SƠ
LƯỢC TIỂU SỬ TĂNG NI TRỤ TRÌTẠI THÀNH PHỐ TAM KỲ
1- ĐẠI LÃO HT
THÍCH TÔN THẮNG
Khai sơn chùa Tịnh Độ - Tam Kỳ- Quảng
Nam
I- Thân thế
Hoà thượng họ Dương tên Minh, huý thượng Trừng hạ Kệ hiệu Tôn Thắng tự Như Nhu, Đời thứ 42 dòng Lâm Tế. Vào giờ
ngọ ngày 29-12- năm Kỷ Sửu (1888) dưới ánh trời xuân quang đãng Ngài ra đời,
tại xã Hà My, tổng Bích La, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thân phụ và thân
mẫu của Ngài đều thâm tín Tam Bảo là đệ tử thuần thành của chùa Diệu Đế Thuận
Hoá.
Hoà thượng sanh trưởng trong một gia đình am hiểu Nho giáo thuộc hàng
trung kiên của Phật giáo. Song thân của Ngài cho Ngài đi học từ lúc còn thuở
nhỏ, do đó Ngài đã sớm thấm nhuần đạo lý nhân sinh và nhận thấy cảnh vô thường
biến dịch của tạo hoá nên Ngài đã phát tâm xuất gia từ lúc 16 tuổi tại chùa
Diệu Đế. Với bản tánh thông minh thuần thiện, nên năm lên 18 tuổi Ngài được Hoà
thượng trụ trì chùa Diệu Đế cho lên hầu
Hoà thượng Tâm Truyền là Tăng Cang tổ đình Báo Quốc. Tại đây Ngài được Hoà
thượng Tâm Truyền cho thọ giới Sa di.
II- Sự nghiệp tu hành
Hoà thượng Tâm Truyền rất yêu mến Ngài, nên
mỗi khi đi chứng minh hay hành lễ trong hoàng cung đều cho Ngài đi theo hầu hạ.
Dưới triều vua Thành Thái, nhân có lễ trai đàn tại chùa Hoàng Ân trong
Đại nội, Ngài theo hầu bổn sư vào làm lễ tại hoàng cung. Hoàng triều bấy giờ
thấy Ngài đường đường tăng tướng dung mạo đoan nghiêm nên phê chuẩn cho Ngài
được vào ngạch tăng chúng chùa quốc tự
Diệu Đế, nhưng Ngài vẫn ở lại tổ đình Báo Quốc để hầu hạ bổn sư cốt để học hỏi
giáo lý và trau dồi đức hạnh. Năm 20 tuổi, đường tu đạo cũng như hành đạo đã
tăng tiến, Ngài được bổn sư cho phép đi chiêm bái nhiều nơi, từ Quảng Nam đến
Bình Thuận các tổ đình như Chúc Thánh, Thiên Ân, Thập Tháp, Long Khánh và các
chùa danh thắng khác, không nơi nào mà Ngài không đến suy tầm Phật tích. Sau đó
Ngài trở về trụ trì chùa Thạch Châu tại Đà Nẵng. Ba năm sau Ngài mới trở về tổ
đình Báo Quốc hầu hạ bổn sư cho đến ngày bổn sư viên tịch. Năm 1923 lúc Ngài 23
tuổi, Ngài được bổn sư cho đăng đàn thọ giới cụ túc tại trường Hương chùa Phước
Quang ở tỉnh Quảng Ngãi do Tăng cang Hoàng Tịnh là đàn đầu. Tiếp năm sau, Hoà
thượng Phước Trí chùa Tam Thái (Ngũ Hành Sơn) thấy ngài phước huệ song tu, bèn
phú pháp cho Ngài lên Đại sư với pháp
hiệu là Tôn Thắng. Dưới triều Khải Định, triều đình ban sắc tứ cho chùa Phổ
Thiên thì Ngài nhận chức Tăng Cang chùa nầy. Từ đó trở đi, nhằm mục đích tuỳ
duyên hành đạo, Ngài đã cố tâm phát huy Phật pháp bằng những Phật sự liên tiếp như : Kiểm tăng trong giáo hội
Quảng Nam Đà Nẵng. Ngài tỏ ra công minh chính trực. Làm trị sự tổ đình Báo Quốc
Ngài hết lòng phục vụ công việc thiền môn. Làm trụ trì chùa Linh Ứng Ngài hăng
say tô bồi thắng cảnh. Trong những đại giới đàn nhiều nơi tại các tỉnh, ngài
hăng hái tham gia, có lúc nhận lãnh chức vụ trong hội đồng Thập sư ở các đại
giới đàn do giáo hội cung thỉnh. Ngoài ra ngài làm tri sự ở Trường Hương chùa
Từ Vân Đà Nẵng, làm tôn chứng cho giới đàn Tịnh Quang tại Quảng Trị, làm yết ma
cho giới đàn Liên Trì Khánh Hoà, làm Đàn đầu truyền giới cho giới đàn Ni
chùa Bình Quang tỉnh Bình Thuận.
Từ năm 1956, ngài được tỉnh hội Phật giáo Đà nẵng mời làm chứng minh Đại
đạo sư và từ năm 1960 ngài là một thành viên trong hội đồng trưởng lão của giáo
hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất do giáo hội Trung ương cung thỉnh. Đến năm
1970, ngài đã 82 tuổi tuy tuổi già sức yếu, song ngài vẫn nhận làm chánh chủ
đàn cho Đại giới đàn Vĩnh Gia Đà Nẵng.
Ngoài ra ngài còn chú trọng kiến tạo hoặc trùng tu các tự viện. Như lập
học viện, cho học tăng lưu trú tại Đà Nẵng.
Khai sơn các chùa như chùa Từ Tôn tại xã Nam Dương, chùa Diệu Pháp tại
xã Bình Thuận, chùa Tịnh Độ tại Tam Kỳ, chùa Hà Quang tại xã Hà My Quảng Trị.
Ngài là một trong các vị sáng lập chùa Tường Quang Đà Nẵng, đại trùng tu chùa
Phật Quang tại Bình Thuận, kiến thiết lại chùa Phổ Thiên thành một ngôi chùa đồ
sộ, đổi hiệu là Phổ Đà làm cơ sở cho Phật học viện Trung phần.
Sau thời kỳ kháng chiến chống pháp nhiều chùa bị sập đổ, tuy đã lớn tuổi
ngài vẫn lo việc sửa chữa các chùa, như chùa Hội Quán tỉnh Quảng Trị và một số
các chùa khác, không sợ gian khổ, không ngại công lao, miễn sao Phật giáo được
phát huy rộng rãi và mạnh mẽ thì ngài lấy làm mãn nguyện.
Trên bước đường hoằng hoá độ sanh, ngài còn hưởng ứng phong trào chấn
hưng Phật giáo tại Trung Quốc do Thái Hư đại Sư lãnh đạo đề xướng. Ngài đứng ra
khởi xướng các Phật sự như : Năm 1933 thành lập Phật học đường tại Đà Nẵng để
đào tạo tăng tài, - năm 1934 sáng lập hội Đà Thành Phật học về sau với ý chí
thống nhất, ngài đã vận động hội viên và ký giấy chấp thuận hội Đà Thành Phật
học vào hội Phật học Trung phần để lập thành chi hội Bình Thuận- Năm 1937, sáng
lập ban biên tập và xuất bản tạp chí Tam Bảo. Đây là tờ tạp chí đồng hành cùng
với các tạp chí Viên Âm, Đuốc Tuệ, Từ Bi Âm đã tạo nên phong trào truyền bá
giáo lý để chung lo phục hồi và bồi đắp Phật giáo chóng được phát triển rộng
rãi. Năm 1956, hiến cúng ngôi chùa Phổ Thiên cho giáo hội Phật giáo Trung phần
làm Phật học viện Phổ Đà.
III-
Bảo vệ đạo pháp
Ngài là người lãnh đạo trong cuộc tranh đấu
chống chế độ kỳ thị và đàn áp Phật giáo của Ngô triều. Tại Đà Nẵng năm 1963
trước toà Thị Chính Đà Nẵng, ngài tuyên bố với chính quyền : “Thân
già này thà chết thời thôi, chứ còn sống không bao giờ chịu khuất phục sự đàn
áp”. Sau mấy ngày đêm tuyệt thực để tranh đấu tại bờ sông Bạch Đằng,
trải qua dãi nắng dầm sương mà ngài vẫn không sờn lòng nản chí. Khi giáo hội Đà
Nẵng rước ngài về chùa tỉnh hội, ngài vẫn còn nhịn ăn cho đến lúc thân thể vô
cùng tiều tuỵ. Sau đó ngài phát nguyện tự thiêu, đem thân cúng dường chư Phật,
cầu nguyện cho Phật giáo được thoát ly pháp nạn, nhưng tăng tín đồ nhận thấy sự
hiện diện của ngài trong cuộc tranh đấu chống Ngô Triều để bảo vệ Phật pháp là rất cần thiết, xin ngài ở lại với Phật
giáo đồ. Sau nhiều phen thỉnh cầu, ngài nói : “ Tôi phải tuỳ thuận chúng sanh,
nhưng Phật giáo đồ cần bảo vệ Phật pháp, dù phải hy sinh tánh mạng”.
IV- Tiếp tăng độ chúng
Do công hạnh của Ngài từ nhỏ đến lớn
với tâm hồn khoan dung độ lượng, ngài đã độ cho rất nhiều đệ tử xuất gia, có
nhiều vị chân tu tinh thông Phật pháp, hiện đang nhận những chức vụ thiết yếu
của giáo hội từ trung ương đến các cấp tỉnh thành. Ngài còn tiếp độ rất nhiều
đệ tử tại gia, có nhiều vị biết tinh tấn tu học đã trở thành những phật tử
trung kiên hết lòng hộ trì Tam bảo.
Với quy luật, sanh, trụ, dị, diệt,
thành, trụ, hoại, không làm thân con người không ai tránh khỏi định luật vô
thường chi phối, khi nhân duyên hoá độ đã ký tất, ngài thâu thần tịch diệt vào
lúc 21 giờ ngày 16-3 năm Đinh Tỵ (1976) hưởng thọ 88 tuổi trụ 53 hạ lạp.
Ngưỡng bạch cố giác linh Hoà thượng :
“ Ân giáo dưỡng một đời nên huệ mạng
Nghĩa Tôn Sư muôn kiếp khó đáp đền”
Nam mô từ Lâm Tế chánh tôn tứ thập
nhị thế huý thượng TRỪNG hạ KỆ hiệu TÔN THẮNG tự NHƯ NHU đại lão
Hoà Thượng Giác linh chứng giám.
(Tháp HT an trí tại vườn chùa Tịnh Độ
phường Hoà Hương T/P Tam Kỳ)
(Tuyên đọc lễ
huý kỵ lần thứ 29, tại chùa Tịnh Độ, ngày 15-3- Ất Dậu – 23-4-2005) ghi lại - Thiện Phương
—☸ –
2- HOÀ THƯỢNG THÍCH CHƠN NGỘ
Thành viên Hội đồng Chứng minh TW
GHPGVN, Chứng minh BTS PG Quảng Nam,
Viện chủ Tổ đình Tịnh Độ
Trưởng lão
Hoà thượng pháp danh Tâm Cần, pháp tự Từ Thục, pháp hiệu Chơn Ngộ, thuộc dòng
Lâm Tế Liễu Quán đời thứ 43.
Hoà thượng
thế danh Lương Hào, tên huý là Nhơn, sanh ngày 10 tháng 9 năm 1913, tại
xã Hoà Hải, huyện Hoà Vang, tỉnh Quảng Nam, nay là quận Ngũ Hành Sơn, thành phố
Đà Nẵng.
Ngài sanh ra
trong một gia đình có truyền thống Đạo Phật. Thân phụ là cụ ông Lương Lạc. Thân
mẫu là cụ bà Huỳnh Thị Niếu, từ trần lúc Hoà thượng vừa 13 tuổi. Từ đây, Ngài
đã phải tạm thu xếp bút nghiên, cùng thân phụ gánh vác việc gia đình.
Cảm nhận được
vô thường của cuộc đời từ sự ra đi quá sớm của thân mẫu, lại nhờ có túc duyên
với Phật pháp, giúp Ngài sớm tìm về cửa Phật. Trong một lần hữu duyên tại chùa
Tam Thai, Ngũ Hành Sơn Non Nước, Ngài được Tổ Phước Trí, là Trụ trì, thương mến
thâu nhận, cho phép hành điệu để sớm hôm công quả, học hành.
Năm 1932, Tổ
Phước Trí viên tịch, Ngài rời Tam Thai, về Đà Nẵng, đến chùa Tường Quang, thọ
giáo với Hoà thượng Hưng An, được Hoà thượng thế phát xuất gia, khuyến tấn với
pháp danh Tâm Cần.
Trong hào khí
của giai đoạn chấn hưng Phật giáo, năm 1932, Ngài được Hoà thượng Hưng An gởi
đến theo học tại Tăng học đường Phổ Thiên, do Hoà thượng Tăng Cang Thích Tôn
Thắng sáng lập và làm Giám đốc. Năm 1935, Ngài được thọ giới Sa Di và được Hoà
thượng Tăng Cang ban cho pháp tự Từ Thục.
Năm 1939, Hoà
thượng Hưng An viên tịch, Ngài cầu y chỉ với Hoà thượng Tăng Cang, được Tăng
Cang thâu nhận, giao trọng trách làm Tri sự tại Tăng học đường Phổ Thiên và
được Hoà thượng Tăng Cang đặc biệt thương mến.
Ngài được thọ
giới Cụ túc tại Đại giới đàn chùa Phổ Thiên vào ngày Mồng 8 tháng 4 năm 1947,
và được ban pháp hiệu là Chơn Ngộ. Giới đàn này do Hoà thượng Tôn Thắng làm
Đường đầu, Hoà thượng Giác Phong làm Yết ma, Hoà thượng Trí Nguyên làm Giáo
thọ. Bắt đầu từ đây, bước chân hành đạo của Ngài ngày càng rộng mở.
Sau thế chiến
thứ hai, Pháp tái chiếm Việt Nam. Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
của Cách mạng, Hội Phật giáo cứu quốc ra đời, Ngài được mời làm thư ký cho Hội
Phật giáo cứu quốc Đà Nẵng.
Năm 1961,
Ngài được Hoà thượng Tôn Thắng cử về Trụ trì chùa Tịnh Độ và được Giáo hội Tăng
già Quảng Nam Đà Nẵng chuẩn y. Thuận duyên hoá độ tại đô thị Tam Kỳ, Ngài lần
lượt tiếp độ tăng chúng, tín đồ. Ba năm sau bắt tay xây dựng nhà phương trượng
Tổ đình.
Năm 1964,
Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất được thành lập, Ngài được cử giữ chức vụ
Đặc uỷ Tăng sự Ban Đại diện Phật giáo tỉnh Quảng Tín và Phó đại diện Ban Đại
diện Phật giáo thị xã Tam Kỳ.
Ngoài việc
củng cố tự viện, tham gia công việc Giáo hội, suốt thời gian này, Ngài quan tâm
đến các vùng ngoại ô thiếu vắng Phật pháp. Từ năm 1965 đến 1967, Ngài chứng
minh đặt đá xây dựng chùa Quảng Hương, Tam Phú, Tam Kỳ và chùa Vĩnh An, Tam
Xuân, Núi Thành, nhằm đáp ứng nhu cầu quy y Tam Bảo, tu học, lễ bái tín ngưỡng
của nhân dân.
Sau ngày đất
nước hoà bình, là một trong những vị tùng lâm thạch trụ của Phật giáo vùng đất
phía nam xứ Quảng, Ngài vẫn kiên định với chí hướng phụng sự Tăng già nên đã
tiếp tục trùng tu chánh điện Tổ đình Tịnh Độ vào năm 1980, tiếp đến là hậu tổ
và những dãy tăng phòng. Ngài dần dần biến nơi đất Tổ thành giới trường quy tụ
Tăng chúng về Bố tát mỗi tháng và tổ chức an cư kiết hạ hàng năm. Nơi đây, cũng
là cơ sở trường Phật học đầu tiên, gieo mầm cho trường Phật học Quảng Nam hiện
tại.
Năm 1981,
Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập, Ngài được suy cử giữ chức vụ Chánh
Đại diện Phật giáo thị xã Tam Kỳ, nhiệm kỳ 1982 – 1987 và được tấn phong lên
hàng giáo phẩm Thượng toạ. Thời gian này, Ngài đồng thời tham gia vào UBMTTQVN
thị xã Tam Kỳ với cương vị Uỷ viên.
Năm 1996,
Ngài được Tăng già thỉnh cử làm Đệ nhất Tôn chứng Đại Giới đàn Phước Huệ, tổ
chức tại chùa Phổ Đà, thành phố Đà Nẵng.
Sau khi chia
tách địa giới hành chính, GHPG tỉnh Quảng Nam được thành lập, nhiệm kỳ I
(1997-2002), Ngài đảm nhận chức vụ Trưởng ban Tăng sự. Tại Đại hội đại biểu
Phật giáo toàn quốc kỳ IV, năm 1997, Ngài được tấn phong lên hàng giáo phẩm Hoà
thượng và được thỉnh cử vào thành viên Hội đồng chứng minh TW GHPGVN.
Cũng trong
thời gian này, Hoà thượng phát tâm đại trùng tu Tổ đình Tịnh Độ lần thứ hai và
tiếp tục kiến thiết đạt được tổng thể Tổ đình với tầm vóc nguy nga hiện tại,
làm nơi quy ngưỡng cho Chư Tăng Ni Từ Môn Pháp Phái và tín đồ gần xa về tu học
lâu dài.
Với Ngài,
Giới luật được thực thi là kế tục được mạng mạch Tăng già, năm 2000, Hoà thượng
được Ban Trị sự tỉnh hội Phật giáo Quảng Nam cung thỉnh làm Chánh chủ đàn Đại
Giới đàn Minh Giác và năm 2004 tiếp tục được cung thỉnh chứng minh cho Giới đàn
Ân Triêm đều tổ chức tại chùa Đạo Nguyên, Tam Kỳ.
Sứ mệnh tiếp
dẫn hậu lai luôn được Hoà thượng quan tâm. Đệ tử xuất gia của Ngài có những vị
đã ở hàng Giáo phẩm niên cao lạp trưởng và nhiều vị thành tựu trong các Phật sự
ở nước ngoài và tỉnh nhà. Ngài còn dành nhiều ưu ái giáo dưỡng chúng học tăng
trong các khoá học của trường Phật học Quảng Nam. Bên cạnh đó, hàng ngàn Tín đồ
thọ ơn hoá độ của Ngài vẫn thường xuyên tinh tấn tu trì.
Phụng sự xã
hội cũng là tâm nguyện to lớn của Hoà thượng. Ngài luôn vận động tín đồ làm
công tác từ thiện cứu trợ đồng bào những lúc gặp khó khăn hoặc thiên tai bão
lũ. Ngày 04 tháng 11 năm 2005, Hoà thượng vinh dự nhận Kỷ niệm chương vì sự
nghiệp đại đoàn kết dân tộc của Uỷ ban TW MTTQ Việt Nam do cụ Phạm Thế Duyệt ký
tặng.
Ở tuổi cửu
thập, mặc dù tuổi già sức yếu, Hoà thượng vẫn hết lòng cho việc giáo hoá đồ
chúng bằng chính tấm gương tinh tấn công phu khuya tối mỗi ngày. Nơi nào chúng
sanh cần thì đến, nơi nào Phật pháp cần thì đi. Ngài thường khuyên đại chúng:
“Hãy tinh tấn trong các Phật sự, đã là việc Phật thì đừng có từ nan”. Với cương
vị huynh trưởng trong pháp phái, Hoà thượng luôn hiện diện tại các tự viện theo
lời thỉnh cầu, dẫu nơi ấy có xa, đường sá có khó khăn, thời tiết có thất
thường… Ngài quên mình sức khoẻ đã dần yếu kém, tuổi đã bách niên.
Công hạnh của
Hoà thượng thật như lời phó pháp của Bổn sư Tăng Cang:
Pháp pháp bổn
vô pháp
Tâm Cần vô dị đồng
Ngã kim phó Từ Thục
Chơn Ngộ chứng Viên Dung.
Tạm dịch:
Các Pháp thật chẳng pháp
Tâm cần chẳng dị đồng
Ta nay phó Từ Thục
Chơn Ngộ chứng Viên Dung.
Thuận thế vô
thường, vào lúc 14 giờ ngày 21 tháng Giêng năm Quý Tỵ, mãn duyên ta bà, xả bỏ
báo thân, Ngài thâu thần thị tịch, thọ 100 tuổi, 67 hạ lạp, để lại cho đồ chúng
nhiều nuối tiếc thương, Giáo hội khuyết đi vị Đại lão Hoà thượng phước thọ linh
uy.
Nam Mô Tân
Viên Tịch Việt Nam Phật giáo Giáo Hội Hội Đồng Chứng Minh Thành Viên, Chứng
Minh Quảng Nam Phật Giáo Trị Sự Ban, Tịnh Độ Tổ đình Viện chủ. Tự Lâm Tế Chánh
Tôn Tứ Thập Tam Thế Huý thượng Tâm hạ Cần Tự Từ Thục Hiệu Chơn Ngộ Lương Công
Trưởng Lão Hoà Thượng Giác Linh Thuỳ Từ Chứng Giám../
(Tháp HT an trí tại vườn chùa Tịnh Độ
phường Hoà Hương T/p Tam Kỳ)
3- ĐẠI LÃO HOÀ THƯỢNG THÍCH TỪ Ý
Trụ trì chùa Hoà An-Tam Kỳ-Quảng Nam
I. Thân thế
Cố Đại lão Hoà thượng thuộc đời thứ
43 dòng Lâm Tế, huý thượng TÂM hạ NIỆM, tự TỪ Ý, hiệu CHƠN THIỆN, thế danh Trần
Văn Chí, sinh ngày 21 tháng 01 năm 1920 (Tháng
Chạp, năm Kỷ Mùi) tại làng Trà Tây, nay xã Tam Mỹ, huyện Núi Thành, tỉnh
Quảng Nam. Ngài sinh trưởng trong một gia đình thuần tín Tam Bảo, có nề nếp gia
phong; song thân là cụ ông Trần Văn Thí và cụ bà Ngô Thị Thời.
Sớm kết duyên với Tam Bảo, mười sáu
tuổi (1936), Ngài theo học Phật pháp với Thượng toạ Thích Như Đào – Toạ chủ
chùa Tế Nam, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Năm 1950, Ngài đến đảnh lễ xin
xuất gia với Hoà thượng Tăng Cang Thích Tôn Thắng tại chùa Phổ Thiên (nay là chùa Phổ Đà, thành phố Đà Nẵng).
Trong quá trình tu học tại đây, Ngài được Đức Tăng Cang hết lòng thương mến,
ban cho Pháp danh là Tâm Niệm.
II. Sự nghiệp tu hành và hoằng hoá
Năm 1954, rời Đà Nẵng, Ngài về Tam Kỳ
tu học tại chùa Tịnh Độ, kế đến trú tại chùa Minh Hương do hội người Hoa tại
Tam Kỳ sáng lập. Hai năm sau (1956), Ngài đến xây dựng cơ sở Chi hội Phật học
Tam Kỳ (tức là Hội quán Phật học Tam Kỳ, ngày nay là Chùa Hoà An). Năm 1959,
Ngài được Đức Tăng Cang cho thọ giới Sa di và ban cho Pháp tự là Từ Ý. Mùa hạ
năm 1960, Đức Tăng Cang lại tiếp tục cho Ngài thọ Cụ túc giới tại Giới đàn chùa
Ấn Quang, Sài gòn, do Hoà thượng Thiện Hoà làm Đàn đầu. Sau khi đắc giới, Ngài
trở về Tam Kỳ phụng hành Phật pháp, tu bổ và phát triển chùa Hoà An thành cơ sở
của Tỉnh hội Phật giáo Quảng Tín và được Viện Hoá đạo bổ nhiệm làm Trụ trì. Từ
đây, Ngài khởi đầu cho sự nghiệp hoằng hoá rộng lớn sau này.
Trong suốt cuộc đời hành Đạo, Hoà
thượng đã đem hết tâm lực, trí lực và sức lực phục vụ cho Giáo hội. Năm 1960,
Ngài đảm trách sứ mệnh phát triển Chi hội Phật học Tam kỳ, đã tạo tiền đề cho
quá trình lớn mạnh của Phật giáo huyện Tam kỳ và các huyện lân cận sau này. Năm
1964 Ngài đảm nhận trưởng ban kiến thiết và vận động xây dựng cơ sở Tỉnh Hội
Phật Giáo tỉnh Quảng Tín. Năm 1970, Ngài còn đảm nhận chức vụ Đặc Uỷ Xã Hội tỉnh
Quảng Tín và 1977 chức vụ Chánh Đại diện Phật giáo huyện Tam kỳ. Ngoài ra, Ngài
thường âm thầm thực thi những Phật sự trọng yếu khác vào những thời điểm khó
khăn và cần cấp như: Tổ chức an cư kiết hạ tại chùa Từ Quang phường Trường Xuân
4 năm liền, từ 1976 đến 1979, kế đến dự phần tổ chức Đại giới đàn tại chùa Long
Tuyền, Hội An (1984), mở Phương trượng Giới đàn truyền giới cho Sa di tại chùa
Hoà An (1988) Chùa Hoà Mỹ, xã Tam Nghĩa, huyện Núi Thành. Tất cả Phật sự với
Ngài đều là sứ mệnh của Như Lai giao phó nên trước hay sau, thuận hay nghịch
duyên, Hoà thượng đều không nề hà mệt mỏi và chùn bước.
III. Xây dựng cơ sở và tiếp độ tăng chúng
Vì muốn xiển dương Đạo Pháp ngày một
sâu rộng hơn nữa nên Ngài liên tiếp phát nguyện khai sơn, trùng tu xây dựng
nhiều cơ sở tự viện, Phật đài nhằm có chỗ để cho Chư Tăng tụ tập và tín đồ xa
gần quy ngưỡng. Năm 1962, Ngài khai sơn xây dựng chùa Từ Quang tại xã Kỳ Hương,
huyện Tam Kỳ (nay là phường Trường Xuân, Thành Phố Tam Kỳ); năm 1968, đại trùng
tu chùa Hoà An; năm 1969, đại trùng tu chùa Từ Quang. Năm 1972, tại xã Tam Xuân
huyện Núi Thành, Hoà Thượng khai sơn xây dựng chùa Hưng Quang; cùng năm, dựng
tượng Phật Thích Ca tại Thiên Long Thạch Động (chùa Hang, xã Tam Nghĩa) và
tượng Quan Thế Âm Bồ Tát tại đập Bà Quận. Tượng lộ Thiên Quán Thế Âm tại chùa
Phú Sơn xã Tam Nghĩa. Ngoài ra Ngài còn khai sơn xây dựng các chùa như chùa
Hiệp Phú xã Tam Quang huyện Núi Thành, chùa Hoà Quang xã Bình Phước huyện Thăng
Bình, chùa Hoà Nam tại núi Đất xã Tam Phú nay là phường An Phú thành phố Tam
Kỳ. Chùa Hữu Lâm thuộc huyện Tiên Phước. Chùa Từ Quang, chùa Lộc Tân xã Tam
Tiến huyện Núi Thành. Ngài nhận thấy Tam Kỳ chưa có chùa Ni, Vì thế thương tưởng hàng nữ xuất gia thiếu nơi tu
tập, năm 1973, Hoà thượng khai sơn xây dựng chùa Sư Nữ Diệu Quang, phường Hoà
Hương, Tam Kỳ. Trên đường hoá duyên phương Nam, năm 1986, Ngài khai sơn xây
dựng chùa Phước Quang tại huyện Long thành, tỉnh Đồng Nai. Sau ngày đất nước
thống nhất, Ngài còn hỗ trợ tu bổ cho một số chùa chiền bị hư hoại bởi chiến
tranh tại các vùng nông thôn Quảng Nam.
Sự nghiệp “tiếp dẫn hậu lai báo Phật
ân đức” và chí nguyện độ sanh là điểm son sáng nhất trong suốt cuộc đời hành
đạo của Ngài. Với cái nhìn trìu mến ban phát từ bi và giọng nói nhẹ nhàng trầm
ấm, Ngài đã khuyến hoá không thể đếm được số người theo về cửa Phật. Ngài độ
cho hàng đệ tử xuất gia trên trăm vị - trong đó, đã có nhiều vị nhận lãnh chức
vụ Trụ trì, có những vị phục vụ cho Giáo hội, còn một số đang theo tu học, hành
đạo tại nhiều nơi trong nước và nước ngoài. Hoà thượng thường xuyên quan tâm
hỏi han, thăm viếng, tặng quà và khuyến khích tu tập nên đã có hàng ngàn đệ tử
tại gia nương về Quy y Tam Bảo, hướng theo hạnh nguyện của Ngài. Thật là:
“Bất từ bi quyện tiếp chúng độ tăng,
linh chánh lý thời thời quảng bá.
Vô tích gian lao lợi sanh hoằng đạo,
tỷ pháp luân xứ xứ xương minh”.
(Không nề nhọc mỏi, tiếp chúng độ Tăng khiến Chánh lý luôn luôn truyền bá
Chẳng quản nhọc nhằn, lợi sanh truyền Đạo cho Pháp luân mãi mãi xương
minh.)
IV. Viên tịch
Thuận lý vô thường, thân tứ đại trả
về tứ đại, duyên sanh đã mãn, hoằng hoá đủ đầy, lão bịnh tử thong dong thọ
nhận, mùa Đông năm 1989, Ngài lâm trọng bệnh. Vào lúc 1 giờ 25 phút ngày 21
tháng 7 năm Canh Ngọ (9-9-1990), tại Chùa Hoà An, như đã chuẩn bị hành trang
sẵn sàng cho cuộc ra đi vĩnh viễn, Ngài bảo đồ chúng đỡ ngồi dậy, hoà theo
tiếng niệm Phật của hàng đệ tử có mặt. Rồi Ngài lại nằm xuống, vừa lúc ấy như
đã có duyên từ trước Hoà Thượng Thiện Duyên cũng vừa có mặt, để ban pháp ngữ:
“Về lẽ vô thường biến dịch của kiếp nhân sinh” .... sau đó Ngài trở hướng theo
cách nằm kiết tường, và mở mắt nhìn Hoà Thượng lần cuối và chấp tay xá từ biệt
Hoà Thượng và chúng đệ tử trước giờ quay gót
trở về Tây. Ngài an nhiên thị
tịch. Trụ thế 72 năm, 30 hạ lạp.
Vẫn biết rằng “ Nhạn quá trường giang, ảnh trầm kỳ thuỷ. Nhạn vô lưu tích chi ý, thuỷ vô lưu ảnh chi tâm ”.
Thế nhưng, để tỏ lòng kính ngưỡng bậc tôn sư đã suốt đời phục vụ đạo pháp. Tiếp
tăng độ chúng, hy sinh cả cuộc đời, để truyền trì mạng mạch Như lai, mong cho
đạo pháp trường tồn chúng sanh an lạc. Thật là “ ơn giáo dưỡng một đời nên huệ mạng, Nghĩa Tôn sư muôn kiếp khó đáp
đền”. Chúng con xin mạo muội ghi lại đôi nét hành trạng đời Ngài, ngõ hầu
làm gương sáng cho hàng hậu học noi theo.
Để ghi lại công hạnh của Ngài Ban Trị Sự Phật Giáo Quảng Nam, có câu đối
tưởng niệm công đức Ngài như sau :
Từ tâm mẫn niệm hậu lai, Đệ tử vĩnh
hoài ân hoá dục
Ý chí đốc hành tiên huấn, Tăng già
cộng ngưỡng đức đề huề.
(Từ tâm thương nghĩ hậu lai, Đệ tử mãi ghi ân
hoá dục
Ý chí dốc theo tiên huấn, Tăng già luôn nhớ đức đề
huề.)
NAM MÔ TỰ LÂM TẾ CHÁNH TÔN TỨ THẬP
TAM THẾ HUÝ thượng TÂM hạ NIỆM, tư TỪ Ý
hiệu CHƠN THIỆN HOÀ THƯỢNG GIÁC LINH CHỨNG GIÁM.
(Tháp HT an trí tại vườn chùa Từ
Quang Phường Trường Xuân T/p Tam Kỳ)
—
☸ –
4- HOÀ THƯỢNG
THÍCH VIÊN MÃN
(1922 – 2001)
Khai sơn chùa Kỳ Viên - thành phố Tam
Kỳ
Hoà thượng
thế danh Nguyễn Thanh Tịnh, pháp huý Tâm Trì, tự Chánh Không, hiệu Viên Mãn,
sinh năm Nhâm Tuất (1922), trong một gia đình trung nông có truyền thống mộ
đạo, nơi miền quê yên tĩnh thuộc thôn Dạ Lê, ngoại vi cố đô Huế.
Thân
phụ là cụ ông Nguyễn Thanh Bòng và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Nuôi. Thân phụ qua
đời lúc Ngài còn thơ ấu. Ngài thường được mẹ dẫn lên chùa từ khi còn chập
chững. Hình bóng trang nghiêm của chư tôn thiền đức sớm in đậm vào tâm trí cậu
bé có căn tu. Không đam mê các trò chơi đồng ấu, không thoả mãn lối Nho học
trường làng, vào năm Giáp Tuất (1934), khi vừa tròn 12 tuổi, Ngài xin mẹ xuất
gia, đầu sư với Hoà thượng Trừng Phổ, hiệu Quảng Tu trụ trì chùa Thiên Hưng và
được Hoà thượng cho pháp danh là Tâm Trì. Như vậy, Hoà thượng nối pháp dòng Lâm
Tế đời thứ 43 và thế hệ thứ 9 pháp phái Liễu Quán.
Từ đó, Ngài
theo thầy ngày đêm học đạo. Ngài được Bổn sư thương yêu dẫn đi hoá duyên khắp
trong cung ngoài nội chốn Kinh thành.
Năm Mậu Dần
(1938), với tâm nguyện thiết tha cầu học, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa Di
với Hoà thượng Huệ Minh tại giới đàn chùa Đại Bi tỉnh Thanh Hoá và bắt đầu cất
bước vân du cầu pháp. Hết Bắc lại vào Nam, bước chân bộ hành của Ngài không
quản gian lao cách sông trở núi.
Năm Nhâm Thìn
(1952), Ngài thọ Cụ Túc giới tại giới đàn được tổ chức ở chùa Thiên Bình, tỉnh
Bình Định do Hoà thượng Thích Phổ Chiếu, trụ trì chùa Thập Tháp làm Đàn đầu.
Năm Giáp Ngọ
(1954), Ngài nhập chúng tu học tại chùa Phổ Thiên (nay là chùa Phổ Đà, Đà Nẵng)
dưới sự hướng dẫn của Hoà thượng Thích Tôn Thắng.
Năm Ất Mùi
(1955), theo lời đề cử của Hoà thượng Thích Tôn Thắng, Ngài vào trụ trì chùa
Tịnh Độ, bắt đầu cuộc đời hành đạo trong phố thị nhỏ Tam Kỳ. Cũng trong thời
gian này, Ngài đảm nhận chức vụ Thủ bổn cho Giáo Hội Tăng Già Quảng Nam Đà
Nẵng.
Chùa Tịnh Độ
vốn được xây dựng bằng mái tranh vách đất, đã hư hỏng nặng bởi chiến tranh.
Ngài về vận động tín đồ chung sức lợp lại nhà phương trượng bằng tranh lá, tạm
làm nơi thờ Phật lễ bái sớm hôm. Tín đồ đến quy y Tam Bảo ngày mỗi đông.
Năm Bính Thân
(1956), nhận thấy ngôi chùa cũ nhỏ bé hư dột không kham nỗi lòng cần cầu tu học
của quần chúng, Ngài đi vận động khắp nơi, kẻ công người của, thậm chí vay mượn
để khởi công xây dựng Phật điện. Sau 2 năm thi công, đến năm Mậu Tuất (1958),
chùa Tịnh Độ được hoàn thành trong niềm hân hoan của tín đồ Phật tử gần xa. Sau
đó, Ngài chú tâm nhiều đến lĩnh vực hoằng pháp, làm cố vấn giáo hạnh cho sự ra
đời của Gia đình Phật tử Hương Sơn, Gia đình Phật tử đầu tiên ở Quảng Tín.
Thuận duyên
hoằng hoá, năm Canh Tý (1960), bàn giao chùa Tịnh Độ cho Giáo hội, Ngài tìm lên
mảnh đất An Thổ hoang vu, lập am tranh nhỏ, kinh kệ sớm hôm. Chốn tiêu sơ không
phụ người hành đạo, mảnh đất khô cằn mồ mả chợt bình an. Ngày ngày cuốc đất
trồng cây, đất Bụt yên lành chim rừng về kết tổ. Tín đồ gần xã lần lượt theo
về. Am tranh nhỏ như chốn hoá thành bỗng hiện ngôi Tam Bảo. Chùa Kỳ Viên ra
đời, xóm An Thổ ngày một đông vui.
Năm Nhâm Tý (1972),
Ngài bắt tay xây dựng ngôi Phật điện đơn sơ, nhằm có chỗ cho Tăng tín đồ tu
học. Chính sự đổi thay, dù gặp nhiều khó khăn song tâm nguyện hoằng hoá độ sanh
của Ngài vẫn hằng kiên định.
Sau năm 1975,
tuỳ duyên hoá đạo, Ngài đảm nhận chức vụ Đặc Uỷ Nghi Lễ của Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng.
Ngày lại
ngày, nắng rồi mưa, chiếc dù móc trên tay, bước những bước dài đều đặn, thanh
thản, khắp phố thị đến nông thôn, từ xóm nhỏ triền núi về làng chài ven biển,
đâu đâu cũng in dấu chân Ngài. Lời kinh kệ bỗng trầm ngân nga dâng tràn âm
thanh giải thoát. Tiếng thuyết pháp thao thao vang động xoay chuyển trần tục
lòng người. Bắt nhịp tiếng niệm Phật cho các cụ già trên giường bịnh, khiến cho
con trẻ nở toét nụ cười mỗi khi gặp mặt. Ngài như quên mình ngày mỗi già đi.
Đại thọ ngã
bóng về Tây, tám mươi tuổi đời, năm mươi hạ lạp, vào lúc 21 giờ ngày 17 tháng 9
năm Tân Tỵ (2001), Ngài an nhiên thâu thần thị tịch.
Quả là:
Thầy mang ngọn lửa ấm nồng,
Một đời thầm lặng soi dòng tử sinh.
Năm mươi năm giữ đạo tình,
Ca sa gói trọn bóng hình chân tu.
Bảo tháp của
Ngài được tôn trí trang nghiêm bên phải khuôn viên chùa Kỳ Viên, nơi mà Ngài đã
đặt những viên gạch đầu tiên kiến tạo.
GHPGVN tỉnh Quảng Nam
— ☸ –
5- HOÀ THƯỢNG
THÍCH THIỆN DUYÊN
- Trưởng Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Quảng
Nam
I. Thân thế
Hoà thượng
Đạo hiệu Thích Thiện Duyên, thế danh Võ Đình Như, sinh ngày 20/10/1926 tại thôn
Hội Vân, xã Cát Hiệp, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Ngài là con thứ 3 trong
gia đình. Thân phụ và thân mẫu của Hoà thượng là cụ ông Võ Toản pháp danh Nhựt
Toàn và cụ Bà Đặng Thị Chức pháp danh Diệu Phát. Gia đình Ngài có truyền thống
Phật giáo thuần thành.
Với túc duyên
nhiều đời, từ nhỏ, Ngài thường được bà nội dẫn đến chùa làng tụng kinh
niệm Phật. Gặp lúc Đại lão Hoà thượng Thích Thanh Hoà từ chùa Trà Can, Tháp
Chàm - Phan Rang về tổ chức lễ truyền Tam Quy Ngũ giới tại chùa Tịnh An, Phù
Cát, Bình Định, Ngài sớm thọ Tam quy Ngũ giới trong dịp này.
II. Xuất gia tu học
Năm 1941, cơ
duyên thuần thục, lòng cảm mến Phật Pháp dâng cao, được sự chấp thuận của song
thân, Ngài dõng mãnh phát tâm xuất gia khi vừa 15 tuổi. Ngài rời gia đình đến
đầu sư nơi Hoà thượng Giáo thọ Thích Quảng Đức chùa Tịnh An, mong được nương
bậc minh sư suốt đời tu học. Nào ngờ, chỉ mới 5 năm, Hoà thượng giáo thọ đã
chích lý Tây quy, cao đăng thượng phẩm. Trước sự mất mát to lớn trong buổi đầu
hành điệu, Ngài ở lại Tịnh An một thời gian để thù ân báo đáp công ơn khai thị.
Thời gian
luống qua, lúc 21 tuổi, xót mình giáo pháp chưa thấm, thầy hướng dẫn lại không,
Ngài quyết định lên đường cầu thầy học đạo để được chỉ dạy chỗ đến đi. Được
biết, Đại lão Hoà thượng Thượng Giác hạ Tánh, viện chủ tổ đình Hưng Long, xã An
Nhơn, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, là một trong những ngọn Hải đăng của tỉnh
thời bấy giờ, Ngài tìm đến đảnh lễ cầu thọ Pháp. Tại đây, Ngài được Đại Lão Hoà
thượng Hưng Long nhận làm đệ tử và ban cho pháp danh là Quảng Thành. Sau một
năm hầu thầy, học đạo, Ngài được bổn sư cho thọ giới Sadi với pháp tự là Thiện
Duyên.
Phong trào
chấn hưng Phật giáo lúc này đã lan rộng, khí thế học Phật bừng dậy từ Bắc chí
Nam, các Phật Học Viện mở ra cùng khắp. Năm 1953, Phật Học Đường Nha Trang
thành lập, Ngài được Hoà thượng bổn sư cho vào theo học tại đây. Năm 1956, Phật
Học Đường Báo Quốc - Huế chuyển vào Nha Trang và nhập cùng với Phật Học Đường
Nha Trang thành Phật Học Viện Trung Phần đặt tại chùa Hải Đức, do cố Hoà thượng
Thích Trí Thủ làm Giám viện. Trong thời gian theo học tại đây, Ngài là một
trong những học tăng sáng giá của khoá học đầu tiên này.
Năm 1957,
Ngài được Hoà thượng bổn sư cho thọ đại giới và ban cho Pháp hiệu là Quán Ngôn.
Đại giới đàn Hộ Quốc này do Hoà thượng Giám viện tổ chức và Đại lão Hoà thượng
Thích Giác Nhiên (đệ nhị Tăng thống GHPGVNTN) làm Đường đầu Hoà thượng. Giới
thể châu viên, Ngài gia tâm nhiều vào hành trì Giới luật và bắt đầu cho sự
nghiệp hoằng hoá sau này.
III. Hoằng pháp lợi sanh
Sau khi tốt
nghiệp khoá học tại Phật Học Viện Hải Đức, Ngài được Tổng hội Phật giáo Việt
Nam bổ nhiệm làm giảng sư trong giảng sư đoàn Trung phần. Trong thời gian này,
Ngài đã đi giảng thuyết giáo lý khắp các tỉnh thuộc Trung phần như Nha Trang,
Bảo Lộc (Lâm Đồng), Phú Yên, Quảng Ngãi và nhất là Quảng Nam.
Tại Quảng
Nam, Ngài đã không quản gian lao, vượt thác trèo đèo, đến tận các vùng trung du
hẻo lánh như Hiệp Đức, Hậu Đức, Trà My, Tiên Phước, Nông Sơn, Quế Sơn, Đại
Lộc,...cho đến các vùng đồng bằng ven biển như Tam Hải (Núi Thành), Duy Hải
(Duy Xuyên), Bình Minh (Thăng Bình),... Trong thời gian hoằng pháp tại Quảng
Nam, Ngài thường dừng chân ở lại tại các trú xứ Pháp Bảo (Hội An), Hoà An (Tam
Kỳ),... là những hội quán cơ sở Tổng hội Phật giáo thời bấy giờ.
Với lý tưởng
dấn thân, hoằng pháp vi gia vụ, bằng tất cả nhiệt huyết đem giáo pháp vào đời,
Ngài luôn tận tụy với sứ mệnh tại đất Quảng như một nhân duyên bổ xứ trong giai
đoạn lịch sử xã hội biến động đầy khó khăn này
IV. Phụng sự giáo hội
Năm 1962,
tỉnh Quảng Nam được chia thành 2 đơn vị là tỉnh Quảng Tín và Quảng Nam. Cuối
năm 1962, Giáo hội Phật giáo tỉnh Quảng Tín được thành lập. Tổng hội Phật giáo
Việt Nam bổ nhiệm Ngài làm Hội trưởng, trụ sở tạm thời đặt tại Hội quán chùa
Hoà An.
Năm 1963, khi
pháp nạn bùng nổ, Ngài đã lãnh đạo, kêu gọi và cùng Chư Tăng Ni trong tỉnh
chung lưng đấu cật bảo vệ đạo Pháp, đem lại an bình cho Phật giáo địa phương.
Ngày 01/11/1963, chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ, Pháp nạn tạm qua, sự sinh
hoạt tu học của Tăng Ni trong tỉnh dần dần đi vào ổn định.
Xét thấy Giáo
hội tỉnh nhà chưa có một cơ sở Tỉnh hội để làm việc, Ngài đã gia tâm thương
thuyết với chính quyền thời bấy giờ, xin khu đất tại thôn Mỹ Thạch, xã Kỳ Hương
(nay là phường Tân Thạnh, thành phố Tam
Kỳ) để làm trụ sở Tỉnh hội. Ngài chủ trì và vận động khởi công xây dựng
ngôi chùa vào ngày 17/11/1963, do Hoà thượng Thích Đôn Hậu chứng minh lễ đặt đá.
Năm 1965, công tác xây dựng trụ sở Tỉnh Giáo hội tạm hoàn thành, đặt tên là
chùa Đạo Nguyên.
Năm 1964,
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, Ngài được Viện Hoá Đạo cử làm
chánh đại diện tỉnh Quảng Tín cho đến ngày thống nhất đất nước (4/1975). Trong
thời gian này, ngoài việc chăm lo công tác hành chánh của Giáo hội, Ngài còn
chú trọng đến việc thiết lập hoằng pháp cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho tín
đồ tu học, hình thành nên hệ thống Niệm Phật đường tự viện tại các vùng nông
thôn trong tỉnh. Bên cạnh đó, Ngài luôn chú tâm đến việc đạo tạo Tăng tài nhân
sự, nên thường xuyên mở khoá giảng dạy Kinh Luật Luận cho Tăng Ni trong các
khoá An cư kiết hạ.
Năm 1977,
tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín và Đà Nẵng sát nhập làm một, Chư Tăng Ni 3 tỉnh họp
lại, thành lập Ban đại diện Phật giáo Quảng Nam - Đà Nẵng, Ngài giữ chức vụ phó
đại diện Phật giáo tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Năm 1981,
Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời, Đại hội đại biểu Phật giáo tỉnh Quảng Nam
Đà Nẵng được tổ chức và Ngài được Đại hội cử làm Phó Thường trực Ban Trị Sự mãi
cho đến ngày chia tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Cùng lúc đơn
vị hành chánh tỉnh Quảng Nam được thiết lập năm 1997, Trung ương Giáo hội đã
giao nhiệm vụ cho Ngài làm trưởng ban vận động thành lập Tỉnh hội Phật giáo
Quảng Nam. Nhờ nhiệt tâm vì đạo Pháp và đức tính khiêm hạ của mình, Ngài đã tổ
chức Đại hội đại biểu Phật giáo tỉnh Quảng Nam lần thứ nhất thành tựu tốt đẹp.
Tại đại hội này, Ngài được suy cử làm Trưởng Ban Trị Sự. Sau khi thành lập Tỉnh
hội, Ngài liền thúc đẩy thành lập Trường cơ bản Phật học Quảng Nam và đảm
trách Giáo thọ các môn Luật học. Bên cạnh đó, Ngài tiến hành tổ chức các kỳ Đại
Giới đàn vào những năm 2000, 2004 để truyền trao giới cho Tăng Ni sinh đang
theo học, ngõ hầu tạo tiền đề phát triển nhân lực cho Giáo hội tỉnh nhà.
Là một trong
những vị thạch trụ của Phật giáo Miền Trung, năm 1981, Ngài được Giáo hội tín
nhiệm cử vào chức vụ Uỷ viên Hội đồng Trị sự GHPGVN. Năm 1996, Ngài được thỉnh
cử làm Trưởng ban Hướng dẫn Phật tử TW GHPGVN và phụ trách qua các nhiệm kỳ cho
đến nay. Tại Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ VII, nhiệm kỳ 2012 – 2017,
Ngài được suy cử vào thành viên Hội đồng Chứng minh và chức vị Phó Chủ tịch Hội
đồng Trị sự GHPGVN.
V. Hoằng truyền giới luật
Về phương
diện Giới luật, là một Tăng sĩ tinh thông học giới, Ngài luôn lấy Giới làm
trọng, tích cực phát huy vai trò hàng đầu của Giới luật. Vì thế, Ngài thường
được các nơi cung thỉnh tham gia công tác truyền giới hoằng luật như: làm Giáo
thọ trong các trú xứ an cư kiết hạ của Chư Tăng địa phương, làm dẫn thỉnh sư
Đại Giới Đàn Vĩnh Gia (Đà Nẵng, 1970), Ban khảo hoạch Đại Giới đàn Thiện Hoà
(Sài Gòn, 1980), Giáo thọ A Xà Lê Đại Giới đàn Phước Huệ (Đà Nẵng, 1996), Giáo
thọ A Xà Lê Đại Giới Đàn Tịnh Khiết (Huế - 2000), Đàn đầu Hoà thượng Đại Giới đàn
Minh Giác (Quảng Nam, 2000), Giáo thọ A Xà Lê Đại Giới đàn Chánh Nhơn (Bình
Định, 2000), Đàn đầu Hoà thượng Đại giới đàn Ân Triêm (Quảng Nam, 2000), Chứng
Minh Đại Giới Đàn Trí Thủ (Đà Nẵng, 2008) và được cung thỉnh làm Đàn đầu Hoà
thượng Đại giới đàn Phước Trí (Đà Nẵng, ngày 17,18,19 tháng 6 năm 2013), Đàn
đầu Hoà thượng Đại giới đàn Kế Châu (Bình Định), ngày 21 – 23/09/2013,
Đàn đầu Hoà thượng Đại giới đàn Vĩnh Gia (Quảng Nam), ngày 26 –
28/09/2015. Có thể nói, dù bất cứ lĩnh vực nào, thời kỳ nào Hoà thượng luôn là
người hết mình cho công việc. Ngài luôn đặt sự tồn vong của đạo pháp lên hàng
đầu, lấy hoằng pháp làm sự nghiệp, xem Giáo dục Tăng Ni là nền tảng của sự phát
triển đạo Pháp, xem Giới luật là giềng mối của sự lớn mạnh Tăng già, Ngài là
tấm gương về sự tận tuỵ, khiêm hạ, đạm bạc xứng đáng cho hàng hậu tấn noi theo
./.
(Mùa Hạ năm nay, 2020, HT thọ 93 tuổi vẫn còn sức khoẻ và minh mẫn)
🙠☸🙢
6- THƯỢNG TOẠ
THÍCH CHÍ HIỀN
1. Thân thế
Cố Thượng Toạ pháp danh thượng Quảng hạ Tường, tự Chí Hiền, thế danh
: Nguyễn Văn Vân, sinh năm Nhâm Tuất
(ngày 21 tháng 12 năm 1922) tại xã Tam Phước, thị xã Tam Kỳ, tỉnh Quảng
Nam. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Liên và thân mẫu là cụ bà Huỳnh Thị Đường.
Xuất thân trong một gia đình gia giáo, sớm hấp thụ Nho học từ thuở thiếu
thời, nên Thầy rất thông thạo chữ Hán, chữ Nôm. Lớn lên, lúc gia đình theo Cách
mạng, cũng như các anh em : Nguyễn Bang, Nguyễn Cầu, Nguyễn Cần. Thầy tham gia
Đoàn Thanh Niên cứu quốc và gia nhập vào Đảng Cộng Sản Việt Nam. Sau năm 1954,
Thầy trở lại Miền Nam và bắt đầu kết
duyên với Phật pháp.
II. Xuất gia học đạo
Sớm tỉnh ngộ thế sự vô thường nhiễu
nhương, năm 1956, lúc 34 tuổi, Thầy phát tâm xuất gia tu học với Cố Đại Lão Hoà
thượng, thượng Minh hạ Thể tại Hội quán Phật giáo Tam Kỳ, nay là chùa Hoà An.
Được sự giáo dưỡng thuần minh của Hoà
thượng Bổn sư, năm 1962, Thầy thọ giới Sa Di tại Giới đàn chùa Long Tuyền thị
xã Hội an với pháp tự Chí Hiền. Năm 1963, Thầy vào Sài Gòn, theo học lớp Trung
Đẳng Phật học tại chùa Huệ Nghiêm.
Ngày 19 tháng 2 năm 1964, được sự cho
phép của Hoà thượng Bổn sư, Thầy thọ giới Tỳ kheo tại Đại giới đàn chùa Pháp
Hội do Hoà thượng, thượng Tắc hạ Nghi làm Đàn đầu. Cũng trong năm này, ngày 13
tháng 7, Hoà thượng Bổn sư viên tịch, Thầy bỏ dỡ việc học, về thọ tang và được
cử làm Trụ trì chùa Hoà Quang.
III. Quá trình hành đạo
Trong suốt 10 năm nhận giữ trọng
trách Trụ trì chùa Hoà Quang, với ý niệm kế thừa sự nghiệp hoằng hoá độ sanh
của Hoà thượng Bổn sư, Thầy luôn tự sách tấn mình tinh chuyên giới hạnh, cần
cầu tuỳ chúng tu học và lợi lạc quần sanh.
Để báo đáp thâm ân của Bậc Tôn
Sư đã viên tịch, Thầy cùng huynh đệ
nhanh chóng hoàn thành Bảo tháp tôn trí nhục thân Hoà thượng. Với tự viện, năm
1970, Thầy kêu gọi tín đồ thập phương chung góp khởi công trùng tu Đại Hùng Bảo
điện nhằm tạo thuận duyên cho tín đồ có nơi rộng rãi để lễ bái tu học.
Với sự nghiệp “ Hoằng pháp vi gia
vụ”, ngoài việc duy trì đồ chúng tu học tại chùa, Thầy còn tham gia gánh vác
Phật sự Giáo hội. Được Ban Đại diện Phật giáo Quảng Tín (cũ) giao phó trách nhiệm Uỷ viên xã hội. Thầy đi
nhiều nơi để làm công tác từ thiện, ân cần thuyết giảng giáo lý, giúp đỡ nhân
dân ổn định cuộc sống trong thời buổi chiến tranh.
Năm 1975, sau khi đất nước thống nhất, Thầy bàn giao pháp nhiệm Trụ trì
lại cho Sư đệ là Thượng toạ Thích Chí Đạo để về quê lập Thất tu hành. Duyên
lành bất hội, năm 1981, Thầy trở lại chùa Hoà Quang nhập chúng tịnh tu và tùng
chúng An cư cho đến những ngày bệnh yếu cuối đời.
Vì tuổi già sức yếu, bệnh duyên dài năm, việc đời việc đạo nụ cười đã
mãn, xả báo thân, Thầy thâu thần thị tịch vào lúc 04 giờ sáng ngày 16 tháng 11
năm Giáp Thân nhằm ngày 27 tháng 12 năm 2004, thọ 83 thế tuế, 40 hạ lạp.
Tuy ngôn ngữ trầm phù của thế gian
không chuyển tải hết được đạo hạnh bậc Thầy, nhưng chúng con cũng kính xin ghi
lại đôi dòng tiểu sử như đốt nén tâm hương cúng dường Giác linh cố Thượng toạ.
Ngưỡng nguyện Thượng toạ cao đăng Phật quốc, hồi nhập Ta bà tiếp tục sứ mệnh hoằng hoá lợi sanh.
Nam mô Tân Viên Tịch Tự Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Ngũ Thế, Nguyên Hoà
Quang Tự Trụ Trì, huý thượng Quảng hạ Tường tự Chí Hiền Nguyễn Công Thượng Toạ
Giác Linh thuỳ từ chứng giám.
(Thiện
Phương tuyên đọc tiểu sử nhân ngày di quan nhập tháp- Tháp được an trí tại vườn chùa Xuân Sơn xã
Tam Thái huyện Phú Ninh).
🙠☸🙢
7- HOÀ THƯỢNG
THÍCH GIẢI NGHIÊM
Hoà Thượng
Pháp danh thượng Nguyên hạ Trang, tự Giải Nghiêm, hiệu Viên Tịnh, thế danh
Lương Văn Thể. Hoà thượng sinh năm Ất Dậu (1945), tại làng Đông Hải, một làng
chài ven biển, nay thuộc phường Hoà Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Hoà thượng là con trai út trong một gia đình có mười hai người con. Thân phụ là
cụ ông Lương Dục, thân mẫu là cụ bà Trần Thị An.
Được huấn dục
chí nguyện hướng Phật trong truyền thống gia tộc họ Lương, được cha mẹ cho
phép, tám tuổi, Hoà thượng phát tâm xuất gia với cố Hoà thượng Đạo hiệu Thích
Từ Vân, Trụ trì chùa Hải Hội, Mân Quang, Quận Sơn Trà.
Năm 1962, Hoà
thượng vào chùa Tịnh Độ, Tam Kỳ theo hầu cận và phát nguyện làm đệ tử với
(người anh trong thân tộc Lương, tức là) Cố Hoà thượng thượng Chơn hạ Ngộ, được
Bổn sư ban cho Pháp danh Nguyên Trang.
Sau kỳ chư
Tăng an cư kiết hạ năm 1966, Hoà thượng được Bổn sư ban pháp tự Giải Nghiêm và
cho phép thọ giới pháp Sa di tại giới đàn phương trượng chùa Long Tuyền, do Đại
lão Hoà thượng thượng Tôn hạ Bảo truyền thọ.
Thuận duyên
tu học, tháng 10 năm 1970, Hoà thượng được Bổn sư đồng thuận cho phép đăng đàn
thụ Thanh văn Bồ tát giới tại Đại giới đàn Vĩnh Gia, chùa Phổ Đà do Trưởng lão
Đệ nhị Tăng thống thượng Giác hạ Nhiên làm Đàn đầu Hoà thượng.
Với tự thân,
nơi chân tính thuần nhu, lấy hạnh tu làm phương tiện hành đạo, Hoà thượng tinh
tấn tụng kinh bái sám sớm hôm chưa từng ngơi nghỉ.
Trong
vai Tri sự Tổ đình, mấy mươi năm cần mẫn, ngày ngày Hoà thượng âm thầm
hầu Thầy phụng chúng, bất quản việc khó khăn, không từ nan lao nhọc. Sau khi Cố
Đại lão Hoà thượng Bổn sư viên tịch, được sự đề cử của môn phái và quyết định
bổ nhiệm Trụ trì Tổ Đình Tịnh Độ của BTS GHPG tỉnh Quảng Nam, Hoà thượng chính
thức đảm nhận trọng trách Trụ trì khi tuổi đã 70.
Với tín đồ,
dẫu sức khoẻ không tốt, thân mang trọng bịnh, nhưng nơi nào tín đồ cần đáp ứng
nhu cầu nghi lễ tâm linh, thì dẫu gần hay xa Hoà thượng đều giản dị mà phương
tiện đến đi vô ngại.
Sinh hoạt
cùng Tăng già, Hoà thượng luôn thể hiện lòng tôn kính các bậc trưởng thượng,
khiêm hạ với đồng môn, bao dung với hậu học. Vì vậy, với tinh thần cọng trụ
thúc liễm thân tâm trau dồi đạo hạnh, nhiều mùa An cư kiết hạ tại các trụ xứ
ở Tam Kỳ, Hoà thượng luôn được chư Tăng tín nhiệm thỉnh mời làm
Chúng trưởng và cung cử làm Tự tứ nhơn như Pháp thành tựu.
Với chính
quyền và nhân dân phường Hoà Hương sở tại, Hoà thượng luôn tạo sự liên lạc giao
tiếp tốt đẹp bằng các chuyến từ thiện với người nghèo tàn tật và được mời tham
gia làm Uỷ viên MTTQVN phường.
Bằng tín tâm
phụng sự Giáo hội, Hoà thượng lần lượt tham gia làm Uỷ viên Ban Đại diện
Phật giáo thành phố Tam kỳ nhiệm kỳ 1997-2002, Uỷ viên Kiểm soát Ban Trị sự
GHPG tỉnh Quảng Nam nhiệm kỳ III (2007-2012), Chứng minh Ban Trị sự GHPG
tỉnh Quảng Nam nhiệm kỳ IV (2012-2017).
Giới luật
chuyên chì, hạng đạo kiêm tu, Hoà thượng được kiềng thỉnh làm Đệ ngũ tôn chứng
tại Đại giới đàn Minh Giác năm 2000 và Đệ tam tôn chứng tại Đại giới đàn Ân
Triêm năm 2004, do tỉnh hội Phật giáo Quảng Nam tổ chức. Gần đây, như biết trước
vô thường sanh tử, biết thân bịnh khó qua, Hoà thượng bất kham nặng lời thỉnh
cầu đương ví đệ tam Tôn chứng trong Đại giới đàn Vĩnh Gia mà Ban Kiến đàn BTS
PG tỉnh Quảng Nam cung thỉnh vào trung tuần tháng 8 sắp đến.
Thuận thế vô
thường, vào lúc 23 giờ ngày 20 tháng 7 năm Ất Mùi (2/9/2015), Hoà thượng thâu
thần thị tịch, trụ thế 71 năm, 46 hạ lạp. Như một tấm gương sáng về giới hạnh
và đức độ khiêm cung cho hậu học, Hoà thượng mãn phần công đức, xả báo thân an
nhiên tự tại.
Nam mô tự Lâm Tế chánh
tông tứ thập tứ thế, Quảng Nam tỉnh Phật giáo Trị sự ban Chứng minh, Tịnh Độ Tổ
Đình Đệ Tứ Trụ trì, huý thượng Nguyên hạ Trang, tự Giải Nghiêm, hiệu Viên Tịnh
Lương công Hoà thượng Giác linh.
(Tháp HT an
trí tại vườn chùa Tịnh Độ phường Hoà Hương T/p Tam Kỳ)
—
☸ –
8- HOÀ THƯỢNG
THÍCH CHÍ ĐẠO
Uỷ Viên Hội Đồng Trị Sự Giáo hội Phật
giáo Việt Nam
Phó Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Quảng Nam
Viện chủ chùa Hoà Quang, Tp. Tam Kỳ
I. Thân thế
Hoà thượng
pháp tự Thích Chí Đạo, pháp danh Quảng Trai, hiệu Tịch Phương, thuộc dòng Liễu
Quán thế hệ thứ 10, môn phong pháp phái Tổ đình Từ Quang, cố đô Huế. Trụ trì
đời thứ 3 chùa Hoà Quang, Tam Kỳ, Quảng Nam.
Hoà thượng
thế danh Phạm Đại, sinh ngày 10 tháng 4 năm Ất Dậu (1945), tại làng Nam Định,
thôn Diêm Phổ, nay là xã Tam Anh Nam, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ
là cụ ông Phạm Quy pháp danh Tâm Thống và thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suý pháp
danh Tâm Nhiên. Ngài là con thứ 7 trong gia đình có 8 người con, gồm 5 trai, 3
gái, trong đó có người anh thứ 6 cũng thuận chí xuất gia. Gia đình có truyền
thống nhiều đời thâm tín và phụng sự Tam Bảo nên Ngài sớm có cơ duyên gặp Phật
pháp, ươm mầm hạt giống Bồ đề.
II. Xuất gia tu học
Năm 1957, khi
mới 12 tuổi, Ngài được cha mẹ cho phép xuất gia với Cố Hoà thượng thượng Minh
hạ Thể, Chi hội trưởng Chi hội Phật học Tam Kỳ, trụ trì chùa Hoà An thời
bấy giờ.
Khi Cố Hoà
thượng Minh Thể về khai sơn sáng lập tịnh thất trên vùng cát trắng Khu Nam, phủ
lỵ Tam Kỳ, vào năm 1959, Ngài theo bước chân Thầy, hành điệu tu học, sớm hôm
chấp tác kham cần ngay từ những ngày đầu gầy dựng chùa Hoà Quang. Từ đây, chí
khí trượng phu được hun đúc, sở nguyện cầu thọ giới pháp được tô bồi, được bổn
sư cho thọ giới Sa Di tại chùa Hoà An, Giới đàn phương trượng do Hội Phật học
Tam Kỳ tổ chức vào năm 1959 và được Bổn sư ban cho pháp tự Chí Đạo, hiệu Tịch
Phương.
Tâm tánh nhu
nhuyến, sở nguyện lân mẫn hữu tình, năm 1962, Ngài xin Bổn sư cho phép vào y
chỉ thọ giáo mật pháp với cố trưởng lão Hoà thượng Thích Đức Thiệu tại chùa
Viên Giác, Cầu Đất, Đà Lạt. Chính sự thọ học mật pháp này mà về sau Hoà thượng
ứng cơ diệu dụng, tuỳ duyên cảm hoá chữa trị cho rất nhiều người bịnh được định
tĩnh tinh thần, ổn định cuộc sống và biết quay về nương tựa Tam Bảo.
Mùa Vu lan
năm 1964, Bổn sư viên tịch lúc Hoà thượng chưa tròn hai mươi tuổi. Đây
quả là sự mất mát lớn lao nhất trên con đường tìm về bảo sở. Nén đau thương,
sau tang lễ, Ngài quyết chí theo đường học vấn, ngày đêm đèn sách, khích lệ tự
thân. Từ năm 1964 đến năm 1967, Hoà thượng theo học lớp Trung đẳng chuyên khoa Huệ
Nghiêm. Trong khoá học này năm 1965 được đổi tên thành Phật học viện Huệ
Nghiêm, trở thành nơi tiếp nhận và đào tạo hàng trăm Tăng tài dấn thân hoằng
hoá của Phật giáo miền Nam. Hoà thượng được tu học và trau dồi ý chí trong hào
khí ấy.
Ngày 19 tháng
6 năm Mậu Thân (1968), Hoà thượng thọ Tỳ kheo - Bồ tát giới tại Đại giới đàn
Phước Huệ, được tổ chức tại Phật học viện Hải Đức, Nha Trang, do Trưởng lão Hoà
thượng Thích Phúc Hộ làm Đường đầu.
III. Hoằng hoá lợi sanh và phụng sự
giáo hội
Với sở học và
tâm nguyện thượng cầu Phật Đạo, hạ hoá chúng sanh, cuối năm 1968, Hoà thượng
được tín đồ cung thỉnh về Trụ trì chùa Bửu Minh, thị xã Hậu Bổn (Cheo Reo),
tỉnh Phú Bổn (nay thuộc tỉnh Gia Lai). Đây là vùng đất khắc nghiệt trong chiến
tranh, dân cư thưa thớt, phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu số nhưng với chí
nguyện dấn thân phụng đạo đã nuôi lớn, Hoà thượng đã đặt những viên gạch Phật
pháp đầu tiên cho xứ sở này. Với những thành tựu Phật sự ấy, Hoà thượng được
Viện Hoá Đạo tin tưởng, cung cử làm Chánh Đại diện GHPGVNTN tỉnh Phú Bổn từ năm
1970 đến 1975.
Sau ngày hoà
bình lập lại, đất nước thống nhất, tuỳ duyên ứng duyên, Hoà thượng rời chùa Bửu
Minh, Gia Lai và được chư huynh đệ cung thỉnh về kế thừa tổ nghiệp, duy trì
giềng mối tông phong, kế tục Trụ trì chùa Hoà Quang. Kể từ đây, Ngài được
Tăng Ni và Phật tử tín nhiệm thỉnh cử làm Phó đại diện Phật giáo huyện Tam Kỳ.
Năm 1989, Hoà
thượng được cung thỉnh làm Chánh đại diện Giáo hội Phật giáo thị xã Tam Kỳ và
đảm nhiệm chức vụ này cho đến năm 2006. Cũng trong thời gian này, Ngài được
giới thiệu tham gia thành viên UBMTTQVN thị xã Tam Kỳ.
Năm 1997,
tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng chia tách, Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Quảng Nam thành
lập, Hoà thượng được cung thỉnh đảm nhận chức vụ Phó trưởng Ban trị sự tỉnh.
Năm 2006, Hoà
thượng được cung thỉnh làm Chứng minh Ban Đại diện (nay là Ban Trị sự)
thành phố Tam Kỳ.
Tại Đại hội
Phật giáo toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2007-2012, Hoà thượng được tấn phong
lên hàng Giáo phẩm Hoà thượng và suy cử làm Uỷ viên Hội đồng Trị sự Giáo hội
Phật giáo Việt Nam cho đến ngày viên tịch.
Dù ở giai
đoạn nào của Giáo hội, dù ở cương vị nào khi được cung cử đảm trách, Hoà thượng
đều lấy đức khiêm cung, hoà khí làm trọng nên trở thành một trong những trụ cột
vững chắc của Phật giáo tỉnh nhà. Với những công đức mà Hoà thượng đã hiến dâng
cho đạo pháp và dân tộc, Ngài đã được Giáo hội, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc
tặng: Bằng Tuyên Dương Công Đức, kỷ niệm chương vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn
dân và nhiều bằng khen khác.
IV. Hoằng truyền giới luật và tiếp
tăng độ chúng
Để duy trì
mạng mạch Phật pháp bằng chính đời sống giới luật như Phật dạy, Hoà thượng luôn
ủng hộ và quan tâm đến việc an cư tu học, hay tổ chức trường lớp giáo dục
cho Tăng Ni trong tỉnh. Công đức cúng dường tạo phước luôn là tấm gương lớn cho
tăng chúng tín đồ noi theo. Vì thế, Ngài thường được cung thỉnh làm Giáo thọ
trong các kỳ An cư. Ngài được cung thỉnh làm Đệ Tam tôn chứng tại đại giới đàn
Phước Huệ, do Ban Trị Sự Phật giáo tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng tổ chức năm 1996 tại
chùa Phổ Đà, Đà Nẵng, làm Yết ma A xà lê trong hai giới đàn Minh Giác và Ân
Triêm tổ chức tại chùa Đạo Nguyên, Tam Kỳ do Ban Trị Sự Phật giáo tỉnh Quảng
Nam tổ chức vào các năm 2000 và 2004.
Với bổn tự
Hoà Quang, Hoà thượng luôn lấy tinh tấn hành trì hằng tự minh biểu mẫu, lấy lân
mẫn khoan dung làm phương tiện độ sanh. Đệ tử xuất gia đắc pháp với Ngài có 10
vị, đã kế tục sứ mệnh của Ngài tham gia các cấp Giáo hội, Trụ trì các tự viện
tiếp Tăng độ chúng gần xa. Đệ tử tại gia luôn được Hoà thượng ưu ái hướng dẫn
tu trì. Hàng ngày, tín đồ luôn được phúc duyên hầu chuyện, được cứu chữa tật
bịnh, được nhận sự hỷ lạc khuyên răn.
Tự viện luôn
được Hoà thượng dần dần tuỳ duyên tu sửa. Năm 2011, Hoà thượng phát nguyện khởi
công đại trùng tu chùa Hoà Quang để đáp ứng nhu cầu tu học của chư Tăng và đạo
hữu phật tử. Công trình xây dựng đến nay cũng đã sắp hoàn thành.
V. Mãn duyên
Là hành giả
Pháp Hoa ngày mỗi ngày trì tụng, liễu sanh tử vô thường, tỏ tứ đại duyên sanh,
mặc dù Hoà thượng đã sớm biết bệnh duyên nan y từ năm 2008 nhưng vẫn tự tại vô
ngại, tùng sự hoá duyên. Ngài được hàng môn đồ đưa chữa bệnh tại bệnh viện
chuyên khoa, thành phố Hồ Chí Minh. Tuy biết, bệnh mỗi ngày thêm nặng nhưng
Ngài vẫn lạc quan tham gia công tác Phật sự của Giáo hội. Lần cuối cùng môn đồ
đệ tử đưa Hoà thượng trở lại thành phố Hồ Chí Minh để chữa trị. Tại đây, Ngài
cảm thấy sức khoẻ yếu dần cảm nhận sự vô thường sắp đến. Như đã biết, ngày về
cảnh Phật không xa, Ngài dạy các đệ tử theo hầu, quý Thầy nên về trước để lo
hậu sự, Ngài sẽ về sau. Trong những giờ phút cuối tại chùa Hoà Quang, Ngài vẫn
an nhiên cho dù sức khoẻ yếu dần. Khi chư tôn đức Thường trực Ban Trị Sự GHPGVN
tỉnh Quảng Nam đến thăm, nghe tin Ngài ra hiệu cho đệ tử đỡ Ngài ngồi dậy để
cảm ơn và chào từ biệt Chư tôn đức trước khi quảy dép về Tây.
Với 70 xuân
thu trụ thế, 47 hạ lạp, thời đã đến, Hoà thượng xả bỏ huyễn thân, trở về cảnh
giới Niết bàn an tịnh vào lúc 13 giờ 25 ngày 16 tháng 10 năm Giáp Ngọ (nhằm
ngày 7 tháng 12 năm 2014) để lại cho môn đồ pháp quyến nhiều nỗi tiếc thương,
Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Quảng Nam vắng
đi một thành viên đã đóng góp rất nhiều công đức.
NAM MÔ VIỆT NAM PHẬT
GIÁO HỘI ĐỒNG TRỊ SỰ THÀNH VIÊN, QUẢNG NAM PHẬT GIÁO TRỊ SỰ PHÓ TRƯỞNG BAN, TỰ
LÂM TẾ CHÁNH TÔNG TỨ THẬP NGŨ THẾ, TRÙNG KIẾN HOÀ QUANG TỰ ĐỆ TAM TRỤ
TRÌ, HUÝ THƯỢNG QUẢNG HẠ TRAI, TỰ CHÍ ĐẠO, HIỆU TỊCH PHƯƠNG HOÀ THƯỢNG TÂN VIÊN
TỊCH ĐÀI TIỀN CHỨNG GIÁM.
(Tháp HT an trí tại vườn
chùa Hoà Quang phường An Mỹ T/p Tam Kỳ)
— ☸ –
9- HOÀ THƯỢNG
THÍCH THIỆN ĐẠT
Hoà thượng thuộc dòng Lâm Tế Liễu
Quán đời thứ thứ 44, huý Nguyên Phước, tự Thiện Đạt, hiệu Quang Thông, Thế danh
Nguyễn Văn Hữu, sinh năm Ất Hợi (1935), tại thôn Cổ Linh, xã Bình Sa, huyện
Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ là cụ Nguyễn Văn Cương và thân mẫu là cụ
Trịnh Thị Bôi. Thầy là con thứ 4 trong gia đình 5 anh em. Đó là gia đình lương
y gia truyền nhiều đời, và cũng rất sùng kính đạo Phật.
Thuở nhỏ Thầy sống với cha mẹ cho đến
năm 27 tuổi, năm Nhâm Dần (1962) bỗng nhiên Phật duyên khai lối, bồ đề tâm phát
khởi, Thầy chí nguyện xuất gia, đến chùa Hoà An, thành phố Tam Kỳ đảnh lễ xin
Hoà Thượng thượng Từ hạ Ý xuất gia và ban cho pháp danh Nguyên Phước sau đó đưa
về chùa Từ Quang để ở.
Năm Ất Tỵ (1965), Thầy được Bổn sư
cho thọ giới Sa Di có pháp tự là Thiện Đạt.
Năm Canh Tuất (1970), Thầy thọ Tỳ
kheo, Bồ tát giới có pháp hiệu là Quang Thông tại giới đàn Vĩnh Gia, ở Đà Nẵng,
do hoà thượng Giác Nhiên làm Đàn đầu. Và sau đó Thầy về đảnh lễ hoà thượng bổn
sư và tiếp tục tục tu học tại chùa Từ Quang, Tam Kỳ.
Sau một thời gian, Bổn sư biết bản
tính chân chất, thích cảnh điền viên thanh tịnh miền quê, nên năm 1976 đạo hữu
Lâm Minh Diệu chùa Dương Đàn cùng các đạo hữu thỉnh mời Ngài về trụ trì chùa
Dương Đàn, xã Tam Dân, huyện Phú Ninh để hướng dẫn đạo hữu tu tập. Vốn xuất thân
từ thôn quê nên thích cảnh thanh tịnh nơi cảnh ruộng đồng yên tĩnh. Ngài xin
phép Hoà thượng bổn sư cho để lên chùa Dương Đàn vừa hướng dẫn tín đồ tu học
vừa làm thuốc chữa bệnh giúp người.
Đến năm 1988, Ngài nhận thấy tuổi lớn
sống riêng lẻ một mình nơi thôn quê không có chúng điệu, xa huynh đệ Ngài về
lại chùa Từ Quang nơi xuất thân ngày xưa, xin huynh đệ cùng chung ở để yên tâm
lúc tuổi về già. Được Hoà Thượng bổn sư hoan hỷ và huynh đệ tán thành. Theo sự
chỉ dạy của Hoà Thượng bổn sự lúc sanh tiền, sau khi tôi quy Tây, thầy Thiện
Tường xuống Hoà An phụ giúp với Thầy Phước Chấn để trông coi và hướng dẫn đạo
hữu tu tập, chứ thầy Phước Chấn còn non yếu chưa kinh nghiệm. Tuy Thiện Tường
có hộ khẩu chính ở chùa Từ Quang nhưng phải vâng lời Thầy dặn về Hoà An để phụ
giúp Thầy Phước Chấn lo công việc nên không thường xuyên ở Từ Quang. Hoà Thượng
bổn sư dặn bảo khi Thiện Tường xuống Hoà An, Thiện Đạt trông coi chùa Từ
Quang.Thầy Thiện Tường xuống Hoà An được đạo hữu mến mộ, rồi Thầy ở luôn ít khi
về. Đây là cơ hội Thầy Thiện Đạt thay
thế Thầy Thiện Tường làm trụ trì tại chùa Từ Quang, Tam Kỳ suốt từ đó đến nay.
Trong thời gian thay thế Thiện Tường chùa Từ Quang, duyên đời duyên đạo gặp
nhau, Thầy được nhiều đạo hữu mến mộ phát tâm cho con đi tu, và Thầy đã tiếp độ
được 6 vị đệ tử nam xuất gia tu tập, nay đã trưởng thành trước khi Thầy quy
Tây. Trong thời gian này vào các ngày rằm, mùng một Thầy cũng thường đi về các
chùa quê như chùa Khánh Thọ, chùa Dương Đàn, chùa Trà Sơn, chùa Kỳ Hương... để
hành lễ duy trì sinh hoạt tín ngưỡng cho tín đồ Phật tử.
Ngài ít đi ứng phó đạo tràng, cũng
không quyên góp, nhưng bằng số tiền dành dụm qua nhiều năm tháng của công việc
làm thuốc, Thầy đã trùng tu xây dựng ngôi chùa Dương Đàn ở Tam Dân khang trang
hơn. Về chùa Từ Quang, Tam Kỳ, Thầy xây dựng các công trình Tăng xá để cho đệ
tử và Tăng sinh trường Phật Học Quảng Nam có nơi nội trú tu học, cũng như có
chỗ cho quý thầy giáo thọ về lưu trú giảng dạy.
Năm 2000, nhận thấy tuổi cũng đã cao,
cần giảm bớt công việc chùa chiền, tìm một nơi yên tịnh để tu. Trước đây, Thầy
từng ngưỡng mộ mảnh đất Đại Ninh quy tụ nhiều bậc chân tu, cũng là nơi có nhiều
huynh đệ đồng hương an trú. Nên Thầy thường lui tới viếng thăm, từ đó tạo nên
một mối giao duyên.
Thầy được Ngài Toại Châu – viện chủ
tu viện Hương Nghiêm cảm mến và chỉ cho mảnh đất để cất một tịnh thất nhỏ có
tên là tịnh thất Hương Quang để tịnh tu.
Với trách nhiệm của một tăng sĩ, là
thượng cầu hạ hoá, trong quá trình tu tập và hành đạo, Thầy đã độ chúng được
nhiều vị xuất gia, tất cả đều thọ tỳ kheo, một số vị nay đã trụ trì, một số vị
còn đang đi học. Bên cạnh đó thầy còn quy y và hướng dẫn cho nhiều Phật tử tại
gia tu học.
Đầu mùa xuân năm Giáp Ngọ, Thầy cảm nhận trước được mạng sống của mình
còn lại không bao lâu, Thầy viết di chúc cho cuộc ra đi, Thầy dặn khi tôi mất
quý thầy hãy đem thiêu xác, tro bỏ xuống sông làm duyên với chúng sanh thuỷ
tộc, còn để lại xương một ít để làm lưu niệm. Thầy vào Đại Ninh nơi Tịnh thất
của Thầy xây dựng khoảng năm 2000, ở tịnh dưỡng cùng với đệ tử. Vào chiều ngày
11 tháng 3 năm Giáp Ngọ dương lịch 2014, Ngài nói với đệ tử năm nay tôi 80 tuổi
cuộc đời cũng đã đủ, Phật cũng 80 tuổi nhập diệt, tôi đi cũng được rồi. Đến 7 giờ tối Thầy nghe mệt trong người đang
ngồi trên ghế xếp bảo đệ tử dìu qua giường nằm và từ từ trút hơi thở nhẹ nhàng
trong im lặng.
Và duyên Ta Bà quả mãn, thuận thế vô
thường, sinh diệt quy luật, Thầy đã an nhiên nằm nghiêng vai bên phải viên tịch
vào ngày 11 tháng 3 năm Gíáp Ngọ (2014). Trụ thế 80 tuổi, 45 hạ lạp.
Nam mô từ Lâm tế Liễu Quán tứ thập tứ
tuế huý thượng Nguyên hạ Phước, tự Thiện Đạt, hiệu Quang Thông hoà thượng giác linh thuỳ từ chứng giám.
(HT viên tịch tại Lâm Đồng thiêu cốt
đem về an trí chùa Chiên Đàn xã Tam Dân huyện Phú Ninh).
—
☸ –
10- HOÀ
THƯỢNG THÍCH THIỆN TƯỜNG
I. Thân thế
HT Thích Thiện Tường thế danh
Phan Miện sinh năm Quý Mùi (1943) Pháp danh : Nguyên Lợi pháp tự Thiện Tường,
Pháp hiệu Quang Bảo. Sa di….. Thọ Tỳ kheo giới năm 1968.
Thân phụ Phan Đạt (1910) thân mẫu bà Nguyễn Thị Ty (1912) tại Thôn Kỳ
Tân, xã Tam Dân, huyện Tam Kỳ (Phú
Ninh). HT là con thứ 2 trong 6 anh em. Anh cả là Phan Tú (1940) các em : Phan
Thị Vững: 1946, Phan Vàng : 1949, Phan
Xuyến : 1954, Phan Nhẫn : 1957.
II. Xuất gia tu học
Năm 1960,
HT 17 tuổi phát tâm xuất gia tu học với HT Hải Tạng
tại chùa Hải Hội quận Sơn Trà Đà Nẵng. Vì không có trường học nên đầu
xuân Quý Mão (1963), xin về tại chùa Hoà
An làm đệ tử HT Thích Từ Ý để có chỗ Tu học. Ngày 8- 12 được thầy cho xin thọ
Sa di tại chùa Phước Lâm Hội An Đến năm
1965 (Ất Tỵ) được bổn sư đưa vào Phật Học Viện
Hải Đức Nha Trang tu học. Đến 19-6-1968 năm Mậu Thân Tốt nghiệp Trung
Cấp Phật học và Trung học Phổ Thông, được Phật học viện cho thọ Đại Giới đàn Tỳ
kheo. Đường Đầu HT Đệ nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết. Đến năm Kỷ Dậu 1969 cùng với sư đệ Nguyên Tâm
lên làng Đại Ninh Đức Trọng Lâm Đồng tu học Với HT Thiền Tâm, được Ht dạy học
các Bộ kinh Pháp Hoa, Duy Ma, Lăng Nghiêm v.v...Đến năm 1972 sư đệ Thích Thiện
Hội lên hội ý về Sài gòn học khoá giảng sư Trung ương tại chùa Phật Quang đường Đào Duy Từ Q.10 chợ lớn
do Thượng Toạ Thích Huyền Vi tổng vụ trưởng Tổng vụ hoằng Pháp Trung
ương GHPGVN TT phụ trách. Đầu xuân Ất Mão 1975, từ Sài gòn về thăm Thầy và mẹ,
thì ở lại luôn chùa Hoà An để hầu thầy, đến năm 1976, Bính Thìn, bổn sự dạy lên
trụ trì chùa Từ Quang phường Trường Xuân Tam Kỳ. Trong thời gian này đi hướng
dẫn thọ Bát quan trai các chùa trong tỉnh. Năm 1994 đến 2015 ở chùa Hoà An,
2016-2017- Tịnh thất Thanh Nguyên Bà Rịa
Vũng Tàu. Cuối năm 2017
đến nay ở chùa Quảng Phong xã Tam
Quang huyện Núi Thành. Năm nay 2018
- HT 76 tuổi . Mùa hạ 2019 Thầy
Quảng An dẫn cúng diệu về cúng dường chúng an cư rồi nhân tiện mời Thầy vào
tịnh Thất Thanh Nguyên nuôi dưỡng.
Từ hạ 2003 đến 2006 HT lên an cư kiết hạ tại đạo tràng chùa Vĩnh Minh
tại Đại Ninh, Lâm Đồng, do TH Thích Tâm Thanh làm viện chủ.
Tiếp Tăng độ chúng :
HT đã hướng dẫn các đệ tử xuất gia tu học …
các vị Quảng Anh (Đức Phước)
Quảng Học, Quảng Hải (Ngô Kỳ Sơn)
Quảng Minh, Quảng Lại, Quảng Tú… (6 vị).
(HT đã bị lâm bệnh từ năm .2014 đến nay. Nay HT được Đ Đ Thích Quảng
An chùa Thanh Nguyên Bà Rịa Vũng Tàu
chăm sóc . HT sinh 1943- tuổi Quý Mùi nay 78 tuổi). Năm nay 2020.
HT Thiện Tường lâm bịnh từ năm 2014
đến năm 2016 do chùa Hòa An khởi công xây dựng, để có nơi yên tịnh cho HT Thiện
Tường an nghỉ, Đ Đ Thích Quảng An ở Vũng Tàu chùa Thanh Nguyên phát tâm thỉnh
HT về chùa an dưỡng. Đến 20/11 năm Đinh Dậu tức tháng 12 năm 2017 Đ Đ Thích Quảng Minh mời HT về an dưỡng chùa Quảng Phong huyện Núi
Thành . Đến tháng 7 năm Kỷ Hợi tức tháng 8 năm 2019, Đ Đ Quảng An mời HT trở về
lại nuôi dưỡng tại chùa Thanh Nguyên Vũng Tàu cho đến nay ( 2020) ngày 5 tháng 8 năm Canh Tý ( 9/2020 )Thiện Phương vô thăm HT, HT năm nay
rất yếu đi lại khó khăn không còn sức khỏe như mấy năm trước.
— ☸ –
11- THƯỢNG TOẠ
THÍCH THIỆN CHÁNH
Thượng toạ thuộc dòng Lâm Tế phổ hệ
thứ 44, pháp danh Nguyên Thành, tự thượng Thiện hạ Chánh, hiệu Quang Chơn. Thế
danh Võ Trung, sinh năm Canh Thìn (1940), tại thôn Gò Trai, xã Tam Thái, huyện
Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ là cụ ông Võ Đức Ngọc và hiền mẫu là cụ bà
Trần Thị Bụi. Ngài là con đầu trong gia
đình 5 anh em. Là một gia đình trung nông phúc hậu, theo truyền thống đạo Phật.
Phúc đức thay, hiện nay thân mẫu của ngài và em gái út của ngài cũng đã xuất
gia thọ tỳ kheo giới và tu tại thiền viện Thiền Chiếu, Đồng Nai.
Thuở nhỏ Ngài sống với cha mẹ cho đến
năm vừa tròn 25 tuổi, nhằm ngày 22/4 Giáp ngọ (1964) bỗng nhiên Phật duyên khai
lối, bồ đề tâm phát khởi, Ngài chí nguyện xuất gia, đến chùa Hoà An, thành phố
Tam Kỳ đảnh lễ xin hoà thượng thượng Từ hạ Ý thế phát xuất gia và ban cho pháp
danh Nguyên Thành, tự Thiện Chánh.
Năm Canh Tuất (1970), Ngài được Bổn
sư cho thọ giới Sa Di tại giới đàn...........
Năm Bính Thìn (9-1-1976), Ngài thọ Tỳ
kheo, Bồ tát giới tại giới đàn ở tổ đình chùa Hưng Long, tỉnh Bình Định do hoà
thượng Thích Từ Nhơn làm đàn đầu. Từ khi thọ giới Tỳ kheo Ngài nương đức hoà
thượng Bổn sư để tu tập.tại chùa Từ Quang cho đến ngày mãn phần. Thời gian, năm
1971 ngài ra chùa Giác Nguyên, thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình để cùng với
chư huynh đệ hướng dẫn tín đồ nơi đây tu học.
Bổn sư biết bản tính hồn hậu chân
chất, thích cảnh điền viên thanh tịnh của ngài nên đến năm (1976), bảo ngài về
làm tri sự tại chùa Từ Quang, Tam Kỳ suốt từ đó đến nay. Trong thời gian này,
vào các ngày rằm, mùng một ngài cũng thường đi về các chùa quê như chùa Khánh
thọ, Dương đàn, Trà Sơn v.v... để hành lễ duy trì sinh hoạt tín ngưỡng cho tín
đồ Phật tử.
Thầy cũng đã tế độ cho một đệ tử xuất
gia là Thanh Vân (Bảo) nay đã thọ tỳ kheo giới. Chính vị đệ tử duy nhất này đã
sớm hôm chăm sóc thầy cho đến ngày thầy mãn thế.
Cuộc đời của thầy sống bình yên lặng
lẽ với cây cỏ chốn chùa quê như biểu hiện rõ nét một nếp sống giản dị, thanh
bạch của một vị chân tu nơi chốn già lam tĩnh mịch.
Duyên Ta Bà quả mãn, thuận thế vô
thường, sinh diệt quy luật, Ngài đã viên tịch vào ngày 13 tháng 4 năm canh dần
(2010).
Trụ thế 71 tuổi, 35 hạ lạp.
Nam mô Lâm tế chánh tông tứ thập tứ tế huý thượng Nguyên hạ Thành, tự
Thiện Chánh, hiệu Quang Chơn thượng toạ
giác linh thuỳ từ chứng giám.
(Tháp TT an trí tại nghĩa địa gia tộc Gò Trời phường
Trường Xuân T/p Tam Kỳ )
— ☸ –
12- THƯỢNG
TỌA THÍCH VIÊN TUỆ
(1936
– 2019)
- Nguyên Ủy viên Ban Trị
Sự GHPGVN thành phố Tam Kỳ
- Tri sự chùa Đạo Nguyên,
p. Tân Thạnh, TP.Tam Kỳ, Quảng Nam
Thượng tọa Thích Viên Tuệ, Pháp danh Nhuận Phụng, tự Viên Tuệ, hiệu Từ Niệm, thế danh
Phan Long, sinh ngày 13/4/1936 (Bính Tý), tại xã Bình Trung, huyện Thăng Bình,
tỉnh Quảng Nam. Thượng tọa là người anh cả trong một gia đình có 4 người
con. Thân phụ là cụ ông Phan Đẩu, thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Cầu pháp danh Thị
Hoàng.
Được huấn dục chí nguyện hướng Phật trong truyền thống gia tộc họ
Phan, Thượng tọa thường xuyên sinh hoạt tu học tại vức Khánh Vĩnh và chùa Bình
Quang, xã Bình Trung, huyện Thăng Bình. Năm 1960 Thượng tọa phát tâm xuất gia
tại chùa Linh Ứng - Non nước, TP. Đà Nẵng với Pháp danh Thị Phụng. Trong giai
đoạn thập niên bảy mươi của
thế kỷ trước, xã hội nhiều biến động, chính sự đổi thay, Thượng tọa tạm lui về
trong thân Cư sĩ, tham gia công tác giáo dục, làm giảng viên trường Tiểu học
tại quê nhà.
Với túc duyên lành nhiều đời
đã gieo trồng nơi Tam Bảo, cùng với hoài bão làm vị sứ giả Như Lai chưa từng
suy giảm, duyên tùng duyên. Năm 1989, Thượng tọa phát tâm dõng mãnh xuất gia
trở lại được Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Duyên – Phó Pháp chủ HĐCM
GHPGVN, Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh Quảng Nam, Viện chủ chùa Đạo Nguyên (TP.Tam
Kỳ) thâu nhận làm đệ tử, ban cho Pháp danh là Nhuận Phụng, sớm hôm kinh kệ hành
trì, công phu tu tập thiền môn nghiêm khắc, tùng chúng tại chùa Vu Lan (Q.Hải Châu, TP.Đà Nẵng).
Sau kỳ chư Tăng an cư kiết hạ năm 1991, Thượng tọa được Hòa thượng
Bổn sư ban pháp tự Viên Tuệ và cho phép thọ giới pháp Sa-di tại giới đàn phương
trượng chùa Đạo Nguyên. Sau khi thọ Sa-di giới, Thượng tọa thuận duyên vào Nam
tiếp tục tùng chúng tu học tại chùa Phú Hòa, Quận Tân Bình, TP.HCM.
Năm 1994, Ngài được Hòa thượng Bổn sư đồng thuận cho phép đăng đàn
thụ Thanh văn Bồ tát giới tại Đại giới đàn Thiện Hoa, do BTS PG TP.HCM tổ chức
tại chùa Ấn Quang, cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh làm Đàn đầu Hòa
thượng.
Với tự thân, nơi chân tính thuần nhu, mộc mạc, giản dị, lấy hạnh
tu làm phương tiện hành đạo, Thượng tọa tinh tấn tụng kinh bái sám sớm hôm chưa
từng ngơi nghỉ.
Năm 1999, được Hòa thượng Bổn sư tin tưởng giao phó, Thượng tọa về
lại Tam Kỳ đảm nhận vai trò Tri sự chùa Đạo Nguyên. Trải qua 20 năm cần
mẫn, ngày ngày Thượng tọa âm thầm hầu Thầy phụng chúng, bất quản việc khó khăn,
không từ nan lao nhọc. Bên cạnh đó, Thượng tọa cũng lo nghĩ về quê hương,
thường xuyên về chùa Khánh Vĩnh (xã Bình Trung, huyện Thăng Bình) để hướng dẫn
Phật tử tu học, vận động trùng tu ngôi chùa, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cho bà
con địa phương.
Thượng tọa còn hóa duyên với gia tộc, giúp nhiều vị có duyên lành
với Đạo phát tâm xuất gia tu học. Đệ tử xuất gia, y chỉ với Thượng tọa có 1 vị đã thọ giới cụ túc, pháp
danh Đức Minh, nối sứ mệnh hoằng pháp lợi sanh.
Với tín đồ, dẫu sức khỏe không tốt, thân mang trọng bịnh, nhưng
nơi nào tín đồ cần đáp ứng nhu cầu nghi lễ tâm linh, thì dẫu gần hay xa Thượng
tọa đều giản dị mà phương tiện đến đi vô ngại.
Sinh hoạt cùng Tăng già, Thượng tọa luôn thể hiện lòng tôn kính
các bậc trưởng thượng, khiêm hạ với đồng môn, bao dung với hậu học. Vì vậy, với
tinh thần cọng trụ thúc liễm thân tâm trau dồi đạo hạnh, nhiều mùa An cư kiết
hạ tại các trụ xứ ở Tam Kỳ, Thượng tọa luôn được chư Tăng tín nhiệm thỉnh mời
tham gia vào Ban chức sự đạo tràng, đảm nhận qua các trọng trách như: tri sự,
chúng phó, tri khách, thủ khố...
Bằng tín tâm phụng sự Giáo hội, Thượng tọa lần lượt tham gia Giáo
hội Phật giáo thành phố Tam Kỳ qua 3 nhiệm kỳ (từ năm 2002 đến năm 2017) được
mời làm Ủy viên Kiểm soát Ban Đại diện Phật giáo thành phố Tam Kỳ, rồi Ủy viên
Ban Trị Sự GHPGVN TP.Tam Kỳ. Tháng 11 năm 2019, Thượng tọa được
Ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Quảng Nam đề xuất TƯGH tấn phong lên hàng Giáo
phẩm Thượng tọa.
Thuận thế vô thường, mãn phần công đức, Thượng tọa viên tịch vào lúc 17 giờ 30 phút,
ngày 06-12-2019 (nhằm ngày 11-11- Kỷ Hợi). Trụ
thế 84 năm, với 25 Hạ lạp.
Nam Mô Tự Lâm
Tế Tứ Thập Lục Thế, Liễu Quán Thiền Phái Đệ Thập Nhị Đợi, Đạo Nguyên Tự Tri Sự
Huý Thượng NHUẬN Hạ PHỤNG Tự VIÊN TUỆ Hiệu TỪ NIỆM Phan Công Thượng Tọa Giác linh
thùy từ chứng giám./.
Phật giáo TP.Tam Kỳ
(Tháp
của TT Thích Viên Tuệ an trí tại nghĩa
đại gia tộc Bình Trung Thăng Bình)
13- HOÀ THƯỢNG
THÍCH THIỆN TÚC
TRỤ TRÌ CHÙA AN THÀNH
Xã Bình An-huyện Thăng Bình
I. Thân thế
Hòa thượng Thiện Túc thế danh Huỳnh
Văn Số, pháp danh Nguyên Phú (Đồng
Thành) pháp tự Thiện Túc pháp hiệu Quang Minh sinh năm Kỷ Sửu (70 tuổi, năm nay
2018) tuổi khai sinh 4-10-1956. Tại thôn Thạch Tân xã Kỳ Anh huyện Tam Kỳ nay
là xã Tam Thăng T/p Tam Kỳ. Là con thứ 5
trong 9 anh chị em. Anh em gồm 3 trai 6 gái. Thân phụ cụ ông Huỳnh
Thoãn, thân mẫu cụ bà Phạm Thị Thoãn.
II. Xuất gia tu học
Năm 1965 đến chùa Hoà An Tam Kỳ xin
xuất gia tu học ngày 12-10-1965. Bổn sư
cho pháp danh Nguyên Phú. Năm 1970, HT Bổn sư cho vô làm đệ tử hầu HT Thích
Hành Giải chùa Phú Sơn xã HT cho lại
pháp danh Đồng Thành. Năm 1972 HT cho đi thọ Sa Di giới tại giới Đàn Kim Quang
Biên Hoà Đường đầu HT Thích Trí Tịnh
ngày 17-10-1972. Sau 1975 về lại Tam Kỳ
HT bổn sư cho y chỉ tu học với HT Đạo Nguyên, năm 1976 thọ Tỳ kheo giới
tại chùa Hưng Long Bình Định ngày 9-1-1976
Đường đầu HT Thích Từ Nhơn.
Năm 1997 đến chùa Bảo Minh T/p Tam Kỳ nhận
chức trụ trì nhưng chưa làm thủ tục, đến năm 2000 giao chùa lại cho TT Phước
Minh, năm 2001 nhận lãnh trụ trì chùa An Thành xã Bình An Thăng Bình. Năm 2017
Giáo Hội tấn phong Hoà Thượng, và làm chứng minh Ban Trị Sự Phật Giáo Huyện
Thăng Bình. Có một đệ tử thế danh Lê Văn Chi pháp danh Quảng Hiền, trụ trì chùa
Pháp Nguyên Bình Sa Thăng Bình.
—
☸ –
14. HÒA THƯỢNG
THÍCH THIỆN PHƯƠNG
TRỤ TRÌ CHÙA TAM BẢO
I. Thân thế
Tục danh
Nguyễn Tài, pháp danh Nguyên Sanh, pháp tự Thiện Phương, pháp hiệu Quang Vinh, sinh ngày 16-8-1948 tại thôn Lý Trà xã Kỳ
Chánh tỉnh Quảng Tín, nay xã Tam Anh Bắc, huyện Núi Thành tỉnh Quảng Nam. Thân
phụ Nguyễn Bòng, pd Nguyên Bửu, thân mẫu Đỗ Thị Nhuế, pd Nguyên Như, là con thứ
3 trong gia đình 9 anh chị em, trong gia đình trung nông, kính tín Tam Bảo. Trước 1975, có 4 anh em đầu
đều phát nguyện xuất gia tu học, sau 1975
do hoàn cảnh nhân duyên người anh cả (Nguyên Thuần) và người em hoàn
tục. Hiện nay còn người chị thứ 2 là Ni sư Thích Nữ Hạnh Tấn hiện tu học ở Đại
Tùng Lâm Vũng Tàu.
II. Xuất gia tu học
Sau Tết, ngày
14-4 năm Mậu thân (1968), xin phép cha mẹ giã từ cuộc sống gia đình đến chùa
Hòa An, Tam Kỳ phát nguyện quy y và phát
tâm xuất gia với Hòa Thượng thượng Từ hạ
Ý. Trải qua ba năm tập sự đến năm 1970 ngày 8-4 nhân đại lễ Phật Đản Hòa Thượng
bổn sư cho thế phát. Năm 1969 Hòa Thượng cho đi học phổ thông
trường Bồ đề đến 14-10-1973 Hòa thượng
cho thọ Sa di tại giới Đàn Phước Huệ -chùa Hải Đức Nha Trang. Sau giải phóng,
1976 đến chùa Dương Đàn xã Tam Dân cùng ở với sư huynh Thích Thiện Đạt, phụ
giúp thầy hướng dẫn 80 em phật tử tụng kinh bái sám và cải tạo đời sống chùa
trong các việc canh tác tỉa đậu cấy lúa, trồng khoai để có kinh tế. Năm 1977,
về chùa Từ Quang Tam Kỳ phường Trường Xuân ở cùng với hai sư huynh Thiện Tường và Thiện Chánh, chuyên lo nông vụ
đảm bảo lương thực cho tăng chúng . Năm 1977, HT bổn sư cho thọ giới Tỳ Kheo
tại chùa Ấn Quang Sài gòn ngày 26-01-1977. Giới Đàn… do cố Đại Lão Hòa Thượng
Hành Trụ làm đàn đầu.
III. Ra làm Phật sự
Năm 1990 sau
khi HT bổn sư viên tịch, được Ban Hộ tự
chùa Tam Dưỡng sau đổi tên Chùa Tam Bảo thỉnh nhận trụ trì. Sau tuần 49 HT ngày
20 tháng 9 năm 1990 chính thức nhận chùa Tam Bảo làm nơi tu học và hướng dẫn
tín đồ. Cũng là nhân duyên vào năm 1998, sau cơn bão số 2 vào tháng 4 chùa Tam
Bảo bị hư hại phải tu sửa lại, hướng dẫn tu sửa đến 8-2 năm Canh Ngọ (1990) đứng ra làm lễ hoàn nguyện,
Tuy lúc đó không có ý nhận lãnh chùa này, nhưng sau ngày bổn sư viên tịch với
sự tha thiết của đạo hữu nên chấp thuận lời thỉnh cầu.
Vào Mùa an cư năm 1980 tại Tổ Đình Tịnh
độ, bước đầu tiên được đại chúng giao phó hướng dẫn chúng điệu tu học (mùa an
cư này có 30 điệu. Như Phước Cảnh, Phước Nghiêm, Phước Thanh v.v...) nhờ tập sự
hướng dẫn giảng dạy lớp chúng điệu trong các mùa an cư nên có chút ít làm quen
việc đứng lớp, vì thế sau này được cử vào giảng dạy trong trường Phật học Tam Kỳ
từ giai đoạn những năm (1994- 2006) và
các khóa tu Bát quan trai, cũng từ đây khởi sự đi hướng dẫn đạo hữu các chùa tu
học, cùng với sự khôi phục yểm trợ nhân duyên tinh thần cũng như vật chất lại
các chùa bị bỏ hoang không sinh hoạt, và hướng dẫn thành lập ban đại diện chùa,
(nay ban hộ tự) để có người trông coi bảo vệ hộ trì các chùa như: Chùa Bửu Đức
(1980-2004) Trường Thọ, Bình Hòa, Phú
Quang, Quảng Hương, Hòa Nam v.v...cùng các chùa ngoài phạm vi Tam Kỳ như chùa
Khánh Thọ (nay Trân Bửu) Dương Đàn, Dương Lâm, Minh Cẩm, Minh Đức,Lâm Điền, An
Mỹ, Trà Sơn, Pháp Đàn (Tam Ngọc) Bảo Đàn (Tam lãnh),Thái Hòa, (huyện Phú Ninh)
. Phổ Đức, Vĩnh An, Liên Trì,, Hòa Hưng,
Phổ Tịnh, Hòa Vinh Thạnh, Từ Quang, Lộc Tân...(Núi Thành) và các chùa thuộc
phạm vi Trà My: Trà Dương, Trà Đông, Hiệp Đức v.v...Năm 2004 Phát tâm trùng
kiến xây dựng chùa Phổ Minh, năm 2012
chùa Từ Quang, Lộc Tân, xã Tam Tiến, năm 1993 – 2014 Đại Trùng Tu chùa
Tam Bảo.
Mùa hạ năm
1994 cùng với TT Thiện Thành đi thăm bệnh HT Từ Mẫn, và thăm trường Phật học Đà
Nẵng quan sát lớp học của Tăng sinh chùa Phổ Đà, về khởi lên khát nguyện hội ý
cùng các huynh đệ thành lập mở trường Phật học làm nơi giáo dục cho tăng sinh
học tại Quảng Nam. Và được sự chấp thuận và khích lệ của HT Thích Thiện Duyên
chủ trường hạ ghi nhận, và Ban giám hiệu trường Phật học Quảng Nam-Đà Nẵng được
khởi đầu từ nơi mùa hạ này.
Từ khi nhận lãnh trụ trì có cơ duyên tiếp chúng độ tăng, hướng dẫn xuất
gia tu học. Nam có khoản 25 vị hiện còn lại khoản 15 vị, còn ni trên 80 vị. .
Tất cả công việc Phật sự tuy gặp nhiều trở ngại gian lao và khó khăn
nhưng với tình thần chịu khó chịu cực, và noi gương theo bước chân hạnh nguyện
của thầy bổn sư với mong muốn Phật pháp được phổ biến nhiều nơi, mà hiện nay
những Phật sự đa số được viên mãn đều
nương nhờ sự hộ trì của Tam Bảo, ân đức Thầy tổ che chở, huynh đệ và đàn na đã
yểm trợ nhiều nhân duyên trong suốt quá trình tu học và làm Phật sự, để có được
nơi yên ổn tu học cho đến ngày hôm nay . Xin thành tâm ghi nhận và tri ân ./.
🙠☸🙢
0 nhận xét:
Đăng nhận xét