là vô ích. Vì tảng đá ấy với sức nặng của nó không thể nổi lên,
không thể trôi vào bờ như lời cầu xin của quần chúng ấy. ”
Các phương pháp tu tập của đạo Phật, chính là
những phương pháp giúp cho con người trở về với nội tâm mình để giải quyết một
cách căn bản mọi ưu tư và bất an của nội tâm. Khổ đau chỉ có mặt trong hiện tại,
do đó quả quyết khổ đau cũng được bắt
đầu từ trong giờ phút hiện tại. Đức Phật dạy : “ Này các Tỳ kheo, có một con
đường độc nhất làm cho chúng sanh thanh tịnh, vượt qua ưu sầu, đoạn trừ hết khổ
đau, thành tựu chánh lý, chứng đắc Niết bàn. Đó là Tứ niệm xứ, phương pháp tu
tập Tứ niệm xứ là con đường trở về với chính mình, quán chiếu tự thân, tu tập
tự mình làm hòn đảo của chính mình. Như vậy tứ niệm xứ, là một nếp sống giúp
cho chúng sanh được thanh tịnh trong sạch, khỏi các cấu uế. Với nếp sống như
vậy, vị hành giả vượt khỏi sầu bi, chấm dứt ưu khổ, tức sống an lạc hạnh phúc
trong chánh pháp. Với nếp sống hỷ lạc định tĩnh, vị hành giả phát triển trí
tuệ, trí tuệ được chính lý duyên sanh, duyên diệt của các pháp và cuối cùng
chứng ngộ Niết bàn.
(Trích
:Hạnh phúc thực tại giữa thế giới vô thường : Huỳnh Thị Cẩm Nhung- VHPG số 305-
15-9-2018)
{]{
THAY ĐỔI SẮC ĐẸP
Mỗi người sinh ra trong
đời ai cũng có một hình tướng khác nhau, người cao, người thấp, người lùn người
béo, người gầy, người đủ chân tay người thiếu chân tay, người da vàng, người da
đen, da đỏ, người tóc quăn người tóc quắn, người tóc đen người tóc vàng; người
mặt tròn người mặt dài, người má đầy người má táp v.v...hình tướng khác nhau,
nhưng tâm lý chung ai cũng muốn mình đẹp, đặc biệt là phái nữ nhiều hơn phái
nam, nên có nhiều người tìm cách làm cho mình xinh đẹp. Người đã xinh đẹp lại muốn
làm cho xinh đẹp thêm bằng cách trang điểm, sửa soạn hay phẫu thuật thẩm
mỹ. Nhưng dù có làm cho đẹp cũng chỉ đẹp
bên ngoài thôi, muốn có cái đẹp thật sự phải là cái đẹp bên trong, đó gọi là
đẹp nết, còn gọi là đức hạnh. Người có cái đẹp toàn diện, thì phải đẹp cả hai
bên ngoài lẫn bên trong. Đẹp bên ngoài làm thì phải tốn kém tiền của, nhưng
không đẹp được bền lâu mà còn nguy hiểm đến tính mạng và sức khỏe nữa. Còn cái
đẹp bên trong không tốn kém, không nguy hiểm tính mạng và ảnh hưởng sức khỏe,
lại bền lâu tâm lý không lo lắng. Sau đây phân tích các cách sửa đổi sắc đẹp :
Xưa và nay nhu cầu sửa đổi sắc đẹp luôn
diễn ra với những người thích sửa đổi sắc đẹp cả phái nam lẫn phái nữ. Ngày nay
kỷ thuật y học phát triển việc sửa đổi sắc đẹp lại càng dễ dàng thuận tiện hơn,
nên có rất nhiều thẩm mỹ viện ra đời đáp
ứng nhu cầu làm đẹp của mọi người. Các bác sỹ có thể phẫu thuật thay đổi toàn
bộ gương mặt cũng như hình thể làm cho con người từ xấu xí trở thành đẹp, từ
mất cân đối thành cân đối hơn. Ngày xưa
làm đẹp rất đơn giản, như lông mày rậm thì tỉa thành lông mày lá liễu. Bây giờ
có phương pháp xăm chân mày, xăm một lần thì sử dụng mãi. Rồi mắt một mí có thể sửa thành hai mí, sống mũi thấp thì
nâng lên cho cao, môi thâm thành môi đỏ, môi trái tim. Ngực nhỏ nâng lên thành
ngực lớn. Bụng mỡ nhiều hơi to thì hút mỡ cho có eo, móng tay dài, nhọn, màu
hồng, màu đỏ,màu tím, màu trắng v.v đủ loại. Từ miệng, mũi, môi, răng, mí mắt,
lông mi, lông mày, râu coi nón, râu mép, cằm, má, nốt ruồi, trái tai, tóc, làn
da v.v... người ta có thể thay đổi tùy
theo ý muốn của mỗi người. Đó là trên cơ thê, còn ngoài cơ thể nào là áo, quần,
khăn, mũ, giày dép, son phấn, nước hoa, cà vạt v.v... cũng thuộc loại trang
điểm làm đẹp. Ngày nay người ta còn chuyển đổi giới tính từ nam qua nữ, từ nữ
qua nam nữa, tất cả các cách làm đẹp người phẫu thuật thẩm mỹ phải chịu các
việc như sau :
1/ Phải chịu đau đớn khi
phẫu thuật
2/ Phải tốn tiền của
3/ Phải lo lắng cho những
sự bị biếng chứng
4/ Cảm giác không bình
thường sau khi phẫu thuật thay đổi sắc đẹp
5/ Tâm lý lo lắng khi các
hình thức thời trang thay đổi
6/ Khi tuổi lớn cơ thể
thay đổi những vật đưa vào cơ thể không phù hợp như trước nữa.
7/ Bệnh tật sẽ phát sinh
do những thứ vật ghép vào không phù hợp với cơ thể.
Mỗi khi phẫu thuật, hoặc xăm tất nhiên phải
chịu đau đớn, độ nguy hiểm là sẽ nhiễm trùng, hoại tử đưa đến cơ thể sẽ bị tàn
phế suốt đời, đôi lúc dẫn đến tử vong là chuyện thường. Nâng ngực tuổi trẻ chưa
có gia đình, không nên phẫu thuật, vì về sau sẽ ảnh hưởng không tốt cho việc
con bú. Phẫu thuật không những làm lãng phí tiền bạc mà còn làm cho cơ thể đau
đớn, tự mình làm khổ mình vì phải chịu nhiều đau đớn là điều không thể tránh
khỏi, đó là điều người đi phẫu thuật phải đối mặt. Sự lo lắng, là phải mang trong mình một vật
giả tạo và phải lo lắng về sự biếng chứng suốt đời. Cơ thể đang bình thường,
lại đưa vào một chất liệu khác, chất trơ trung tính, khiến trên mũi luôn có cảm
giác khó chịu. Ngực cũng vậy, tự nhiên thoải mái, lại thêm một cái túi độn vào
trong đó, trong mình mang thêm một vật giả, cảm giác thấy không bình thường,
chưa nói đến việc vật độn đó có thể bị cơ thể đào thải hoặc bị biến chứng về
sau. Sự thay đổi này không đẹp bền lâu mãi được, một thời gian sau nó sẽ phai
tàn, không còn thích hợp và đẹp nữa. Lúc đó phải xóa đi hoặc phải phẫu thuật
lại, cũng đau đớn và tốn kém. Về mặt tâm lý, bây giờ người ta thích chạy theo
mốt này, thời gian sau người ta lại đưa ra mốt khác, những hình thức ngày trước
cho là đẹp ngày nay không còn phù hợp nữa, bây giờ trở nên lỗi thời. Cũng như
thời trang quần áo, ngày trước người ta chọn kiểu quần ống loa ống túm, áo dài
khăn đóng. Ngày nay họ lại chọn quần rin, quần cụt, ống ngắn, áo đầm,váy ngắn
v.v...
Thời trang thay đổi thì tâm lý con người
cũng thay đổi. Quần áo, khăn lượt thay đổi thì dễ chứ cơ thể thay đổi
không dễ dàng chút nào. Cho nên tốt hơn
hết là chúng ta không nên chạy theo xu hướng làm đẹp mà đi phẫu thuật thẩm mỹ
để sửa sắc đẹp. Ông bà ta nói : “cái nết
đánh chết cái đẹp”, con người phần đông chú ý làm đẹp cơ thể bên ngoài, chứ ít
khi quan tâm làm đẹp bên trong tâm hồn. Cái đẹp bên ngoài không quan trọng bèn
cái đẹp bên trong, cái đẹp bên trong mới thật sự là đẹp, đẹp nết quan trọng hơn
đẹp người. Đẹp nết là đẹp tâm hồn, là đẹp của đức hạnh.
Người đến với đạo là người muốn làm đẹp cho
mình, muốn làm cho mình đẹp nết, muốn làm cho mình trở thành người tốt, một
người có đức hạnh, một người cao thượng, một người khác với mọi người sống xô
bồ ngoài xã hội. Vì thế mới phát nguyện
quy y thọ giới ăn chay, niệm Phật tụng kinh, học giáo lý, dự các khóa tu, cúng
dường bố thí, làm từ thiện v.v đó là những cách làm đẹp nết, nâng cao đức hạnh.
Con người có hai thành phần gọi là xấu và đẹp,
thành phần đẹp thân mà xấu tánh, thành phần xấu người đẹp tánh. Xấu thân không
quan trọng, xấu tâm, xấu tánh,xấu nết mới quan trọng. Vậy đến với đạo Phật dự
tu các khóa là cách làm đẹp tâm tánh, đẹp nết đẹp hạnh. Cái xấu của tâm tánh
nết na là những thói hư tật xấu như : tham lam, bỏn sẻn, sân giận,si mê, tật
đố, cống cao, ngã mạn, bất hiếu bất trung, bất nghĩa, bất lương, ích kỷ, ganh
tỵ, giả dối. Đến với đạo là phương pháp, là con đường chuyển hóa thói hư tật
xấu thành những tánh tốt, nết na thuần thiện, những việc làm hiền thiện lợi
mình lợi người, là cách làm đẹp người đẹp nết. Không còn tham sân si ích kỷ như
xưa nữa. Nhưng tánh tham lam ích kỷ tật đố v.v là những thứ độc tố nằm trong
tâm, nếu không chuyển hóa lâu ngày nó sẽ làm hại mình và người khác, khổ mình
khổ người khổ cả hai, đời nay và đời sau.
Mỗi khi cơn sân giận khởi lên là mình chịu khổ trước, mặt đỏ, môi thâm,
chân tay run rẩy, nói năng không được ôn hòa, người khác nhìn thấy cũng thất
kinh không vui chút nào, không an lạc không bình an, không khí trở nên ngột
ngạt v.v... Khi tâm bị giận làm ô nhiễm thì thân thể cũng ô nhiễm theo. Nếu
chuyển hóa được những độc tố này trong tâm thì thân thể được nhẹ nhàng khinh an. Đó là lý do tại sao người
tu học phải loại trừ những tánh hư tật xấu càng sớm càng tốt.
Tham lam là một tánh xấu, vì những người tham
lam trộm cắp, hối lộ, lừa gạt lúc nào cũng sống trong trạng thái lo sợ pháp
luật. Quả báo hiện tại là bị người chê cười, luật pháp trừng trị, quả báo tương
lai là nghèo khổ, túng thiếu, đọa làm thân trâu ngựa kéo xe chở nặng để đền trả
nợ cũ, có thể bị quả báo tay chân không đầy đủ, lành lặn. Người tu học hiểu
biết luật nhân quả không dám tham lam trộm cắp và làm các việc ác độc thất đức.
Thay vì không tham lam, làm các việc từ thiện, giúp những người nghèo khó, hoạn
nạn, đau ốm bệnh tật v.v... Nếu không có
vật chất giúp đỡ thì đem kiến thức sự hiểu biết của mình chia sẻ cho người,
nhất là sự hiểu biết về Phật pháp. Chia sẻ lời Phật dạy để người ta hiểu Phật pháp
và họ chuyển hóa được những nổi khổ niềm đau, đó là pháp thí. Hoặc gặp những
người sầu khổ, lo âu, sợ sệt, phiền muộn, ta đến động viên an ủi để họ bớt lo
bớt khổ đó gọi là bố thí vô úy, tức ban cho họ cái không lo không sợ.
Khi biết tu tập ta mở rộng lòng mình giúp đỡ
nhiều người khác, tức là ta có nhiều quyến thuộc thân thiết, được nhiều người
mến thương. Còn nếu cả đời chỉ biết lo cho riêng mình thì không ai thương cả.
Khi mở rộng lòng mình làm lợi cho nhiều khác, thì tự nhiên nhiều người dành tình thương cho mình. Còn
như cứ bo bo ích kỷ, chỉ biết sống cho riêng mình, thì suốt đời không làm được
việc gì đáng giá giúp ích cho đời, của cải chết rồi để lại chứ có ai đem theo
được . Người như thế là người sống cuộc sống cô độc.
Một người dù có ngoại hình xinh đẹp, mà tâm lý
tham lam, bực bội, thô lỗ cộc cằn, cống cao ngã mạn, ích kỷ hẹp hòi, ganh tỵ
giả dối, bất hiếu, bất trung, bất nghĩa, thì chắc chắn không ai ưa thích và gần
gũi, không ai dám đến gần. Ngược lại người tuy không có ngoại hình đẹp, nhưng
lúc nào cũng tươi cười, hòa nhã, nhẹ nhàng êm dịu, tấm lòng luôn rộng mở giúp
đỡ người khác, không chơi bời, cờ bạc rượu chè say sưa, luôn khiêm hạ, lễ phép,
kính trên nhường dưới, tôn trọng người khác, khoan dung, hoan hỷ với mọi người.
Sống chân thật từ lời nói đến việc làm, luôn nhớ ơn cha me, thấy tổ và những
người có công đức, thì chắc chắn sẽ được nhiều người quý mến và giúp đỡ, thương
yêu, tôn trọng và tin tưởng.
Cổ nhân nói : “tướng tự tâm sanh”, nghĩa là
nếu tâm tốt thì dẫn đến tướng tốt, tướng sẽ chuyển thành đẹp người. Người có
tâm tốt thì ai cũng thương yêu, quý mến, còn người có tướng đẹp nhưng tâm xấu
thì không phải là người đẹp đúng nghĩa, thường bị người ghét bỏ lánh xa. Vì thế
việc học phật, làm theo lời Phật dạy là làm con người đẹp toàn diện, đẹp người
đẹp nết để làm lợi ích cho mình và mọi người, cũng là thể hiện một người Phật
tử chân chính, đem lại lợi đạo ích đời./.
Trích từ tập: Đẹp người đẹp nết : TT Thích Chân Tính.
{]{
TẬP
BUÔNG
Mỗi
ngày tôi tập một chữ “buông”
Buông thương, buông ghét, buông buồn,
buông vui
Buông
cho nó khỏe người ơi
Buông cho lòng dạ thảnh thơi nhẹ
nhàng
{]{
Xin
tặng cho nhau một chữ “ nhàn ”
Sống
đời yên ả khỏi lầm than
Cầu
mong tất cả đừng toan tính
Để
kiếp con người bớt trái ngang
{]{
IM LẶNG
Im lặng không phải là hèn
Im lặng là để luyện rèn
thân tâm
Im lặng không phải đứng
nhìn
Im lặng là để quán mình
tịnh tu
Im lặng không phải là ngu
Im lặng không oán không
thù thảnh thơi
Im lặng nhìn đất nhìn
trời
Im lặng miệng nở nụ cười
Chân Như
TÂM AN VẠN SỰ ĐỀU AN
BUÔNG XẢ
Thương ghét
trong lòng mãi vấn vương
Hơn thua được
mất chuốc thêm phiền
Vui buồn chẳng
qua như gió thoảng
Tốt xấu khen
chê chỉ một lời
Quẳng gánh lo
đi nhẹ cuộc đời
Hành trang chuẩn
bị kiếp lai sinh
Công danh tài
sắc như sương khói
Buông xả đi
rồi sống thảnh thơi
ĐÓN TỈNH
Giữa không và
có chẳng bao xa
Xưa nay Sống
Chết một thôi mà
Hoa nở năm nay
hoa năm trước
Trăng sáng bây
giờ trăng tối qua
Tuệ Trung
Thượng Sỹ
CHÚC
NHAU
Chúc
mọi người đẹp như hoa Hồng
Thành
công như hoa Cúc
Hạnh
phúc như hoa Mai
Phát
tài như hoa Pháo
Độc
đáo như hoa Lan
An
khang như hoa Huệ
Trí
huệ như hoa Sen
{]{
KHI ĐẾN TUỔI VỀ GIÀ
Con yêu dấu ! khi đến
tuổi về già
Bố mẹ không còn tươi như
hoa
Mà nhăn nhó, mặt cau, mắt
ướt
Con sẽ thấy không còn
tươi như trước
Nhưng cũng đừng cau có
lại mẹ cha
Vì khi xưa con khóc oe
vang nhà
Mà bố mẹ vẫn tươi vui như
hội
Nếu bố mẹ tay run không
cầm nổi
Một tô cơm mà đánh đỗ ra
nhà
Xin con đừng gắt mắng hạn
người già
Vì lúc bé con vẫn thường
rơi vãi
Bố mẹ vẫn khom lưng mà
nhặt lại
Từng miếng cơm chút thịt
con làm văng
Mẹ vừa cười, vừa nhìn con
lăng xăng
Nghe con xin lỗi mà ấm
lòng như tết
Nếu bố mẹ rồi ít năng tắm
rửa
Con cũng đừng bịt mũi
dang xa
Bởi khi xưa mẹ phải gọi
cả nhà
Mới tắm được cho con một
lát
Con nghịch chơi người
dính đầy bụi cát
Mực lấm lem, tay chân bẩn
như ma
Mẹ mới dội nước, con đã
khóc la
Không chịu tắm, không
chịu vào bồn rửa
Mãi lớn khôn mới đi tắm
một mình
Nếu bố mẹ không theo kịp
văn minh
Máy móc mới, đủ hình đủ
kiểu
Con cũng đừng cười chê
ông già hủ lậu
Mà nên giảng cho bố mẹ
cách dùng
Vì năm con hai tuổi, cái
gì con cũng lạ
Bố mẹ phải cầm tay con
chỉ dẫn
Rồi lớn lên bố dạy con
cẩn thận
Đừng nghịch máy này, đừng
đụng vật kia
Bố dạy con từng chút từng
ly
Con đã nở những nụ cười
hạnh phúc
Nếu bố mẹ nhớ quên tùy
lúc
Đừng cằn nhằn bố mẹ khù
khờ
Biết bao lần con để quên
sách vở
Bố phải chạy như bay trở
về nhà
Mẹ bố đã từng bao đêm
quên mệt
Ngồi bên con, nghe hơi
thở điều hòa
Dù cho con khó chịu khóc
la
Bố mẹ vẫn dấu yêu con
trên hết
Và bây giờ khi tới gần
cõi chết
Vật dụng mang theo vẫn chỉ
bóng hình con
Còn chút hơn tàn, bố mẹ
tặng con
Niềm hạnh phúc sướng vui
bất tận
Thôi vài dòng của mấy
người sắp lẫn
Bố mẹ sẽ quên đã từng
tặng hành trang
Kiến thức, thông minh,
sắc đẹp con đang mang
Những hiểu biết về cuộc
đời gian khó
Những can đảm chai lì
không biết sợ
Để con thành người tài
giỏi như hôm nay
Những bằng cấp con có
trong tay
Là kết quả của bao đêm mẹ
khóc
Là rụng rơi của bao nhiêu
sợi tóc
Của ngàn ngày đưa đón con
đi
Thôi nói làm chi, nhắc
làm chi ?
Mẹ đang nói hãy đừng làm
con mệt
Nghỉ đi con để vui thỏa
ngày mai./.
{]{
TỰ ÁI VÀ HIỂU LẦM
Chuyện tự ái và hiểu
lầm là chuyện cơm bửa trong cuộc sống hằng
ngày của con người. Mỗi người ai cũng đều có tự ái theo cách riêng của mình,
không tự ái nào giống tự ái nào. Mà hễ tự ái khởi lên đều nguy hiểm và gây hiểu
lầm dẫn đến chết người, hoặc gây chia rẻ đấu tranh, thị phi v.v.. hậu quả là
mất đoàn kết mọi sự bất thành. Cho nên chúng ta đừng xem thường tự ái xảy ra hằng ngày với ta.
Thiếu phụ Nam Xương ngày xưa là một điển hình
về câu chuyện tự ái mà phải quyên sinh nơi dòng sông để rồi thiệt mạng, gây cảm
xúc đau đớn cho mọi người.
Vào thời vua Lý Thánh Tông (1054-1072) ở
huyện Nam Xương, (nay thuộc huyện Lý Nhân) tỉnh Hà Nam, miền Bắc có cô thiếu nữ
nết na xinh đẹp, tên là Vũ Thị Thiết lấy
chồng tên là Trương Sinh, người cùng thôn Vũ Điện. Hai người được cha mẹ hai
bên chấp thuận thành nên duyên vợ chồng. Hai vợ chồng sống chung với nhau không
được bao lâu, chàng Trương phải theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, lên
đường nhập ngũ tòng quân, thực hiện nghĩa vụ cao cả bảo vệ đất nước, và để lại
người vợ trẻ có mang hơn hai tháng ở nhà.
Sau ba năm nghĩa vụ hết hạn, chàng Trương trở
về, và đứa con cũng đã hơn hai tuổi. Không có niềm vui sướng nào bằng khi gia
đình đoàn tụ. Vừa đặt chân về đến nhà,
chàng Trương có cảm giác buồn vui lẫn lộn. Nỗi buồn lớn nhất của chàng là mất
mẹ khi chàng còn trong quân ngũ và niềm vui sướng nhất là được về sum họp với
gia đình sau bao nhiêu năm xa cách. Chàng Trương liền bảo với vợ đi chợ mua
phẩm vật và nhang đèn về để làm mâm cơm
cúng tạ ông bà tổ tiên và vong linh
người mẹ.
Trong khi người vợ đi chợ mua đồ, người chồng
ở nhà giữ con, chơi với đứa con, anh ta tập làm quen với đứa bé nhưng đứa bé
hai mắt nó nhìn thao tháo lấy làm lạ lùng, không chút thân thiện với chàng
Trương. Thấy vậy mà chẳng nói gì, anh nghĩ chắc nó vừa thấy vừa lạ nên nó sợ. Một lúc đứa bé thấy vắng mẹ, nó
òa lên khóc kêu mẹ ! Chàng Trương thấy con khóc liền đến dỗ con. Lần đầu tiên
trong đời, đứa bé được nghe chàng ta gọi là “con” và xưng là “bố”.
Thôi, nín đi con, đừng khóc tí nữa mẹ về. Nào
đứng lên con, đi chơi với bố, mẹ sắp về đó ..
Đứa bé
giương đôi mắt nhìn người bố ngơ ngác. Trong đầu nó nghĩ có một người bố đen
đen, đêm nào cũng trở về với hai mẹ con nó kia mà. Người bố ấy không bao giờ
nói, nhưng lần nào mẹ nó cũng bảo đấy là bố nó thật. Nó đã tin theo và trả lời
với chàng Trương rằng : “ Ô ông không
phải là bố của tôi. Bố tôi đến tối mới về lận !
”.
Chàng Trương hỏi, Ai bảo thế ?
Đứa bé giương đôi mắt đáp
: Mẹ nói thế !
Cơn cảm xúc tức giận nổi
lên trong lòng chàng Trương, máu dồn lên mặt, hai tai ù đặc, tay chân run rẫy, nét
mặt hằm hằm, cộc cằn thô lỗ. Khi người vợ đi chợ về chàng Trương không thèm
nhìn tới vợ, không nói chuyện với vợ, Anh lạnh nhạt vô cùng.
Nàng thiếu phụ Nam Xương buồn bã và đau xót vô
cùng. Nàng không hiểu tại sao thái độ của chồng thay đổi như thế từ khi nàng đi
chợ mua sắm về Nàng thầm lặng chịu đau khổ một mình suốt một thời gian. Chị nấu
cơm, anh ấy không ăn, Anh bỏ nhà đi la cà ở các quán rượu tới khuya mới về.
Ngày nào cũng vậy. Chị chịu không nổi. Cuối cùng, nàng đi tìm tới cái chết là
gieo mình xuống dòng sông. Nghe tin vợ chết anh mới trở về nhà.
Vợ mất rồi, mỗi tối anh phải dỗ con, đêm đến
căn nhà tối om, anh đi tìm đèn châm lửa, vừa thắp cây đèn dầu cho sáng nhà, cái
bóng của anh cũng hiện rõ trên vách thì đứa bé dụi mắt đột nhiên la lớn : “Ô !
Mẹ ơi, bố kia kìa ! Mẹ ơi, bố kia kìa !”
và nó chỉ vào cái bóng của bố nó trên tường và chạy lại ôm chầm lấy cái bóng.
Lúc này, tim chàng Trương thắt lại, nước mắt chàng ứa ra mới hiểu được sự thật
là không hề có một ai khác cả.
Sự thật là trong những tháng ngày chàng
Trương đi vắng, buổi tối đứa bé hay hỏi mẹ : “Bố đâu ? ”, người thiếu phụ
thường chỉ vào cái bóng của mình trên vách, nói đùa với con :“Bố kia kìa !”.
Khi hiểu được lời con nói, chàng Trương mới
lạnh toát cả người. Tất cả chỉ là sự nhầm lẫn nhưng đưa đến hậu quả giết mất
người vợ đảm đang và chung thủy.
Chàng Trương lập đàn cầu siêu cho người vợ
chết oan và thề nhất quyết sống một mình cho đến trọn đời lo nuôi con học hành
thành đạt
Đến đời Hậu Lê, vua Lê Thánh Tông, là vị hoàng
đế trị vì lâu nhất thời Hậu Lê 38 năm, có dịp đi kinh lý ngang qua, thấy cái
miếu thờ nàng họ Vũ, gọi là “Miếu Vợ Chàng Trương”. Nghe câu chuyện thương tâm
ấy, vua liền làm một bài thơ :
Nghi ngút đầu gành tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Ngọn đèn dầu tắt đừng nghe trẻ
Dòng nước can chi lụy đến nàng
Chứng minh có đôi vầng nhật nguyệt
Giải oan chi mượn đến đàn tràng
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy
Há trách chàng Trương quá phũ phàng
Câu chuyện Thiếu phụ Nam
Xương cho ta cái nhìn tổng thể là nỗi khổ buồn đau của hai bên quá lớn về “ tự
ái”. Tự ái là gốc rễ của si mê mà ra . Nếu hiểu biết được Phật pháp thì ta dùng
năng lượng chánh niệm để soi sáng cho ta thì sự tự ái có khả năng hóa giải.
Chàng
Trương là người bị hiểu lầm về câu chuyện của đứa con nít ngây thơ. Cái
thấy của đứa con nít là vậy, thấy sao nói vậy. Do người lớn chủ quan tin vào
câu nói : “ Ngoài đàng hỏi ông già, về nhà hỏi trẻ con”, cho nên mới đưa đến
nhận thức sai lầm chết người đáng tiếc như vậy. Lúc này chàng Trương thấy mình
bị tổn thương nặng, nỗi khổ quá lớn, tự ái tràn ngập trong lòng, tỏ ra khinh
thường vợ và nghỉ rằng làm như vậy thì mình mới hết khổ. Chàng càng hắt hủi vợ
chừng nào thì chàng càng khổ đau chừng ấy, đây là quy luật, và đương nhiên là
nàng cũng khổ đau theo luôn. Mặt khác chàng Trương cũng là người gây ra hiểu
lầm cho vợ tự ái và dẫn đến cái chết oan uổng cho vợ
Trong trường hợp này không trách ai được. Bên
nào cũng có tự ái trấn ngự trong lòng, không bên nào chịu nói ra thành lời, nói
ra bằng tình thương thì dẫn đến chuyện hiểu lầm là chuyện tất yếu, vì cả hai
đều là con người còn yếu kém và vụng về. Cả hai là nạn nhân của câu chuyện con
nít ngây thơ kia, xét cho cùng thì đáng thương hơn là đáng trách.
Trong lúc người bố xa nhà, con hỏi mẹ “bố
đâu”, mẹ thương con, chỉ cái bóng của mình trên tường là bố. Đứa bé tưởng thật,
trong đầu bé cứ tưởng bố tôi là cái bóng đen đen trên tường đêm đêm mới có, còn
ông bố thật trước mặt thì cho rằng không phải bố mình. Người lớn nào nghe mà
không tức điên lên được ? Đức Phật dạy
rằng, chúng sanh sống trong cuộc đời
“nhận giả làm chân” là vậy. Cái thật cho là giả, cải giả cho là thật.
Cái thật là cái bình an trong bên trong của mình, cái giả là cái bên ngoài đưa
vô, không phải mình. Khi nghe, ta phải bình tĩnh mà nghe, Khi thấy ta bình tĩnh
mà thấy. Cái khổ của chúng ta hằng ngày là do nghe và thấy sai lầm mà ra.
Khi nào tâm mình thật sự bình an, khi ấy lời
nói, suy nghĩ mới chín chắn và vững vàng, mới không gây sự hiểu lầm và tự ái
cho người khác. Ta có thói quen vừa thấy cái gì, vừa nghe cái gì là tâm dao
động, lung lay như ngọn đèn trước gió, làm sao sáng suốt được. Chúng ta thường
không sống bằng cái thật bên trong của mình.
Thân ta như cái nhà, mắt tai, mũi lưỡi ta như
các cửa sổ. Giông bảo đến ta phải biết về nhà đóng các cửa chính và cửa sổ lại.
Cửa không đóng kịp, gió mưa đều sẽ có thể luồn vào trong nhà và gây ảnh hưởng
làm cho căn nhà của ta tan hoang lạnh lẽo. Nếu chúng ta không biết đóng các
cánh cửa của sáu giác quan thì bão tố cảm xúc sẽ làm cho tâm ta chao đảo liên
tục. Thân ta có tổng cộng sáu cánh cửa giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
và ý. Đây là sáu cửa ngõ chính dẫn lối cho các tự ái phát sinh. Chúng ta không
biết cảnh giác đề phòng sáu giác quan đang mở toan thì sáu giác quan kia vẫn sẽ
còn lừa gạt ta dài dài.
Tự ái từ đâu mà có ? Ai tạo ra tự ái cho ta ?
Có phải do ta tạo ra tự ái hay do ai khác ngoài ta ?. Nếu ta không phải là
người có quyền cao, chức lớn, lộc nhiều, thì chắc ta không có tự ái nhiều. Con
người có một chút gì đó thì mới có tự ái. Thí như người vô gia cư, thì lấy đâu
ra có tự ái ? Người đi đường giơ tay cho
tiền họ, họ cũng vui, mà không cho họ cũng vui. Thậm chí nói năng họ, họ cũng
vui. Thế là không có tự ái. Còn chúng ta có tiền có của, có chức vị đụng đâu tự
ái đó, sẵn sàng tự ái, đầy dẫy tự ái mỗi ngày. Làm sao đem lại sự an vui cho
những người thân chung sống với mình được ?
Chàng Trương là con nhà khá giả nên dễ tự ái.
Nàng kia xinh đẹp giỏi giang nên cũng dễ có tự ái riêng. Càng giàu càng đẹp
càng có quyền có chức càng dễ có tự ái nhiều hơn, và càng khổ đau nhiều hơn.
Lòng có tự ái không biết kiềm chế, không biết tu tập chuyển hóa, thì việc vung
vãi khổ đau và những thái độ thiếu tôn trọng lẫn nhau là chuyện đương nhiên.
Nếu người thiếu phụ Nam Xương kia mà chịu
ngồi xuống trong sự bình tĩnh để hỏi chàng Trương đôi câu. Tại sao anh có thái
độ lạnh nhạt với em như thế từ khi em đi chợ mua sắm về. Em có làm việc gì cho
anh tổn thương không, em có lỗi gì với anh không v.v ? Và anh cũng biết đấy ! Trong em vẫn còn nhiều thứ non dại vụng về chưa
làm được việc gì cho anh hài lòng v.v
Khi cô ta nói được vài câu như thế thì lòng cô ta nhẹ nhỏm trước, và có thể tháo gỡ được gút mắt khó khăn trong
lòng mình và người kia. Tại vì ai cũng có tự ái trong lòng mà không biết tháo
gỡ.
Tự ái thật nguy hại lắm. Tự ái khóa chặt cái
lưỡi đôi bên, nó không cho ai mở miệng nói ra được một lời nào. Nhưng một khi
được nói ra bằng tình thương và sự hiểu biết thì cứu vãng được tình thế khó
khăn của đôi bên.
Con người muốn có hạnh phúc thì đừng để tự
ái xen vào. Mà hễ tự ái nổi lên trấn ngự
thì đánh mất hạnh phúc của ta ngay. Ở đâu cũng có tự ái, lãnh vực nào
cũng có tự ái. Cấp bậc nào cũng có tự ái. Chỉ trừ khi nào chúng ta có hành trì
lời Phật dạy. Ở đây xin nhấn mạnh là sự “hành trì” chứ không nói hiểu biết Phật
pháp. Có rất nhiều người thông hiểu Phật pháp lắm nhưng không hành trì, đụng
chuyện dù nhỏ, thì tự ái vẫn nổi lên là chuyện thường.
Hành trì là sự thực tập ngồi yên lặng, nhắm
mắt quay vào bên trong khoảng 10, 15 hay 30 phút mỗi ngày, vài ngày trong tuần.
Một năm sau bạn là người có thể làm chủ được cơn cảm xúc tự ái bộc phát bất
chợt. Nếu không thực tập như thế, bạn là người làm nô lệ cho tự ái. Khi đã bị
làm nô lệ cho tự ái, thì nhìn bạn thấy khủng khiếp lắm. Có ai nổi tự ái lên mà
đẹp đẽ đâu, vui vẻ đâu ?
Cho nên cả người chồng và người vợ phải thực
tập sống nhẹ nhàng thong thả, tức là thiền tập. Thiền tập là tập nhận diện
những khi tự ái, những cơn giận, hờn ghen sắp có trong tâm mình. Thiền tập là ý
thức rất rõ ràng tâm niệm động tịnh sắp diễn ra trên thân mình, xung quanh môi
trường đang sống. Tuyệt đối làm cái gì cũng phải nhẹ tay, không gây ra tiếng ồn
trong nhà. Ai cũng thích nhẹ nhàng yên lặng.
Người mẹ muốn có đứa con sinh ra khôi ngô
tuấn tú, thông minh học giỏi, thì người mẹ phải biết mỉm cười với con từng giây
từng phút. Cười mỉm là thẻ hiện sự thoải mái nhẹ nhàng trong lòng. Cười nhẹ là
người mẹ đang thể hiện tình thương sâu sắc đối với đứa con sắp chào đời.
Con là tài sản quý báu của cha mẹ, nhưng cha
mẹ không biết cách giữ gìn thân tâm mình an lạc, đi đứng khoan thai nhẹ
nhàng thì đứa con sẽ ảnh hưởng không tốt
do hành vi cha mẹ gây ra. Cho nên, nhẹ nhàng và mỉm cười là liều thuốc tâm lý
hay nhất mầu nhiệm nhất cho con.
Như vậy muốn có một gia
đình hạnh phúc chân thật, mỗi người thành viên trong gia đình phải thực tập
chánh niệm thường xuyên, tức là lắng lòng nhìn vào bên trong mỗi ngày, và nhận
diện rõ từng hành động cử chỉ của ta mọi lúc mọi nơi, mọi việc nhẹ nhàng thong
thả, không vội vàng hấp tấp. Như thế ta sẽ có cuộc sống bình an bên trong cả
bên ngoài./.
{]{
DỤC LẠC VÀ THIỀN LẠC
Dục lạc : là thứ hạnh
phúc thường tình giữa thế gian, tức sự
thỏa mãn các khoái cảm của giác quan như sắc đẹp, tiếng hay, hương
thơm,vị ngọn, cảm xúc êm dịu hay sự sở hữu và thụ hưởng các lạc thú trần thế
như tiền tài vật chất (tài), sắc đẹp khác phái (sắc) danh vọng quyền lực (danh),
ăn uống no say (thực) ngủ nghỉ êm ái (thùy). Đây là loại hạnh phúc hấp dẫn và
đặc trưng nhất trong thế giới con người, gắng liền với nghiệp thức của loài
người, trở thành món ăn ưa chuộng và đối tượng tìm cầu của hết thảy mọi người.
Loại lạc thú này có công năng bảo dưỡng sự sống của con người, kích thích các
hoạt động tạo tác của con người, thôi thúc con người tạo ra thế giới văn minh
vật chất, một thế giới mà Đức Phật đã định danh là “thiếu thốn, khao khát, nô
lệ cho lòng tham”, vì ở đó con người không bao giờ biết đủ và cảm thấy thỏa
mãn.
Dầu mưa bằng tiền vàng
Các dục khó thỏa mãn
Dục đắng nhiều ngọt ít
Biết vậy là bậc trí
Chính vì bản chất luôn luôn thiếu thốn và khao
khát của dục vọng nên Đức Phật gọi hạnh phúc này là dục trưởng dưỡng, nghĩa là
lạc thú nuôi lớn lòng tham, kích thích bản chất ham muốn của con người, khiến
cho con người luôn luôn nghèo đói, khao khát tìm kiếm, sở hữu bao nhiêu cũng
không thấy đủ. Cũng do tính chất càng khao khát thỏa mãn càng nghèo đói thiếu
thốn, dục lạc được xem là động cơ của mọi hành vi bất thiện đưa đến bất hạnh
khổ đau cho con người và cuộc đời. Đại kinh Khổ uẩn thuộc tuyển tập Trung bộ
nêu môt loạt các hậu quả nguy hại do lòng tham muốn dục lạc gây ra.
Này
các Tỳ kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do
chính dục làm nhân, vua tranh đoạt với vua, Sát đế lỵ tranh đoạt với Sát đế lỵ,
Bà la môn tranh đoạt với Bà la môn, gia chủ tranh đoạt với gia chủ, mẹ tranh
đoạt với con, con tranh đoạt với mẹ, cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với
cha, anh em tranh đoạt với anh em, anh tranh đoạt với chị, chị tranh đoạt với
anh, bạn bè tranh đoạt với bạn bè. Khi họ đã dấn mình vào tranh chấp, tranh luận, tranh đoạt,
họ công phá nhau bằng tay, họ công phá nhau bằng đá, bằng gậy, bằng kiếm v.v. Ở
đây họ đi đến tử vong, đi đến đau khổ gần như tử vong.
Chính do dục làm nhân, do dục làm duyên,, họ
cầm mâu, cầm kiếm, họ đeo cung và tên,họ dàn trận hai mặt, và tên được nhắm bắn
nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Họ bắn nhau bằng tên,
họ quăng đâm nhau bằng đao, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử
vong, đi đến sự khổ đau gần như tử vong.
Do dục làm nhân, do dục làm duyên, họ đột
nhập nhà cửa, họ cướp giật đồ đạc, họ hành động như kẻ cướp, họ phục kích các
đường lớn, họ đến với vợ người. Các vua chúa khi bắt được một người như vậy
liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy, họ
đánh bằng côn, họ chặt tay, chặt chân họ lấy gươm chặt đầu. Ở đây họ đi đến tử
vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong..
Chính do
dục làm nhân.. họ sống làm các ác hạnh về thân, làm các ác hạnh về lời
nói, làm các ác hạnh về ý, khi thân hoại mạng chung họ sanh vào cõi dữ, ác thú,
đọa xứ, địa ngục.
Do dục lạc tiềm ẩn nhiều nguy cơ đưa đến khổ
đau cho con người và cuộc đời, Đức Phật gọi loại lạc này là hạnh phúc có đau
khổ, có phiền lao, có ưu não, có nhiệt não, đưa đến tranh chấp, đáng sợ hãi,
không nên tìm cầu, không nên làm cho sung mãn, cần hạn chế, cần nhiếp phục, cần
buông bỏ. Ngài xem dục lạc là ô uế lạc, phàm phu lạc, phi Thánh lạc, tức các
lạc làm ô uế tâm thức con người, khiến cho con người trở nên hèn hạ tầm thường,
không nâng cao phẩm giá con người.
Theo lời Phật
thì dục lạc vui ít khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm càng nhiều hơn,
nhưng con người không thể thoát khỏi sự trói buộc và phi phối của các dục, trừ
khi có sự chuyển hóa và thăng hoa tâm thức gọi là hành Thiền.
Ham muốn không dừng
Suốt ngày bận rộn cũng chỉ vì
Lo ăn lo mặc chuyện áo y
Ăn mặc đủ rồi, lại suy nghĩ
Phòng trung còn thiếu vợ đương thì
Vợ đẹp hầu non đều đã đủ
Ra vào xe ngựa lấy đâu đi ?
Ngựa đã thành bầy, xe đã sẵn
Lại lo ruộng ít, khó thu chi
Mua được ruộng vườn trăm vạn mẫu
Sợ không quan chức bị người khi
Tam phẩm, tứ phẩm còn chê nhỏ
Ngũ phẩm thất phẩm có ra gì
Nhất phẩm vừa lên ngôi tể tướng
Lại muốn làm vua chắc có khi ?
Thỏa lòng lên được ngôi thiên tử
Mơ ước thành tiên sống trường kỳ
Tham vọng leo thang không dừng nghỉ
Vô thường chợt đến, ôm hận đi
{]{
Một mai vô thường đến
Mới hay mộng huyễn thân
Muôn việc đem chẳng được
Chỉ nghiệp theo thức thần
{]{
Thiền lạc : nghĩa là niềm hân hoan an lạc nội tâm, đạt
được nhờ chuyển hóa và thanh lọc tâm thông qua hành Thiền. Đây là phương pháp
chuyển hóa tâm thức rất quan trọng, làm phát sinh các cấp độ an lạc tinh tế sâu lắng thuộc tâm thức gọi
là nội lạc, có khả năng thay đổi cảm thức của con người về kinh nghiệm hạnh
phúc. Theo kinh nghiệm tu tập của Đức Phật thì Thiền lạc có khả năng đối trị và
nhiếp phục dục lạc, vì Thiền lạc vi diệu, thù thắng và an ổn hơn dục lạc. Bậc
Giác ngộ đánh giá cao Thiền lạc, gọi hành Thiền là Tăng thượng tâm và hiện tại
lạc trú, tức sự thăng hoa tâm thức và sống an lạc ngay trong hiện tại.
Sau đây là các minh họa liên quan đến Thiền lạc :
Cảm giác sung sướng hân
hoan do gột rửa tâm khỏi năm triền cái (tham, sân, hôn trầm thùy miên, trạo
hối, nghi ngờ), như người mắc nợ thoát khỏi nợ nần, như người bị bệnh thoát
khỏi bệnh tật, như người tù được thả tự do, như người nô lệ thoát khỏi cảnh nô
lệ, như người buôn băng qua sa mạc được an toàn.
Hành giả khéo tu tập trừ diệt được năm triền cái, tùy theo năng lực tu tập mà
lần lượt chứng qua bốn trạng thái thiền. Gọi là sơ Thiền, nhị Thiền, tam Thiền
và tứ Thiền. Lạc sơ Thiền là cái cảm
giác niềm vui khi ly dục, ly ác,bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh.
Lạc đệ nhị Thiền là vị
hành giả diệt tầm và tứ, chứng và trú
Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh
nhất tâm.
Lạc đệ tam Thiền : hành giả ly hỷ trú xả,
chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là “ xả niệm lạc
trú ”, chứng và trú Thiền thư ba.
Lạc đệ tứ Thiền : hành giả xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ
trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Các mô tả về bốn trạng thái Thiền của kinh
tạng cho chúng ta thấy một hình ảnh sống
động về kinh nghiệm hạnh phúc an lạc của pháp môn hành Thiền. Một người hành
thiền là một người đang sống trong hạnh
phúc an lạc. Vị ấy hạnh phúc an lạc bởi thân và tâm vị ấy được thấm nhuần, tẩm
ướt, tràn đầy với hỷ lạc do ly dục sanh, với hỷ lạc do định sanh, với xả niệm
lạc trú và với xả niệm thanh tịnh. Kinh tạng nói ví như người hành Thiền giống
như một người đứng trên núi cao, có thể
hít thở không khí trong lành và thưởng thức vẻ đẹp của một cảnh quan thiên
nhiên rộng lớn, so với cảm thức giới hạn của người không hành Thiền, đứng dưới
chân đồi.
Như vậy, hành Thiền là bước chuyển hóa và
thực nghiệm tâm thức to lớn với kết quả thân được khinh an, thoải mái, tâm được
hân hoan, định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến,
dễ sử dụng, vững chắc, bình thản. Chính trên nền tảng một tâm thức được khéo
huấn luyện như vậy mà hành giả có thể dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh,
Thiên nhãn minh, Lậu tận minh nhằm đoạn tận các lậu hoặc, thành tựu quả vị giải
thoát giác ngộ.
Do Thiền lạc có khả năng làm trong sáng và an
tịnh nội tâm, giúp cho người thực hành thành tựu trí tuệ đưa đến đoạn tận các
lậu hoặc, Đức Phật xem loại hạnh phúc này là lạc thọ họp pháp, tức loại hạnh
phúc của sự thoát khỏi mọi trói buộc thế gian, của nếp sống thanh tịnh, nội tâm
vắng lặng, của tâm thức an tịnh, vắng bặt các cấu uế tham, sân si hay năm triền cái, hay niềm vui có khả năng
đưa đến giải thoát giác ngộ, gọi là xuất ly lạc, độc cư lạc, an tịnh lạc, Chánh
giác lạc. Cũng theo lời Phật thì Thiền lạc là loại hạnh phúc không có đau khổ,
không có phiền lao, không có ưu não, không có nhiệt não, không đưa đến tranh
chấp mà mọi người nên thực hành, nên tu tập, nên làm chi sung mãn.
Tóm lại : Như vậy, Đức Phật khuyên mọi người
tu Thiền, chú tâm vào nội lạc, vì các lẽ sau đây :
Hạnh phúc là ước mong muôn thuở của con người
và loài người. Con người sống là để được hạnh phúc và kiến tạo hạnh phúc. Tuy
nhiên, hạnh phúc có nhiều loại và nhiều cấp độ khác nhau, tùy thuộc vào quan
niệm và khuynh hướng tâm thức của mỗi người. Đạo Phật đã phân định rõ ràng từng
loại hạnh phúc, xác định rõ loại hạnh phúc nào cần vượt qua, loại hạnh phúc nào
nên kiến lập, đồng thời chỉ rõ phương pháp cụ thể giúp cho con người tìm thấy
lối đi đưa đến thăng tiến hạnh phúc.
Dục lạc là hạnh phúc thường tình giữa thế gian
gắn liền với đời sống của con người, có chức năng thôi thúc con người nỗ lực
kiến tạo và hoàn thiện đời sống vật chất và thụ hưởng các thành quả của đời
sống văn minh vật chất. Dục lạc có công năng nuôi lớn lòng tham hay dục vọng
của con người, vì vậy, dục lạc chính là nguyên nhân của mọi xu hướng cạnh
tranh, tranh chấp, tranh đoạt, công kích và chiến tranh xảy ra giữa con người
và con người, giữa các giai cấp, giữa các quốc gia hay các khối chủ nghĩa. Tính
chất nguy hiểm của dục lạc trải dài lịch sử loài người, khiến cho đời sống nhân
loại không có được nhiều hạnh phúc an ổn so với cảm thức bất an sầu muộn.
Dục lạc vui ít khổ nhiều, não nhiều, sự nguy
hiểm càng nhiều hơn, nhưng con người hầu như không tìm thấy giải pháp để khắc
phục và vượt qua. May mắn thay, Đức Phật thị hiện ở đời đã giúp cho nhân loại
tìm thấy giải pháp cứu nguy cho lối sống bất an bị trói buộc bởi dục lạc thế
gian. Đó là con đường chuyển hóa tâm thức mà bậc Giác ngộ đã chứng nghiệm và
tuyên thuyết, con đường của sự tu tập thăng tiến đạo đức, tâm thức và trí tuệ,
có khả năng chuyển đổi các thói quen của đời sống con người, từ nhận thức đến
hành động và cảm nghiệm, giúp cho con
người tìm thấy lối sống giải thoát an lạc ngay trong thế giới bị trói buộc khổ
não bởi dục lạc. Theo kinh nghiệm của Đức Phật thì hành Thiền chính là con được
vượt qua sự trói buộc và chi phối của dục lạc, vì Thiền làm phát sinh Thiền
lạc, tức sự thanh thản an lạc sâu sắc thuộc nội tâm, có khả năng thay thế và
đối trị dục lạc.
So với dục lạc ẩn nhiều nguy hiểm bởi bản chất
vị kỷ, hướng hạ của nó, Thiền lạc hay hạnh phúc của sự chuyển hóa và thăng tiến
tâm thức được xem là hạnh phúc chân chính, hướng thượng, vì đó là loại hạnh
phúc ly dục, ly tham, vắng bặt các cấu uế, đưa đến giác ngộ, hướng đến Niết
bàn. Đó là loại hạnh phúc của người leo núi cao Thiền định và trí tuệ, cảm
nghiệm cả một bầu không gian khoáng đảng và giải thoát, so với cảm thức ô nhiễm
và ngột ngạt của những người đứng dưới chân đồi, không hành Thiền, bị dục lạc
chi phối.
Thiền có khả năng chuyển
hóa con người, chuyển hóa đời sống và hạnh phúc của con người theo chiều hướng
tốt đẹp tiến gần mục tiêu giác ngộ. Thiền nâng cao tâm thức cao người, nâng cao
hạnh phúc con người. Thiền mang lại cho con người thân khỏe tâm an, giúp cho
con người tìm thấy lẽ sống giải thoát an lạc trong đời sống hàng ngày, một lối
sống sáng suốt tin cần, thiểu dục tri túc, có hiểu biết, có tỉnh thức, cảm
nghiệm trọn vẹn tính chất mầu nhiệm của sự sống an lạc tự nội, không còn quay cuồng
tìm kiếm một cách mệt mỏi và bất an các lạc thú ở bên ngoài.
Thiền là tiến trình khai mở tuệ giác giải
thoát, vì Thiền có công năng thanh lọc tâm, khiến cho tâm đạt đến trong sáng,
định tĩnh, thấu suốt bản chất duyên sinh, vô thường, vô ngã của mọi sự vật và
hiện tượng giúp cho người thực hành dễ dàng buông bỏ các tập quán tham ái và
chấp thủ, đưa đến chứng đắc tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chấm dứt khổ đau
sanh tử luân hồi./.
Trích : Chú tâm vào nội lạc của Huyền Hương VHPG- 1-8-2018
{]{
BỐN CÔNG NĂNG CỦA THIỀN
Đức Phật nói cho chúng ta biết về những lợi
ích của Tâm khéo tu tập Thiền chỉ và Thiền quán, lần lượt đạt đến an tịnh, đạt
đến trong sáng, đạt đến tăng thượng, đạt đến định tỉnh, đạt đến giải thoát. Tùy
thuộc vào công phu nhiếp tâm và dụng tâm mà Thiền có thể mang lại những kết quả
hết sức đặt biệt. Đức Thế Tôn xác nhận có bốn công năng gắn liền với hành Thiền,
phát sinh do chuyên tâm tu tập Tăng thượng tâm, Tăng thượng trí tuệ. Đó là công
năng thực nghiệm đời sống an lạc ngay trong giây phút hiện tại, gọi là hiện tại
lạc trú. Công năng thứ hai là thành tựu tri kiến, tức đạt được cái năng lực kỳ
diệu siêu việt khả năng loài người, gọi là chứng đắc thần thông. Thứ ba là
Thiền có công năng giúp ích cho con người chánh niệm tỉnh giác, tức là năng lực
của tâm tỉnh thức hiện diện trong đời sống xúc chạm hằng ngày. Công năng thứ tư
là Thiền đưa đến đoạn tận các lậu hoặc, tức là Thiền có công năng dứt sạch các
cấu uế nội tâm, đoạn tận dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, hướng đến chấm dứt tái
sanh, chấm dứt khổ đau sanh tử luân hồi.
Như vậy, có bốn công năng gắn liền với công
phu Thiền định, giúp cho người hành Thiền có được một đời sống lợi lạc về
phương diện nâng cao phẩm chất an lạc của cuộc sống, nâng cao giá trị giải
thoát, tâm thức, hướng đến đoạn tận các lậu hoặc, thành tựu mục tiêu giải thoát
khổ đau sanh tử luân hồi.
Trước hết Thiền đưa đến hiện tại lạc trú,
nghĩa là Thiền có công năng làm phát sinh cảm giác thoải mái an lạc trong đời
sống hàng ngày, nhờ không gian hành Thiền. Không gian hành Thiền nghĩa là một
môi trường tương đối thuận lợi cho việc ngồi Thiền, một nơi chốn yên tỉnh
thoáng mát, không ồn ào, giúp cho việc ngồi thiền được dễ dàng và thoải mái
trong một thời gian dài. Tư thế ngồi thiền, nghĩa là thế ngồi kiết già hay bán già,
giữ lưng ngay thẳng, giữ hơi thở điều hòa, tạo nên cảm giác thư thái và thoải
mái trong lúc hành Thiền.
Phương pháp nhiếp niệm hành Thiền, nghĩa là
chọn một đối tượng rồi Thiền tư trên đối tượng ấy khiến đốt cháy các pháp đối nghịch (năm triền cái).
Ơ đây ngụ ý chọn hơi thở vô, hơi thở ra làm đối tượng nhiếp tâm và an trú tâm,
khiến cho tâm lần lượt đi đến yên lắng an tịnh trong sáng, định tĩnh, nhất tâm,
tức sự vắng bặt các bất thiện pháp tham, sân, si hay năm triền cái (tham, sân,
hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi) sự sinh khởi các thiện pháp tầm, tứ, hỷ,
lạc, nhất tâm, tạo cho tâm các cảm giác khoan khoái, thoải mái an tịnh gọi là
“hỷ lạc do ly dục sinh” hay “lạc do Định
sanh” “ xả niệm lạc trú ” và “xả niệm
thanh tịnh”
NĂM THỨ TRIỀN CÁI
Triền cái là gì ? Triền
là trói buộc, trói buộc gì, trói buộc chúng sanh trong khổ đau sanh tử luân hồi. Cái là che đậy, tức
màng vô minh che lấp bản tâm thanh tịnh và trí tuệ sáng suốt. Khi thực hành
Thiền quán, hành giả thường hay vướng vào 5 chướng ngại này mà thuật ngữ Phật
học gọi là 5 triền cái hay ngũ triền cái, làm cho việc thực tập thiền khó được
như ý muốn. Năm thứ này thường hay hiện
khởi làm cho các đề mục Thiền quán bị tán loạn, phân tâm và khó chú tâm đưa đến
tịnh chỉ, an trú trên các đề mục thiền. Năm triền cái là năm pháp làm trở ngại
và che lấp tâm định, làm yếu ớt trí tuệ.
Năm triền cái là : tham dục, sân giận, hôn
trầm thụy miên, trạo cử hối quá và hoài nghi. Những phiền não này không chỉ
chướng ngại cho sự thiền quán mà còn áp lực chính đối với nguyện vọng giải
thoát giác ngộ của người tu tập.
Chúng có tên là “triền cái” là vì chúng che
án và bao phủ tâm, ngăn cảng sự phát triển thiền ở hai lãnh vực, tịnh chỉ và
tuệ giác. Về mặt kỷ thuật đối lập với Thiền, chúng thường khá tinh tế trong
hình thức. Khi hành Thiền đạt đến mức độ cuối cùng của sự đoạn tận các triền
cái là đạt được quả vị A La Hán, khi đó
chúng bị cắt đi như một gốc cây cọ, vĩnh viễn không thể mọc lại được nữa. Vì lý
do đó mà Đức Phật gọi năm triền cái này là “những chướng ngại, ngăn che, làm uế
nhiễm tâm, làm yếu trí tuệ”. Năm triền cái này tác thành si ám, tác thành không
mắt, tác thành vô trí, đoạn diệt trí tuệ, dự phần vào tổn hại, không đưa đến
Niết bàn.
Năm triền cái này được ví như sự vẩn đục của
hồ nước theo 5 cách khác nhau :
Triền cái đầu là tham dục, ví như nước bị nhuộm màu, do đó không còn
trong sạch, tinh khiết nữa. Sân hận giống như nước bị đun sôi, trở nên hổn
loạn. Hôn trầm thụy miên, ví như nước bị rong rêu bao phủ. Trạo cử hối quá, ví
như gió thổi làm tung tóe. Và nghi ngờ ví như nước được đặt trong bóng tối và
làm rối loạn tâm. Với việc loại trừ 5 thứ trở ngại “triền cái” ấy, nước sẽ
trong sạch tinh khiết trở lại.
Kinh Tạng Nikaya còn phản ánh ý thức về sự
hiện diện của những triền cái diễn ra trong cuộc sống hằng ngày. Một số bản
kinh mô tả chúng hoạt động trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, kể cả trong khi buôn
bán làm việc. Chúng tác động trực tiếp lên tâm ý và cơ thể. Chúng chi phối đến
mọi hoạt động của con người làm nảy sinh ra những trạng thái tâm: chẳng hạng
như không muốn làm những gì chúng ta đang làm, khởi lên những ham muốn cái gì
khác, làm cho chúng ta trở nên bực bội, mệt mỏi, bồn chồn, hưng phấn và nghi
ngờ tất cả những gì chúng ta đang làm. Một vòng tròn luẩn quẩn có nguyên nhân
và điều kiện chi phối thân tâm chúng ta. Và nó được thấy rõ ràng nhất khi chúng
ta thực hành thiền định.
Nội dung của năm triền cái .
1/ Tham dục : Tâm sở tham dục có trạng thái ưa thích, đam mê, ham muốn,
dính mắc sự khát khao “năm dục lạc” làm cho tâm phân tán khó tập trung. Nó là
một hình thức của phiền não gốc tham, đó là một cách biểu hiện của ái mà Đức
Phật xác nhận là nhân sanh khổ. Quá ham muốn đắc định cũng là một trở ngại cho
tâm định
2/ Sân hận : Tâm sở sân biểu thị sự ghét bỏ, trạng thái bất mãn, bất
bình, không hài lòng đối với người hay vật, không vừa ý. Tầm mức của nó thay
đổi từ bực mình nhẹ nhàng đến lòng oán hận thâm sâu. Sân làm cho tâm nóng nảy,
khó hoan hỷ, an vui trong đề mục thiền định.
3/ Hôn tầm-thụy miên : Đây là một chướng ngại kép. Hôn trầm là sự đình trệ, dã
dượi của tâm. Thụy miên là trạng thái mơ màng, ngái ngủ của thân. Hai tâm sở
này đồng một tính chất ươn hèn, nhu nhược và thụ động, khiến cho tâm không thể
chú hướng vào đề mục thiền định được.
4/ Trạo-hối : Tâm sở trạo cử có trạng thái phóng tâm, suy nghĩ vẩn vơ,
nhất là về tương lai. Tâm sở hối quá có trạng thái nóng nảy, ray rứt, hối tiếc
về những sai lầm hay tội lỗi đã làm trong quá khứ (tránh lầm lẫn với trạng thái
ăn năn, hối cải thuộc thiện). Hai tâm sở này đồng một tính chất tháo động, bồn
chồn, bất an khiến cho tâm không an lạc trên đề mục thiền định. Ví dụ như khi
đang cố gắng chú tâm được vài giây thì tâm đã trược khỏi đề mục. Nếu do lười
chán hay giải đãi mà không an lạc, đó là triền cái hôn trầm thụy miên, nếu do
suy nghĩ vẩn vơ hay hối tiếc bứt rứt mà không an ổn thì đó là triền cái trạo
hối.
5- Nghi : Đức Phật giải thích nghi ngờ là
sự không chắc chắn chủ yếu và sự thiếu tín nhiệm đối với bốn hạng mục: Phật,
pháp, Tăng và Giới. Ở những nơi khác, Ngài giải thích tâm sở nghi là nghi ngờ
liên quan đến quá khứ, hiện tại và tương lai. Do vậy, đoạn trừ được tâm sở này
thì phải hiểu rõ định lý nguyên nhân và điều kiện. Tâm sở nghi có trạng thái
lưỡng lự, phân vân, do dự, bất quyết. Tâm sở này làm cho tâm không đứng vững
được trên đề mục thiền định.
Hôn trầm thụy miên là tâm sở có trạng thái
thụ động, thiếu tinh tấn cho nên có mặt trong các tâm hữu trợ. Trạo hối và nghi
là tâm sở có trạng thái dao động, làm cho tâm không sáng suốt, cho nên thay
nhau có mặt trong hai tâm si.
Các triền cái tiêu biểu cho toàn bộ những
trạng thái tâm ô nhiễm bao gồm ba bất thiện căn, tứ bộc, tứ kết, tứ lậu, tứ
thủ, thập phiền não, thập kiết sử. Các
triền cái được Đức Phật so sánh như món
nợ, như bệnh hoạn, như ngục tù, như cảnh nô lệ, như con đường đi qua sa mạc.
Chúng che mắt con người khiến họ không thể được lợi ích của bản thân mình, lợi
ích của người khác hoặc lợi ích của cả hai. Do ảnh hưởng của các triền cái, con
người làm những điều lẽ ra họ không nên làm và xao lãng những bổn phận lẽ ra họ
phải làm. Chúng làm uế nhiễm tâm, suy yếu trí tuệ, tác thành si ám, tác thành
không mắt, đoạn diệt trí tuệ, dự phần vào tổn hại, không đưa đến Niết bàn. Ví
như vàng bị suy kém bởi năm tạp chất- sắt, đồng, chì, thiếc và bạc- “ không mềm
dẽo, không dễ dùng, không chói sáng, dễ bể vụn và không thể chạm đồ tinh xảo
được”. Tâm cũng vậy, bị uế nhiễm bởi năm triền cái, không nhu nhuyến, không dễ
dùng, không chói sáng, cứng rắn và không thể định tâm chân chánh vào việc đoạn
trừ các lậu hoặc. Chính vì vậy mà Đức Phật nói về chúng “ này các Tỳ kheo, nếu
ai nói một cách chân chánh về các triền cái, người ấy phải nói chúng là ‘ một
đống tâm bất thiện vì quả thực năm triền
cái này là một đống tâm bất thiện hoàn toàn.”.
Các hình ảnh tiêu cực của những triền cái :
Trong kinh Đức Phật đưa ra ví dụ, so sánh năm
triền cái giống như năm loại tạp chất chứa trong vàng. Đức Phật lại bảo rằng :
“ Cũng vậy, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo tự mình, quán năm triền cái chưa xả ly,
như món nợ, như bệnh hoạn, như ngục tù, như cảnh nô lệ, như con đường qua sa
mạc.”
Ham muốn nhục dục như các con nợ : Triền cái đầu tiên là ham muốn đối với các
đối tượng giác quan, nó cũng được gọi là sự khao khát thèm muốn với mọi thứ.
Tham dục là triền cái phổ biến nhất, sự biểu hiện của tham dục đối với sáu trần
cảnh, cảm giác mơ mộng, hoặc bị phân tâm bởi một số kích thích tham muốn (đặc
biệt âm thanh và suy nghĩ). Đức Phật ví sự tham dục như thể đi vay nợ, các sự
khoái lạc ta có qua năm căn đều phải trả lại qua các đau khổ về biệt ly, mất
mát hoặc sự trống rỗng đói khát, vốn sẽ theo đuổi mãnh liệt sau khi các khoái
lạc đã bị tiêu tan, cũng như bất cứ món nợ nào đều phải trả thêm lời, và như
thế Đức Phật dạy rằng sự khoái lạc đó thật ra là nhỏ bé so với các đau khổ phải
hoàn trả.
Sân hận như người bệnh : Triền cái thứ hai là sân hận, sân hận là mặt
trái của tham dục, nó là một cặp song sinh đi liền với nhau. Bởi không thỏa mãn
tham dục thì tâm sân hận hiện khởi. Mỗi khi tân sân hận hiện khởi, thì chúng
đốt cháy cả rừng công đức. Sân hận không chừa một ai, làm mất lý trí, nên có
thể bất kính với người lớn hơn hoặc ngang hàng, hoặc thậm chí trở nên khó chịu
với những người khác, tạo ra tiếng ồn, thiếu khiếm nhã và không thể kiềm chế.
Giống như một bát nước được đem đun sôi dữ dội trên một ngọn lửa mạnh.
Hôn trầm, thụy miên như các tù nhân : Triền
cái kép này đưa đến sự dã dượi thân và tâm, làm mất nhuệ khí, thiếu tinh tấn và
tiến bộ tâm linh, đó là hôn trầm và thụy miên. Lý do thật sự là năng lượng của
một người rất nặng nề và bị tắt nghẽn do hậu quả của quá nhiều suy nghĩ và nhạo
báng tinh thần. Giống như một hồ nước bị tràn ngập với những cây rêu mọc đầy trong nước. Đức Phật ví
hôn trầm thụy miên như ngục tù. Người bị giam cầm trong ngục tù thì
không bao giờ thấy tự do và thoải mái. Hôn trầm và thụy miên là một trạng thái
khó chịu của thân và tâm, quá cứng đọng không thể đi vào sự an lạc của thiền
tập, và mù quáng không thể khám phá ra các Tuệ quán. Tóm lại, đây hoàn toàn là
một sự phí phạm thời gian.
Bồn chồn và trạo hối như nô lệ : Khi tâm trí của ta bị lôi kéo vào trong quá
khứ, nhớ lại những điều mình đã làm hoàn thiện hoặc chưa hoàn thiện, nó cũng có
thể có khả năng để trở thành hối hận. Khi tâm trí của ta đi lang thang vào
tương lai, tự hỏi phải làm gì sau khi thiền định, và như vậy, chúng ta có khả
năng để trở nên bồn chồn, cả thân và tâm, hoặc chúng ta có thể vui mừng với
tiến trình rõ ràng của chúng ta, hoặc nản lòng vì chúng ta thiếu tiến bộ, đó là
sự bồn chồn và hối hận, đây là triền cái thứ tư. Điều này cũng giống như tìm
kiếm sự phản chiếu của chúng ta trong hồ nước đang bị khuấy động và bị gió mạnh
thổi cuốn tung. Đức Phật ví trạo cử như
một tên nô lệ, tiếp tục chạy nhảy theo lệnh của ông chủ khắc nghiệt luôn luôn
đòi hỏi sự toàn hảo và như thế không bao giờ cho phép nó được dừng nghỉ. Hối
hận là một trạng thái đặc biệt của trạo cử, là nghiệp quả của các hành động bất
thiện. Cách duy nhất vượt qua hối hận,
sự trạo cử do lương tâm cắn rứt, là phải giữ giới đức, tập sống tử tế, khôn
ngoan và dịu dàng. Một người không có đạo đức hoặc sống buông lung thì không
thể nào có được các kết quả sâu sắc trong khi hành thiền.
Nghi ngờ
như các du khách : Cuối
cùng, người ta có thể cảm thấy rất nản
lòng do những khó khăn và phiền nhiễu khác nhau, người ta bắt đầu nghi ngờ khả
năng suy niệm của người hoặc không chắc chắn về mục đích thật sự của thiền
định. Sự hoài nghi này là một chướng ngại tâm thần thứ năm. Điều này cũng giống
như việc tìm kiếm sự phản chiếu của chúng ta trong một bát nước bùn đục trong
bóng tối. Đức Phật ví nghi ngờ như thể bị lạc trong sa mạc, không nhận ra được
các mốc điểm. Người hành thiền vượt qua bằng cách thu thập các lời hướng dẫn rõ
ràng, có một bản đồ tốt, để giúp chúng ta thấy được các mốc điểm vi tế trong
vùng đất không quen thuộc của tâm thiền sâu kín, và từ đó biết được con đường
phải đi.
Như vậy, năm triền cái là năm hình ảnh tiêu
cực, nguy hiểm đối với người thực hành thiền định. Nhiệm vụ chính của thiền
sinh là vượt qua năm triền cái để đạt được các mức độ thiền. Kinh Trung Bộ dạy
: “ cũng vậy, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo tự mình, quan sát năm triền cái chưa xả
ly, như con đường qua sa mạc, này các Tỳ kheo, cũng như không mắc nợ, không bị
bệnh tật, được ra khỏi tù, được tự do, đến được đất bình yên.Này các Tỳ kheo,
Tỳ kheo quán năm triền cái khi chúng được diệt trừ ”
Đoạn trừ năm triền cái : Theo thiền sư
Henepola Gunaratana, con đường duy nhất để đoạn trừ tối hậu các triền cái là
bốn đạo siêu thế, và để đạt đến các siêu thế đạo này tất yếu phải có sự tu tập
minh sát (Vipassana), vì lẽ sự thâm nhập vào thực tánh của mọi hiện tượng (thấy
rõ tam tướng), chỉ có ở đạo tuệ siêu thế mà thôi. Thế nhưng, muốn minh sát tuệ
sanh khởi các triền cái phải được làm cho suy yếu đến một mức nào đó. Ở đây,
chúng không còn làm gián đoạn tiến trình quán chiếu. Do đó, việc khắc phục sơ
bộ các triền cái, kinh điển thường đưa ra hai giải pháp. Một là sự đè nén các
triền cái bằng cách tu tập tịnh chỉ (samatha) ở mức cận định hoặc an chỉ định
(jhana). Hai, là sự trừ diệt các triền cái trong quá trình tu tập minh sát.
Muốn đoạn trừ sạch năm triền cái thì các điều
cần thiết là phải chứng năm thiền chi: Tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Năm tâm sở này là yếu tố của các tâm thiền
sắc giới giúp chế ngự năm triền cái. Mỗi thiền chi có chức năng và nhiệm vụ để
chế ngự và đoạn trừ, mỗi triền cái tiêu biểu. Tầm chế ngự và đoạn trừ hôn trầm
thụy miên, Tứ đoạn trừ nghi, hỷ đoạn trừ sân, lạc đoạn trừ trạo hối, và nhất
tâm đoạn trừ tham dục. Nói như thế không có nghĩa là mỗi thiền chi chỉ duy nhất
đoạn trừ một triền cái tương ưng. Ngoài chức năng và nhiệm vụ chính thì chúng còn
có sự hỗ trợ nhau trong việc đoạn trừ năm triền cái để đi đến an trú trong các
tầng thiền.
Việc đoạn trừ năm triền cái khiến cho tâm trở
nên thiền tịnh, trong sáng, giống như vàng đã loại từ các tạp chất. “ Và khi
nào, Này các Tỳ kheo, tâm được giải thoát khỏi năm uế nhiễm ấy, khi ấy tâm ấy
được nhu nhuyến, dễ sử dụng, sáng chói, không bể vụn, chơn chánh định tỉnh để
đoạn diệt các lậu hoặc”.
Khi năm triền cái được đoạn trừ, hành giả sống
an lạc tự tại, làm chủ được cảm xúc, làm chủ được tâm ý. Trung bộ kinh dạy rằng
: “ Vị ấy bỏ tham ác ở đời, sống với tâm
thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái, từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm
không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâm hết
sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm
tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy
sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa hết tâm trạo cử, hối tiếc. Từ bỏ
nghi ngờ, vị ấy thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết
nghi ngờ đối với thiện pháp.”
Việc đoạn trừ năm triền cái đánh dấu bước mở
đầu của giải thoát, như kinh nói : “ Khi năm tiền cái đã được đoạn trừ, vị Tỳ
kheo tự mình quán thấy như người đã thoát nợ, như người hết bịnh, như người ra
khỏi tù, như người được tự do, và như
đất lành an ổn”. Cùng với sự đoạn trừ các triền cái, khả năng phát triển tâm
linh của hành giả cũng được khai mở, không còn bị hạn chế, cũng như vàng đã
được tinh lọc, khỏi năm tạp chất sẽ trở nên mềm dẽo, tinh chất, chói sáng và
bền vững, có thể chạm trổ dễ dàng.
Như vậy, chúng ta đã đưa ra một cái nhìn tổng
quan về tiềm năng của tâm trí để đạt
được hạnh phúc cao nhất và tự giải thoát. Con người sẽ bị hạn chế nhiều mặt,
trí tuệ yếu kém khi bị năm triền cái làm che lấp tâm tánh, Đức Phật bậc thầy
giác ngộ, đã chỉ ra cho chúng ta nhiều phương pháp khác nhau để hành giả ứng
dụng tu tập nhằm vượt qua sự trở ngại từ chúng./.
Trích : Năm chướng ngại trong khi hành thiền. : Thích Trung Định. VHPG số 305- 15-9-2018
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mõi mệt
(Trịnh Công Sơn)
{]{
TĂNG THƯỢNG AN LẠC
Nguyên An
Với kinh nghiệm của một
bậc Giác ngộ, Đức Phật nói cho chúng ta biết rằng con người có khả năng sở hữu
nhiều niềm vui hay cảm thức an lạc vi
diệu hơn và thù thắng hơn những gì mà nhân loại từng kinh nghiệm. Đó là những
niềm vui hay các cấp độ an lạc thanh thoát phát sanh do nổ lực chuyển hóa và
thanh lọc nội tâm, tu tập tâm, phát triển tâm, khiến cho tâm đạt đến trong
sáng, đạt đến định tĩnh, đạt đến tăng thượng, đạt đến giải thoát. Tùy thuộc vào
công phu chuyển hóa và phát triển tâm thức mà an lạc phát sinh và tăng thượng
theo các cấp độ khác nhau. Ngoài các lạc thú trần thế gọi chung là hạnh phúc thế gian, bậc Giác ngộ
nói đến các cấp độ an lạc thù thắng mà con người có thể chứng nghiệm, cơ bản do
chuyển hóa và thanh lọc tâm, gọi là Tăng thượng tâm- Tăng thượng an lạc.
Tăng thượng an lạc, nghĩa là hạnh phúc hướng
thượng hay nâng cao giá trị hạnh phúc gắn liền với Tăng thượng tâm, là hệ quả
của tiến trình tu học theo giáo pháp Giới-Định-Tuệ của đức Phật. Đạo Phật- Bát
Thánh đạo- được biết là nếp sống Tăng thượng giới, Tăng thượng tâm, Tăng thượng
trí tuệ, có công năng giúp cho con người nâng cao giá trị an lạc trên nền tảng
nâng cao các phẩm chất giác ngộ tự nội. Đức Phật chủ trương nâng cao giá trị
hạnh phúc trên cơ sở nâng cao giới đức, tâm đức và tuệ đức của con người.
Để giúp cho mọi người nhận rõ lối đi của Tăng
thượng tâm, Tăng thượng an lạc, đạo Phật phân biệt rõ các cấp độ hạnh phúc khác
nhau, gồm dục lạc, thiện lạc, thiền lạc và giải thoát lạc.
Dục lạc :
nghĩa là hạnh phúc hay lạc thú thế gian, bao gồm các đối tượng ham muốn
thường tình của con người, như tiền tài vật chất(tài), danh vọng quyền lực (danh)
sắc đẹp khác phái (sắc), ăn uống no say (thực), ngủ nghỉ êm ái (thùy) hay còn
gọi là các khoái cảm giác quan sinh khởi do duyên tiếp xúc với sắc đẹp, tiếng
hay,hương thơm,vị ngon, cảm xúc êm dịu.Đây là loại lạc thú mang tính đắc trưng và hấp dẫn nhất trong thế giới con
người dến độ nó được xem như một căn bệnh phổ biến của loài người : bệnh tham
dục. Bậc giác ngộ xác chứng: “ Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho
tham dục”.
Dục lạc có công năng kích thích đời sống con
người thôi thúc các hoạt động tạo tác của con người, kích động bản năng ham
muốn và làm tăng trưởng lòng tham không giới hạn của con người. Đạo Phật gọi
các đối tượng kích thích như vậy là các dục trưởng dưỡng, tức các yếu tố quyến
rũ, hấp dẫn, gây cảm kích, tạo khoái lạc, làm lớn mạnh lòng tham hay dục vọng
của con người. Đức Phật nêu định nghĩa về dục lạc :
“ Này Ananda, có năm dục trưởng dưỡng này.
Thế nào là năm ? Các sắc do nhãn căn nhận thức, khả ái, khả lạc, khả hỷ, tương
ứng với dục, hấp dẫn, các tiếng do tai nhận thức các hương do mũi nhận thức các
vị do lưỡi nhận thức các xúc do thân cảm xúc, khả ái, khả lạc, khả hỷ, tương
ứng với dục, hấp dẫn, này Ananda, như vậy là năm dục trưởng dưỡng, Này Ananda,
duyên năm dục trưởng dưỡng này khởi lên lạc và hỷ, như vậy gọi là dục lạc”.
Theo kinh nghiệm của Đức Phật thì dục lạc có
vị ngọt làm say đắm lòng người nhưng chúng nguy hiểm, vì chúng là nguyên nhân
gây nên nhiều tổn thất và bất hạnh lớn cho con người. Bậc giác ngộ định danh dục lạc là “Vui ít,
khổ nhiều, não nhiều, nguy hiểm càng nhiều hơn”, bởi dục lạc làm lớn mạnh lòng
tham gây nên nhiều phiền muộn khổ đau cho con người và cuộc đời. Đại kinh khổ
uẩn thuộc tuyển tập Trung bộ nêu một loạt các hậu quả nguy hại do lòng tham hay
dục vọng gây ra.
-Khiến cho con người lao
tâm khổ tứ, làm việc vất vã cực nhọc, thức khuya dậy sớm, chịu nắng chịu mưa.
- Rơi vào sầu muộn khổ
não, nếu công ăn việc làm bị thất bại.
- Lo lắng tài sản bị tổn
thất bởi nạn trộm cướp, bởi quan lại nhũng nhiễu, bởi thiên tai hỏa hoạn,nước
cuốn hay bởi con cái phá tán.
-Rơi vào các việc làm xấu
ác, vi phạm pháp luật khiến bị tù tội, chịu nhiều cực hình tra tấn khổ đau.
- Rơi vào tranh chấp cãi
vã xâu xé lẫn nhau giữa cha mẹ và con cái, giữa anh em hay giữa bạn bè với nhau
chỉ vì mục đích thỏa mãn dục vọng.
- Tranh chấp dòng tộc,
đấu tranh giai cấp dẫn đến đả thương, tàn sát lẫn nhau vì lý do danh vọng quyền
lợi không được chia đều.
Tranh chấp lãnh thổ, xâm chiếm đất đai, chiếm
đoạt tài nguyên giữa các quốc gia hay các khối chủ nghĩa khiến chiến tranh, hận
thù xảy ra gây chết chóc khổ đau cho vô số người.
-Tạo tác các ác nghiệp về
thân, về lời, về ý do duyên dục vọng gây nên sau khi thân hoại mạng chung, tái
sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Do dục lạc là nguyên nhân gây nên nhiều phiền
toái khổ đau cho con người và cho cuộc đời, Đức Phật gọi dục lạc này là hạnh
phúc có đau khổ, có phiền lao, có ưu não, có nhiệt não, đưa đến tranh chấp,
đáng sợ hãi, không nên tìm cầu, không nên làm cho sung mãn, cần hạn chế, cần
nhiếp phục, cần buông bỏ. Ngài xem dục lạc là ô uế lạc, tức các lạc thú làm ô
uế tâm thức con người, khiến cho con người trở nên hèn hạ tầm thường, không
nâng cao phẩm giá của con người.
Thiện lạc : tức là niềm
vui của lẽ sống tuân theo thiện pháp hay hạnh phúc phát khởi do sinh sống chơn
chánh đúng pháp, nổ lực làm các việc lành, làm các công đức. Đây cũng là hạnh
phúc thế gian, được thực nghiệm bởi người gia chủ tầm cầu tài sản đúng pháp;
sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp, vị ấy tự mình an lạc, hân hoan, chia sẻ và
làm các công đức. Người ấy hưởng thọ các tài sản ấy, không có tham đắm, không
có đắm say, không có mê loạn, thấy được sự nguy hại, có xuất ly với trí tuệ.
Bản kinh không nợ thuộc tuyển tập Tăng chi bộ đề cập một người gia chủ biết đầu
tư làm ăn hợp pháp, thu hoạch nhiều tài sản, rồi dùng lợi tức ấy nuôi sống gia
đình vợ con, phụng dưỡng cha mẹ, chia sẻ bố thí cho nhiều người khác, nhờ đó có
được bốn loại lạc :
1. Lạc sở hữu : Nghĩa là
vị ấy sinh sống chân chính đúng pháp, thu hoạch được tài sản và nghỉ về thành quả
ấy mà sinh tâm hoan hỷ.
2. Lạc tài sản : Vị ấy
sinh sống chân chính đúng pháp, thu hoạch được tài sản và dùng tài sản ấy vào
việc thọ dụng, chia sẻ, bố thí, cúng dường nhờ đó có được hân hoan hỷ lạc.
3. Lạc không mắc nợ
: Vị ấy sống chân chính đúng pháp, không
mắc nợ ai điều gì và do đó cảm thấy được an ổn an lạc.
4.Lạc không phạm tội : Vị
ấy sinh sống chân chính đúng pháp, không phạm phải các lỗi lầm về thân, về lời,
về ý, hiểu rõ mình không phạm tội do đó đạt được niềm vui lớn.
Như vậy, thiện lạc là hạnh phúc thế gian mà
người cư sĩ có thể thành tựu trên cơ sở nổ lực tìm cầu tài sản đúng pháp, tạo
dựng của cải vật chất chính đáng, thể hiện lối sống thiểu dục tri túc, hân hoan
chia sẻ lợi ích vật chất với nhiều người khác, chuyên tâm làm các việc lành,
làm các việc công đức. Đạo Phật khuyến khích loại hạnh phúc này bởi nó đi đôi
với thiện, đi đôi với nếp sống có giới đức và tiết độ, đi đôi với hiểu biết
chia sẻ và mở tâm bố thí, đi đôi với công đức làm lành lánh dữ. Có thể nói rằng
thiện lạc là hạnh phúc thế gian nhưng khác với dục lạc, vì loại hạnh phúc này
gắn liền với giới đức và trí tuệ, gắn liền với nhiều dục tri túc, gắn liền với
từ tâm bố thí, gắn liền với nhiếp hóa lòng tham. Có thể xem đây là bước chuyển
hóa và thăng hoa tâm thức căn bản mà người cư sĩ có thể thực hiện trong đời
sống tại gia vốn có nhiều bổn phận và trách nhiệm phải làm đối với gia đình và
xã hội. Đức Phật tán dương lối sống đưa đến thiện lạc.
Học nhiều, nghề nghiệp giỏi,
Khéo huấn luyện, học tập,
Nói những lời khéo nói,
Là điềm lành tối thượng,
Hiếu dưỡng mẹ và cha,
Nuôi dưỡng vợ và con,
Làm nghề không rắc rối,
Là điềm lành tối thượng,
Bố thí, hành động đúng pháp,
Săn sóc các bà con,
Làm nghề không lỗi lầm
Là điềm lành tối thượng,
Chấm dứt, từ bỏ ác,
Chế ngự đam mê rượu,
Trong pháp, không phóng dật,
Là điềm lành tối thượng.
Thiền lạc : nghĩa là niềm
hân hoan an lạc nội tâm, đạt được nhờ chuyển hóa và thanh lọc tâm thông qua
hành Thiền. Đây là phương pháp chuyển hóa tâm thức rất quan trọng, làm phát
sinh các cấp độ an lạc tinh tế sâu lắng thuộc nội tâm, có khả năng làm thay đổi
cảm thức của con người về kinh nghiệm hạnh phúc. Đức Phật khuyên gia chủ thực
nghiệm cho được Thiền lạc, bên cạnh các
thiện lạc mà vị cư sĩ này đã có được nhờ nếp sống cúng dường bố thí và giữ
giới. Theo kinh nghiệm của Đức Phật thì Thiền lạc có khả năng đối trị và nhiếp
phục dục lạc, vì Thiền lạc vi diệu, thù thắng và an ổn hơn dục lạc. Bậc Giác
ngộ đánh giá cao Thiền lạc, gọi hành Thiền là Tăng thượng tâm và hiện tại lạc
trú, tức sự thăng hoa tâm thức và sống an lạc ngay trong hiện tại. Sau đây là
các minh họa về Thiền lạc.
-Cảm
giác sung sướng hân hoan do gột rửa tâm khỏi năm triền cái (tham, sân,
si, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi ngờ) như người mắt nợ thoát khỏi nợ nần,
như người bệnh thoát khỏi bệnh tật, như người tù được trả tự do, như người nô
lệ thoát khỏi cảnh nô lệ, như người buôn băng qua sa mạc được an toàn : “ Này
các Tỳ kheo, như một người mắc nợ liền làm các nghề nghiệp. Những nghề này được
phát đạt, người ấy không những trả được nợ cũ, còn có tiền dư nuôi dưỡng vợ
con.. Người ấy nhờ vậy được sung sướng,
hoan hỷ. Này các Tỳ kheo, như một người bị bệnh, đau đớn, trầm trọng, ăn uống
không tiêu, thể lực suy yếu. Sau thời gian, người ấy khỏi bệnh, ăn uống tiêu
thông, thể lực khôi phục.. Người ấy nhờ vậy sung sướng hoan hỷ. Này các Tỳ
kheo, như một người bị nhốt trong ngục. Người ấy sau một thời gian được khỏi tù
tội, an lạc kiện toàn, tài sản không bị giảm tổn Người ấy nhờ vậy được sung
sướng, hoan hỷ. Này các Tỳ kheo, như một người nô lệ, không được tự chủ, lệ
thuộc người khác, không được tự do đi lại. Người ấy sau một thời gian thoát
khỏi cảnh nô lệ, được tự chủ, không lệ thuộc người khác, được tự do đi lại Người
ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Này các Tỳ kheo, như một người giàu có,
nhiều tài sản, đang đi qua sa mạc. Người ấy sau một thời gian đã đi khỏi sa mạc
ấy, đến đầu làng yên ổn, không có nguy hiểm, tài sản không bị tổn giảm Người ấy
nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Cũng vậy này các Tỳ kheo, Tỳ kheo tự mình
quán năm triền cái chưa xả ly, như món
nợ, như bệnh hoạn, như ngục tù, như cảnh nô lệ, như con đường qua sa mạc. Này
các Tỳ kheo, cũng như không mắc nợ, không bị bệnh tật được khỏi tù tội, được tự
do, đến được đất lành yên ổn. Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo quán năm triền cái khi
chúng được diệt trừ.”
- Lạc sơ thiền : “Vị Tỳ
kheo ly dục, ly ác, bất thiện pháp chứng
và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Vị
ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly
dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không có hỷ lạc do ly dục sanh ấy
thấm nhuần.”.
-Lạc đệ nhị thiền : “Lại
nữa, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy
thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do định
sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm
nhuần .”.
- Lạc đệ tam thiền : “
Lại nữa, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tĩnh giác, thân cảm
sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là “Xả niệm lạc trú” chứng và trú Thiền thứ ba.
Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân này với lạc thọ không
có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy
thấm nhuần.”
- Lạc đệ tứ thiền : “ Lại
nữa, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo xả lạc khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và
trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy thấm nhuần
toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng không một chỗ nào trên toàn thân
không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần.”
Các mô tả về bốn trạng thái Thiền trên đây của
Kinh tạng Pali cho chúng ta một hình ảnh sống động về kinh nghiệm hạnh phúc an
lạc của pháp môn hành Thiền. Một người hành Thiền tức là một người đang sống
trong hạnh phúc an lạc. Vì hạnh phúc an lạc bởi thân tâm vị ấy được thấm nhuần,
tẩm ướt, tràn đầy với hỷ lạc do ly dục sanh, với hỷ lạc do định sanh, với xả
niệm lạc trú và với xả niệm thanh tịnh. Kinh tạng Pali ví người hành thiền
giống như một người đứng trên núi cao, có thể hít thở không khí trong lành và thưởng thức vẻ đẹp
của một cảnh quan thiên nhiên rộng lớn, so với cảm thức giới hạn của người
không hành thiền, đứng dưới chân đồi.
Như vậy, hành Thiền là bước chuyển hóa và
thực nghiệm tâm linh to lớn với kết quả thân được khinh an, thoải mái, tâm được
hân hoan, định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến,
dễ sử dụng, vững chắc, bình thản. Chính trên nền tảng một tâm thức được khéo
huấn luyện như vậy mà hành giả có thể dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh,
Thiên nhãn minh, Lậu tận minh nhằm đoạn tận các lậu hoặc, thành tựu quả giải
thoát giác ngộ.
Do
Thiền lạc có khả năng làm trong sáng và an tịnh nội tâm, giúp cho người thực
hành thành tựu trí tuệ đưa đến đoạn tận các lậu hoặc, Đức Phật xem loại lạc này
là lạc hợp pháp, tức xuất ly lạc, hạnh phúc của sự từ bỏ dục lạc, an tịnh lạc,
niềm vui của tâm thức an tịnh, vắng bặt các cấu uế tham, sân, si hay năm triền
cái; độc cư, hạnh phúc của nếp sống thanh tịnh vắng lặng; Chánh giác lạc, niềm
vui có khả năng đưa đến giác ngộ. Cũng theo lời Phật thì Thiền là loại hạnh
phúc không có đau khổ, không có phiền lao, không có ưu não, không có nhiệt não,
không đưa đến tranh chấp mà mọi người nên thực hành, nên tu tập, nên làm cho
sung mãn trong đời sống hằng ngày.
Giải thoát lạc : Nghĩa là
hạnh phúc của tâm thức giác ngộ, bặt dứt các cấu uế tham sân-si, thoát khỏi các lậu hoặc và kiết sử,
đạt đến hoàn toàn tịch tịnh, an nhiên tự tại, không còn bị quy luật vô thường
sanh diệt làm cho phiền muộn khổ não. Đó là niềm an tịnh tuyệt đối của Niết
bàn, vượt ra ngoài cảm thức hạnh phúc thông thường của thế gian, được chứng
nghiệm bởi những người đã hành sâu Bát Thánh đạo, đã đạt đến Chánh trí và Chánh
giải thoát, tức đã đạt đến liễu tri và đoạn tận khổ đau.
Nói cách khác, đó là lẽ sống tịch tịnh, giải
thoát, an nhiên tự tại của những người đã chứng ngộ sự thật duyên sanh, vô
thường, khổ, vô ngã của tự thân (ngũ uẩn) và của hết thảy những gì gắn liền với
bản thân mình, không còn xem những gì mắt thấy tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm,
thân xúc chạm, ý nhận thức là mình hay của mình, không còn bị chi phối (vui hay
buồn, hân hoan hay sầu khổ) bởi tính chất sanh diệt của hiện hữu.
Khi xúc chạm việc đời,
Tâm không động, không sầu,
Không uế nhiễm, an ổn,
Là hạnh phúc tối thượng
Theo sự mô tả của Kinh tạng Pali đó là cảm thức của một người đã
thoát khỏi các lậu hoặc, biết rõ mình đã giải thoát: “ Sanh đã tận, phạm hạnh
đã thành, việc cần làm đã làm, không còn tái sanh nữa”. Sự an tịnh vắng lặng
hoàn toàn của một người sống toàn tâm toàn ý với phút giây hiện tại, không còn
vọng tâm truy tìm quá khứ hay phóng tưởng mơ ước tương lai. Cảm giác hỷ lạc
khởi lên nơi một người đã đoạn tận các
lậu hoặc, quán sát tâm mình đã giải thoát khỏi tham,sân,si. Sự tịnh lạc của một
người mà thân, khẩu, ý nghiệp đã đạt đến an tịnh, đã thành tựu chánh trí và
chơn chánh giải thoát. Cảm thức bình an tuyệt đối của một người mà tâm không
còn luyến ái, không còn chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không
hệ lụy đối với bất cứ điều gì. Sự giải thoát tất cả, không còn sầu muộn, không
còn nhiệt não của một người đã đạt đến đích, đã đoạn trừ mọi ràng buộc. Sự tịnh
chỉ hoàn toàn của một người không còn, tham, sân, si, không ái luyến, không
chấp thủ, có trí tuệ, không thuận ứng, không nghịch ứng, không ưa hý luận,
không thích hý luận. Sự thoát khỏi mọi hy cầu, được tịch tịnh, được thanh
lương, cảm thấy an lạc của một người rõ biết mình đã thoát khỏi tham, sân, si.
Cảm giác của một người không tự làm khổ mình, không làm khổ người, ngay trong
hiện tại không có tham dục, không có khao khát, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh,
cảm giác lạc thọ. Tâm trạng của một người không còn âu lo sợ hãi, ngày đêm
không khởi phiền não, ý vui niềm bất hại, luôn luôn đỏ đầy tâm từ thương tưởng
chúng sinh. Thái độ tịch tịnh, không hoan hỷ, không sầu muộn của một người đã
đã dứt sạch mọi ý niệm phân biệt, thấy rõ mọi thứ đến và đi, sanh và diệt do
nhân duyên, không phải của mình, đã an toàn vượt khỏi chỗ người đời đắm say.
Tóm lại, đó là cảm giác an lạc tuyệt đối của một người đã đoạn tận tham,sân,
si, đã thực chứng Niết bàn là hạnh phúc tối thượng.
Nhìn chung, đạo Phật là con đường của hạnh
phúc an lạc hướng thượng mà càng nổ lực thực hành thì hạnh phúc càng tăng
thượng cho đến khi đạt đến tối thượng (giải thoát lạc hay Niết bàn). Đó là con
đường Bát Chánh đạo hay nếp sống Giới-Định-Tuệ, có công năng giúp cho con người
phát huy các phẩm chất giác ngộ tự nội, giúp cho con người có đủ năng lực
chuyển hóa và nhiếp phục tham,sân,si, từng bước nâng cao giá trị an lạc giải
thoát trong đời sống, không còn bị trói buộc khổ não bởi thế giới dục lạc thấp
kém. Rõ ràng trong một thế giới ngày càng bộc lộ bản chất hư huyển và bất an cơ
bản do lòng tham muốn dục lạc của con người tạo nên, con đường thiện lạc, thiền
lạc, giải thoát lạc do Đức Phật khuyến khích đang hiện rõ sức sống an lạc vững
bền, như tiếng gọi mùa xuân mang lại niềm tin yêu và lối sống hòa ái cho muôn
loài vậy./.
Trích VHPG Xuân
:1-2-2018
{]{
SỨC MẠNH CỦA NIỀM TIN
Niềm tin có khả năng sẽ đưa con người từ vực
thẳm tối tăm tiến lên phía trước, có thể cứu họ từ gục ngả mà vươn lên đỉnh
điểm của vinh quang. Niềm tin mang một sức mạnh siêu nhiên mà con người luôn
cần tới nó.
Trong phật giáo, niềm tin vô cùng quan
trọng, vì : “ Tín là căn nguyên của Đạo, là
mẹ đẻ của công đức, nuôi lớn hết thảy thiện pháp, đoạn trừ lưới nghi,
đưa vượt qua dòng nước ái dục, khai thị con đường tối thượng dẫn đến Niết bàn ”.
Niềm tin có một sức mạnh tiềm tàng vô tận, thôi thúc con người vươn tới mục đích
cao xa để thực hiện hoài bảo cao đẹp của mình. Tín là chi đầu tiên trong Ngũ
căn và Ngũ lực. Tín căn là gốc của niềm tin, tức niềm tin được xác lập một cách
kiên định. Tín lực là sức mạnh của niềm tin, Khi niềm tin được xác lập thì có
sức mạnh vượt trội. Sức mạnh niềm tin có thể công phá được tất cả mọi thành trì
chướng duyên, phiền não. Và khi mà tín căn được tu tập, làm cho sung mãn thì sẽ
biến thành tín lực, tức là tạo nên sức mạnh, hỗ trợ hữu hiệu cho hành giả thực hành thiền định và thiền tuệ.
Trong Ngũ thường của Nho giáo (Nhân, Nghĩa,
Lễ, Trí, Tín), tín có một vai trò quan trọng. Đây là lòng tin tưởng giữa người
và người, là giữ trọn lời hứa để tạo lòng tin với nhau; không được bội ước,
thất tín. Người mà không có chữ tín sẽ đánh mất nhân phẩm, tư cách của đạo làm
người. Khổng Nho nói : “ Nhân vô tín,
bất lập”; có nghĩa là người không giữ chữ tín thì không đặt để vào đâu được cả, ý nói là không thể
đứng được trong thế gian, không thể làm người được nữa. Tín trong ngũ thường,
như vậy, là một trong năm yếu tố, điều kiện để
hoàn thiện nhân văn, nhân bản theo quan niệm chung của nền minh triết
Đông phương.
Người con Phật luôn thiết lập niềm tin trên
nền tảng của Tứ bất hoại tín hay còn gọi là Tứ chứng tín. Ấy là tin Phật, tin
Pháp, tin Tăng và tin vào Thánh giới. Đó là bốn niềm tin trong sáng, thuần tịnh
và không bị hủy hoại đối với người đệ tử Phật trong bất cứ trường hợp nào. Với
bốn niềm tin này, người đệ tử Phật có thể đi vào dòng dõi của bậc Thánh, sống
an vui trong từng giây phút hiện tại, do sự thấy pháp và chứng nghiệm pháp đem
lại.
Tuy nhiên, bên cạnh niềm tin cần phải có trí
tuệ. Nếu chỉ tin mà không có trí tuệ soi xét thì đó là niềm tin mù quáng. Do
vậy, cần phải có đủ niềm tin và sự hiểu biết (tín và giải) để từ đó chúng ta đi
trên lộ trình tu tập luôn được tự tại và ít có sự chướng ngại. Thành ra, tín và
giải luôn song hành, hỗ trợ nhau để đi đến sự thành tựu hạnh và chứng. Đây là
nấc thang đầu tiên để hướng đến Chánh đạo giải thoát. Nếu không thì chúng ta sẽ
rất mù mờ, dẫn đến sai đường lạc lối. Do vậy,
Đức Phật phân định rõ ràng qua
bốn căn cơ như sau :
1- Có tín mà không có
giải đó là hạng người độn căn mà lại chánh kiến. 2- Có giải mà không có tín là
hạng người lợi căn mà lại tà kiến. 3-
Vừa có tín mà vừa có giải là hạng người vừa lợi căn mà vừa chánh kiến.
4- Không tín không giải đó là hạng người
vừa độn căn vừa tà kiến.
Niềm tin và trí tuệ luôn đi đôi với nhau, hỗ
trợ nhau trên con đường tu tập. Do đó, Ngài Long Thọ khẳng định : “ Niềm tin là
lối vào biển thánh pháp của đức Phật, và trí tuệ là con thuyền mà người ta dùng
nó để vượt qua biển ấy”. Sức mạnh của niềm tin sẽ thúc giục trí tuệ đi vào khám
phá diệu nghĩa và nếm trải hương vị của Phật pháp. Như vậy, niềm tin là căn bản
để phát sanh thiện pháp, và niềm tin là chánh nhân để hành giả có thể nhập vào
biển cả Phật pháp. Cho nên, đối với
người tu học không thể không có niềm tin. Mất niềm tin là mất phương hướng tu
học chắc chắn là sẽ thoái đọa. Khi đã kiên định trên tứ bất hoại tín, tức là
tin Phật- Bậc giác ngộ vẹn toàn; tin Pháp- đạo thoát ly tham dục, đưa đến giải
thoát., tin Tăng- đoàn thể xuất gia tu hành cao cả, thay mặt Phật truyền trao
Chánh pháp, tin vào thánh giới- nguyên tắc phòng hộ đưa đến biệt giải thoát, và
xứ xứ giải thoát; còn có một yếu tố hết sức quan trọng, đó là tin vào chính
mình. Tin vào chính mình là tin vào khả năng, năng lực sức mạnh tiềm tàng trong
con người chính mình. Ai cũng có khả năng, năng lực, và sức mạnh tự nội. Nhưng
do thiếu niềm tin nên có khi chúng ta để thui chột các năng lực và sức mạnh tự
nội đó. “ Lạc quan là niềm tin dẫn tới thành tựu. bạn chẳng thể làm được điều gì mà thiếu đi hy vọng và sự tự tin” (Helen
Keller).
Thật vậy, niềm tin có sức mạnh vô cùng kỳ
diệu. Nó là một cảm xúc trong ý chí của
con người. Nó đi liền với sự hy vọng bùng cháy trong tâm hồn. Niềm tin được ví
như một động lực để giúp con người vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc
sống. Và để vượt qua chúng thì niềm tin vào bản thân luôn là điều không thể
thiếu. Niềm tin vào bản thân là sự ý thức về năng lực, phẩm chất, giá trị của
bản thân, đánh giá được vị trí vai trò của mình trong cuộc sống. Niềm tin vào
bản thân thực sự rất quan trọng. Bởi nó không đơn thuần là một cảm xúc thông
thường. Nó là một động lực lớn của con người. Chắc hẳn chúng ta đã từng nghe
câu : “ mất niềm tin là mất tất cả”. Tại sao lại như vậy ? Bởi thứ nhất bạn sẽ
là người hiểu rõ bạn nhất. Bạn sẽ biết được toàn bộ suy nghĩ, thế mạnh, điểm
yếu của chính bản thân bạn. Bạn sẽ là người duy nhất biết rõ bạn cần gì, ước mơ
những gì, hy vọng điều gì cho cuộc sống. Nếu bạn mất niềm tin, bạn sẽ chẳng còn
quan tâm đến những điều này nữa. Bạn sẽ chẳng còn ý chí, nghị lực để bước tiếp
trên con đường mình đã chọn. Mất niềm tin, bạn sẽ chẳng còn mục đích sống của
mình là gì, vì thế mà trở thành buông thả bất cần, lúc đó hậu quả sẽ thật khó
lường. Không có niềm tin, sống buông thả, bất cứ lúc nào bạn cũng có thể sa ngã
rồi đánh mất bản thân mình.
Trên con đường tu tập, niềm tin sẽ định
hướng, vạch lối đưa dường cho mình bước tiếp một cách vững chãi. Đức Phật dạy:
“ mỗi người hãy là một hòn đảo cho chính mình, Đức Như Lai chỉ là bậc Đạo sư ”. Khả năng tu tập của mình là nhân tố quyết
định thành công, đừng trông chờ hy vọng ở tha nhân nào khác, phải phát triển
nghị lực sẳn có của chính mình, và sự thật mỗi người đều có khả năng nghị lực
đó.
Theo tinh thần của kinh Pháp Hoa, mỗi người
đều có Phật tánh và có khả năng thành Phật, là một vị Phật tương lại. Sự xác
tín này đã mở ra cơ hội và hy vọng lớn cho tất cả mọi người. Họ tin rằng mình
có khả năng làm Phật, nên họ luôn hành động, suy nghĩ và nói năng đúng đắn, chánh đáng. Nên tất cả mọi
việc làm đều là Phật sự, đều mang sự lợi ích cho tất cả mọi người.
Theo Đại Thừa Khửi Tín Luận, niềm tin chân
chính phải được xác lập từ nơi tâm thức
của chính mình, vì chỉ tâm ấy mới có khả năng làm Phật, chứ không phải tìm vào
một tâm nào khác. “ Phát khởi lòng tin vào chính cái tâm bình thường ở ngay nơi
mình. Từ cái tâm bình thường đó, chúng ta sẽ đi đến đất Phật, như chư Bồ tát
đang đi và sẽ đến như chư Phật đã đến ”. Bộ luận này cũng khẳng định rằng tín
căn của Đại thừa là chỉ cho Phật tánh đầy đủ trong mỗi chúng sanh. Phật tánh là
nhân thì Phật quả mới là Niết bàn thực sự .
Niềm tin tương lai mình sẽ làm Phật đã thực
sự thổi một luồng sinh khí mới mẻ
vào tâm thức tất cả mọi người. Vì rằng
mai này mình là người hoàn thiện về phước đức và trí tuệ, nên trong mọi lúc,
mọi nơi, sẽ cố nỗ lực để kiện toàn về nhân cách đạo đức, xa lìa ác pháp, viễn
ly các tư tưởng chấp thủ cố hữu để đi đến chân trời giải thoát đích thực. Chân
trời ấy là chân trời vô tham, vô sân, vô si, an lạc tự tại, vô ngã, Niết bàn.
Chính niềm tin này là nhân tố căn bản để thiết lập bất thối chuyển tâm, dù có
trải qua vô lượng kiếp thì tâm này cũng không bao giờ thối đọa.
Niềm tin làm Phật ở tương lai không những
giúp mọi người ý thức đến giá trị bản chất của sự sống, sự lợi lạc của cộng
đồng; trái lại, nhờ niềm tin của ta đã được kiên định, nên nó có hiệu năng tiêu
diệt và chuyển hóa những ác nghiệp của ta từ bao đời kiếp. Nhờ có niềm tin, nên
ta tinh tấn nỗ lực hành trì theo Pháp Phật
một cách chí thành, không nghi ngờ, do dự, nên nghiệp nặng chuyển thành
nghiệp nhẹ, quả báo nặng chuyển thánh quả báo không đáng kể, không những vậy mà
còn có cơ hội hóa giải tam độc tham sân si nơi tự tâm của mình. Do vậy, với
niềm tin kiên định, bất hoại, thì không những chuyển hóa được những nghiệp
chủng của tâm thức bằng công năng của Giới-Định-Huệ; chuyển từ nhiễm sanh tịnh,
từ những nhận thức sai lầm về một bản ngã cố hữu, về con người, về chúng sanh,
mà còn chuyển hóa được tất cả dư báo xấu trong quá khứ cũng như hiện tại đều
theo hướng Vô thượng Bồ đề. “ Người ta không thể giữ giới nếu không có niềm
tin. Do giữ giới, người ta sẽ nhập vào trạng thái tâm thức của thiền định và
cũng có thể đạt đến trí tuệ”.
Bằng đức tin này, ta sẽ tinh cần thực hành lục
độ một cách vô trú và vô tướng, chuyển hóa những vọng tưởng sai lầm đối với tự
thân, đối với con người, đối với chúng sanh, đối với thọ mạng thành chánh trí
và có khả năng chuyển hóa Khổ đế thành Diệt đế, hay sanh tử thành Niết bàn,
chứng nhập vô vi pháp thân, có khả năng sinh khởi tuệ giác, biến tri một cách
như thực đối với mọi sự hiện hữu và không hiện hữu, rồi hưng khởi lòng từ vô
biên, sử dụng vô số phương tiện thiện xảo, dạo khắp mười phương, rưới nước cam
lồ, dập tắt mọi ưu não và khơi mở tuệ giác cho hết thảy muôn loài.
Thành ra niềm tin có một sức mạnh kỳ diệu,
có một năng lực mầu nhiệm. năng lực mầu nhiệm này có thể chuyển hóa, làm thay
đổi cuộc đời của bạn. Sức mạnh của niềm tin luôn thúc giục ta tiến tới, vượt
qua mọi gian lao trắc trở. Sức mạnh của niềm tin sẽ là sợi chỉ hồng gắn kết con
người lại với nhau trong sự thương yêu, tin tưởng. Niềm tin là chất liệu mầu
nhiệm để đưa đến diệu quả thù thắng. Nhờ đó, cuộc đời sẽ trở nên ý vị hơn, với
niềm tin hy vọng tràn trề. Để con người vươn tới xây dựng một tương lai tươi
sáng, đẹp đẽ hơn ./.
Thích Trung Định VHPG: 1-4-2018 số 294
{]{
PHẢN TƯỞNG KHỔ LÀ LẠC
Trong Trung Bộ Kinh, đức
Phật giảng cho du sĩ Magandiya về sự lợi ích
của sự nhiếp phục lòng tham và phân tích về sự nguy hiểm của các dục, tức những tổn hại lòng tham muốn
các lạc thú thế gian (sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, cảm xúc êm dịu) gây ra, Đức Phật xác nhận những ai chưa đoạn trừ tham ái đối với các
dục, đang bị các dục ái nhai nghiến, đang bị dục nhiệt não thiêu đốt, với các
căn bị hư hoại, do sự xúc chạm đau khổ với các dục, lại có phản tưởng là hạnh
phúc.
Thông thường, con người sống ở đời xem các
lạc thú thế gian là hạnh phúc, đôi khi còn cho đó là hạnh phúc tối thượng, tức
sự thỏa mãn lòng khao khát sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, cảm xúc êm
dịu hay sự sở hữu và thụ hưởng đầy đủ các thứ khoái lạc như tiền tài vật chất
(tài), danh vọng quyền lực (danh), sắc đẹp khác phái (sắc), ăn uống no say
(thực), ngủ nghỉ êm ái (thùy). Hẳn là quan niệm và kinh nghiệm thực dụng này có
công năng kích thích đời sống con người, khuyến khích các hoạt động tạo tác của
con người, thôi thúc con người nỗ lực tìm kiếm và sở hữu các khoái lạc trần
thế, càng nhiều càng tốt, càng nhiều càng hạnh phúc. Đó không khác gì là chủ
đích và xu thế vượt trội của nền văn minh vật chất đã và đang ngự trị mạnh mẽ
trong đời sống nhân loại, một nền văn minh được xây dựng trên lòng tham, cổ vũ
lòng tham và làm tăng trưởng lòng tham dục ở bên trong con người. Chắc chắn
không ai có thể phủ nhận và chối bỏ một đời sống gắn liền với sự sở hữu các
tiện nghi khoái lạc vật chất. Tuy nhiên, chính do quan niệm và kinh nghiệm thực
dụng này mà nhân loại thường xuyên phải đối mặt với các khủng hoảng và thách thức,
không ngừng rơi vào tranh chấp, tranh đoạt, cướp bóc, xâm lăng và tàn hại lẫn
nhau chỉ vì mục đích thỏa mãn lòng tham, khiến cho lịch sử loài người ngập tràn
chiến tranh hơn hòa bình, đời sống nhân loại đổ đầy nước mắt hơn nụ cười, vì “
dầu mua bằng tiền vàng, các dục khó thỏa mãn”
và bởi “các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm càng nhiều
hơn”.
Trong kinh Phật dạy : “ Này các Tỳ kheo, do
dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân,
vua tranh đoạt với vua, Sát đề lỵ tranh đoạt với Sát đế Lỵ, Bà la môn tranh
đoạt với Bà la môn, gia chủ tranh đoạt với gia chủ, mẹ tranh đoạt với con, con
tranh đoạt với mẹ, cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha, anh em tranh
đoạt với anh em, anh tranh đoạt với chị, chị tranh đoạt với anh, bạn bè tranh
đoạt với bạn bè. Khi họ đã dấn mình vào tranh chấp, tranh luận, tranh đoạt, họ
công phá nhau bằng tay; họ công phá nhau bằng đá, họ công phá nhau bằng gậy, họ
công phá nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử
vong. Này các Tỳ kheo, như vậy là sự nguy
hiển các dục là nguyên nhân của dục.
Lại nữa, này các Tỳ kheo, do dục làm nhân do
chính dục làm nhân, họ cầm mâu và thuẫn, họ đeo cung và tên, họ dàn trận hai
mặt, và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém
nhau. Họ bắn đâm nhau bằng tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ chặt đầu nhau
bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này các
Tỳ kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục là nguyên nhân của dục.
Lại nữa, này các Tỳ kheo, do dục làm
nhân..do chính dục làm nhân, họ cầm mâu và thuẫn, họ đeo cung và tên, họ công
phá thành quách mới trét vôi hồ và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném
nhau, kiếm được vung chém nhau. Ở đây họ, họ bắn đâm nhau bằng tên, họ quăng
đâm nhau bằng đao, họ đổ nước phân sôi, họ đè bẹp nhau bằng đá, họ chặt đầu
nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này
các Tỳ kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục là nguyên nhân của dục.
Lại nữa, này các Tỳ kheo, do dục làm nhân do chính dục làm nhân, họ đột nhập nhà cửa, họ
cướp giật đồ đạc, họ hành động như kẻ cướp, họ phục kích các đường lớn, họ đi
đến vợ người. Các vua chúa khi bắt được một người như vậy liền áp dụng nhiều
hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh bằng côn, họ
chặt tay, họ chặt chân, họ chặt tay chân, họ xẻo tai, họ cắt mũi, họ xẻo tai
cắt mũi, họ dùng hình phạt vạc dầu sôi . v.v ..họ cho chó cắn, cho cọp nhai,
voi dày, họ đóng đinh v.v Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự khổ đau
gần như tử vong. Này các Tỳ kheo, như vậy là sự nguy hiểm của dục là nguyên
nhân của dục.
Lại nữa, này các Tỳ kheo, do dục làm nhân do
chính dục làm nhân, họ sống làm các ác hạnh về thân, làm các ác hạnh về lời
nói, làm các ác hạnh về ý. Do họ sống làm các ác hạnh về thân, làm các ác hạnh
về lời nói, làm các ác hạnh về ý, khi
thân hoại mạng chung, họ sanh về cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Tỳ
kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục,
đưa đến khổ đau tương lai, là khổ uẩn, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do
dục làm nhân duyên. Do chính dục làm nhân”.
Sự phân tích của bậc Giác ngộ cho chúng ta
thấy dục lạc hay các lạc thú thế gian là nguyên nhân của mọi bất hạnh khổ đau
xảy ra cho con người và cuộc đời. Chúng được xem là loại hạnh phúc có khổ đau,
có phiền não, có ưu não, có nhiệt não, vì chúng đưa đến tranh chấp, tranh đoạt,
chiến tranh, gây nên nhiều tai họa khổ đau cho nhân thế. Hẳn nhiên, bất hạnh
khổ đau xảy ra không hoàn toàn do dục lạc mà do con người thiếu hiểu biết đầy
đủ về dục lạc; con người chỉ thấy vị ngọt của các dục lạc mà không thấy sự nguy
hiểm của các dục lạc, càng không biết cách chế ngự và thoát ly các dục; vì thế
con người mới bị lòng tham trói buộc và chi phối, mới mê say khao khát dục lạc, mới đi đến tranh chấp, tranh
đoạt, cấu xé và tàn hại lẫn nhau chỉ vì mục đích sở hữu và thỏa mãn các dục. Sự
thiếu hiểu biết này thật tai hại vì nó khiến cho con người hoàn toàn mê mờ và
mù lòa, nhầm tưởng khổ là lạc, tiếp tục lôi kéo và giam hãm loài người trong
thế giới tranh chấp khổ đau.
Đạo Phật không phủ nhận dục lạc hay các lạc
thú thế gian. Đạo Phật chỉ nêu rõ dục lạc vui ít khổ nhiều, não nhiều, sự nguy
hiểm càng nhiều hơn và khuyến khích mọi người nỗ lực tu tập, nâng cao đời sống tâm thức để hạn chế và vượt qua các phiền
toái khổ đau do lòng tham muốn dục lạc gây ra. Với kinh nghiệm của bậc Giác ngộ, Đức Phật nói cho chúng ta
biết con người không thể thoát khỏi
phiền não khổ đau do lòng tham muốn dục lạc tạo nên, trừ phi người ấy có
sự tu tập chuyển hóa đời sống nội tâm, thực nghiệm các cấp độ an lạc tự nội.
Nói cách khác, con người có thể khắc
phục và đoạn trừ mọi bất hạnh khổ đau cơ bản do dục vọng gây ra, nếu con người
có được sự hiểu biết đầy đủ về vị ngọt và sự nguy hiểm của các dục, cùng lúc có
phương pháp tu tập thoát khỏi sự trói
buộc và chi phối của các dục.
Đức
Phật nói với Mahanama rằng : thuở xưa, khi ta còn là Bồ tát, chưa chứng
Bồ đề, chưa thành Chánh đẳng Chánh giác, Ta khéo thấy với như thật chánh trí
tuệ, “ Các dục vui ít khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhều
hơn” dầu Ta có thấy với như thật chánh trí tuệ như vậy, nhưng Ta chưa chứng
được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay một pháp nào khác cao
thượng hơn. Và như vậy Ta biết rằng, Ta chưa khỏi bị các dục chi phối. Và này
Mahanama, khi nào Ta khéo thấy với như thật chánh trí tuệ : “Các dục, vui ít,
khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn ”, và Ta chứng được hỷ
lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp hay một pháp nào khác cao thượng hơn, như
vậy Ta khỏi bị các dục chi phối .
Này Magandiya, Ta thuở trước, khi còn tại
gia, Ta sống hưởng thụ một cách đầy đủ, một cách sung mãn, năm dục lạc trưởng
dưỡng, các sắc pháp do mắt nhận thức, các sắc pháp này là khả ái, khả hỷ, khả
lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn, các tiếng do tai nhận thức các hương do
mũi nhận thức các vị do lưỡi nhận thức các xúc do thân nhận thức,các xúc này
khả ái, khả hỷ, khả lạc, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nay Magandiya, Ta có ba tòa
lâu đài, một cho mùa mưa, một cho mùa đông, một cho mùa hạ. Này Magandiya,
trong bốn tháng mùa mưa, Ta sống hưởng thụ trong lâu đài mùa mưa, được những nữ
nhạc công giúp vui và không bước xuống khỏi lâu đài ấy. Rồi Ta sau một thời
gian, sau khi như chơn biết được sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy
hiểm và sự xuất ly của các dục vọng; sau khi đoạn tận dục ái, sau khi trừ diệt
nhiệt não của các dục, Ta trú với khát ái được đoạn trừ, với nội tâm an tịnh.
Rồi Ta thấy chúng sanh khác, chưa xả ly tham ái đối với các dục đang bị các dục
ái nhai nghiến, đang bị dục nhiệt não thiêu đốt, đang chạy theo dục lạc. Ta
không ước vọng được như họ; ở đây, Ta không ham thích. Vì sao vậy ? vì rằng,
này Magandiya, có hỷ lạc này, ly dục, y bất thiện pháp, sau khi chứng đạt Thiền
lạc, được an trú, hoan hỷ trong hỷ lạc ấy. Ta không ao ước cái gì thấp kém, ở
đây, Ta không ham thích.
Kinh nghiệm tu chứng của Đức Phật xác nhận
rằng ngoài dục lạc hay các lạc thú thế gian dễ làm cho con người rơi vào mê say
tham đắm, nhầm tưởng khổ là lạc, tự mình bị sầu lại tìm cầu cái bị sầu, con
người có khả năng sở hữu nhiều niềm vui hay nhiều loại hạnh phúc khác cao cả
hơn, sâu lắng hơn, an ổn hơn dục lạc hay các khoái cảm trần thế. Đó là sự thanh
thản an lạc nội tâm, đạt được nhờ chuyển hóa và thanh lọc tâm thông qua hành
Thiền. Đây chính là phương pháp chuyển hóa tâm thức rất quan trọng, làm phát
sinh các cấp độ an lạc tinh tế sâu lắng thuộc nội tâm gọi là Thiền lạc, có khả
năng làm thay đổi cảm thức của con người
về kinh nghiệm hạnh phúc.
Theo kinh nghiệm của Đức Phật thì Thiền lạc có
khả năng đối trị và loại trừ lòng đam mê dục lạc, vì Thiền lạc vi diệu, thù
thắng và an ổn hơn dục lạc. Bậc giác ngộ đánh giá cao Thiền lạc, gọi hành thiền
là Tăng thượng tâm và hiện tại lạc trú, vì việc hành Thiền, chứng đạt Tăng
thượng tâm, giống như người đứng trên núi cao, có thể hít thở không khí trong
lành và thưởng thức vẻ đẹp kỳ diệu của một cảnh quan thiên nhiên rộng lớn, so
với cảm thức giới hạn của người không hành thiền, đứng dưới chân đồi, bị dục
lạc chi phối. Đây hẳn là kinh nghiệm và giải pháp thiết thực bổ ích cho đời
sống của con người, giúp cho con người tìm thấy lối đi quân bình và hài hòa giữa
đời sống vật chất và đời sống tâm thức, giải tỏa được các tâm lý ngột ngạt và
tẻ nhạt của lối sống một chiều tìm kiếm và thụ hưởng dục lạc.
Nhìn chung, sự hiểu biết đầy đủ về các dục
khiến cho con người bị trói buộc và chi phối bởi dục lạc, nhầm tưởng dục lạc là
hạnh phúc, không thấy được sự nguy hại khổ não của các dục hay lòng khao khát
thỏa mãn các lạc thú thế gian. Con người càng thích thú chạy theo dục lạc, càng
khao khát thỏa mãn các dục, thì càng bị các dục trói buộc và chi phối đến độ
trở thành nô lệ hoàn toàn cho các dục, thực thi lối sống bị trói buộc khổ đau
giữa các dục mà không hay biết; giống như người bị bệnh cùi càng hơ đốt thân
mình trên hố than hừng chừng nào thời miệng các vết thương lại càng thêm bất
tịnh, càng thêm hôi thối và càng thêm thối nát, và người ấy chỉ có cảm giác dễ
chịu, thỏa thích do nhân duyên gãi ngứa miệng vết thương.
Đáng chú ý rằng có sự khác biệt hoàn toàn về
kinh nghiệm và khuynh hướng tìm cầu hạnh phúc giữa chúng sanh và các bậc giác
ngộ. Những gì chúng sanh xem là hạnh phúc thì các bậc giác ngộ thấy là khổ đau.
Những gì chúng sanh khao khát tìm cầu thì các bậc giác ngộ lặng lẽ rời bỏ. Với
các bậc giác ngộ thì các dục lạc là phiền toái khổ đau, buông bỏ được lòng tham
dục thì giải thoát an lạc. Nhưng đối với chúng sanh thì các dục lạc là vui
thích là hạnh phúc, rời xa các dục là sầu muộn khổ đau. Vì sao như vậy ? vì
chúng sanh không tìm thấy và chưa tìm thấy được loại hạnh phúc nào khác, ngoài
dục lạc hay các lạc thú thế gian. Một người chỉ có một món ăn duy nhất là dục
lạc thì không bao giờ rời bỏ được dục lạc, dù biết rằng đó là khổ đau. Nhưng
một người sở hữu nhiều loại hạnh phúc khác vi diệu và thù thắng hơn dục lạc thì
không có gì khó để buông bỏ dục lạc, cũng đồng nghĩa là buông bỏ trói buộc khổ
đau.
Đó là lý do vì sao Đức Phật khuyên các học
trò mình cần phải nhận thức cho thật đầy đủ về các dục, về vị ngọt, sự nguy
hiểm của các dục lạc và trên hết, phải thực hành con đường chế ngự và xuất ly
các dục (hành Thiền) để có được sự thăng tiến tâm thức (Tăng thượng tâm), sự thăng hoa hạnh phúc (tăng thượng an lạc)
từng bước nâng cao đời sống nhận thức, nâng cao đời sống tâm thức, nâng cao đới
sống giải thoát trong đời sống hằng ngày, ngăn tránh sự quyến rũ và trói buộc
của dục lạc vốn tiềm ẩn nhiều nguy cơ tranh chấp đưa đến bất hạnh khổ đau của
thế giới loài người./.
Trích từ :
Nguyên Hoàn . VHPG .1-4-2018. Số 294.
{]{
THÁNH SANH
Angulimala là một người sát sanh, giết 99
người để lấy ngón tay, còn một người
cuối cùng nữa mới đủ số 100, mẹ Angulimala nghe con mình người ta đồn giết
người mới đi tìm con, đi đến tìm gặp con Angulimala, Angulimala lại định giết
luôn mẹ cho đủ số 100. Ngay lúc đó đức Phật quán thấy nhân duyên lành của
Angulimala đã hội đủ, đức Phật liền xuất hiện, Angulimala bỏ ý định giết mẹ bèn
rượt theo đức Phật để giết, đức Phật thong thả đi còn Angulimala chạy theo mãi
mà không kịp, mệt quá không đuổi kịp Angulimala bèn kêu Phật đứng lại. Đức Phật
chậm rãi trả lời : “ Như Lai đã đứng từ lâu, con người chưa chịu dừng đó thôi”.
Angulimala nghe Phật nói vậy bèn tỉnh ngộ cái hành động sát nhân của mình, bèn
buông dao sám hối xin làm đệ tử xuất gia của Phật. Và được Phật độ cho xuất gia phát tâm tu học sau thành một vị
Tỳ kheo mẫu mực. Angulimala tỏ ra là một Tỳ kheo có đức kham nhẫn và lòng từ bi
rộng lớn. Một hôm trên đường đi khất thực, Angulimala trông thấy một người phụ
nữ sinh nở khó khăn, khởi lòng từ bi cứu giúp cho cả hai mẹ tròn con vuông. Ông
liền quay về cầu xin đức phật chỉ cho cách cứu độ. Phật bảo Angulimala, ông đến
nói với người phụ nữ ấy là kể từ khi tôi được Thánh sanh, mình không còn cố ý
sát hại ai nữa, mong rằng sự thật ấy bà được an toàn và sanh đẻ được an toàn.
Angulimala theo lời Phật dạy kết quả người phụ nữ ấy thoát tình trạng nguy nan,
sanh nỡ được vẹn toàn.
Như vậy Thánh sanh được dùng trong ngụ ý
dừng lại các việc ác, không gây hại chúng sanh, đã buông đao trong tâm, quy y
Phật,Pháp, Tăng, xuất gia tu học thoát thai trong đời sống mới, một đời sống
“không làm các điều ác, thành tựu các việc lành, giữ tâm ý thanh tịnh, theo lời
Phật dạy”. Angulimala chấm dứt sát sanh, quyết tâm đi theo con đường giác ngộ
của Phật, chính đó là Thánh sanh, được tái sanh vào thế giới của chư phật và
các Thánh giả giác ngộ, tuyệt đối hiền thiện và an toàn, không còn tổn thương,
không còn tai họa, không còn khổ đau, không còn sầu muộn. Đó chính là thế giới
của pháp giải thoát tịch tịnh mà bậc giác ngộ đã từng tuyên bố “ ở đây, không
có sầu khổ, không có nguy hiểm”. Đó là thế giới của đức Từ bi hỷ xả, của tâm
giải thoát, tuệ giải thoát, không còn tham sân si, không còn thân làm ác, miệng
nói ác, ý nghĩ ác. Chỉ có thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện. Đó là thế giới không sát sanh, tôn trọng sự
sống và quyền sống của muôn loài chúng sanh, không lấy của không cho, tôn trọng
sở hữu và quyền sở hữu của người khác, không tà hạnh trong các dục, tôn trọng
hạnh phúc hôn nhân và hạnh phúc gia đình người khác, không nói dối, nói lời
chân thật, không nói lưỡi hai chiều, nói lời đưa đến hòa hợp, không nói ác
khẩu, nói lời từ ái, không nói lời phù phiếm, nói lời có ý nghĩa lợi lạc, không
tham lam, bỏn xẻn, còn bố thí lợi tha, không sân hận, mà thể hiện đức tính từ
bi khoang dung độ lượng, không si mê tà kiến, mà giữ tâm sáng suốt, chánh kiến.
Thánh sanh tức là thức tỉnh quay về với bản
tánh giác ngộ thanh tịnh vốn sẳn có trong chính mình, hay quyết tâm chuyển đổi
đời sống theo hướng “ không làm các việc
ác, thực hành các việc lành, giữ tâm ý trong sạch”, nhờ đó con người dần đi đến
hoàn thiện về đạo đức tâm thức và trí tuệ, đi đến giác ngộ giải thoát.
Câu chyện về Thánh sanh của Angulimala là
một bài học khởi dậy phát huy tiềm năng giác ngộ vốn sẳn có trong mỗi người
chúng ta, mãi mãi là gợi niềm tin
hướng thiện cho con người và cuộc đời.
Đó là sự chuyển hóa kỳ diệu của một con người mà chỉ có Phật pháp mới làm được.
Không ai có thể tin một con người tàn ác như Angulimala là có thể được nhiếp
hóa trở thành một con người hiền thiện bậc nhất trên cuộc đời. Chỉ có đức Phật
mới thấy được khả năng chuyển hóa kỳ diệu ấy ở bên trong con người hung ác như
Angulimala, và chỉ có đức từ bi của Phật mới cho Angulimala cơ hội và cơ duyên
thay đổi, Đức Phật được tôn xưng là Đại từ Đại bi là thế.
Phật là Từ bi vì Phật có trí tuệ thấy được
tiềm năng giác ngộ vốn sẵn có trong mỗi chúng sanh, chỉ cần có cơ hội và có
duyên thuận lợi thì chúng sanh đều tiến lên thành Phật. Phật khác với thế gian
và làm những việc mà thế gian không làm được. Một bậc giác ngộ như Phật mới cho
Angulimala cơ hội được Thánh sanh, mới tạo cơ duyên cho Angulimala được tiếp
cận học tập thánh pháp, thực hành thánh đạo để đạt đến thánh quả giác ngộ, thế
gian cần phải học hỏi nhiều ở trí tuệ của Phật.
Nhờ tuệ giác và đức từ bi của Phật nên không
chỉ Angulimala mà hết thảy chúng sanh
được Thánh sanh, dù rằng Phật không còn
nữa, nhưng với giáo pháp của Ngài để lại, chúng sanh buông bỏ tâm làm ác, miệng
nói ác, thâm làm ác, thì người ấy được Thánh sanh, vì đã biết dừng lại các
nghiệp ác, và biết phát huy các nghiệp lành. Người Phật tử khởi lòng tin Tam
bảo, và phát nguyện thọ trì 5 giới, tức là được Thánh sanh, đã được Thánh sanh thì không còn làm ác, không
còn đọa ba cõi dữ, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, quyết chắc đi trên con đường
lành, sớm muộn gì cũng sẽ ra khỏi luân hồi
khổ đau.
Đức Phật đã tạo nhiều duyên Thánh sanh cho
mọi người bằng một lời khuyên sáng suốt và công bằng “ Hãy tự mình thắp đuốc
lên mà đi” Như vậy đức Phật đến với thế
giới gian một lần mà để lại cơ duyên Thánh sanh cho muôn đời chúng sanh. Ai
biết lắng nghe và tuân theo lời dạy của Phật thì chắc chắn được Thánh sanh, đạt
được sự may mắn tốt lành hết mê làm khổ đau ở đời này và nhiều đời sau, chúng
ta may mắn hơn Angulimala, vì không rời vào lối sống sai lầm xấu ác như
Angulimala. Nhưng nếu chúng ta sẽ không may mắn như Angulimala, nếu chúng ta
không được Thánh sanh, không được Thánh
sanh thì không bao giờ hết khổ .
Trích từ : Thánh
Sanh của Huyền Giác VHPG – 15-7-2018
{]{
ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA
Devadatta, phiên âm là Đề
Bà Đạt Đa, là anh em họ với đức Phật. Sau khi yêu cầu Phật giao phó Tăng đoàn
cho mình lãnh đạo không thành, ông mượn thế lực của vua A Xà Thế thực hiện âm
mưu sát hại Phật, bằng cách cử người sát thủ hại phật, thả voi say, lăn đá ..
Nhưng tất cả không thành, chỉ có hòn đá
nhỏ lăn làm chân Phật tổn thương nhẹ.
Đề Bà Đạt Đa bèn lập Tăng đoàn riêng và đề ra
5 tà pháp để thu hút mọi người.
1/ Trọn đời sống ở ẩn
trong rừng sâu, không ở làng xóm.
2/Trọn đời sống khất
thực, không nhận mời ăn
3/Trọn đời mặc y phấn
tảo, không nhận y phục của cư sĩ
4/ Trọn đời ngồi dưới gốc
cây, không ngồi trong phòng nhà
5/ Trọn đời không ăn cá
thịt, ăn cá thịt là có tội.
Có đến 500 Tỳ kheo sơ học đi theo, sống biệt lập dưới núi Già
Da.
Nghiệm lại thời Phật có một Đề Bà Đạt Đa,
nhưng đạo Phật ngày nay xuất hiện rất nhiều Đề Bà Đạt Đa, có nhiều vị Tăng giới
hạnh không nghiêm, gây chia rẽ hay nghi kỵ trong Tăng đoàn và quần chúng. Chúng
ta thường nghe và thường thấy ngoài đời hay
trên mạng xã hội bình phẩm về đạo
hạnh của những tu sĩ này nọ. Có những vị bon chen phấn đấu cho được địa vị
trong giáo hội, hay xây chùa to Phật lớn mà thiếu phần thời gian tu dưỡng bản
thân, nhất là không giữ mình trong giới luật. Lại có những vị giữ giới đức phẩm
hạnh, nhưng lại mang biên kiến tư tưởng sùng bái “Đạo Phật thời Nguyên thủy” và
phỉ báng kinh điển Đại thừa, cho rằng kinh điển Đại thừa là sự ngụy tạo của những người đời sau. Ngược
lại những vị cho mình là Đại thừa mới thật là tu rốt ráo. Theo sự nhận xét của Hòa Thượng Nhất
Hạnh thì : “ Phật giáo Bắc Phương, Phật
giáo Tây Tạng, Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Không Tông cũng như Hữu tông, bản
chất là những hạt giống, hạt giống Bồ đề. Các hạt giống ấy tùy theo ta gieo
trồng sẽ mọc lên thành nhiều cây Bồ đề khác nhau. Nhưng bao giờ Bồ đề ấy cũng
vẫn là cây Bồ đề”.
Nhất Hạnh-Đạo Phật Ngày nay, xuất bản Lá Bối
1965.
Những người xuất gia làm tu sĩ Phật giáo có
nhiều động cơ không thuần nhất, nên đương nhiên
xuất hiện những vị tu sĩ thiếu đạo hạnh làm ảnh hưởng không tốt cho Phật
giáo và xã hội. Ban đầu Đề Bà Đạt Đa xuất gia với tâm chân chánh, nhưng chưa
đắc được thánh quả, nên tâm ông chưa thuần tịnh, tâm chưa thuần tịnh nên vẫn bị
danh lợi, quyền thế chi phối và che lấp thiện tâm, vì tham vọng lãnh đạo một
tôn giáo lớn nhất xã hội Ấn Độ bấy giờ mà ông đã đánh mất lý tưởng xuất gia
chân chánh của mình..
Về thực trạng học Phật hiện nay theo sự nhận
xét của Hòa Thượng Nhất Hạnh: “ Tôi đã từng gặp nhiều người học Phật lâu năm,
họ có thể thuộc lòng bộ Phật giáo Bách khoa tự điển. Họ có thể giải thích cho
ta về bất cứ một câu một chữ nào trong Tam tạng. Họ chất chứa trong đầu những
cái biết rất bác học. Nhưng họ không hiểu đạo Phật, Lý do là tôi không thấy
những kiến thức của họ về đạo phật có dính líu gì đến sự sống của chính bản
thân họ và đoàn thể họ. Họ không tiếp nhận đạo Phật, không tiếp nhận được sinh
khí của đạo Phật, họ chỉ mâm mê trong
tay họ cái xác cũ của đạo phật mà thôi. Họ chỉ ưa xem đồ cổ trong viện bảo
tàng, cái học đó không có ích ”.
Đạo Phật là con đường dẫn đưa mọi người đến
Chân, Thiện,Mỹ, chứ không phải đạo phật cho những kẻ lợi dụng thời cơ, những
người không hiểu đạo Phật là những kẻ thất học, thất nghiệp, thất tình, chán
đời v.v. Mà là người học Phật có tâm kiên cố, tinh thần minh mẫn, biết phân biệt
chánh tà hư ngụy.
Bi kịch đời người xảy ra khi con người không
biết giới hạn lòng tham. Ai biết đủ là người đó hạnh phúc và yên vui, khi tham dục bị ngăn cản thì
trở thành bất mãn và phẫn nộ. khi đã vướng mắc vào tham dục thì lúc nào con
người chỉ nghĩ về mình, làm sao đẹp đẽ, giàu sang, có địa vị cao..v.v.. từ đó
họ bất chấp mọi thủ đoạn kể cả tướt đoạt hạnh phúc quyền lợi của người khác. Đó
là nguồn cơ của “tham nhũng” thiếu công tâm, công bằng, bất chấp lợi ích của
quần chúng. Vị ngọt của tham dục trần thế khiến cho con người vong tâm chạy
theo 8 ngọn gió của cuộc đời, xa rời tâm Phật của chính mình, như gả cùng tử
quên mất hạt ngọc trong tay áo. Đức Phật dạy trong kinh A Hàm : “ Quả thật
vậy, này các Tỳ kheo, do tham ái thúc
đẩy mà vua gây chiến với vua, hoàng tử với Hoàng tử, quan với quan, dân với
dân, cha, mẹ, vợ, chồng, con cháu, làng xóm láng giềng với nhau v.v.. họ giành giật bêu xấu nhau, hận thù nhau, còn
thù nghịch với nhau, dùng binh khí giết hại nhau, để sau đó nhận lấy hậu quả kẻ
chết, người sợ hãi, rồi sanh ra hận thù, đau đớn khốn cùng”. Chúng ta đang
chứng kiến hằng ngày, hằng giờ những tội ác trên đài, trên báo, trên mạng.
Nguyên nhân là do những tâm sở bất thiện, trong đó tham ái là hàng đầu, gây ra
những áp bức, bất công làm rối loạn xã hội. Chỉ có cách bứng tận gốc rễ của
tham dục, con người mới giải quyết được những vấn đề khổ đau của chính mình và
xã hội.
Thời đại hiện nay văn minh tiến bộ, giàu có
kỷ thuật hiện đại phục vụ con người đầy đủ về vật chất, nhưng chưa chắc đem lại
hạnh phúc cho nhân loại, bởi lẽ xã hội càng phát triển thì con người càng rơi
vào khủng hoảng, vì suy thoái về đạo đức và môi sinh. Con người chỉ biết tìm
kiếm những phát minh mới, những thành tựu về trí tuệ nhân tạo, có thể là những
hiểm họa hủy diệt con người do chiến tranh, nguyên tử, hóa chất và ô nhiễm môi
sinh. Rốt cuộc con người không thể thật sự có hạnh phúc.
Cách đây 2500 đức Phật đã giải đáp phương
pháp đi tìm con đường hạnh phúc. Ngài dạy rằng : Con người chỉ thật sự hạnh
phúc, khi đoạn tận lòng tham ái và chấp thủ, Đức Phật dạy: “ chúng ta là kết
quả của những việc chúng ta làm bây giờ”, điều này có nghĩa là chúng ta chịu
trách nhiệm mọi điều trong đời sống của chúng ta, không ai tu tập thế cho mình,
cũng không ai có thể cỡi bỏ mọi ràng buộc, đau khổ thay cho mình.
Cội rễ khủng hoảng nằm ở vô minh và tham ái, chúng ta phải hiểu
sự thật về duyên sinh hay nguyên lý cộng sinh của mọi sự hiện hữu. Nhận thức
rõ, hoạch định đời sống theo hướng thiểu dục tri túc, kiềm chế tiết độ, phát
huy năng lực nội tâm (thực hành bát chánh đạo). Đây là nếp sống tu tập mà người
tu sĩ hay cư sĩ hay bất cứ ai muốn sống hạnh phúc trong xã hội, hòa hợp với môi
trường, trân trọng thiên nhiên và để lại di sản cho thế hệ mai sau. Nếu không
chúng ta sẽ không chỉ bất an trong đời
sống hôm nay mà còn di hại mai sau nữa.
Đức Phật cảm ơn Đề Bà Đạt
Đa : Tuy Đề Bà Đạt Đa luôn luôn hại
Phật, nhưng đức Phật xem Đề Bà Đạt Đa
như là người bạn tốt, đức Phật thường nói : “ Hãy lấy ma quân làm đạo bạn, lấy
kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ, lấy người chống đối làm bạn giao du”.
Trong kinh ghi : “Do người bạn tốt Đề Bà Đạt Đa, mà làm cho Như Lai hoàn
bị sáu Ba la mật, bốn Vô lượng tâm, 32 tướng tốt, 80 vẽ đẹp,
thân màu vàng kim, 10 đại năng lực, 4 sự
Vô úy, 4 sự nhiếp hóa, 18 sự đặc biệt,
sức mạnh thần thông, sức mạnh tuệ giác, trở thành bậc chánh biến tri, hóa độ
sâu rộng các loài chúng sanh, toàn là do người bạn tốt Đề Bà Đạt Đa vậy” Kinh Pháp Hoa.
Nghĩa là nhờ Đề Bà Đạt Đa mà Phật thành Phật,
Đề Bà Đạt Đa cũng sẽ thành Phật, vì Đề Bà Đạt Đa luôn có mặt bên ta, trong ta,
như một thử thách, chướng ngại phải vượt qua, khiến người tu hành chân chính
thêm nghị lực dũng mãnh thêm tinh tấn./.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét