MỤC LỤC
PHẦN I. OAI NGHI
LỜI TÂM SỰ
Hạ năm 2003. P.L: 2547 Tại
Tổ Đình chùa Tịnh độ Tam kỳ Q-Nam, năm nay như mọi năm, chúng giao cho nhiệm vụ
dạy các điệu. Vì Tăng sai nên không thể từ chối. Tùng Hạ chỉ có 6 điệu, nhìn chung tâm lý các điệu
vừa yếu lại vừa nhác học, nên không có một sự gợi ý nào để dạy, do đó trải qua
nửa tháng đầu không dạy. Với sự ham chơi và oai nghi của quý chú phần đông
không chững chạc, làm cho quý vị bổn sư lo ngại. Do đó lần họp chúng này, Ban
lãnh chúng đưa ra quyết định phải dạy. Với lý do trên, Ban lãnh chúng, đề ra ý
kiến dạy về oai nghi mà nhắm vào sự thực dụng làm chính, và kết hợp cả Sa Di và
điệu dạy chung cho tiện.(6 điệu và 6 Sa Di )
Với điều kiện và tình hình như thế, không
thể thối lui, nhưng dạy với đề tài “Oai nghi thực dụng ”, nhìn chung rất khó
dạy, vì trình độ văn hoá, trình độ Hán văn quý chú không đồng, vả lại, 24 oai nghi trong luật tiểu, phần đông quý
chú đã học trên trường lớp rồi, bây giờ học trở lại, quý chú mang tâm trạng
“nghe nhiều thì chán, ngồi lâu mỏi mệt ”, nên học không vô. Hơn nữa 24 oai nghi
đã được Ngài Châu Hoằng soạn ra cách đây cả ngàn năm, mà lại từ bên Tàu nên có
những điều thích hợp, lại có những điều không thích hợp cho thời đại và phong
tục tập quán. Đây cũng là một trở ngại cho việc dạy và học. Căn cứ hai chữ “ thực dụng ”, tôi bèn suy nghĩ, nhìn chung
thực tế tình hình sinh hoạt của Tăng Ni sinh hiện nay, cùng xu hướng xã hội. Do
đó tôi tham khảo một số bài giảng của các vị giáo thọ thành phố Hồ Chí Minh
cùng với ý trong kinh luật, kết hợp với tình hình hiện tại, soạn ra những bài
nói về ý nghĩa và tầm quan trọng của oai nghi, giới luật và thứ đến là ý nghĩa
việc xuất gia, mục đích xuất gia, bổn phận người xuất gia. Tôi nghĩ rằng làm
một việc gì mà không rõ mục đích và ý nghĩa thì khó mà làm đúng.Ví dụ như đi
đường mà quên địa chỉ thì khó mà tới nhà. Cho nên tôi hy vọng những bài được
soạn ra đây sẽ trợ duyên cho quí vị đi tu học không đủ duyên gặp thầy hay bạn
tốt, không gặp lớp học, nó sẽ bổ túc được một phần nào. Những bài này chúng tôi
tham khảo các sách báo trải qua nhiều năm tháng, ghi lại để dành nay có dịp
giao lại quý chú cái hoài vọng của mình trong lúc đọc sách xem kinh, để chúng
ta cùng tu cùng học, cùng dẫn đến cùng một mục đích mà Phật và Tổ đã dạy, chư
tôn đức tiền bối đã hướng dẫn, những lời những ý trong bài đều là của các vị
giáo thọ từ thuở phật học (1930) ra đời đến nay chứ không phải tôi tự nói ra,
mà quí chú nhìn về con người, mà đánh giá văn tự ngôn ngữ và không có chút lòng
tin trong sự thực hành tu học thì bị thiệt
thòi trong nếp sống tu học của mình.
Tôi không phải là chuyên nghiệp và cũng
không phải là hạng tài tử văn hay chữ giỏi nên không tránh sự sai sót mong
rằng: “được chim quên ná, được cá quên nơm” hy vọng quý chú cũng như có ai nhìn
qua mà hoan hỷ cho những chỗ thiếu sót, chưa thấy được.
Hạ 2003
- Giảng viên trường hạ
Đại Đức Thích
Thiện Phương
Ý NGHĨA VIỆC HÀNH TRÌ OAI NGHI
Oai
Nghi: Oai là có cái Uy đáng sợ. Nghi là có cái Nghi đáng kính. Khi một hành giả
huân tu ba nghiệp, bên trong tích chứa đức, tạo ra cho mình một nội lực. Do sự
gìn giữ ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh mà có một phong cách đáng kính đáng
Sợ. Phong cách đó trong đạo Phật từ chuyên môn luật học gọi là Oai Nghi. Hành
giả khi đã có phong cách rồi tức đã tạo cho chính mình một đời sống an lạc nơi
nội tâm và cũng tạo chung quanh mọi người niềm an vui.Từ nguồn năng lượng an
lạc nầy khiến mọi người khi nhìn thấy, họ dễ cảm dễ mến, lúc đó hành giả không
nói hoặc không cần phải nói nhiều mà người ta vẫn tin cậy. Đây là loại thân giáo
nó được nuôi dưỡng từ ý giáo mà hiển lộ ra qua sự giữ giới thanh tịnh.
Ngày xưa, trên từ đức Phật dưới đến các vị
thánh tăng cho đến ngày nay. Oai Nghi đóng tầm quan trọng trên bước đường hoằng
pháp độ sanh. Có rất nhiều ông vua bà chúa, kẻ đạo tặc khi đã nhìn qua phong
cách sinh hoạt của Phật và tăng đoàn đã khiến cho họ phải kính phục quy y.
Không những vua quan mà mọi tầng lớp nhân dân cũng thế. Oai nghi nầy không
những khuất phục được mọi người mà nó còn cảm hoá được những loài cầm thú. Câu
chuyện gần thời đại chúng ta là ngài Hoà Thượng Hư Vân, người Trung Quốc sống 120 tuổi (1840 -1959)
(trước HT Hư Vân có Ngài Hám Sơn 1546-1666). Chính bản thân Ngài phát tâm xuất
gia cũng do sự cảm kích từ hình ảnh hai vị sư đến nhà mẹ ngài hoá duyên. Qua
phong cách đi, đứng, ngồi, nói, ăn trong dịp tiếp xúc này đã gây trong lòng
Ngài một ấn tượng đẹp về nếp sống tu học, và lớn lên Ngài đi xuất gia tu học
đắc đạo trở thành vị cao tăng của nước Trung Quốc. Cũng chính hình ảnh Ngài mà
cả mấy triệu người Trung Quốc và các nước lân cận đã cảm mến đạo Phật phát tâm
quy y tu học, ngay đến các loài hạ đẳng như bò, ngỗng, gà, rồng, quỷ thần cũng
được Ngài hoá độ quy y. Điều này cho chúng ta thấy rằng Oai Nghi đóng một tầm
quan trọng trong đời sống tu học của một hành giả.
Oai
nghi nói cho đủ gồm có 8 vạn 4 ngàn oai nghi tế hạnh, còn 24 oai nghi trong
quyển luật tiểu là những điều tiêu biểu để chúng ta dễ thấy dễ nghe thực tập
trong đời sống tu học hằng ngày.
Hai
mươi bốn Oai nghi nói lên nếp sống sinh hoạt đời sống tu học của một người tu
trong tập thể (tăng đoàn) cũng như cá nhân (sống độc lập). Những oai nghi nầy
nó phản ảnh được nếp sống nội tâm tu học
của một người tu, và là những phương thức thực tập đem lại chánh niệm. 24 Oai nghi
giúp cho hành giả tu học ngăn ngừa các lỗi, bảo vệ được giới đức, dẫn người tu
học đi vào khuôn phép và thực hành chánh niệm thực tiễn trong đời sống hằng
ngày, và nuôi lớn Định Huệ. Uy nghi là oai đức và nghi tắc biểu lộ cái nét đẹp
của nếp sống phạm hạnh tâm linh của người xuất gia. Giúp người tu học đi vào
con đường chánh đạo, khiến cho hành trình tu học của hành giả được an lạc vững
chãi, đưa Sa Di tiếp nhận giới lớn (Tỳ kheo) và làm nền móng cho giới Bồ Tát.
Những
Oai nghi không phải là những yếu tố hạn chế và bó buộc đời sống mà trái lại đó
là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân,tạo nên sự hoà hợp và an lạc trong
đoàn thể cùng tu cùng học. Đồng thời nuôi dưỡng tâm Bồ đề mỗi ngày và sẽ không
phụ chí hướng xuất gia của mình.
Trong
Phật học, ba môn Giới, Định, Tuệ là con đường duy nhất đưa hành giả đến Niết
bàn an lạc. Muốn đến Niết bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ lanh
quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ. Ba
môn học liên kết với nhau, nhờ vậy mới đủ sức trừ diệt tham ái, đẩy lùi vô minh,
mở ra chân trời giác ngộ. Nhưng giới học, định học, huệ học mênh mông, nếu
không gia công siêng năng học hỏi, không nắm được cương yếu thì khó bề hiểu
biết chu đáo đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín,
không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy con đường giải thoát
bị bế tắc. Như người học hoài mà không hiểu, tu hoài mà không cảm nhận được
chút lợi ích an lạc nào.
Giới
chia làm hai thứ giới: Tánh giới và già giới, hay tánh tội và già tội.
Tánh giới thuộc về giới trọng, già giới thuộc về phần giới khinh, tức các oai
nghi.
Thế
nào gọi tánh tội? Là cái mà căn bản tính nó là tội, thì dầu có tu hay không
tu, người xuất gia hay tại gia, người
người đều cho là tội, cho nên gọi là tánh tội. Ví như các tội: giết người, cướp
của, tà hạnh, nói dối, bất cứ nơi đâu, xứ nào thời nào hể vi phạm là bị xã hội
lên án và mọi người kết tội. Tuy nhiên người tu khác với người đời là khi đã
phát nguyện trước Phật xin giữ giới đó nếu vi phạm thì có tội phạm giới, còn
đối với người không phát nguyện thì gọi là phạm tội chứ không phạm giới, chỉ
phạm luật pháp của thế gian mà thôi.
Già tội có hai ý nghĩa: a/ Ngăn ngừa sự vi
phạm giới trọng. b/ Ngăn ngừa sự cơ hiềm
của thế sự. Thế nào là ngăn là ngăn ngừa sự phạm giới trọng, ví như, uống rượu
không phải phạm tánh tội, hoặc đánh cờ, đánh bạc. Song khi uống rượu vào làm
mất hết tâm trí, kích thích phạm các trọng tội, như dẫn đến việc ăn trộm, nói
dối, giết người, cướp của. Vậy ngăn sự uống rượu là cách ngăn sự phạm trọng
tội. Thế nào là ngăn ngừa sự cơ hiềm? Ví như người tu đi ra đường ở trần không
áo, nón v.v...chắc bị thế gian chê cười. Cho nên đã là người tu thì phải ăn mặc
nghiêm chỉnh, đi đứng ngay thẳng, nói năng chững chạc, dịu dàng để ngăn ngừa sự
cơ hiềm của thế gian.
Trong truyền thống Phật giáo Việt Nam, người
mới xuất gia được cho học và thực tập ngay giới luật và oai nghi của Sa di.
Giới
luật và oai nghi được in chung trong một tập thường được gọi là luật tiểu, để
phân biệt với luật giải, một tác phẩm chú giải tinh tường về những điều vắn tắt
trong luật tiểu.
Luật
tiểu gồm cố ba phần; phần một là Tỳ Ny Nhật Dụng Thiết Yếu do thiền sư Độc Thể
biên tập. Phần hai là Sa di Luật Nghi Yếu lược do thiền sư Châu Hoằng biên soạn
và phần thứ ba Quy Sơn Đại Viên thiền sư Cảnh Sách của thiền sư Quy Sơn.
Sa
di Luật Nghi Yếu lược gồm có hai phần. Một phần nói về 10 giới Sa di và một
phần nói về oai nghi của Sa di.
Giới luật và oai nghi có liên hệ mật thiết với
nhau, tuy phân biệt ra giới luật và uy nghi nhưng xét cho kĩ thì giới nào cũng
là uy nghi và uy nghi nào cũng là giới. Xét chung cả mười giới đều là uy nghi.
Ta có thể nói uy nghi cũng là giới nhưng thuộc về giới nhẹ, phạm giới nặng là
mất hết tư cách của người Sa di. Còn phạm giới nhẹ thì có thể sám hối được.
Uy nghi là uy đức và nghi tắc biểu lộ cái đẹp
nếp sống tâm linh của người xuất gia. Uy nghi được phối hợp hành trì trong tư
thế bốn động tác: đi, đứng, nằm, ngồi của một hành giả trong ba nghiệp thân, khẩu, ý. Uy nghi của Sa di được trích ra
từ các giới kinh, giới bổn và các bộ luật có từ thời Phật tại thế.
Tuy
những uy nghi được rút ra từ thời xưa do Ngài Châu Hoằng biên soạn chưa đủ phản
ánh hết nếp sống của xã hội thời nay và những nhu cầu thực tập của các Sa di
thời đại mới. Ví dụ như thời xưa, chưa có xe hơi, máy bay, tàu thủy, vi tính,
điện thoại, cà phê, thuốc lá, bia, giữ tiền bạc, internet v.v... vì thế một số
uy nghi ngày xưa chỉ lấy làm tiêu biểu. Với một số nhu cầu phát sinh trong đời
sống sinh hoạt thời đại mới mỗi một người tu cần tự xét và chế tác cho mình một
số uy nghi trong việc sử dụng những phương tiện hằng ngày, làm sao chuyển tải
được ý đạo đi vào cuộc sống tu học mà không phương hại đến đạo hạnh của mình và
không phát sanh sự cơ hiềm dị nghị của người đời.
Hành
trì uy nghi không những nhắm tới sự ngăn ngừa sự phạm giới và cơ hiềm của thế
sự mà còn đưa hành giả vào khuôn phép, giúp cống hiến cho hành giả những phương
pháp thực tập chánh niệm thực tiễn, dẫn đến nuôi lớn định tuệ mỗi ngày.
Để
thực tập những uy nghi này, các vị Sa di phải thực sự có chánh niệm, nếu không
thì đó có thể là những hình tướng giả trang. Giới luật uy nghi là thuyền bè đưa
người qua bể khổ, là thầy giỏi chửa trị bệnh nan y. Bởi năm phần công đức lấy
giới làm đầu, Vô thượng Bồ đề lấy giới làm gốc. Nếu ai bỏ qua giới luật, uy
nghi mà cầu thánh đạo Bồ đề, thì ví như không có cánh mà lại muốn bay cao,
không có thuyền mà mong vượt biển, người làm như thế ấy làm sao được ư?
Thánh giáo truyền vào Đông độ đã trãi qua hơn
2000 năm, con người hoàn cảnh luôn đổi thay, giáo pháp theo thời gian cũng sai
lệch, cho dù từ miệng Phật nói ra và thánh nhơn ghi lại, nhưng không có minh sư
chỉ dạy thì ai chịu phụng hành? Ngài Châu Hoằng cũng vì thương xót kẻ hậu học
thời mạt pháp mà biên soạn ra các giới luật uy nghi để thúc liễm tâm tư của
người học Phật, mong sao cho lợi ích trong việc hành trì để mặt trời Phật pháp
không bị che khuất bởi bóng tối vô minh.
Đối
với thời mạt pháp, lòng người phần nhiều biếng nhác trễ lười, đọc nhiều nghe
nhiều sinh tâm chán nản, vì thế các vị luật sự xưa rút ra những tinh ba của
giới luật và tóm tắc rút gọn để người đọc người học dễ nằm lòng.
Uy
nghi là gì? là có cái oai khá sợ, có cái nghi đáng kính. Thế nào có cái oai
đáng sợ? Bởi vì gĩữ gìn tịnh giới, hạnh tốt đầy đủ, rõ ràng tăng tướng, cái đức
oai nghiêm nên khiến khá sợ. Thế nào có nghi đáng kính? là đi, đứng đúng phép,
vòi vọi dễ xem, hình ngay bóng thẳng, khiến người khá kính, như thế mới thật là
đạo phẩm kẻ xuất gia, vị sư phạm cõi trời cõi người vậy. Cho nên có câu:
“ Tịnh hạnh thành, nhờ đạo nghi
Trong sạch tròn, nhờ giới phẩm ”.
Oai
nghi là vẻ đẹp biểu hiện ra trong những tư thế động tác, ngôn từ và cách tiếp
xử của hành giả trong đời sống hằng ngày. Sống trong chánh niệm, từ từ ta có
thêm chất liệu của sự vững chắc thảnh thơi và an lạc. Uy nghi là dấu hiệu của
sự có mặt của những chất liệu ấy, có những chất liệu này, uy nghi mới thực sự
là uy nghi, nếu không thì đó chỉ là những ngụy trang mà ta gọi là giả trang
thiền tướng.
Theo 24 thiên uy nghi của Ngài Châu Hoằng biên
soạn ra của thời xưa chưa đủ đối với thời đại mới, do đó Thiến Sư Nhất Hạnh
Làng Mai dựa thưa đó mà chế tác thêm các oai nghi cho phù họp với thời đại hiện
tại, gồm có 39 chương uy nghi, các Sa di nên cần học hỏi và thực tập để tịnh
hóa thân tâm, dẫn đến con đường giác ngộ giải thoát. Sau đây chúng tôi thấy 39
uy nghi của Tăng thân Làng Mai phù hợp với cuộc sống sinh hoạt tăng thân chúng
ta trong việc tu học và hành trì, cho nên dẫn trích ra để làm tài liệu hướng
dẫn và học tập cho chúng Sa di trong mùa an cư Phật lịch 2552, năm 2008. tại
đạo tràng an cư chùa Đạo Nguyên.
{ { {
Trước đã sơ lược một số ý nghĩa trong việc hành trì uy nghi
của Sa di, thứ đến ôn lại ý nghĩa của Sa di:
Sa di nam tiếng Phạn là Sramanera và Sa di nữ
là Sramanerika, gọi tắc là Sa di và Sa di ny. Tàu dịch là “Tức từ”, nghĩa là
dứt ác làm lành, là dứt cái nhiễm ô ở đời mà phát lòng thành cứu giúp chúng
sanh vậy. Còn có nghĩa là “Cần sách” là siêng năng trong ba nghiệp thân khẩu ý
tu hành thanh tịnh, còn có nghĩa là “cầu tịch”. Tức là thực hiện con đường tự
lợi, lợi tha, dứt ác làm lành hướng đến quả vị Niết bàn.
Đức
Như Lai thương xót lập ra 10 điều giới luật, khiến các chúng sanh dứt các tội
ác của thân, khẩu, ý mà chứng đặng đạo quả Niết bàn tịch tịnh. Song ác tuy dứt
hết nhưng không tâm từ mẫn và không thực hành pháp lục độ, cứu giúp bốn loài
bèn đọa vào chấp không của tiểu quả Thanh văn tiểu thừa chưa được gọi là thiện.
Huống nữa đặng thành ngôi chánh giác, chứng quả Bồ đề. Thế nên Phật dạy: “Tuy dứt hết cái ác, nhưng
phải làm các việc từ thiện, để giúp ích chúng sanh, thì mới tròn đủ muôn hạnh
và mau chứng quả Bồ đề, chẳng sa mắc nơi hóa thành.
Sa
di mới đầu xuất gia vâng giữ 10 giới, cố gắng siêng tu dứt trừ tâm phiền não,
cầu chứng quả Niết bàn vậy.
Sa
di vâng giữ 10 giới và các uy nghi, tức nguyện chấm dứt nếp sống hệ lụy và khổ
đau ở thế gian, phát tâm thương yêu mọi loài, bằng trái tim của một vị Bồ tát,
không vướng mắc không phân biệt. Hạnh Sa di là hạnh chuyên cần, luôn luôn tỉnh
thức, luôn mong đạt đến quả vị Niết bàn, chấm dứt mọi vọng tưởng, phiền não và
khổ đau.
Bản
chất của đời sống Sa di là sự thực tập 10 giới và các uy nghi. 10 giới và các
uy nghi là những biểu hiện cụ thể của sự thực tập chánh niệm, bởi vì chánh niệm
là bản chất của tất cả giới và các uy nghi. Vì vậy, giới và uy nghi cũng là
chánh niệm. Nhờ có giới mà ta có Định và Tuệ. Nhờ sự thực tập giới, định, tuệ
đưa ta vào con đường thánh đạo, giúp ta thực hiện được an lạc, vững chãi và
thảnh thơi. Đồng thời 10 giới và các uy nghi giúp ta đi tới tiếp cận giới Tỳ
kheo và Bồ Tát.
Giới
luật và uy nghi không phải là những yếu tố ràng buộc, câu thúc hay hạn chế và
bó buộc. Trái lại, đó là những phương
tiện bảo vệ ta và tạo nên sự hòa hợp và
an lạc cho đoàn thể tu học của mình. Tiếp nhận Phật giới là sự thực tập nghệ
thuật sống đời đạo đức thanh cao. Giới luật và uy nghi là những điều khoản bảo
hộ cho đời sống đạo đức được tốt. Giới là những hạnh nguyện và những đức tính
có thể giúp ta thăng tiến trong cõi tâm linh. Giới là vòng đai bảo hộ sự bình
an cho hành giả thực tập và hành trì.
Không quan niệm giới là những điều cấm kỵ, nếu quan niệm như thế thì sự
ức chế tâm lý được diễn ra trong tâm thức, rằng mình sẽ bị điều này, bị khống
chế bởi điều kia, tạo sự căng thẳng trong tâm thức gắng liền với sự sợ hải lo
âu, không được làm, ta bị bắt buộc tạo nên sự đè nén và sự chịu đựng ức chế
trong tâm thức.
Nên
nhìn giới luật và uy nghi như là một sự bảo hộ, là vòng đai an ninh, và nghĩ
rằng giới là một kho tàng đạo đức, là sự bảo hộ cho mình, thì sự thực tập nó
trở thành một sự tình nguyện, do đó tâm lý ức chế không có diễn ra, cho nên ta
dễ đạt sự vững chãi và an lạc.
Phật
dạy người xuất gia trong 5 năm đầu của đời sống xuất gia, đều phải chú tâm đặc
biệt tới sự học hỏi và hành trì giới luật và các uy nghi. Năm năm ấy là nền
tảng cho sự thành công của cả đời sống một người xuất gia. Thực tập 10 giới và
các uy nghi người xuất gia sẽ nuôi dưỡng tâm Bồ đề hằng ngày và không bao giờ phụ
chí hướng xuất gia của mình.
(Ngài
Châu Hoằng chùa Vân Thê (1535- 1615) cách nay hơn 400 năm, trên các lãnh vực
kinh tế văn hóa khoa học luôn thay đổi, do đó sự thực tập thời xưa và nay cũng
có sự thay đổi để phù hợp./.
TRỞ LẠI VỚI CHÍNH MÌNH
Chúng
ta sanh ra được làm người, sáu căn đầy đủ quả là một phúc duyên rất lớn, chúng
ta lại gặp Phật pháp được thọ trì tịnh giới, sống nếp sống viễn ly sanh tử,
thật sự không có thứ hạnh phúc nào ở trên thế gian mà có thể so sánh. Hạnh phúc
nầy có được nơi chư huynh đệ nuôi dưỡng ngay từ buổi đầu xuất gia học đạo. Chí
lớn muốn mau thành tựu giải thoát đã ấp ủ trong lòng, nên những tình thương,
những danh lợi của thế gian ta đã để ra ngoài tai không màn đến. Hạnh phúc này
lớn dần theo ngày tháng siêng năng tu tập, nó là Bồ đề tâm, là thứ năng lượng
vững chãi để ngăn chận những trở lực của ngoại duyên và tháo gỡ những khổ đau
khúc mắc của nội tại. Nếu một lý do nào đó khiến hành giả phải bận bịu, để hạt
giống Bồ đề tâm khô héo, có nghĩa là hành giả sống không có an lạc hạnh phúc
trong cửa thiền, nên dù có đi lại, đứng ngồi, tiếp xúc, niệm Phật tụng kinh, nhưng
thật sự hành giả cảm thấy trống vắng với tâm trạng tư cách của một người thua
cuộc.
Vì
thế hành giả muốn định đi ra khỏi con đường sanh tử khổ đau, thì phải trang bị
cho mình một thứ vũ khí cần thiết để đương đầu với chiến trận phiền não của
chúng ma. Vũ khí ấy là Tâm Bồ đề, là năng lượng được nuôi dưỡng từ đời sống tu
tập trong môi trường tốt của tăng thân, dưới sự nâng đỡ, yêu thương và che chở
của tăng thân, hành giả sẽ tự do lớn mạnh và xây dựng cho mình một pháp thân
huệ mạng. Có những hành giả không thấy được điều lợi ích nầy, rồi tách rời tăng
thân, sống một mình hoặc ở chung với nhà thế tục, hoặc tranh nhau học lấy cho
được những bằng cấp ngoại điển, hoặc cố gắng vào học những trường Phật học,
nhồi nhét cho mình càng nhiều kiến thức càng tốt. Nhưng những bằng cấp hay kiến
thức ấy dường như không có ảnh hưởng gì đến việc giải quyết khổ đau sanh tử,
không giải quyết được những xung đột thắc mắc trong tâm tư hằng ngày của hành
giả.
Ngày
xưa thiền sư Hương Nghiêm là bậc thông minh xuất chúng, học một biết mười, học
mười biết trăm, nhưng với một câu hỏi dường như quá dễ của tổ Qui Sơn: “Trước
khi cha mẹ sanh ra, Ta là ai?”. Câu hỏi bất ngờ làm Ngài ngẩn ngơ không biết
trả lời như thế nào, khiến cho Ngài phải điên đầu, dùng hết tri kiến đã hấp thụ
xưa nay của thầy của bạn của sách vở cũng không thể nào giải nổi. Ngài buồn quá
đem hết sách vở kinh điển đốt sạch và tự than rằng: “Bánh vẽ không thể no lòng
người đang đói”. Và Ngài quyết định làm một vị tăng quê hèn, bắt đầu thực
nghiệm lại những gì từ lâu Ngài lầm tưởng cho là hoa trái. Các huynh đệ của
Ngài cũng thế, không có thời gian, không có cơ hội để áp dụng những gì mình đã
học vào thực tế. Không tiêu hoá được những đống kiến thức cồng kềnh thành chất
bổ dưỡng nuôi sống cơ thể. Như vậy cơ thể sẽ bị suy nhược, bị héo mòn, các
huynh đệ vẫn không có gì thay đổi trong khoá trình lột xác từ một kẻ phàm tục
trở thành người xuất gia. Từ một chú Sa Di trở thành một vị Tỳ kheo mô phạm cho
muôn loài. Các huynh đệ của Ngài vẫn ham thích ăn ngon, mặc đẹp, chỗ ở tiện
nghi, ưa chuộng những lời lẽ dịu ngọt, vẫn sẵn sàng bộc phát sân hận trước
những gì mình không vừa ý. Vẫn tiếp tay mở cửa cho danh lợi,tình cảm tự do đi
vào... vẫn y nguyên như người phàm tục chỉ khác nhau chiếc áo và cái đầu.
Khi
đã lầm đường lạc bước vào dòng thanh sắc rồi, chúng ta đã tự cô phụ lại với ý
nguyện xuất trần của mình lúc nào không hay không biết, mà không đủ năng lực để
quay đầu trở lại. Và tổ Quy Sơn đã từng nhắc: “tiền lộ mang mang,vị tri hà vãng?”.
Vâng, nếu như chúng ta có một con đường đi và quyết tâm đi trên con đường ấy, thì
chúng ta thực sự đã có hạnh phúc. Nhưng ngược lại, nếu chúng ta thấy xa xa chỉ
là khói sương mờ mịt, con đường phía trước mênh mang bơ vơ không biết rẽ lối
nào, thì quả là một sự mất mát lỗ lã và đau khổ to lớn nhất trong đời ta. Và
rồi chúng ta bỏ áo tu hoàn tục, bản thân chúng ta sẽ đau khổ vì chí nguyện
không thành,cha mẹ anh em bà con chúng ta sẽ đau khổ vì ước vọng dỡ dang. Thầy
tổ tăng thân chúng ta sẽ đau khổ vì đã để chúng ta đi vào con đường sanh tử đầy
khổ đau. Cho nên chúng ta phải cố gắng nuôi nấng nguồn năng lực hảo tâm ban
đầu, phải tư duy phản tỉnh thường xuyên, phải dành nhiều thời gian để sống với
chính mình và tinh thần nhập thất tránh duyên là phương pháp hữu hiệu nhất của
bao đời chư tổ, chư tiền bối đã thực hiện. Cho nên ngoài thời gian nghiên cứu
giáo lý,chúng ta phải cố gắng tập nếp sống “độc xử nhàn cư ”, phải biết trâu
của mình vốn thích rong chơi, ăn lúa xanh uống nước mát, nên phải canh chừng nó
từng giờ từng phút, không để lơi lỏng. Nếu nó ương ngạnh quá phải nhốt vào trong
chuồng lần lần trâu sẽ quên đi bầu trời xanh ngát, tự hối lỗi, dần dần thuần
thục. Khi đã đạt đến chỗ thuần thục rồi, hành giả nằm trên ngũ dục mà không
thèm thuồng, thì lúc đó buông tay vào cuộc đời uế trược để tuỳ duyên hoá độ
chúng sanh. Hành giả phải biết và hiểu rõ chính mình, phải biết mình đang bị
chứng bệnh nào và tìm phương thuốc nào thích hợp để trị liệu, phải tránh xa
những điều kiện và môi trường làm cho con bệnh tái phát. Như người nghiện rượu,
không bao giờ đi qua quán rượu, người nghiện thuốc phiện không bao giờ ngồi gần
người hút thuốc phiện. Đó là biện pháp tốt nhất cho hành giả đi trên con đường
giải thoát.
Dục
lạc của thế gian và đặc biệt là ái dục luôn luôn mời gọi, cám dỗ lứa tuổi thanh
xuân, những chàng trai cô gái có ý niệm từ chối nó. Nó là thứ lửa dữ sẵn sàng
thiêu rụi giới thân huệ mạng của người tu. Thân phận người tu, giống như gánh
cỏ khô sẽ khó giữ khi gần lửa, biện pháp càng xa càng tốt.
Năng
lực bảo vệ tâm Bồ đề được lớn mạnh là hàng rào tịnh giới. Cho nên sau khi hành
giả đã nhận lãnh giới pháp rồi, phải hết sức giữ gìn cẩn thận. Nếu không đủ khả
năng giữ giới, hành giả sẽ mất hết công đức thiện căn,bản thể thanh tịnh bị
thương tổn, và như thế ta đã nợ cơm áo của đàn na thí chủ. Và chúng ta không
đem lại an lạc giải thoát cho họ mà còn thêm lo buồn. Không làm lợi cho Phật
pháp lại làm tổn thương Phật pháp. Cha mẹ anh em bà con cũng không vui mà cũng
chẳng nhờ cậy được gì. Từ đó chúng ta bị lui sụt, nếu may mắn kiếp sau làm được
kiếp người, cũng chỉ làm con người nô lệ để đền trả nợ cũ mà thôi.
Tịnh
giới bảo tồn tâm Bồ đề được tăng trưởng, nhưng mỗi người ai ai cũng đã có
nghiệp chướng sâu dày luôn luôn làm trở ngại trên bước đường tiến tu của hành
giả. Vì vậy hành giả phải chuyên cần lạy sám hối, tụng kinh, niệm Phật, công
phu làm những việc phước thiện, nguyện nhờ năng lực gia trì của mười phương chư
Phật, cùng với năng lực thiết tha quy mạng của chính mình,thì nghiệp từ kiếp
trước dần dần tiêu hoá, khi ấy đối diện với những hoàn cảnh éo le bức xúc xảy
ra, hành giả có đủ năng lực điều phục, vững chãi không lo ngại.
Mỗi
hành giả tịnh tu tinh tấn là rường cột chống đỡ ngôi nhà Phật pháp, là kẻ giữ
gia tài của Như Lai. Gia tài Như Lai để lại đã từng bị những người con không
hiếu thảo phá sản gần như khánh kiệt. Người có tâm suy nghĩ, biết lo cho mình, biết
thương Phật pháp đang đi vào thời kỳ đen tối. Hãy cố gắng duy trì và phát huy
giới luật. Đức Phật đã phó chúc lại cho đệ tử khi Ngài sắp nhập diệt như một
lời cảnh cáo nghiêm khắc. Đức Phật dạy rằng: “Nầy các thầy Tỳ kheo! Sau khi ta
diệt độ,c ác ngươi hãy tôn trọng trân kỉnh Ba La Đề Mộc Xoa, như người đi trong
đêm tối mà gặp được đèn sáng, như người nghèo đói mà gặp được châu báu. Giới
luật chính là đức thầy cao cả của các ngươi, dù ta có ở đời cũng không khác gì
mấy ”.
Tinh
thần học luật và trì luật của nước nhà chúng ta hiện nay đang trên đà xuống dốc
trầm trọng. Phần lớn tăng ni ưa chuộng nếp sống tân tiến, tự do phóng túng, không
còn tha thiết ghép mình vào khuôn khổ giới luật. Nhưng cũng hy vọng rằng có
những vị còn tha thiết với Phật pháp, quyết không theo những vết cũ sai lầm, các
vị ấy sẽ làm sống lại hình bóng giải thoát và tinh thần hoà hợp của tăng già.
Nếu mỗi hành giả có một tinh thần, một nghị lực, một lối sống đúng pháp thì dầu
kiếp này chưa liễu ngộ được chơn tánh, nhưng hành giả không bị đoạ lạc trong
sanh tử,k iếp sau chắc chắn sẽ được dự vào dòng thánh.
TRUY CẦU KHÔNG THÔI
Suốt
ngày bận rộn cũng chỉ vì
Lo ăn
lo mặc chuyện áo y
Ăn mặc
đủ rồi,lại suy nghĩ,
Phòng
trung còn thiếu vợ đương thì
#
Vợ
đẹp,hầu non đều đã đủ
Ra vào
xe ngựa lấy đâu đi?
Ngựa đã
thành bầy,xe đã sẳn
Lại lo
ruộng ít,khó thu chi.
#
Mua
được ruộng vườn trăm vạn mẩu
Sợ
không quan chức bị người khi
Tam
phẩm,tứ phẩm còn chê nhỏ
Ngũ
phẩm,thất phẩm có ra gì
#
Nhất
phẩm vừa lên quan tể tướng
Lại
muốn làm vua chắc có khi?
Thoả
lòng lên được ngôi thiên tử
Mơ ước
thành tiên sống trường kỳ.
#
Tham
vọng leo thang không dừng nghĩ
Vô
thường chợt đến,ôm hận đi.
Một mai
vô thường đến
Mới hay
mộng huyển thân
Muôn
việc đem chẳng được
Chỉ
nghiệp theo thức thần.
THANH TỊNH VÀ HOÀ HỢP LÀ SỨC SỐNG CỦA TĂNG GIÀ
Sau
khi Phật thành đạo,chuyển pháp luân nói Tứ Thánh Đế để độ cho năm anh em ông
Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển. Từ đó giáo hội tăng được thành lập. Tăng già
là từ không phải dành riêng cho tu sĩ Phật giáo hàng đệ tử xuất gia của Phật,mà
là từ đã có sẵn trong ngôn ngữ đương thời của xứ Ấn độ thời ấy.
Đệ
tử xuất gia của Phật được gọi là Tăng già, là một cộng đồng tăng lữ, một cộng
đồng có đời sống khác với đời sống tăng lữ giáo phái khác đương thời hồi đó. Là
một đời sống viển ly dục lạc thế gian,sinh hoạt trong cùng một mục đích, một lý
tưởng và một quy chế nhất định, thì đều được gọi là Tăng già. Trong chúng hội
đệ tử Phật chỉ có Tỳ kheo và Tỳ kheo ni mới có đầy đủ tư cách để thành một tăng
già thanh tịnh và hoà hợp. Chính tư cách nầy là biểu hiện nếp sống cao đẹp
trong sinh hoạt thực tiễn của một tăng già riêng biệt với những tăng già khác.
Giáo
hội Tăng già thời đức Phật còn tại thế là một giáo đoàn gương mẩu được người
thế tục hết lòng kính tin và ái mộ. Dù với số lượng tăng chúng mỗi ngày một
đông dần, đời sống sinh hoạt rất nhiều phiền toái, do một số người xuất gia vì
cơm áo ít nhiều xen tạp vào tăng đoàn, nhưng giáo đoàn vẫn giữ được một màu
thanh tịnh và hoà hợp như nước với sữa. Vì đức Phật đã kịp thời ban hành những
quy chế thích hợp để ngăn chận sự manh động của ba nghiệp,giúp cho những hành
vi hữu lậu mau chóng gội rửa để thành tựu quả vị giải thoát.
Từ
khi Phật thành đạo, trong khoảng 12 năm đầu, phần đông tăng chúng xuất gia là
những vị có căn tánh sâu dày, cộng với hảo tâm xuất gia, cùng với sự nổ lực
công phu tu tập vững vàng. Các vị ấy không bị nhiễm ô trần tục. Chỉ đơn giản
hành trì giới luật trên tinh thần của một bài kệ Phật nói ra:
“
Chư ác mạc tác - Chúng thiện phụng hành,
Tự tịnh kỳ ý
- Thị chư Phật pháp”.
Ý nghĩa giới luật được gôm trọn trong bài kệ
bốn câu, mà chư tỳ kheo của 12 năm đầu đều tu chứng A La Hán. Chỉ cần vài lời
khuyên đơn giản như vậy: “Thận trọng lời nói - Thân không làm ác - Giữ cho ý
thanh tịnh” là lập tức quý vị ấy ra khỏi trần lao phiền não, dự vào dòng thánh
thì đức Phật không cần phải ban hành những quy chế khắt khe để làm gì? Song đến
năm thứ 13, sự thanh tịnh trong giáo đoàn không còn giữ vững, bởi tăng đoàn
càng lúc càng đông lớn mạnh. Sự ngưỡng mộ tín tâm của quần chúng đặc biệt ưu ái
đối với đệ tử Phật. Đời sống tu sĩ được ưu đãi trên tinh thần lẫn vật chất, khiến
cho những người không phải hảo tâm xuất gia ham thích sự nhàn hạ, vì thế người
đời lẫn ngoại đạo lần bắt đầu gia nhập trà trộn vào tăng đoàn. Theo thông lệ
cái gì lên cao rồi có lúc phải xuống thấp, giáo đoàn đệ tử Phật không ra ngoài
thông lệ ấy. Do những phần tử bất hảo ấy gia nhập tăng đoàn với mục đích lợi
dưỡng hơn là con đường tiến đến mục tiêu giải thoát. Số tỳ kheo giả dạng,mượn
đạo tạo đời ấy từ từ sống xa rời hạnh thanh tịnh giải thoát, gây xáo trộn tăng
đoàn. Từ đó người thế tục không còn kính nể nữa,bắt đầu lại cơ hiềm, uy tín
tăng đoàn ngày một giảm. Với tình trạng như vậy đức Phật bắt đầu chế ra giới
luật để thống nhiếp tăng chúng, giúp cho từng cá nhân một,tự phản tỉnh gạn lọc
sự nhiễm ô và làm thanh tịnh trong tâm mình và định mức tiến hoá trên con đường
thánh thiện.
Giới
luật bắt đầu ban hành, theo từng sự việc vi phạm xảy ra sai lệch trong đời sống
sinh hoạt của tăng đoàn. Cứ mỗi hành vi sai quấy là một điều giới luật được đặt
ra, như vậy có rất nhiều hành vi sai quấy suốt thời gian 49 năm đức Phật thuyết
pháp giáo hoá, mà giới điềuTỳ kheo lên đến 250 và Tỳ kheo ni 348 giới. Mỗi học
giới đều mang tính cách giải thoát riêng biệt,nhưng không ngoài hai đặc tính cơ
bản là thanh tịnh và hoà hợp. Thanh tịnh và hoà hợp là hai điều kiện chính yếu,
để hình thành một giáo hội tăng già lớn mạnh đặc trưng cho tinh thần giải
thoát.
Nếu
Tỳ kheo luôn sống trong tinh thần đoàn kết và hoà hợp như nước với sữa, mà
không phản ảnh sinh động được những giáo lý cơ bản của đức Phật, nghĩa là không
giải thoát được cho ba nghiệp ra khỏi trần lao phiền não, không tạo được nền
tảng vững chắc cho các pháp vô lậu giải thoát phát sanh,thì coi như ý nghĩa
tăng già không thành,không thể tiến hành bất kỳ một pháp sự nào.
Trong
Tăng Chi III ghi lời Phật dạy, thẩm
định về người không giữ giới như sau: “ Này các Tỳ kheo, như tử thi bị ném vào
biển, nhưng biển không dung chứa tử thi. Nó sẽ đẩy tử thi vào bờ. Cũng vậy, nếu
Tỳ kheo nào không giữ được hạnh thanh tịnh, thì tăng già sẽ không sống chung
với kẻ ấy. Dù kẻ ấy có sống chung giữa chúng tăng,kẻ ấy cũng xa rời tăng chúng
và chúng tăng cũng xa rời kẻ ấy ”.
Ngược
lại, nếu tăng đoàn đều thanh tịnh, không cấu nhiễm, nhưng không có một quy ước
chung, một giới luật để hành trì, thì mỗi người sẽ nói năng hành động theo mỗi
kiểu, không ai nâng đỡ ai, không ai sống vì ai, tự thanh tịnh tự giải thoát, thì
tăng đoàn sớm muộn gì cũng tan rã, không còn chỗ đứng. Điển hình khi Phật còn
tại thế, các giáo sĩ Bà La Môn cũng có uy tín và chỗ đứng cao trong lòng người
thế tục,vì họ cũng có đời sống phạm hạnh. Song đem so sánh với giáo đoàn xuất
gia của đệ tử Phật thì người đời không kính phục và đánh giá thấp. Vì tổ chức
của họ không có hệ thống,nói năng hành động của họ kẻ trên người dưới đều tuỳ
tiện, hội hộp giải tán đều trong niệm bất hoà xung đột, tranh cãi lẫn nhau, không
có tôn ty trật tự. Cho nên thanh tịnh và hoà hợp là hai điều kiện hết sức quan
trọng và tương quan mật thiết với nhau. Nếu thiếu một trong hai điều kiện này
thì bản thể tăng già nhất định không thành tựu.
Chánh
sự hoà hợp và thanh tịnh này của chư đệ tử Phật mà vua Ba Tư Nặc nhiều lần
chứng kiến lối sanh hoạt của tăng đoàn, mà phải thốt lên lời kính phục: “Bạch
đức Thế Tôn, con thường thấy vua chúa tranh chấp với vua chúa, Sát Đế Lợi
thường tranh chấp với Sát Đế Lợi, bạn bè thường hơn thua với bạn bè, anh em hơn
thua với anh em,vợ chồng xích mích với vợ chồng ...con thấy các thầy tỳ kheo
sống với nhau rất thuận hoà và thân hữu không tranh cãi nhau, hoà hợp với nhau
như nước với sữa, nhìn nhau bằng con mắt ái kính. Bạch đức Thế Tôn, ngoài ra
con không thấy một đoàn thể phạm hạnh nào khác viên mãn hoà hợp thanh tịnh như
thế.”
Vì
thế, giáo pháp của đức Phật đòi hỏi phải có sự nỗ lực cá nhân, chứ không phải
kinh nghiệm của tập thể. Sự toàn diện đạo đức của mỗi cá nhân là nét đẹp trang
nghiêm cho đoàn thể. Mỗi một tỳ kheo hay tỳ kheo ni sống đúng như pháp như luật
là nguồn năng lực vô biên cho sự lớn mạnh của tăng già.
Từ
khi đức Thế Tôn nhập Niết bàn cho đến ngày nay đã trải qua bao nhiêu đợt xuân
thu mà giáo hội tăng già Phật giáo vẫn bền vững tồn tại, giữa muôn nghìn sóng
gió thăng trầm biến đổi của thời gian không gian. Chính là nhờ có giới luật làm
cương lĩnh thống nhiếp mà giá trị thanh tịnh hoà hợp luôn luôn thành tựu. Song
nếu sự thanh tịnh hoà họp phải được nâng cấp đúng giá trị của nó, nghĩa là giới
luật được giáo hội tôn trọng lên vị trí hàng đầu, như nhịp tim cùng hơi thở thì
có thể khẳng định rằng, không có một pháp sự nào là không thành công, một trở
lực nào, hay một giáo phái nào có thể lấn áp được.
Chúng
ta không thể phủ nhận những giai đoạn Phật pháp của thế giới nói chung nước nhà
nói riêng đã có nhiều lần rơi vào thời kỳ đen tối. Nguyên nhân có thể do hoàn cảnh
xã hội bên ngoài, nhưng chính yếu là do sự suy thoái lỏng lẻo thiếu thanh tịnh
và hoà hợp bên trong nội bộ của tăng đoàn làm chủ yếu. Bởi vì chỉ có trùng trên
mình con sư tử mới có thể ăn thịt của con sư tử. Điều đó nói lên rằng, sức mạnh
của giáo hội tăng già như chúa tể của rừng xanh, đầy đủ năng lực sang bằng mọi
trở ngại, nếu như từng tế bào một trong cơ thể sư tử luôn luôn lớn mạnh không
bệnh hoạn, hư nát. Cho nên mỗi thành viên chúng ta hãy nhìn xa ba cõi, sáu
đường chúng sanh đang chịu đoạ đày đau khổ, nhìn tiền đồ Phật pháp dần lu mờ về
tương lai, mà từ bỏ những ham muốn tầm thường ích kỷ riêng tư, những phân biệt
kỳ thị, những cái ta nhỏ bé mà cùng hoà đồng, cùng nắm tay nhau trong nguồn
sinh lực thanh tịnh hoà hợp, để trang điểm lại gương mặt Phật pháp cho mỗi ngày
nét giải thoát uy nghiêm thêm lên, rạng rỡ lại như thuở ngày xưa./.
XUẤT GIA VÀ MỤC ĐÍCH CỦA XUẤT GIA
Xuất gia là gì?
Giới
xuất gia chân chính là mở đầu từ Sa di Thập giới, Sa di không thọ Thập giới, không
được kể là người xuất gia hợp cách. Vì thế Sa Di Thập giới là cơ sở của xuất
gia. Mục đích của giới xuất gia là cầu đắc đạo Niết Bàn giải thoát sanh tử. Ba
đời chư Phật ở hiện tại nhân gian thành Phật đều là hiện tướng xuất gia, không
có đức Phật nào không xuất gia mà thành Phật, vì thế Sa Di giới lại là cơ sở
của đạo giải thoát. Xuất gia chẳng phải là điều Phật giáo phát minh trước nhất,
cũng chẳng phải chỉ Phật giáo mới có. Mà ở Ấn Độ, trước khi đức Thích Tôn giáng
thế cũng đã có nhiều thứ ngoại đạo. Sa Môn có nghĩa là dứt tâm, hoặc tịnh chí, là
tên gọi chung của Ấn Độ đối với các hạng người xuất gia. Sau khi Phật giáo sáng
lập để phân biệt với Sa Môn ngoại đạo ( như Sa Môn Bà La Môn ) cho nên gọi
người xuất gia của Phật giáo là Sa Môn Thích tử, nghĩa là đệ tử xuất gia của
Phật thích Ca.
Quan
niệm về hình thái tu hành gần như là hiện tượng chung của các tôn giáo cao cấp
trên thế giới. Mục đích tối cao của tôn giáo đều là tìm cầu sự giải thoát ra
khỏi nhục dục và sự tự tại của tâm linh. Vì thế, một tôn giáo được gọi là tôn
giáo, bất luận thủ đoạn và phương pháp như thế nào? Sự tìm cầu của nó tất nhiên
cũng là xuất thế.
Chính
vì sự yêu cầu xuất thế, nên sinh hoạt xuất gia trên tinh thần cấm dục vẫn là
trình tự tất nhiên của sự tu hành.
Do
đó, trừ Hồi giáo ra, các tôn giáo cao cấp Đông phương, Tây phương đều có bao
hàm ít nhiều sắc thái xuất thế hoặc tư tưởng cấm dục.
Hình
thái xuất gia, tuy các tôn giáo đều có, song xuất gia mà được thật sự đạt đến
cảnh giới giải thoát sanh tử thì chỉ có Phật giáo. Do vì hình thái xuất gia tuy
gần giống nhau, nhưng nội dung xuất gia hoàn toàn bất đồng. Xuất gia theo các
tôn giáo khác dù có lý do và phương pháp tu trì của họ, song đó là điều dường
như đúng mà sai, vì tu luyện mù quán, tự tìm khổ cực, không có căn cứ, cho đến
xuất phát từ sự chấp trước cuồng nhiệt và sự mê tín vô lý. Còn sanh hoạt tôn
giáo của Phật giáo là đặt nền móng trên nhân tính từng cấp thăng hoa, là xuất
phát từ lý trí phán đoán quyết trạch, là từ trong cảnh giới đích thân chứng ngộ
của Phật lần lược lưu xuất,chứ không phải là cấm dục cực đoan, mà là căn cứ vào
suối nguồn của lý tánh thuận với sự đề cao nhân tánh mà tiếp thông thấu suốt
với sinh hoạt xuất gia. Vì thế sinh hoạt
xuất gia của Phật giáo là đặt nền tảng quan hệ của nhân luân để làm thăng hoa
từng bậc, từ sinh hoạt tại gia ngũ giới, bát giới, đến sinh hoạt xuất gia của
Sa di thập giới và tỳ kheo giới. Ngũ giới đặt nền móng từ quan niệm luân lý của
xã hội loài người. Do đây, Phật giáo dù mong muốn mọi người đều tin Phật, học
Phật, nhưng tuyệt nhiên không ép buộc mọi người đều phải xuất gia. Muốn biết
người nào đã có thích nghi với sự xuất gia ở trong Phật giáo hay không, chỉ cần
xem người đó có tiếp thọ được tinh thần của giới luật hay không (do quan niệm
luân lý thăng hoa mà thành). Giới luật xuất gia do quan niệm luân lý thăng hoa
mà làm thành, đó là đạo Niết Bàn giải thoát sanh tử. Đây chẳng phải là sự siêu
xuất sanh tử một cách đột nhiên, mà là do nhân tánh của luân lý nhân gian hoặc
sự thăng hoa từng cấp của lý tánh hoàn thành. Vì thế, đây chẳng phải là vô căn
cứ, mà là đặt trên nền móng thăng hoa sinh hoạt tại gia của cái nhân sanh tử,
cuối cùng, do sự thoát xác để đạt đến cảnh giới Niết Bàn siêu thoát sanh tử.
Điều này hoàn toàn bất đồng với hình thức và quan niệm của thần giáo dựa vào
lực lượng của Thượng đế cứu chuộc. Thượng đế cứu thế của ngoại đạo là tố cáo sự
mê tín thần bí, cho đến tương tự như ma thuật hoặc ma tuý của tính chất thôi
miên, có thể chân chính đạt mục đích
giải thoát sanh tử được ư?
I- Định nghĩa
Theo
Pali: nghĩa là khước từ những điều mơ ước thế gian, để chọn lấy đời sống tu sĩ,
và còn có nghĩa là tạm thời vượt ra khỏi các pháp che lấp Niết Bàn bằng cách
thực hiện con đường tu tập giới, định, tuệ.
Trong
kinh Nikaya của Thượng toạ bộ định nghĩa: Xuất gia nghĩa là cạo bỏ râu tóc, từ
bỏ gia đình, sống không gia đình, mặc áo hoại sắc, sống trong pháp Phật. Và còn
một nghĩa rộng lớn hơn thì xuất gia gồm có ba nghĩa:
a-
Xuất thế tục gia b- Xuất phiền não
gia c- Xuất tam giới gia.
a- Xuất thế tục gia: Theo đơn thuần trên
văn tự là “ra khỏi nhà thế tục”. Thế tục ở đây là chỉ cho gia đình, cha mẹ, vợ
con, anh em, thân bằng quyến thuộc. Danh vị lợi dưỡng của thế tục. Đây cũng là
một sợi dây “tình ái, và ái luyến ” mà mọi người trong thế gian khó có thể vượt
qua. Nói rộng ra hơn: Nhà thế tục còn bao gồm cả xã hội, đến tất cả con người
cùng sống trên thế gian nầy, đầy dẫy những tranh đua, danh lợi, tham đắm trong
ngũ dục. Với lòng tham đắm vô tận,chẳng biết đến bao giờ mới được vừa lòng thoả
ý, để rồi phải chuốc lấy với bao nổi khổ vào thân. Trong kinh Pháp Hoa phẩm Ví
dụ gọi thế gian này chẳng khác nào ngôi nhà lửa. Do vậy người có chí hướng ra
khỏi nhà thế tục tức phải có một tâm hồn hướng thượng, chuẩn bị sẵn cho mình
đầy đủ nội lực, tư tưởng để làm cuộc cách mạng nội tâm, một tinh thần quyết chí
dũng mãnh mới mong thoát ra khỏi ngôi nhà tình ái thế gian nầy, để hướng tới
một chân trời cao rộng.
b- Xuất phiền não gia: Những sự tác động bên ngoài thế gian biết bao
phiền toái, nhưng đó cũng chỉ mới là phần ngoại cảnh. Phiền não ở đây là chỉ
cho phần nội tâm của mỗi người chúng ta. Trong kinh Pháp cú, có nói rằng “Tâm
là chủ, Tâm dẫn đầu các pháp, Tâm tạo tác, nói hay làm với tâm ô nhiễm thì sự
khổ sẽ kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo”. Trong kinh Hoa Nghiêm
nói: “Nhất thiết duy tâm tạo ”.
Qua
những lời dạy trên chúng ta thử nhìn lại trong tâm chúng ta có bao nhiêu điều
phiền não.Chỉ có một tác động nhỏ cũng làm cho tâm ta ô nhiễm rồi nếu đó là bất
thiện. Do vậy, dù ngoại cảnh hay nội tâm, khi tâm ta tác động đến điều bất
thiện thì biết bao nhiêu phiền não dấy lên. Theo Duy thức học, thì phiền não có
nhiều thứ, nói lược gồm có 6 thứ căn bản (tham, sân, si, mạn, nghi và ác kiến).
Riêng ác kiến lại có 4 (Biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ). Cho nên
việc ra khỏi nhà phiền não không phải đơn thuần một ngày hai ngày mà cần trải
qua quá trình tu tập trong sự cần mẩn và thanh tịnh. Cho đến giai đoạn thấy
được chân tướng của phiền não mới mong đoạn trừ.
c-
Xuất tam giới gia: Có nghĩa là ra
khỏi ngôi nhà ba cõi. Nhìn chung trong ba cõi này vẫn không ngoài sự tham đắm
về ái và dục. Tham đắm ở đây không ngoại trừ điều thiện. Như trong kinh đức
Phật cũng đã dạy cho hàng Phật tử về phương pháp tu thập thiện sẽ được sanh
thiên. Nhưng cõi trời đó vẫn còn lẫn quẩn trong ba cõi. Cho nên việc tu tập để
vượt ra ngoài phạm vi tam giới, không phải ở đâu xa vời, mà chính ngay trong
cõi mà ta đang sống. Miễn rằng tâm ta đừng để dính mắc, chấp trước.
II - Tính chất và tác dụng của sự xuất gia
Trong
Phật giáo, người xuất gia phân làm 5 hạng là Sa Di, Sa Di Ni, Thức Xoa Ma Na, Tỳ
kheo, Tỳ kheo Ni. Năm hạng này là năm đẳng cấp.hoặc năm loại. Người nam thọ
thập giới gọi là Sa Di. Người nữ thọ thập giới gọi là Sa Di Ni. Người nam thọ
toàn bộ giới của xuất gia gọi là Tỳ kheo. Người nữ thọ toàn bộ giới của giới
xuất gia gọi là Tỳ kheo Ni. Thức Xoa Ma Na là một quá trình của giai đoạn giữa
từ Sa Di ni đến Tỳ kheo ni.
Về
tính chất xuất gia, Phật giáo phân làm ba loại:
1- Thân xuất gia, tâm xuất gia: Đây là
chỉ cho những người xuất gia có chí hướng thượng, mặt dù thân thể ở tòng lâm, tự
viện hay núi rừng, nhưng tâm họ không còn nghĩ tưởng đến những khoái lạc ngũ
dục thế gian, sống một đời thiểu dục tri túc, luôn luôn nghiên cứu tư duy, sống
trong giáo pháp Như Lai. Tự tại an lạc, giải thoát, làm lợi cho mình, lợi
người. Đây là phép tắc xuất gia chân chính, là bổn phận chính yếu của người
xuất gia trong đạo phật.
2-Thân xuất gia, tâm không xuất gia: Có người tuy cạo tóc mặc tăng
phục, trụ tự viện, không cưới vợ, không lấy chồng hoặc cũng giữ được thân thanh
khiết, song nội tâm của họ lại khao khát tưởng nhớ đến ngũ dục. Họ vì sanh hoạt
cho đến vì danh vọng và địa vị xã hội mà xuất gia. Đối với phương thức sanh
hoạt của xuất gia tuy họ không cảm thấy hứng thú, nhưng vì vấn đề sanh hoạt và
sự bó buộc của quan hệ xã hội nên miễn cưỡng xuất gia. Những hạng người này
thật đáng thương xót, họ không được cái thú vị của sanh hoạt hiện thực, cũng
không được sự lợi ích của Phật pháp, họ lại sẽ bị quả báo đời vị lai rất đáng
sợ, do vì họ đối với tín ngưỡng Phật giáo có vấn đề, nên sinh hoạt xuất gia của
họ cũng không thể hoàn chỉnh và có lỗi lầm. Vì thế đây là một loại người xuất
gia bị Phật quở trách, rất thường thấy ở đời mạt pháp.
3- Tâm xuất gia, thân chẳng xuất gia:
Đây là Bồ Tát đã chứng Thánh vị, các ngài không tham luyến cái vui ngũ dục, vì
hoá độ chúng sanh nên thường hoá hiện thân phận người tại gia có vợ sanh con, như
các ngài Duy Ma, Hiền Hộ...Các Ngài tuy ở tại gia có vợ con, nhưng tâm các Ngài
không nhiễm, không đắm, không tham, không dục, thanh tịnh sáng suốt. Nhưng đây
không phải là phép tắc thông thường của xuất gia, nên chẳng thể thành phương
thức của sinh hoạt xuất gia.
Tác dụng của xuất gia
Phương
thức sanh hoạt xuất gia của Phật giáo cũng có tác dụng nhiều tầng:
1-
Vì lý do liễu sanh thoát tử mà có: Đây là đặt nặng sự hướng về tinh thần xuất
thế mà có yêu cầu của sinh hoạt xuất gia.
2-
Vì lý do cảnh tỉnh và dẫn dắt thế tục mà có: Đây là vì đối trị những người mê
luyến trong trận đồ thanh sắc, chìm đắm say sưa trong biển ngũ dục, mà mở ra
pháp môn thức tỉnh và giải độc.
3-
Vì lý do Phật pháp trụ ở thế gian mà có: Đây là để ý vào sự kiến lập tăng đoàn
mong có quy luật để vĩnh cữu triển khai và nối tiếp nhiệm vụ hoằng dương Phật
pháp.
Nhưng
đã xuất gia trong Phật pháp, tuyệt đại đa số phải có toàn bộ tác dụng ba thứ:
Đối với chính mình là cầu giải thoát sanh tử. Đối với người khác là vì cảnh
tỉnh dẫn dắt thế tục. Đối với Phật pháp là vì trụ trì hoằng dương.
Ba
điều nầy thiếu một thì không hoàn mỹ, xuất gia mà không tự cầu thoát ly sanh tử
thì chẳng cần xuất gia. Xuất gia mà không cảnh tỉnh dẫn dắt thế tục, ấy là trái
với tinh thần Phật pháp giáo hoá thế gian. Xuất gia mà chẳng trụ trì Phật pháp,
ấy là cô phụ cái ân lớn lao của Phật.
III. Mục đích của xuất gia
Trong
Quy Sơn Cảnh Sách, Tổ Quy Sơn dạy rằng: “Phù xuất gia giả,phát túc siêu phương,
tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, thượng báo tứ ân, bạt
tế tam hữu”. Nghĩa là, người xuất gia là khi cất bước, thì tâm hồn muốn vượt
đến một chân trời cao rộng. Tâm tánh và hình dung khác người thế tục, tiếp nối dòng
giống của Phật một cách rạng rỡ. Làm cho ma quân phải khiếp sợ, khuất phục. Với
mục đích trên nhằm báo đáp bốn ân, dưới cứu giúp ba cõi.
Với
định nghĩa trên, thì điều chính yếu của người xuất gia là hướng đến chân trời
cao rộng, sống trong giáo pháp Như Lai, luôn luôn tư duy tu tập không ngừng
nghĩ, hầu mong đạt được sự an lạc giải thoát đích thực ngay trong đời nầy và
nhiều kiếp về sau, nhằm đem lại sự an lạc đó dẫn dắt chúng sanh.
Để
đạt mục đích tối thượng, Hành giả phải lấy phương pháp tu trì tam vô lậu học
làm cơ sở nền tảng. Nhờ trì giới và tu định mà phát sanh trí tuệ và công dụng
của trí tuệ là chỉ đạo, tự mình tu giới và định. Từ đó mới có khả năng tự giác
giác tha, tự lợi lợi tha.
Có
người quan niệm ý nghĩa của xuất gia gần như đồng với sự tự sát. ở trên sự
nghiệp, tình ái, tiền bạc, danh vọng địa vị bị thất bại, bị đả kích quá nặng, gặp
sự thất bại khó thể vãn hồi, vì thế tâm ý trở nên khô khan lạnh lẽo, không còn
có chút dũng khí đối diện với hiện thực. Lúc không còn muốn phấn đấu nữa, thì
con đường thứ nhất rất giản đơn là dùng phương pháp tự sát để kết thúc cái sinh
mạng không biết phải làm sao. Con đường thứ hai tuy không đơn giản nhưng cũng
rất dễ là lánh vào cửa Phật, cạo tóc xuất gia làm bạn với mõ chuông cho qua
kiếp sống tàn. Quan niệm này tuyệt đối không phải bản lai diện mục của xuất gia
Phật giáo, nhưng cũng không thể phủ nhận thật có những nhân vật như thế đi vào
cửa Phật xuất gia.
Những
nhân vật này đi vào cửa Phật không có sự kiến lập lớn lao và cũng không đến nổi
có sự phá hoại lớn lao, nhưng trên xã hội, sự kỳ thị đối với tăng lữ của nhà
Phật là do những người này mà ra. Thật ra, đệ tử xuất gia thời Phật còn tại thế
đa số là tỳ kheo ở nhân gian, chỉ một thiểu số ở núi rừng là Tỳ kheo A lan nhã
chuyên trì giới và tu thiền.
Tỳ
kheo ở nhân gian là người xuất gia lấy sự hành hoá nhân gian làm chủ yếu. Người
xuất gia vốn giải thoát sanh tử cố nhiên phải tu thiền, tu thiền cố nhiên là liễu
sanh thoát tử, song nếu tham đắm cái vui thiền định thế gian thì trái lại, nhân
vì tu tập thiền định mà làm chướng ngại pháp môn giải thoát sanh tử.
Vì
thế người xuất gia Phật giáo, lấy sự cầu trí tuệ làm mục đích, thứ nhất đem trí
tuệ giáo hoá nhân gian làm nhiệm vụ chủ yếu bậc nhất. Đến như trì giới làm một
phương pháp đoạn tuyệt cái nhân sanh tử, song trì giới mà chẳng nhàm lìa sanh
tử thì công đức trì giới chỉ có thể được quả báo nhân thiên, chớ chẳng thể liễu
sanh thoát tử. Như chỉ cầu tự mình giải thoát mà không trợ giúp cho người khác
giải thoát, tối đa thành A La Hán chứ
không thể thành Phật. Trong phương pháp tu trì của Phật giáo, ba môn học giới, định,
tuệ đều coi trọng. Mục đích của trì giới và tu định là để sanh huệ, công dụng
của huệ là chỉ đạo tự mình tu giới, định và độ người khác giải thoát, vì thế
trong ba môn không thể thiếu một môn và lấy huệ làm trung tâm.
Người
xuất gia buông bỏ tất cả, thấy suốt tất cả, không tranh thị phi, không phân
biệt nhân ngã, trường đoản, vì thế rất khó được. Nhưng cũng vì thế mà bị một số
người hiểu lầm cho rằng đây là biểu hiện của tư tưởng tiêu cực. Kỳ thật người
xuất gia của Phật giáo chính mình buông bỏ, thấy suốt và dạy người khác buông
bỏ, thấy suốt, ấy là tích cực. Tội ác và hoạ hoạn của nhân gian đâu chẳng phải
hoàn toàn là do người không buông xuống,
thấy không suốt mà tạo ra ư? Người xuất
gia chúng ta một bên dạy chính mình và một bên dạy người khác buông bỏ, thấy
suốt, đồng thời cũng dạy chính mình và người khác lập tức đảm đương. Danh lợi
tư dục, cần phải buông bỏ, thấy suốt, cứu người giúp người cần phải lập tức đảm
đương. Đây có thể kể là tiêu cực được ư?
Vì
thế mục đích xuất gia của Phật giáo: Một là tự mình cầu giải thoát, hai là trợ
giúp người khác giải thoát, và lấy việc tự cứu mình cứu người đồng được giải
thoát làm mục đích.
Phật
giáo có một câu cổ huấn: “Xuất gia là việc của bậc đại trượng phu, chẳng phải
việc quan tướng có thể làm được”. Quan tướng là điển hình của hào kiệt, đại
trượng phu là điển hình của thánh hiền. Hào kiệt dựa vào khí thế mà thành.
Thánh hiền bám vào khí chất mà thành. Khí chất của thánh hiền có thể hàm dung
khí thế của hào kiệt, trong khi khí thế của hào kiệt chưa chắc có khí chất của
thánh hiền. Người xuất gia của Phật giáo lấy Phật làm điển hình để noi theo.
Phật vì giải thoát cái khổ sanh tử của chúng sanh và giải đáp câu đố sanh tử
cho chúng sanh mà xuất gia tu chứng. Mục đích của người xuất gia trong Phật
giáo, trên nguyên tắc là giống như Phật. Ra khỏi nhà thế tục, lìa bỏ vợ con, là
đi ra khỏi cái nhà khổ hải của cái khổ sanh tử và cũng là vì trợ giúp người
khác cho đến tất cả chúng sanh cũng ra khỏi được cái nhà khổ hải của cái khổ
sanh tử. Vì thế trong Phật giáo tốt nhất là nên xuất gia vào lúc tuổi trẻ, sức
lực còn cường tráng. Nếu vì thất bại trên đường tình ái và sự nghiệp mà xuất
gia, phật giáo tuy không cự tuyệt song cũng không cổ động và không thể nào nhiệt
liệt hoan nghênh những kẻ ấy./.
Phụ
trương
Tu Hành: Tu nghĩa là tu Tâm dưỡng Tánh. Hành nghĩa
là hành vi đàng hoàng, đoan chánh.
Trọng điểm của tu hành là tu ở trong tâm, biểu hiện
đức độ ra bên ngoài, chẳng ai thấy cho thấu chuyện bên trong tâm bạn. Duy chỉ
có sự biểu hiện ra bên ngoài, đàng hoàng đạo đức, mới hiển thị được sự thanh
tịnh ở bên trong. Tu hành là do nơi mình, dựa vào sự tinh tấn của chính mình để
khai mở giác tánh sáng suốt, chớ nên hy vọng rằng không tu mà đắc quả. Tu hành
nào phải đàm luận triết lý cao siêu, nói những quan niệm sâu sắc trừu tượng. Tu
hành là sự hiểu biết rất gần gũi, rất bình thường về tánh bản nhiên của lòng
người.
#
Xuất gia là chuyện chung thân, cũng giống như chuyện
con gái đi lấy chồng vậy. Cần phải vô cùng thận trọng. Lấy chồng không nên kích
động đường đột quyết định. Xuất gia cũng cần chọn lựa chắc chắn với lòng thanh
tịnh sáng suốt. Lấy chồng là bước vào một gia đình khác. Xuất gia là bước vào
nhà Như Lai. Nó cần bạn gánh vác gia nghiệp của Như Lai, tức là gánh vác toàn
thể chúng sanh vậy. Nó khác hẳn với người tại gia. Sự gánh vác này không những
vừa nặng mà vừa lâu, vạn nhất nếu gánh không nổi thì phải làm sao? Bạn phải suy
nghỉ cho kỷ càng, không nên trong lúc cảm tình nông nổi, phiền não xao động rồi
lập quyết định. Xuất gia thì thật đáng
lo cho số phận của mình và đạo pháp./.
Trong tất cả
pháp môn đều có một chỗ chung đồng không thể phủ nhận. Đó là sức tỉnh giác.
Biết rõ vọng tưởng, không bị đồng hoá với vọng tưởng, không trôi theo vọng
tưởng và có thể hoá giải vọng tưởng.
PHÁP NIỆM PHẬT:
CÓ TIẾN MÀ KHÔNG THỐI. CÓ LỢI MÀ KHÔNG TỔN.
Ít
nói một câu chuyện
Nhiều
niệm một câu Phật
Đánh
chết được vọng niệm
Pháp
thân người hiển lộ
# #
HỌC TẬP VÀ BẢO VỆ CHÁNH PHÁP LÀ NHIỆM VỤ CHÍNH YẾU
CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ.
**
** **
Tam bất hủ: Ba điều không
mục nát, không mai một, được lưu truyền mãi mãi, làm lợi ích cho nhiều
người,nhiều thế hệ con người. Đó là:
1-
Lập đức: Làm nên việc đức như cứu vớt chúng sanh, giúp ích xã hội.
Như
đức Phật nói ra giáo pháp dạy chúng sanh tu hành ra khỏi khổ...các bác sĩ, kỷ
sư nghiên cứu ra các phương pháp trị bệnh cứu chữa con người bớt bệnh hoạn, chế
ra máy móc giúp cho con người đỡ sức lao động v.v...
2-
Lập công: Làm nên công nghiệp, sự nghiệp, như có công dựng nước, có công giữ
nước, ví như các vị tướng có công đánh đuổi giặc ngoại xâm, dành độc lập tự do
chủ quyền cho đất nước, khiến dân chúng an cư lạc nghiệp, không khổ về giặc
giả, đói nghèo v.v...
3-
Lập ngôn: Thuyết giảng, dạy dỗ, hay trước tác, dịch thuật các tác phẩm có giá
trị giáo hoá con người cho đời này và nhiều đời sau,lưu truyền làm lợi ích...
** ** **
Thiếu văn hoá, người
ta giống như kẻ sống nơi sa mạc lửa nóng, có học thức, có văn hoá, mới có sự
tươi mát của đồng xanh, cây cỏ.
# #
BỔN PHẬN NGƯỜI XUẤT GIA
LTS: Tuy dấu ngựa xuất gia của đức Phật đã khuất
xa và xa lắm rồi. Nhưng mỗi năm đến ngày 8-2 kỷ niệm ngày xuất gia của Ngài vẫn
còn rạo rực trong tâm người con Phật. Vì một lần xuất gia của Ngài đã đem lại
ánh sáng giác ngộ cho muôn loài, và làm gương mẫu xuất gia cho ức triệu người
trong trăm ngàn thế hệ.
Hôm nay nhằm ngày kỷ niệm xuất gia
của Ngài. Toà soạn đăng bài “ Bổn phận xuất gia ” mong giúp vài ý kiến cho
những vị sơ cơ đang theo gót xuất gia trên con đường học đạo. Thiết tưởng đó
cũng là một trong những việc làm trong ngày kỷ niệm xuất gia.
* Lời nói đầu: Khế kinh dạy:
Người xuất gia là trưởng tử của đức Như lai, phước điền của chúng sanh, bậc
Trung tôn trong đại chúng. Địa vị và danh nghĩa như thế, nên người xuất gia
phải nhận rõ bổn phận mình. Trước hết đối với
“ tự thân ” rồi đến “ Tam Bảo ” thứ lại đến với “ Mọi người ”. Chỉ có hoàn thành bổn phận ấy
mới khỏi phụ chí xuất gia của mình và xứng đáng danh nghĩa địa vị: “Chúng trung tôn”.
1. Đối
với tự thân: Người xuất gia phải
tập tánh kiềm chế tự thân khắc khổ với ý muốn, không từ nan những việc làm hữu ích, và không rụt rè chừa
bỏ những cử chỉ có phòng hại đến bổn phận xuất gia của mình.
* a - Đời
sống thanh đạm: Đã từ bỏ gia đình ly khai danh lợi, xuất gia học đạo, chính
là tượng trưng cho tinh thần ly dục. Nên người xuất gia đối với sự ăn mặc, ở
hết sức thô sơ đạm bạc. Rau dưa, tương muối qua ngày. Vài chiếc áo vải che
thân. Ngôi chùa đơn giản chống đỡ nắng mưa, nếu không phải những chốn Tòng Lâm,
tu viện hay những ngôi chùa hoằng pháp. Chỉ có đời sống thô sơ ấy mới bớt được
sự tham cầu, tăng cường trí huệ và tăng giá trị thanh cao cho người xuất gia.
Vì thế, nên đức Thế Tôn khuyên dạy: “Tấn đạo nghiêm thân, tam thường bất
túc” là vậy.
* b - Không
khu biệt vào một gia đình: Gia đình riêng biệt, là xiềng xích ràng buộc chí
tiến thủ, lợi sanh, giây dưa tham ái, đưa người vào vòng luân hồi sanh tử. Nên
người xuất gia không vợ con, không riêng biệt, chan hoà đời mình vào trong gia
đình đại chúng, phục vụ nhân loại, chúng sanh.
* c -
Luôn luôn nghiên cứu Phật pháp: Phật
pháp là ngọn đuốc phá tan màn ngu si hắc ám cho chúng sanh, là kho tàng trân
bảo vô tận của người Phật tử. Vì vậy người xuất gia nên luôn luôn nghiên cứu
học hỏi Phật pháp, lấy sự nghiên cứu Tam tạng giáo điển là một việc làm căn
bản, không câu nệ thời gian hoàn cảnh, địa vị tuổi tác...
Với ngoại điển người xuất gia có thể
tham cứu học hỏi để giúp thêm phương tiện truyền bá chánh pháp. Nhưng không nên
lãng quên Phật pháp là căn bản giác ngộ của mình và người.
* d
- Triệt để hành trì giới luật:
Người xuất gia nhờ Giới luật mà được vô lượng công đức pháp tài, và trở thành
Tăng bảo nên trong kinh dạy: “Giới luật là mạng mạch của Tăng già”. Vi phạm
giới luật tức là tự tiêu diệt đời xuất gia của mình, mất sạch các thiện công
đức, ngược dòng giải thoát. Do đó mà người xuất gia phải triệt để thi hành giới
luật của mình đã lãnh thọ.
*
đ - Chọn một phương pháp làm chỗ lập địa
tu hành: Trên đường tu tập của người xuất gia phải đủ ba phần là Giới, Định
và Huệ. Nên ngoài sự nghiên cứu tam tạng giáo điển và tinh trì giới luật. Người
xuất gia còn phải chọn một trong những pháp môn của Phật dạy để làm chổ lập
địa, hằng ngày tu tập, điêu luyện tâm tánh. Nếu không để tâm chọn lấy một pháp
môn, hay chàn ràng với tất cả pháp môn, thì đời mình sẽ lâm vào cảnh hoang
mang, không khéo chí xuất gia sẽ bị lung lạc theo thời thế và hoàn cảnh.
Trong thời mạc pháp nầy, chỉ có pháp
môn trì danh niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ, rất dung thông và giản tiện. Chúng ta
hãy nên nương theo pháp môn ấy làm chỗ lập địa cho đời xuất gia tu tập của mình.
* e -
Lấy câu: “ Như cứu đầu nhiên ” làm châm ngôn tu tập hằng ngày. Thân mạng vô
thường, mai còn chiều mất. Bởi vậy trên đường tu tập, người xuất gia phải nên
lấy câu “ như cứu đầu nhiên ” làm châm ngôn, không chần chờ năm tháng, hứa hẹn
ngày giờ đánh tan ma lười biếng, bài trừ giặc vẩn vơ, bắt chước gương người
xưa: xem tấc bóng như tấc vàng, một ngày không làm một ngày không ăn.
2. Đối với Tam Bảo: Tam
Bảo là nơi quy hướng duy nhất của người Phật tử, sanh trưởng pháp thân huệ mạng
cho người xuất gia. Vì thế người xuất gia có bổn phận đối với Tam Bảo cũng như
con hiếu đối với cha mẹ.
a - Hướng
ý niệm và hành động mình theo đức Phật: Đệ nhất ân nhân của người xuất gia
là đức Phật. Đời Ngài tượng trưng cho vô lượng phước đức, trí tuệ, bình đẳng,
vị tha. Nhân danh là Trưởng tử, người xuất gia không gì hơn, hướng tất cả ý
niệm và hành động theo Ngài.
b - Hộ
trì chánh pháp, tồn vong vì chánh pháp: Chánh pháp đối với người xuất gia,
cũng như không khí với vạn vật, có không khí vạn vật mới sống còn, thiếu không
khí tất nhiên vạn vật phải khô rụi. Vì vậy, người xuất gia trong tất cả thời,
tìm mọi phương tiện để duy trì chánh pháp, khuếch trương chánh pháp, sự vui
mừng của người xuất gia, chỉ khi nào chánh pháp được thường trú, lan rộng và
đau buồn khi chánh pháp bị xuyên tạc, suy vong.
c -
Áp dụng đúng phương pháp lục hoà trong đoàn thể tăng già: Tăng bảo là đoàn
thể tu học chánh pháp thay Phật truyền bá chánh pháp, lợi lạc hữu tình. Người
xuất gia được mệnh danh Tăng Bảo là vì tại chỗ ấy. Cho nên tự mình phải nhận
lấy trách nhiệm duy trì và nâng cao giá trị Tăng bảo, bằng cách sống đúng pháp
lục hoà, và gây tinh thần lục hoà trong đoàn thể, trong các tòng lâm tu viện.
Chỉ có áp dụng đúng tinh thần lục hoà, mới thành tựu và tồn tại được đoàn thể
Tăng Bảo.
d - Kính nhường bậc trên dắt dìu kẻ dưới: Tuy đồng trong một đoàn thể nhưng có những bậc
Thượng đức cao niên, có kẻ sơ cơ nhập đạo. Đối với bậc Thượng đức cao niên,
người xuất gia phải thành tâm cung kỉnh, để trang nghiêm Tăng đức, điều hoà
Tăng thứ. Với bậc sơ cơ nhập đạo, phải thương yêu giúp đỡ, tận tâm dắt dìu trên
đường tu học, để họ được hoàn thành chí nguyện và đoàn thể được nhiều người tài
đức.
đ -
Thi hành đúng quy ước Giáo hội Tăng già và góp sức chỉnh đốn nội bộ: Đã xuất gia là phải vào trong đoàn thể Giáo
Hội, triệt để tuân hành quy ước của Giáo Hội, vi phạm quy ước Giáo Hội, tức là
tự tách mình ra ngoài đoàn thể Tăng già, khinh thường quy ước, tức là trực tiếp
phá hoại đoàn thể, là tội nhân của Đạo pháp.
Ngoài ra, người xuất gia hiện tại, còn có
bổn phận góp phần tu chỉnh nội bộ Tăng già...Tìm phương tiện bổ khuyết cho
những Tăng già thiếu học, thiếu tu.Và thanh trừng những phần tử ương ngạnh,
ngoan cố, khinh thường đạo pháp, xem rẽ đoàn thể, lợi dụng danh nghĩa Tăng già,
để lừa gạt tín đồ.
Độc trùng đã lẫn lộn nhiều trong thân sư
tử, thời gian không cho phép thờ ơ. Mỗi người xuất gia chúng ta, phải nhận rõ
sự tương quan mật thiết giữa mình và đoàn thể, thắt chặt cùng nhau trên đường
tu học.Thầy trò cúp núp, lơ lững qua ngày, không liên lạc gì với kẻ khác, không
quan tâm đến sự tồn vong của đoàn thể. Tinh thần tiêu cực ấy, cử chỉ lạc hậu
ấy, nó không còn đứng vững nữa, sẽ mai một theo thời gian vậy.
3.
Đối với mọi người: Ngoài bổn phận đối
với tự thân và Tam Bảo, người xuất gia còn có bổn phận đối
với mọi người. Nếu thiếu bổn phận ấy, người xuất gia trở nên tiêu cực, trái với
tinh thần cứu thế của đạo Phật, không viên mãn được quả vị Bồ đề, nhơn thiên sư
phạm.
Có chỗ nói: “ Người xuất gia vì mang ơn
cơm áo.. của đàn việt mà phải hoạt động Phật sự. Thật ra đó là một lý do phụ mà
thôi. Dĩ nhiên người xuất gia, không thể quên ơn đàn việt, nhưng trách nhiệm
lợi sanh của người xuất gia có đâu chỉ hạn cuộc vào việc báo ơn cơm áo. Nếu vậy
ngoài những người đàn việt trực tiếp cúng dường, người xuất gia không có trách
nhiệm với kẻ khác hay sao? Vì thế đối với tất cả mọi người, người xuất gia có
bổn phận rất quan hệ mật thiết vậy.
a -
Giáo hoá mọi người tu học Phật pháp:
Giáo hoá mọi người tu học Phật pháp là việc của người xuất gia. Mọi
người được giác ngộ và giải thoát hoàn toàn nhờ chánh pháp. Nên người xuất gia
trong tất cả thời phải dùng tất cả thiện xảo phương tiện gây cho mọi người đều
có tinh thần tu học Phật pháp. Phần thưởng cao quý nhất của người xuất gia là:
Mọi người thấm nhuần chánh pháp trong ý niệm và hành động.
b - Bình
đẳng và hỷ xả với tất cả mọi người:
Đạo Phật là một đạo từ bi, bình đẳng. Người xuất gia đối với mọi người
nên có thái độ “oán thân bình đẳng” không có quyền phân biệt giàu, nghèo, sang,
hèn, bà con hay xa lạ. Mặc dầu đối với kẻ khác màu da chủng tộc, nếu họ có
thiện chí học đạo, người xuất gia phải tận tâm hướng dẫn.
Đời hành đạo của người xuất gia còn
phải sẵn sàng đức tánh ôn hoà hỷ xả, xem thường sự khen chê dạn dày với mọi
hoàn cảnh thị phi trái ngược.
c - Sáng suốt và duy nhất với tôn chỉ hoằng pháp: Vấn đề hoằng pháp là một vấn đề trọng đại,
người xuất gia khi nhận lãnh trách nhiệm ấy, phải sáng suốt tiếp nhận căn cơ,
và hoàn cảnh. Không khéo “ đề hồ biến thành độc dược,vàng ngọc trở nên sỏi đá
”.
Hơn nữa, trong khi hoằng pháp, phải có sự
quy định duy nhất của đoàn thể, hay sự đồng ý của những bậc Tăng già hữu trách.
Hầu tránh nạn:“ bảy phái năm phe,hai thừa lộn xộn ” gây hoang mang cho quần
chúng.
d -
Vãn hồi chánh tín trong nhân gian: Hiện tại hình thức và tư tưởng mê tín
đang lan tràn trong dân chúng, đây là điểm rất tai hại cho đạo pháp cũng như
cho mọi người. Bổn phận người xuất gia, phải dẹp trừ những thành tích mê tín ấy
đi, vãn hồi chánh tín cho quần chúng. Nhưng phải khéo léo và ôn hoà.
đ -
Gương mẫu bình tỉnh trong mọi biến thiên của thời đại: Vì cảm nhận được ít
nhiều cuộc đời là vô thường biến dịch, nên từ bỏ thế sự, xuất gia học đạo. Danh
lợi đối với người xuất gia là chướng duyên của giải thoát, sống chết đối với
người xuất gia là một chấm nhỏ của đoạn đời vô tận. Thì thời đại biến thiên,
thay chầu đổi chợ, còn có nghĩa gì với người xuất gia? Thế nên người xuất gia
phải là gương mẫu bình tỉnh, là bàn tay thoa dịu vết thương kinh khủng cho mọi
người, trong khi đang quằn quại khổ sở trước mọi thời cuộc biến thiên.
4. Kết luận: Người xuất gia là mạch sống của
Đạo pháp, giây liên lạc mật thiết giữa Tam Bảo và mọi người, nếu không tròn bổn
phận, không những đời người xuất gia sẽ mất hết công đức pháp lạc, mà còn
thương tổn đến giá trị Tam Bảo,và gây ảnh hưởng xấu cho mọi người vậy. (Thích Đức Tâm)
NGƯỜI NHẬP ĐẠO PHẢI BIẾT VÀ THỰC HÀNH 10 ĐIỀU SAU:
1- Phải dùng trì trai giữ giới làm nền tảng
đến bậc Phật quả: Vì quả vị Phật là
chỗ thanh tịnh vô vi, nên người nào mang nặng trược khí, không làm sao đến
được.Trì trai giữ giới là để tránh nghiệp ác, cho thân khẩu ý nghiệp được thanh
tịnh, thanh lọc cơ thể, bỏ trược khí là bỏ chủng tử chúng sanh, tiếp thanh khí
là là để vun bồi chủng tử Phật tánh. Đó là điều căn bản để đến quả vị phật.
2- Tìm minh sư chỉ dạy công phu: Chúng sanh đã mê mờ nhiều kiếp, nên trôi lăn
trong sanh tử luân hồi, nếu không nhờ minh sư chỉ dạy, ắt phải lầm đường lạc
lối không thoát ra được.
3- Phải biết tâm tánh tỏ rõ rốt ráo: Học
đạo mà không biết tự tâm, không rõ tự tánh, thì chẳng khác nào như người mù đi
đêm, không đến chỗ rốt ráo được.
“Bất
thức Bổn Tâm học Đạo vô ích.
Bất
minh Tự Tánh vấn Thiền vô ích”.
Tánh
là Bản Thể bao trùm khắp pháp giới. Khi Thể đó ở trong thân thì gọi là Tâm, Tâm
mê là Vọng, Tâm giác là Chơn. Khi mê sanh tướng, khi giác về với Tánh. Hiểu
rõ Bản Tánh để đạt chỗ nhân địa thì
đường tu mới vững vàng được.
4- Phải
làm các phước lành cho gốc Đạo được sung túc:
Chúng
sanh mê mờ nhiều kiếp, tạo nhiều nghiệp ác,nay được duyên lành biết giác ngộ,
nếu không biết tu tạo phước lành, không giải nghiệp, không chuyển nghiệp được,
thì nghiệp lực sẽ lôi kéo làm chướng ngại đường tu. Tạo phước có nhiều cách như:
Cúng dường, bố thí, phóng sanh, làm lành. Phước càng tăng thì nghiệp càng nhẹ,
gốc Đạo thêm lớn.
5- Phải kết duyên lành cho gốc lành mỗi ngày
thêm lớn:
Bạn lành kết giao để học hỏi, trau giồi đức
hạnh. Kinh Pháp Cú có nói:
Gặp người trí thật tình chỉ lỗi
Nên kết thân học hỏi trau giồi
Xem như kho báu trên đời
Gần người Trí đức lành vời, dữ xa
Nhờ bạn lành mà vun bồi được cội lành ngày
càng thêm tăng trưởng. Lại có câu: “ Thân phụ thiện giả, như vụ lộ trung hành,
tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận ” Nghĩa là Gần gũi người lành như đi trong
sương móc, tuy không ước áo mà luôn luôn được êm ả mát mẻ.
6 -
Rõ nhân quả, việc làm đừng có
vọng động: Nhân quả là luật khẳng định không sai, phải hiểu rõ như thế để
tránh gieo nhân ác. Giữ thân khẩu ý không cho vọng động theo 10 điều ác.
7- Trừ
phá tà ma, xa lìa ngoại đạo: Trừ phá tà ma để giữ gìn Chánh định, xa lìa
ngoại đạo để được chánh kiến. Vì ngoại đạo có thể làm chướng duyên lành, có khi
làm ta lầm đường lạc bước mất chánh tư duy.
8-
Phải thông chân lý,chớ chấp hữu
vi: Chơn lý là Chơn thật, hữu vi là hữu hình. Mà đã là hữu hình là có hoại
diệt, phải thông chổ chơn thật để không trụ chấp vào chổ sanh diệt.
9-
Phải tinh tấn tu tập theo đức hạnh Phật: Muốn làm Phật thì phải học
Hạnh Phật. Tu tập Hạnh Phật siêng năng tinh tấn chớ để bỏ lỡ luống qua.
10- Mỗi pháp phải thông suốt rõ rệt:Thông suốt các pháp để khỏi lạc vào tà kiến. Lại có người khư khư chấp lấy, nhận giả làm chơn. Hoặc chấp vào văn tự, hoặc chấp vào trì tụng cho đủ số, hoặc nghi một vài câu nói gì của Phật rồi cho là mình chứng, mình ngộ. Như vậy chính mình nằm trong vô minh mà không biết. Hột giống không chắc,khó kết trái bồ đề. Một khi mất thân người muôn kiếp khó tìm lại.
PHẦN II. GIỚI LUẬT
Lời nói đầu
Trong
đạo Phật có ba thành phần học Phật là: 1- Học gỉả, 2-Hành giả 3- Vừa là học giả vừa là hành giả. Khi muốn
đạt được chân lý mỹ mãn. Làm người Phật tử chân chính, chúng ta phải là con
người có tư cách vừa là học giả vừa là hành giả, cái học sẽ bổ túc cho cái
hành, cái học sẽ làm cho cái hành được sáng tỏ, cái học và cái hành sẽ bổ túc
cho nhau đưa chúng ta trực nhận được lý tánh nhiệm mầu.
Môn
luật là một môn quan trọng hàng đầu của ba môn nên kinh nói: “ nhơn giới sanh
định, nhơn định phát huệ”. Thật vậy, Thiền mà không giới thì dễ dẫn đến tà
thiền. Định mà không giới dễ đưa đến tà định. Mục tiêu của người tu Phật là đạt
cho được chánh định, mới không bị lạc lối.
Mùa
an cư năm nay 2009 tại chùa Đạo Nguyên được chúng giao hướng dẫn 12 chú Sa di
về môn luật. Luật là môn khó dạy cho nên sự học đầu voi đuôi chuột có bữa học 3
vị cho nên quý chú không ghi được bài. Muốn cho quý chú có bài đầy đủ. Chú Sa
Di Quảng Ba phát tâm ghi đầy đủ và vi tính để cho quý chú có bài đầy đủ. Chúng
tôi mong rằng quý chú hãy siêng lên để khỏi phụ chúng an cư đã tin tưởng nơi
quý chú dành thời gian ưu tiên cho quý chú học, đạo hữu luôn luôn ủng hộ tứ sự
cúng dường trong ba tháng không thiếu.
Vừa
là bài giảng, bài học nên không tránh khỏi sự sơ sót việc ghi chép mong rằng
quý chú thông cảm.
Giáo thọ phụ trách
TT Thích Thiện Phương
Ý nghĩa an cư kiết hạ
Sau khi Đức Phật thành đạo và bắt đầu
thành lập Tăng đoàn ở Lộc Uyển, Ngài chưa đặt vấn đề cấm túc an cư. Sau đó Tăng
đoàn phát triển và đi truyền giáo từ xứ này sang xứ khác theo chủ trương tỳ kheo không được nghĩ dưới
gốc cây 2 đêm không ăn cơm mt nhà 2 lần. Tuy nhiên, đến mùa mưa năm thứ 9 kể từ
khi Phật lập Tăng đoàn, bị thiên tai lũ lụt, khiến cho các tỳ kheo trên đường
truyền giáo bị mất hết y bát, hoặc bị bệnh tật, các vị phải hy sinh tính mạng.
Đối trước vấn đề này, Đức Phật
mới đề ra pháp an cư trong mùa mưa. Nói
một cách khác, Đức Phật tùy theo yêu cầu
trong vấn đề tu hành mà đặt ra cách bảo quản Tăng đoàn và sức khỏe của đại
chúng. Thật vậy đi truyền đạo mà gặp phải hoàn cảnh bất lợi như vậy, nên đức
Phật phải khai phương tiện “Cấm túc an cư” để giải quyết tốt nhất đời sống tu
hành biến những điều bất lợi thành tiện lợi cho sinh hoạt Tăng chúng quy tụ lại
một trú xứ có nhiều thuận lợi về 2 mặt thể chất và tinh thần qua mấy điểm như
sau:
1-
Được gần gũi Phật nghe pháp.
2-
Các tỳ kheo có cơ hội gặp nhau trao đổi
kinh nghiệm tu học.
3-
Phật tử có cơ hội cúng dường gieo trồng
phước điền nơi Tam Bảo.
4-
Nhờ tập trung tại một
chổ mới thực hiện đực tinh thần thiểu dục tri túc.
5-
Có đủ điều kiện thúc
liễm thân tâm trau dồi giới đức, siêng tu tam vô lậu học.
6-
Nhờ có thúc liễm thân
tâm, siêng tu mà đời sống đạo hạnh được thăng hoa.
Thúc
liễm thân tâm, chính yếu là thúc liễm thân tứ đại và vọng tâm. Nhờ thúc liễm
thân tâm mà giữ gìn được giới và hoàn thiện các oai nghi, tế hạnh. Lần lần
từ giới này chuyển thành đức và dùng đức hạnh ấy để cảm hóa người. Người tu mà
không có đức hạnh thì không phải chân chính đệ tử của Phật. Nhờ kết hợp thân
tâm và trau dồi giới đức, nên tâm được an tịnh, tức tập trung tư tưởng và từ đó
trí huệ được phát sinh.
Nhờ
có pháp an cư chúng ta mới cắt được các duyên vụ để tập trung quán sát lại thân
và hoàn cảnh mình sống, tạo được mt cuộc sống có ý nghĩa. Kế đến là biết đặt
mình vào hoàn cảnh, thấy rõ vị trí, việc làm của mình không để phiền não dẫn
dắt và nô lệ cho vọng tâm.
Tóm
lại trong mùa an cư ba tháng về mặt tu thân khắc phục được thời tiết chi phối
của thiên nhiên. Về tâm lý khắc phục được vọng tâm, phát huy tâm thức dến tầm
cao mới, không bị các phiền não sai sử, được thể nhập vào dòng thánh đồng thời
là chỗ nương tựa và phát tâm gieo duyên vào ruộng phước phật tử tại gia. Người
tu hành hoàn thành được hai lĩnh vực tâm lý vật lý đúng theo tinh thần tam vô lậu
học thì báo đáp tứ ân không cô phụ công ơn thầy tổ, không phụ lòng tin của đàn
na tín chủ phát tâm cúng dường tứ sự để
cho chúng ta yên tâm tu học.
Ý nghĩa của giới
Giới
có nghĩa là luật,điều phục, diệt, hệt giải thoát
Giới
có 4 tên gọi bằng tiếng Phạn
1/
Tỳ Ni còn gọi Tỳ nại da. Hán dịch là luật: diệt, điều phục, thiện trị v.v...Luật nghĩa
là pháp ràng buộc bằng phép tắc gọi là luật. Diệt là diệt nghiệp quấy, diệt
phiền não. Điều phục là điều phục 3 nghiệp, ngừa quấy ngăn lỗi –Thiện trị là có
công năng chữa trị bệnh nặng 3 độc.
2/ Ba
la đề Mộc xoa: Hoặc gọi tắc là mộc xoa.
Hán dịch là giải thoát, biệt giải thoát,
lại có nghĩa tri túc, có nghĩa tịnh mạng, thành tựu oai nghi, hoặc có nghĩa là
đọa.
Thành tựu oai nghi, không thọ nhận chứa
để vật gì, cũng có nghĩa là Tịnh mạng. Đọa chỉ cho 4 đường ác. Đọa là nơi vào
địa ngục –cho đến địa ngục A Tỳ. Đọa là nuôi lớn địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ ;
vì các nghĩa này nên gọi là đọa.
Ba la đề mộc xoa là dứt bỏ nghiệp tà vạy,
không tốt của thân, miệng, ý. Luật là thực hành oai nghi của giới, hiểu sâu
nghĩa mầu của kinh, ngăn ngừa những vật bất tịnh và nhân duyên bất tịnh, cũng
ngăn ngừa không phạm 4 giới trọng và các học giới khác v.v...
Giới có nghĩa là giải thoát, là tối thắng vì
thực hành giới thì sẽ được giải thoát.Vì sao gọi là tối thắng? vì là cội gốc
của các điều lành chính là giới, từ giới này phát sanh ra các điều lành cho nên
gọi là thắng nghĩa. Lại có 2 thứ giới, là giới thế gian và giới xuất thế gian.
Giới thế gian có công năng làm nhân cho giới xuất thế gian nên gọi là tối thắng.
3/
Thi la: Hán dịch là giới, là
pháp cấm ngăn, tức là luật. Thi la còn có nghĩa là Thanh Lương, nghĩa là mát
mẻ, vì điều ác làm cho thân tâm nóng bức, khổ não. Còn giới thì làm cho an vui,
dứt hết khổ não nên gọi là mát mẻ. Điều ác có công năng chiêu cảm lấy sự nóng
bức, khổ não trong đường ác, còn giới có
công năng chiêu cảm đường lành nên gọi là mát mẻ.
Thi
la còn có nghĩa là ngủ yên, người giữ giới ngủ yên ổn, thường gặp mộng lành,
nên gọi là Thi La. Thi la lại có nghĩa là thường huân tập pháp lành nên gọi là
Thi La.Thi La cũng có nghĩa là được tịnh, vì giữ giới tâm dễ được tịnh gọi là
Thi la. Thi La lại có nghĩa là bực thềm,
như bài kệ nói:
Ao
Phật mát mẻ
Thi
La là bực thềm
Bậc
thánh tắm không ướt
Công đức đến bờ kia.
Thi
La lại có nghĩa là vật làm đẹp, có vật làm đẹp với trẻ con mà không hợp với
người lớn và người già, có vật làm đẹp với người lớn nhưng không hợp với trẻ
con và người già, có vật làm đẹp với người già nhưng không hợp với trẻ con và
người lớn. Chỉ có vật làm đẹp Thi La là hợp với cả 3 thế hệ như bài kệ nói:
“
Thi la vật làm đẹp – Hợp cả trẻ lớn già
Được
tín huệ là quý – phước không ai trộm được.”
Thi
La lại có nghĩa là chiếc gương sáng, như chiếc gương sáng sạch bụi thì hình
bóng mọi vật đều hiện ra trong đó, sống với Thi La thanh tịnh thì hình bóng vô
ngã hiện ra. Thi la lại có nghĩa là thềm thang như tôn giả Vô Diệt nói: “Ta
bước trên thềm Thi la, để lên điện vô thượng huệ”. Thi La lại có nghĩa là tăng
thượng. Đức Phật có oai thế trong tam thiên đại thiên thế giới đều nhờ năng lực
của Thi La. Thưở xưa nước Ca Thấp Di La có một con rồng dữ bản tánh hung ác
thường hay phá hại. Cách chổ rồng ở không xa
có một ngôi chùa, chùa này thường bị rồng quấy nhiễu. Trong chùa có 500
vị A la Hán, các vị này bàn với nhau phải nhập định để đuổi con rồng ấy đi,
nhưng các Ngài dùng hết thần lực của mình mà không dời nó đi được. Bấy giờ có một
Vị A la hán từ nơi khác đến, các vị tăng ở lâu trong chùa mới kể lại việc rồng
quấy nhiễu cho vị tăng ấy nghe, vị ấy liền đến chổ rồng ở, búng ngón tay và bảo
rằng: “ Rồng ơi ! hãy đi cho thật xa”. Rồng nghe vị A La hán ấy liền bỏ đi thật
xa. Các vị A la hán thấy vậy lấy làm lạ hỏi rằng: Ngài đuổi con rồng ấy bằng
định lực gì vậy? Vị A la hán này đáp: “Tôi không nhập định, cũng không vận dụng
thần thông, chỉ giữ gìn Thi La cho nên có năng lực ấy. Tôi giữ giới khinh, như
giới trọng, cho nên khiến rồng dữ sợ hãi mà bỏ đi” do đó mà Thi la có nghĩa là
tối thượng.
Thi
la còn có nghĩa là cái đầu, nếu có đầu thì thấy được hình sắc, nghe được âm
thanh, ngửi được mùi hương, nếm được các vị, cảm giác được xúc chạm và biết
được các pháp. Người giữ gìn Thi La thì sẽ thấy được sắc của 4 Thánh Đế, nghe
được những âm thanh chưa từng nghe như danh thân v.v..ngưởi được mùi hoa của 37
phẩm phần giác, nếm được chất vị vắng lặng của trí tuệ giác ngộ của người xuất
gia lìa 5 dục, cảm giác được sự xúc chạm với tỉnh lự giải thoát đẳng trì đẳng
chí và biết được pháp tự tướng, cộng tướng của uẩn, xứ, giới. Cho nên Thi la có nghĩa là cái đầu.
Giới Thể
Giới Thể là khả năng “ Phòng phi chỉ ác”
phát sanh tiềm tàng trong bản thân giới tử khi lãnh thọ giới pháp, xưa gọi là
giới thể vô tác nay gọi giới thể vô biểu. Từ giới thể vô biểu, khả năng phòng
phi chỉ ác của thân nghiệp và khẩu nghiệp được biểu hiện thành giới hạnh.
Biểu là phơi bày ra, làm cho thấy được. Như
tâm sân khi chưa biểu hiện thì nó tìm ẩn trong tâm dưới dạng chủng tử, nhưng đến
khi hội đủ nhân duyên (gặp cảnh nghịch ) thì nó phát sanh làm cho người ta đỏ
mặt, tía tai, trợn hai con mắt, hoa tay múa chân. Khi thọ giới, giới tử quỳ
trước giới sư, thân tâm cung kính, nói lời phát nguyện, thì ngay lúc ấy một nguồn năng lượng phát
sanh và vận chuyển trong tâm làm cho giới tử bắt đầu trở thành một con người
khác, không phải khác hẳn, nhưng nó đã làm thay đổi quan điểm, thái độ cuộc
sống của giới tử. Nguồn năng lượng ấy là giới thể. Khi giới thể thành tựu, tự
nhiên các oai nghi hành, trụ, tọa, ngoạ đều phù hợp với luật nghi, nên giới thể vô biểu còn được gọi là luật
nghi vô biểu.
Theo Hữu bộ, giới thể vô biểu là một loại vô
biểu thiện sắc pháp. Lấy sắc làm giới thể, vì Hữu bộ cho rằng các nguồn năng
lượng giới thể vô biểu được sanh ra trong khi thọ giới ấy là do giới tử có
những hành vi biểu hiện rõ ràng nơi thân nghiệp và khẩu nghiệp, như thân cung
kính quỳ lạy, miệng trả lời các câu hỏi của giới sư và nói lời phát nguyện thọ
trì giới pháp. Mà thân và khẩu là sắc
pháp nên giới thể sanh ra từ sắc pháp ấy cũng là sắc pháp, chỉ có điều là sắc
pháp ở đây không phải là biểu sắc mà là vô biểu sắc.
Theo
phái Đại thừa Duy thức, thì giới thể lại là tâm pháp, các nhà Duy thức học cho
rằng khi thọ giới, do tư tâm sở phát động tạo ra hạt giống thọ giới và trì giới
trong tàng thức. Hạt giống này sau khi huân sanh (khi tâm tư sở phát động) lại
lần lượt huân trưởng. Qua tác động của việc trì giới làm phát sanh hiện hạnh có
công năng phòng phi chỉ ác. Các nhà Duy thức chia sự hoạt động của tư tâm sở ra
làm ba giai đoạn. Thẩm tư lự là giai đoạn suy nghĩ tính toán. Quyết định tư là
giai đoạn quyết định vấn đề có nên thực hiện hay không. Và phát động tư là giai
đoạn thực hiện vấn đề sau khi quyết định.
Khi
hành vi lãnh thọ giới pháp được phát động trước tam sư thất chứng, tư dĩ nghiệp
có nghĩa là đã thành giới thể. Tư dĩ nghiệp này có nguồn gốc là tư nghiệp tức
là thẩm lự tư và quyết định tư. Nói tóm lại hành vi lãnh thọ giới pháp làm phát
sanh nguồn năng lượng giới thể trong giới tử được bắt nguồn từ tư tâm sở, nên
phái đại thừa Duy thức chủ trương giới thể là Tâm pháp.
Theo
Thành Thật luận thì giới thể là pháp phi sắc phi tâm, vì giới thể không có hình
chất, không trông thấy được nên là phi sắc, nhưng nó cũng không có khả năng
duyên lự nên gọi là phi sắc phi tâm, nó chỉ là nguồn năng lượng tiềm tại ngấm
ngầm bên trong có tác dụng giúp hành giả luôn luôn sống trong trong tư thế
phòng phi chỉ ác. Dù được nhìn dưới quan điểm của bộ phái nào thì giới thể cũng
là một nguồn năng lượng tiềm tàng bên
trong hành giả được thành tựu ngay sau khi thành tâm lãnh thọ giới pháp và sau
đó nó trở thành công năng giúp hành giả luôn luôn sống đúng giới luật.
Tuy các học phái có những quan điểm
khác nhau về bản chất của giới thể vô biểu nhưng đều đồng nhất với nhau về khả
năng phòng phi chỉ ác của nó, cho nên trong việc truyền giới thọ giới tất cả
các học phái đều coi trọng. Nếu nghi thức truyền thọ không đủ sức mạnh phát
sanh giới thể vô biểu, thì không những lời truyền thọ của giới sư không có hiệu
lực hướng dẫn người thọ giới chấp hành nghiêm túc giới điều đã thọ. Giới thể do
đó được coi là bản chất tồn tại của giới, có người sau khi đã thọ giới rủi gặp
phải nhân duyên phương tiện gần như phá giới mà vẫn có thể tự đấu tranh để bảo
vệ được sự thanh tịnh thì đó là nhờ công năng phòng hộ của giới thể. Giới thể
như vậy là căn bản quyết định của sự thọ giới và trì giới.
DANH CHỦNG CỦA GIỚI
Để
nắm vững cương yếu của giới luật, các luật sư xưa thường khảo sát ý nghĩa của
giới luật ở nhiều phương tiện khác nhau nên có những tên gọi và chủng loại khác
nhau.
I/ Phân biệt giới và luật
Hai
từ “Giới” và “Luật” thường đi chung với nhau làm thành một từ tố “Giới Luật”
khiến mgười ta thường đồng nhất hóa nghĩa của hai từ này, cho rằng giới là luật
và luật là giới. Thực chất hai từ này có nghĩa khác nhau. Nguyên trong gốc
tiếng Phạn chúng ta đã có ngữ âm, ngữ hình, ngữ nghĩa khác nhau xa. Giới:
Paratimaka. Luật: Vinaya, có giới chưa hẳn đã có luật, nhưng hễ có luật thì đã
có giới vì luật bao gồm giới, cho nên trong tam tạng kinh điển chỉ có luật tạng
mà không có giới tạng.
Có
thể xem giới như tướng vị thuốc còn luật là một phương thang, thường dùng để
chữa căn bệnh phiền não trầm kha. Có nhiều phương thang dùng để chữa từng loại
căn bệnh khác nhau, phương thang ngũ vị dùng để hạn chế tâm tham đắm ngũ dục
của người Phật tử tại gia. Phương thang bát vị là loại thuốc bổ dùng cho người
cư sĩ học hạnh xuất gia. Phương thang 10 vị dùng để chữa bệnh giải đãi phóng dật
làm cho lớn thêm đức tinh tấn vắng lặng và từ bi của các vị sa di. Phương thang
250 vị dùng đối trị phiền não kiết sử hòan thành tư cách đời sống phạm hạnh
của một Tỳ kheo.
Tóm
lại, giới là các điều răn cấm, luật là các nguyên tắc áp dụng thi hành các điều
răn cấm ấy, đồng thời cũng để điều chỉnh sửa sai khi các điều răn cấm bị áp
dụng lệch lạc. Trong đó luật thì không biết cách giữ giới và nếu có vi phạm thì
không biết cách sám hối. Như vậy giới là chỉ trì, còn luật là tác trì. Giới
luật tuy nhiều nhưng khi áp dụng thc hành thì không ngoài hai phương tiện chỉ
trì và tác trì.
II/ Bốn khoa của giới
Giới được chi
làm bốn khoa: Giới pháp, giới thể, giới hạnh và giới tưởng.
1.
Giới pháp: Giới cũng là pháp được Đức Phật
nói ra nên được gọi là giới pháp. Giới pháp còn chỉ cho các loại giới: Giới Tỳ
kheo, giới Tỳ kheo ny, giới Sa di, Sa di ny... như thế giới pháp cũng có nghĩa
là giới phẩm.
2.
Giới thể: Khi lãnh thọ giới pháp, giới tử đối
trước giới sư thân tâm cung kính phát nguyện thọ trì mà trong thâm tâm phát sinh
tư niệm về việc giữ giới. Tư niệm ấy là
giới thể. Thọ giới là thọ nhận cái thể của giới do sự phát tâm sinh ra, và nếu
được như vậy gọi là giới thể thành tựu.
3.
Giới hạnh: Đã có giới thể các hành vi của
thân và miệng sẽ điều chỉnh theo đúng giới luật . Nói cách khác mọi lời nói,
mọi việc làm đều đúng theo giới luật là giới hạnh.
4.
Giới tưởng: Tưởng trạng khác biệt của giới.
Đây là các điều răn cấm trong từng loại giới phẩm. Thuật ngữ của luật tạng gọi
giới tưởng là học xứ.
III/ Thông giới biệt giới
1.
Biệt giới: Là giới thanh văn, tức là giới
xuất gia hàng tại gia không được thọ, lại nữa trong giới xuất gia thì có giới
Tỳ kheo, Tỳ kheo ny, Sa di, Sa di ny riêng biệt. Sa di không thể cùng chung với
Tỳ kheo, đó là biệt giới.
2.
Thông giới: Là giới Bồ tát, ai cũng thọ được
không phân biệt tại gia hay xuất gia, không phân biệt giai cấp, tình phái,
chủng tộc, nghề nghiệp, tình trạng sức khỏe... thậm chí các loài quỷ thần, phi
nhân, súc sanh cũng được thọ giới với một điều kiện duy nhất và rộng rãi đó là giới
tử phải hiểu được điều nói của giới sư khi thọ giới. Nên gọi là thông giới. Đặc
điểm của thông giới là khi đã lãnh thọ thì đến tận vị lai tế cũng không mất,
khác với biệt giới chỉ thọ trong một đời gọi là tận hình thọ, thậm chí có loại
giới chỉ thọ trong một ngày một đêm như giới bát quan trai.
IV/ Bốn cú nghĩa của thừa giới
Thừa
là học tập pháp, giới là thọ trì giới. Tùy thuộc vào quan điểm lập trường trong
khi hành trì tu tập pháp và luật của hành giả mà thừa giới được chia thành bốn
cú nghĩa: Giới cấp thừa hoãn, thừa cấp giới hoãn, thừa giới cao cấp và thừa
giới câu hoãn.
1.
Giới cấp thừa hoãn: Đây là chủ trương của
những người lấy việc nghiêm trì giới luật làm đầu, còn việc thâm nhập kinh tạng
để phát sanh trí tuệ đi sau gọi là giới cấp thừa hoãn, như ngài Ưu Ba Ly.
2.
Thừa cấp giới hoãn: Đây là chủ trương của
những người lấy việc học tập kinh điển để mau minh tâm kiến tánh làm đầu mà
không đặt nặng sự hành trì giới luật, như ngài Duy Ma Mật.
3.
Thừa giới cao cấp: Đây là chủ trương
cùng tu tập song hành cả pháp và luật để cho hương giới định huệ đồng thời tỏa
ngát mười phương, như các vị Bồ Tát.
4.
Thừa giới câu hoãn: Đây là một lối sống
giải đãi, phóng dật lần lựa qua ngày, hạng người này không có gì đáng nói.
V/ Giới tánh giới giá
1.
Tánh giới: là những giới được áp dụng để
ngăn ngừa tánh tội. Tánh tội là những hành vi mà tự bản thân nó là tội lỗi như:
giết người, cướp của, tà dâm, nói dối. Không có luật pháp nào cho phép người ta
được nói dối, giết người cướp của, dâm dật vì những hành vi ấy là tội ác, ở
đâu, nơi đâu, thời nào bốn việc trên xã hội nào cũng lên án kết tội.
2.
Giá giới: Là những giới có tác dụng ngăn ngừa hành vi giá tội. Giá tội là những
hành vi mà tự bản thân nó chưa hẳn là tội lỗi cần phải được ngăn ngừa, vì nó có
thể là nguyên nhân gây ra tội lỗi. Như uống rượu say, không phân biệt được phải
trái, thường hành động theo bản năng độc ác của mình, có thể gây ra tội giết
người, nói dối, dâm dật... Mặt khác, giá giới cũng nhằm ngăn chặn sự cơ hiềm
(chê cười) của dư luận xã hội như các giới cấm không cho tham dự vào các trò
chơi thế sự như cờ bạc, cá độ, đi đêm để tránh sự chê bai đàm tiếu.
KHÁI LƯỢC VỀ GIỚI
I. Định nghĩa
Chữ giới: Pali gọi là Si la phiên âm Thi La,
dịch nghĩa là giới, là những điều răn cấm do đức Phật chế định cho hàng đệ tử
xuất gia và tại gia, dùng để ngăn ngừa tội lỗi của ba nghiệp, do thế giới được
định nghĩa là:
- Phòng phi chỉ
ác: Ngăn ngừa điều sai trái, chặn đứng việc xấu ác.
- Biệt biệt giải
thoát: Giữ được giới nào giải thoát được giới đó.
-
Xứ xứ giải thoát: Nơi nào giới luật được tuân thủ, thì nơi ấy cuộc sống được
thanh thoát.
- Tùy thuận giải
thoát: Hướng về con đường giải thoát.
- Thanh lương:
Làm cho cuộc sống mát mẻ thỏa mái.
- Chế ngự: Có
năng lực kiềm chế những việc xấu.
Đó
là định nghĩa tổng quát về giới. Còn luật chữ Phạn gọi là Vinaya, phiên âm là
Tỳ Nại Gia, nói gọn là Tỳ Ny, dịch nghĩa là điều phục, chế ngự, nhiếp phục,
diệt trừ điều ác......Như vậy, luật là những nguyên tắc do Phật quy định, cho
Tỳ kheo, Tỳ kheo ny áp dụng trong cuộc sống tập thể Tăng đoàn. Nó có công dụng
như những hướng dẫn cần thiết để nghiên trì giới cấm, đồng thời là những phương
thức xử lý hữu hiệu các sự vi phạm giới pháp. Nếu nói một cách tách bạch thì
luật bao gồm cả giới, còn giới chỉ là một bộ phận của luật. Nhưng nói một cách
khái quát thì Giới luật tuy gọi khác nhau mà cùng chung một tính chất, vì thế
có tên ghép là Giới luật.
II. Phân loại giới luật:
Nếu
đứng trên lập trường phóng khoáng, nhìn nhận quá trình phát triển của Phật giáo
từ khởi thủy đến hiện tại, thì ta có thể phân chia giới luật ra làm hai loại:
Giới Thanh văn và Giới Bồ Tát.
1.
Giới thanh văn: Loại này có cách phân chia theo
công dụng tính chất và phương diện.
ò Về công dụng:
Giới được chia thành hai loại là: Chỉ trì và Tác trì.
a/
Chỉ trì: Không làm việc bất thiện chính là chỉ trì. Đây chỉ cho các loại giới
bổn Tỳ kheo, Tỳ kheo ny.
b/
Tác trì: Thực hiện các điều Phật quy định tức là hành trì. Đây chỉ cho các kiền
độ, các pháp yết ma.
ò Về tính chất:
Giới được chia thành hai loại: Tánh giới và Giá giới.
a/
Tánh giới: Tính chất của việc đó là giới, nghĩa là việc đó nếu vi phạm thì có
tội (dù Phật có chế định hay không chế định ) Ví dụ như sát sanh, trộm cắp, tà
dâm, nói dối thì chuốc lấy quả báo xấu. Bốn giới căn bản của Phật giáo là Sát
sanh, Trộm cắp, Tà dâm, Nói dối. Bốn giới này gọi là tánh giới.
b/
Giá giới: Những điều ngăn cấm để khỏi dẫn đến phạm các trọng tội. Ví dụ như
Uống rượu, Tích trữ vàng bạc v.v...Những việc này bản thân nó không có tội,
nhưng chúng là những nguyên nhân làm lũng đoạn tinh thần, rồi dẫn đến vi phạm
các tội ác khác. Loại giới này gọi là thế gian cơ hiềm giới.
ò Về phương diện:
(hay khoa) Giới được chi thành bốn loại: Giới pháp, Giới thể, Giới hạnh và Giới
tướng.
a/ Giới pháp:
Những điều do Phật chế định.
b/
Giới thể: Bản thể của giới. Giới thể này phát sanh khi thọ giới cụ túc và chi
phối giới tử suốt đời. Loại này thành tựu nhờ ba nhân tố: Giới tử chí thành,
giới sư thanh tịnh, giới đàn trang nghiêm.
c/
Giới hạnh: Các hành vi của ba nghiệp hoạt hiện ra ngoài phù hợp với giới pháp.
d/ Giới tướng:
Các tướng trạng của giới.
Các luật sư chia
giới bổn Tỳ kheo, Tỳ kheo ny thành 5 thiên và 7 tụ:
Năm
thiên:
1. Thiên Ba La
Di: Các tội nghiêm trọng.
2. Thiên Tăng
Già Bà Thi Sa: Các tội tương đối nghiêm trọng.
3. Thiên Ba Dật
Đề: Các tội nhẹ hơn hai khoản trên.
4. Thiên Đề Xá
Ni: Các tội thuộc về ăn uống.
5. Thiên Đột
Kiết La: Các tội thuộc về oai nghi.
Bảy
tụ:
1. Tụ Ba La Di
2. Tụ Tăng Già
Bà Thi Sa.
3. Tụ Thâu Lan
Giá: Các tội liên quan đến hai khoản trên mà nhẹ hơn.
4. Tụ Ba Dật Đề.
5. Tụ Đề Xá Ni.
6. Tụ ác tác:
Những ác hạnh thuộc về thân.
7. Tụ ác thuyết:
Những ác hạnh thuộc về miệng.
Ngoài ra còn có
lối phân chia qua các tên gọi như:
-
Khai: Mở ra, nghĩa là thầy Tỳ kheo không được uống rượu, nhưng nếu có bệnh,
thầy thuốc bảo phải uống thuốc hòa với rượu mới chữa khỏi, thì được phép uống
rượu để chữa bịnh.
-
Giá: Ngăn lại, nghĩa là thầy Tỳ kheo sau khi khỏi bịnh thì ngăn cấm không cho
dùng rượu thuốc nữa.
- Trì: Là tuân
thủ nghiêm ngặt.
- Phạm: Là vi
phạm.
- Danh: Tên gọi
của giới.
- Chủng: Là
chủng loại của giới.
- Tánh: Tánh
chất của giới.
- Tướng: Tướng
trạng của giới.
2.
Bồ Tát Giới: Về Bồ Tát giới đại khái có các
cách chia sau đây: chia theo tính chất, khinh trọng và ứng dụng.
ò Về tính chất:
Được chia thành ba loại gọi là Tam tụ tịnh giới, đó là:
a/
Nhiếp luật nghi giới: Bao gồm các giới bản. Đây thuộc về “ Chư ác mại tác “
(không làm các việc ác)
b/
Nhiếp thiện pháp giới: Bao gồm các việc thiện. Đây thuộc về “ Chúng thiện phụng
hành “ (siêng làm các việc thiện).
c/
Nhiếp chúng sanh giới: (Nhiêu ích hữu tình giới) Làm các việc lợi ích cho chúng
sanh.
ò Về khinh trọng:
Được chia thành hai loại:
- Mười giới
trọng: Mười giới nặng.
- Bốn mươi tám
giới khinh: Bốn mươi tám giới nhẹ.
ò Về ứng dụng: Chia thành hai loại:
a/
Định cọng giới: Do tu tập thiền định, tự nhiên thân tâm thanh tịnh, giới hạnh
đầy đủ, nghĩa là người tu thiền định khi phát sanh hiệu quả, không cần thọ giới
mà vẫn sống phù hợp với giới pháp.
b/
Đạo cọng giới: (vô lậu giới) Do tu vô lợi nghiệp, phát sanh trí tuệ, không cần
thọ giới mà đời sống vẫn phù hợp với giới pháp.
III. Vị trí của giới luật:
Toàn
bộ giao pháp của Phật được chia thành ba tạng, gọi là ba Tạng thánh giáo, thì
giới luật chiếm một tạng, gọi là Luật Tạng. Trong ba vô lậu học, ba trọng tâm
đưa đến giải thoát, thì giới chiếm vị trí hàng đầu.
Giới
luật chính là thọ mạng của Phật pháp (Tỳ ny tạng thị Phật pháp chi thọ mạng)
như các quyển giới bổn thường nói đến. Hoặc nói: “Tạng luật còn thì Phật pháp
tồn tại, tạng luật mất thì Phật pháp tiêu vong “ (Tỳ ny tạng trụ, Phật pháp
diệt trụ, Tỳ ny tạng diệt, Phật pháp diệc diệt) Giới luật cũng là người đại
diện cho Phật, như đức Phật đã dạy trong kinh Di Giáo: “ Nhữ đẳng Tỳ kheo, ư
nhã diệt hậu, đương tôn kính, trân trọng Ba La Đề Mộc Xoa, như ám ngộ minh, bần
nhân đắc bảo, đương tri thử tắc thị nhữ đẳng đại sư. Nhược ngã trụ thế, vô dị
thử dã” (Này các Tỳ kheo, sau khi ta nhập diệt, các thầy phải tôn kính, trân
trọng giới luật, như người mù mà được mắt sáng, người nghèo mà được châu báu,
phải biết rằng giới luật là vị đại sư cao cả của các thầy. Nếu ta còn sống ở
đời thì chẳng khác nào giới luật này).
Ngoài ra, trong quyển Trùng Trị Tỳ Ni Sự
Nghĩa Tập Yếu, Ngài Trí Húc cũng minh định rằng: “ Năm phần pháp thân đều y cứ
vào giới, ba môn vô lậu học, lấy giới làm đầu. Không một đức Phật nào không đủ
giới thể, không một vị Bồ Tát nào không tu giới Ba La Mật, không một kinh điển
nào không đề cao giới pháp, không một bậc thánh hiền nào không giữ giới hạnh
trang nghiêm. Giống như đất, tất cả thiện pháp đều từ đó mà sinh trưởng. Giới
luật như thành quách, hành giả dựa vào đó mà xa lìa được ma chướng”.
IV. Những lợi ích của giới luật:
Ở
phần dẫn nhập của các bộ Quảng luật thường đề cập đến 10 lợi ích của giới như
sau:
1. Để nhiếp phục tăng chúng.
2. Để tăng chúng được hoan hỷ.
3. Để tăng chúng
được sống an lạc.
4. Để chiết phục
những người không biết hổ thẹn.
5. Để những
người biết hổ thẹn được sống yên ổn.
6. Để những
người chưa tin phát sanh lòng tin.
7. Để những
người đã tin càng thêm tin tưởng.
8. Để diệt trừ
các lậu hoặc (ô nhiễm) trong hiện tại.
9. Để ngăn ngừa
các lậu hoặc trong tương lai.
10. Để cho chánh
pháp được tồn tại lâu dài.
Đồng thời kinh
Trường bộ cũng nêu ra năm lợi ích của giới:
1. Người có giới
đức sẽ hưởng được gia tài pháp bảo, nhờ tinh tấn.
2. Người có giới
đức được tiếng đồn xa.
3. Người có giới
đức không sợ hãi rụt rè khi đến các hội chúng đông đúc.
4. Người có giới
đức sau khi mệnh chung được sanh thiện thú thiên giới.
V. Những ví dụ về giới luật:
Để nói về tính chất ưu việt của giới
pháp, các bản nghi thức truyền giới thường nêu những ví dụ “ Giới như đám đất
tốt, muôn hạt giống lành từ đất mà sanh ra, giới như thuyền bè đưa người qua bể
khổ, như chuỗi ngọc châu anh lạc trang nghiêm pháp thân “ Hoặc nói: “ Độ khổ
hải chi châu hàng, di sinh nhai chi thê đăng “ (Giới như thuyền bè đưa người
qua bể khổ, là thênh thang bắt qua bờ sanh tử ). Nhưng câu phổ biến nhất là:
“Giới như bộ áo giáp kiên cố để bảo vệ sự tấn công của lục trần”. Ngoài ra nếu
một người phạm giới do lợi dưỡng, tiếng
khen, hay bị dục vọng sai khiến, thì gọi là giới bị rách nát, như tấm vải bị
cắt bỏ ở ngoài biên. Nhưng nếu vị ấy phạm giới trong lúc đang tu học tiến bộ,
thì gọi là giới bị lủng, như tấm vải bị cắt ở giữa. Khi người phạm giới liên
tục 2, 3 lần thì gọi là giới bị hoen ố, như một con bò đen bỗng có một mảng
lông khác màu trên mình. Khi vị ấy phạm giới thường xuyên thì gọi là giới bị
lốm đốm, như một con bò màu vàng lại có nhiều đốm trắng khắp mình. Người xuất
gia thọ dụng bốn vật cúng dường liên quan đến việc trì giới có các ví dụ: Dùng
như kẻ trộm, dùng như kẻ mắc nợ, dùng như
kẻ hưởng gia tài tổ tiên, dùng như người chủ. Một người không có giới
đức sử dụng bốn vật cúng dường, được gọi là dùng như kẻ trộm. Một người có giới
mà không chân chánh cảnh giác trong khi dùng bốn vật cúng dường thì gọi là dùng
như kẻ mắc nợ. Trái lại sử dụng bốn vật cúng dường để đạt được 7 bậc hữu học (
4 đạo, 3 quả) thì gọi là dùng như hưởng gia tài tổ tiên, vì họ là những người
con của Như Lai, họ dùng những vật dụng như thừa hưởng gia tài của cha mẹ để lại.
Thế nhưng, một vị đã đoạn trừ hết phiền não, không còn bị các dục vọng sai
khiến thì dùng các vật cúng dường như người chủ.
VI. Sự Uyển Chuyển Của Giới Luật:
Trong lần kết tập pháp tạng lần thứ
nhất, sau khi Tôn giả Ưu Ba Ly tụng lại các giới, các vị trưởng lão phân vân về
tính thiết thực của một số giới điều nhỏ nhặt.
Bây giờ Tôn giả A Nan liền thưa với đại
hội: “ Ngã thân tùng Phật văn, ức trì Phật ngữ, tự kim dĩ khứ, vị chư tỳ kheo,
xả tạp toái giới “ ( Bản thân tôi từng nghe và nhớ rõ những lời Phật đã dạy: Từ
nay trở đi, Ta vì các Tỳ kheo, bỏ bớt những giới nhỏ nhặt ). Thế rồi Tôn giả Ca
Diếp hỏi A Nan, Phật có xác định những giới nào là nhỏ nhặt có thể bỏ được hay
không, thì Tôn giả A Nan bảo là Phật không cho biết. Do đo, Ca Diếp lý luận
rằng: “ Nếu giờ đây chúng ta tùy tiện bỏ bớt những giới điều do Phật chế thì
ngoại đạo sẽ chê bai “. Pháp của Sa môn Thích tử giống như mây khói, khi thầy
còn sống thì những pháp do thầy chế định, các đệ tử tuân thủ một cách nghiêm
túc, nhưng sau khi thầy nhập Niết bàn, họ không chịu thực hành nữa. Vì thế, để
tránh sự đàm tiếu của người ngoài trong hiện tại cũng như trong tương lai, Ca
Diếp quyết định: “Tự kim dĩ khứ, ưng cọng lập chế, Nhược Phật tiên sở bất chế,
kim bất ưng chế, Phật tiên sơ chế, kim bất ưng khước. Ưng tùy Phật sở chế nhi
hành” ( Từ nay trở đi, chúng ta cùng nhau lập ra quy ước, nếu những gì trước
đây Phật không chế định, thì nay không nên đặt ra. Những gì trước đây Phật đã
chế định thì nay không nên loại bỏ, mà tùy nghi tuân thủ những gì do Phật đã chế
). Và ý kiến này đã được đại hội nhất trí tán thành. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn
thấy đây chỉ là giải pháp dung hòa, có tính chất uyển chuyển, chứ không mang
tính chất bắt buộc. Vì thật ra, vấn đề này ở một chỗ khác đức Phật cũng đã giải
thích khá rõ: “ Tuy thị ngã sở chế nhi ư dư phương bất dĩ vi thanh tịnh giả,
giai bất ưng hành. Tuy phi ngã sở chế nhi ư dư phương tất ưng hành giả, giai
bất đắc bất hành “ (Tuy là những điều do ta chế định, nhưng đối với những nơi
khác không cho là hợp lý, thì những điều đó không nên làm. Tuy là những điều
không do ta chế định, nhưng đối với những nơi khác bắt buộc phải làm, thì không
thể không làm ).
Ngoài ra, trong lần kiết tập pháp tạng
lần thứ hai có một số vấn đề giới luật gây ra tranh luận, thì Tôn giả Ly Bà Đa
- một trong những vị chủ trì cuộc kiết tập - cũng đã đưa ra một giải pháp chiết
trung: “ Nhược quan Tu Đa La, Tỳ Ni, kiểm hiệu pháp luật, dữ Tu Đa La tương
ưng, dữ pháp luật tương ưng, bất vi bản pháp, nhược dĩ tác, nhược vi tác, ứng
tác “ ( Nếu xem xét và đối chiếu với kinh, với luật mà phù hợp với kinh, với
luật, không trái với những nguyên tắc căn bản, thì những gì đã làm ta cứ tiếp
tục, những gì chưa làm ta cứ làm ).
Như vậy, giới luật hiển nhiên không phải
là những giáo điều khô cứng, bất di bất dịch, mà là những nguyên tắc hướng dẫn
cuộc sống trở nên tốt đẹp, nó vừa có tính khế lý mà cũng khế cơ và đồng thời
luôn uyển chuyển và sinh động. Đây là những di huấn của đức Phật và của các vị
trưởng lão tiền bối như chúng ta đã thấy.
Tóm lại, qua những trình bày trên, chúng
ta đã hiểu về ý nghĩa sự phân loại, vị trí, lợi ích, các ví dụ và sự uyển
chuyển của giới luật một cách tổng quát. Theo tinh thần chân chính của giới
luật thò đó là những nguyên tắc chỉ đạo tối ưu để giúp hành giả, sống một cuộc
đời thánh thiện phù hợp với chân lý, đạt đến an vui, giải thoát. Thế nhưng,
hiện nay chúng ta đang tuân thủ một loại giới luật do đức Phật - người Ấn Độ -
chế định cách đây 25 thế kỷ, mà không gian, thời gian khác nhau, trình độ hoàn
cảnh bất đồng, phong tục tập quán mỗi nơi mỗi khác. Do vậy, chắc chắn có một số
giới điều không còn phù hợp với hiện tại và không thể phát huy hết hiệu quả của
chúng một cách tích cực. Nhưng may thay, chính đức Phật và các vị trưởng lão
tiền bối đã thấy trước được vấn đề và đã dự liệu những giải pháp uyển chuyển
tương đối khả thi. Do đó, thiển nghĩ, chúng ta không nên câu nệ một cách cứng
nhắc vào các hình thức giới luật, mà cần phải linh động, vận dụng tinh thần của
giới luật, miễn sao đạt được kết quả thiết thực, đưa chúng ta đến mục tiêu giải
thoát, giác ngộ, thì sẽ không cô phụ tâm nguyện đại bi của đức Phật và không
trái với bản hoài của các bậc trưởng lão tiền bối, không ngừng quan tâm đến sứ
mệnh tiếp dẫn hậu lai.
Lợi ích Của Giới
Kinh Trường bộ I nói có 5 lợi ích của
giới như sau: Người có giới đức sẽ hưởng được gia tài pháp bảo nhí tinh cần,
được tiếng tốt đồn xa, không sợ hãi rụt rè khi đến trước các hội chúng đông
đảo. Khi chết tâm không rối loạn, sau khi mạng chung được sanh vào thiện thú,
cõi trời.
Luật Tạng kể có 10 lợi
ích như sau: 1/ Vì để thu nhiếp chúng tăng. 2/Vì muốn cho chúng tăng hoan hỷ.
3/ Vì muốn cho chúng tăng sống an lạc. 4/ Vì để hàng phục những kẻ phá giới. 5/
Vì để cho những người có tàm quý được an ổn. 6/ Vì để cho những người không tin
phải tin tưởng. 7/ Vì để cho những người đã tin càng thêm tin. 8/Vì muốn đoạn
trừ các pháp hữu lậu trong hiện tại. 9/ Vì muốn đoạn trừ các pháp hữu lậu trong
tương lai. 10/ Vì muốn cho nếp sống phạm hạnh được tồn tại lâu dài.
IV. Phân Loại Về Giới:
1/Giới
thuộc một loại: Giới mang đặc tính kết
hợp.
2/Giới
thuộc hai loại: Chỉ trì và Tác trì.
Không làm những gì do Phật cấm chỉ là chỉ trì, phải làm những gì do Phật chế
định là tác trì. Giới tạm thời và giới trọn đời. Giới tạm thời là được thọ với
thời gian hạn định, giới giữ trọn đời là thọ đến khi mạng chung. Giới thế gian
và giới xuất thế gian: Giới thế gian là thuộc phạm vi hữu lậu, giới xuất thế
gian là giới thuộc lãnh vực vô lậu.
3/
Giới thuộc ba loại: Giới bậc hạ, bậc trung
và bậc thượng. Giới thọ trì vì mưu cầu danh lợi là giới bậc hạ, vì ham quả báo
công đức là giới bậc trung, vì tôn trọng giới pháp là giới bậc thượng. Hoặc
giới có động lực tham ái, còn tái sinh là giới bậc hạ. Giới thực hành vì mục
đích giải thoát riêng mình là giới bậc trung, thực hành giới Ba La Mật vì mục
đích giải thoát cho chúng sanh là giới bậc thượng.
Giới vị kỷ, vị tha là vị pháp. Giới thực
hành vì bản thân là giới vị kỷ, giới thực hành vì quan tâm đến thế gian là giới
vị tha, giới thực hành vì tôn trọng pháp và luật là vị pháp. Giới thanh tịnh,
bất tịnh là khả nghi.
Giới được tuân thủ trọn vẹn, hoặc vi phạm đã
sám hối gọi là giới thanh tịnh. Một người đang nghi ngờ không biết mình có phạm
giới hay không phạm, gọi là giới khả nghi.
4/
Giới thuộc bốn loại:
Giới của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, giới của
người chưa thọ cụ túc và giới của người tại gia.(250 giới TK, 348 giớiTKN, 10 giới
SD và SDN, 5 giới tại gia, 8 giới BQT, 58 giới BT).
Giới tự nhiên: Người không cần gắng giữ
giới mà không hề phạm giới, gọi là tự nhiên giới.
Giới theo cổ truyền: Mỗi bộ lạc, địa
phương có luật lệ riêng, gọi là giới theo phong tục.
Giới tất yếu: Giới của mẹ Bồ Tát khi Bồ
Tát nhập thai “Không có tư tưởng dục nhiễm, gọi là giới tát yếu”.
Giới do nhân đời trước: Giới của người
sanh ra đã thanh tịnh như trường hợp tôn
giả Ca Diếp, gọi là giới do nhân sinh đời trước.
5/
Giới thuộc năm loại:
- Giới thanh tịnh hữu hạn: Giới của
người chưa nhập Tăng chúng.
- Giới thanh tịnh vô hạn: Giới của những
người đã nhập Tăng chúng, đã thọ cụ túc.
- Giới thanh tịnh đã viên mãn: Giới của
phàm phu có đức hạnh, chuyên hành thiện đang viên mãn bực hữu học.
- Giới không dính mắc: Giới của bậc hữu
học không dính mắc tà kiến.
- Giới đã tịnh chỉ: Giới của bậc A La
Hán gọi là giới tịnh chỉ, vì không còn cấu uế.
Nếu người giữ giới không thanh tịnh,
phạm giới thì có các trường hợp xảy ra: giới bị rách, giới bị lủng, giới bị
hoen ố, giới bị lốm đốm. Khi một người phạm giới do vì lợi dưỡng, vì tiếng
khen, hay bị dục vọng sai khiến thì gọi là giới bị rách nát như tấm vải bị cắt
ở ngoài biên. Nhưng nếu vị ấy phạm giới trong lúc đang tu học tiến bộ, thì gọi
là giới bị lũng. Như tấm vải bị cắt ở giữa. Khi một người phạm giới liên tiếp
hai, ba lần thì gọi là giới bị hoen ố. Như một con bò đen, bỗng có một mảng
lông khác màu ở trên mình, khi vị ấy phạm giới thường xuyên thì gọi là giới bị
lốm đốm, như một con bò màu vàng, lại có nhiều đốm trắng khắp mình.
Một người thiếu giới hạnh thì không thể
làm cho chư thiên hoan hỷ, mà còn trở thành kẻ ngoan cố đối với các bạn đồng
phạm hạnh. Vị ấy đau khổ khi phạm giới vì bị chỉ trích và hối hận khi thấy
những người giữ giới được tán dương. Người ấy vô giá trị, vì không đem lại quả
báo tốt đẹp cho các thí chủ. Người ấy khó làm cho sạch, như thùng phân dơ lâu
năm, như một khúc gỗ mục trên giàn hỏa, vì không phải là người xuất gia cũng phải
người cư sĩ. Mặc dầu tự xưng là Tỳ kheo mà không phải là Tỳ kheo, nên giống như
con lừa đi theo bầy bò.Vị ấy nóng nảy như kẻ thù của mọi người. Sống chung với
vị ấy khó khăn, như sống chung với một xác chết. Mặc dầu người ấy có thể là một
người đa văn, nhưng vị ấy không đáng được các bậc đồng phạm hạnh cung kính. Vị
ấy không đạt được các quả thù thắng, như người mù không thấy sắc. Vị ấy bất cẩn
đối với diệu pháp, như kẻ nghèo sống trong một đất nước phú cường, mặc dầu vị
ấy tưởng mình hạnh phúc, nhưng kì thực có đau khổ, vì phải gặt hái những ác quả
do phạm giới đem lại.
Trái lại người giữ giới trọn vẹn là:
Không vi phạm các học sứ sám hối những giới đã phạm, không có các sự trói buộc
của dục vọng, không khởi những ác pháp, như phẫn nộ, hận thù, độc đoán, khinh
thường, đố kị, bủn xỉn, lừa dối, gian lận, cứng đầu, kiêu căng, ngã mạn, cao
ngạo, khoe khoang, lơ đểnh, mà thường khởi những đức tính ít muốn đủ viễn ly.
(Trung Bộ kinh-7 và 24)
Cách sử dụng bốn sự cúng dường liên quan
đến giới hạnh, dùng như kẻ mắc nợ, dùng như hưởng gia tài của tổ tiên, dùng như
người chủ. Một người không giới đức sử dụng bốn vật dụng được cúng dường, ngay
cả sự có mặt trong Tăng chúng, gọi là dùng như kẻ trộm. Một người có giới mà
không chân chính giác sát, trong khi dùng bốn vật cúng dường thì gọi là dùng
như kẻ mắc nợ. Trái lại sử dụng vật cúng dường để đạt được bảy bực hữu học (4
đạo 3 quả) thì gọi là dùng như hưởng gia tài của tổ tiên, vì họ là những người
con của Như Lai, họ dùng những vật như thừa hưởng gia tài của để cha để lại.
Một vị đã đoạn trừ hết phiền não, không còn bị các dục sai sử là dùng các vật
cúng dường như người chủ.
Nếu giới pháp là người xuất gia hay tại
gia đã lãnh thọ không bị phá hủy ở chặng đầu hay ở chặng cuối, như miếng vải bị
xé rách ở hai đầu thì giới ấy gọi là giới không bị rách. Nếu giới không bị phá
hủy ở chặng giữa thì gọi là giới không bị lủng, như miếng vải bị đâm thủng ở
giữa. Nếu học giới không bị vi phạm hai, ba lần liên tiếp, gọi là giới không bị
vá. Nếu giới không bị cùng khắp, cách nhau từng thời khoảng thì gọi là giới
không bị lốm đốm. Như con bò có những đốm trên lưng.
Chính những giới ấy là nền tảng đưa đến
giải thoát, vì chúng giải tỏa khỏi sự nô lệ cho dục ái. Chúng được người trí
tán thán, chúng không liên hệ đến tham dục và tà kiến. Chúng có khả năng đưa
đến thiền định.
Khi chuyên tâm về việc niệm giới, hành
giả có sự tôn trọng đối với học pháp. Vị này sống hòa hợp với những bạn đồng
phạm hạnh, không sợ bị lương tâm cắn rứt, vị này thấy sự sợ hãi trong những lỗi
nhỏ nhặt, đạt đến lòng tin viên mãn. Vị này sẽ sống an lạc, dù không đạt được
đạo quả gì cao hơn thì cũng đang trên đường tiến đến những thiện thú tươi đẹp.
Thế nên: “Người thật sự có trí, Sẽ thường xuyên niệm giới”.
Không giữ giới thanh tịnh sẽ bị quả báo
xấu xa trong hiện tại như là:
1-
Không được tiếng tăm.
2-
Tâm phiền não loan động
3-
Tinh thần hoan mang, không an định.
4-
Đánh mất lợi dưỡng.
5-
Mọi người không cung kính.
6-
Nhập chúng thì tâm hổ thẹn.
7-
Thiện thần không che chở.
8-
Bạn lành lánh xa.
9-
Làm bạn với kẻ ác.
10-Bị
người hiểu biết quở trách.
11-Thường
chảy nước dơ
12-Sắc
mặt tối tăm, lộ ra dáng vẻ của người phạm giới
13-Hai
mắt đục ngầu.
14-Trí
tuệ giảm mất.
15-Năng
lực ghi nhớ bị yếu kém.
16-Hiện
đời không đắc đạo.
17-Khi
chết bị đọa vào trong địa ngục.
=======================
TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIỚI
Chúng
ta đã từng quỳ trước Tam Bảo phát nguyện thọ trì Tam quy, Ngũ giới, Thập thiện
giới v.v... là ta đã trở thành người Phật tử chính thức, trở thành những mầm
non của đạo pháp, những hạt giống Bồ đề, hạt nhân của giải thoát là dự vào
trong dòng thánh. Vì biết rằng, chính giới pháp mới là pháp môn viên mãn nhất
để giải thoát chúng ta ra khỏi phiền trược, khỏi kiếp luân hồi vô
minh. Vì nghỉ đến sự cao quý như thế,nên đã có những giờ phút chúng ta đem hết
thành tâm thiện chí để lãnh thọ. Chính những giới pháp đó đức Phật đã thành tựu
viên mãn,và sau bao nhiêu công phu tu hành, đạt chánh quả. Ngài đem giới pháp
đó dạy lại cho chúng ta, coi như là pháp thân huệ mạng của chính Ngài. Bởi thế,
sau khi Ngài viên tịch, giới pháp ấy vẫn tồn tại, để dắt dẫn những kẻ hảo tâm
xuất gia, và trước khi sắp nhập Niết Bàn, đức Phật đã đinh ninh dạy bảo: “Này
các Tỳ kheo, sau khi ta diệt độ, các ngươi hãy tôn trọng trân quý Ba La Đề Mộc
Xoa, như người đi trong đêm tối được gặp đèn sáng, như người nghèo khó gặp được
châu báu.Giới luật chính là đức thầy cao cả của các ngươi,dù ta có ở đời cũng
không khác gì”.
Giả
sử chúng ta được duyên may mắn, sinh vào thời đức Phật thì chắc chúng ta được
nghe những lời dạy ấy, tuân giữ giới luật của Ngài và tôn Ngài làm đấng Đạo Sư.
Nhưng vì bạc phước vô duyên, chúng ta phải sanh vào thời mạt pháp. Mặc dù không
gặp Phật, ta vẫn còn được phước duyên có những giờ phút được nghe giáo pháp của
Ngài đã dạy, biết những giới Ngài đã truyền, để ta tôn thờ giới pháp làm đấng
Đạo sư như Phật ở đời không khác. Một người đi trong đêm tối muốn khỏi sa hầm
sụp hố, cần được ánh đèn bao nhiêu, thì khi gặp được ánh đèn, họ sẽ quý báu bấy
nhiêu. Như kẻ nghèo khổ đói rách, cần tiền của bao nhiêu, thì khi gặp tiền bạc
sẽ giữ gìn cẩn thận bấy nhiêu. Chúng ta, những người tối tăm vô minh đói khổ vì
thiếu thốn sự giác ngộ, sự giải thoát cho nên chúng ta cũng sẽ quý giáo pháp
của Phật không khác gì những người đi trong đêm tối đó. Người đi trong đêm tối
gặp được ánh sáng, chắc chắn họ sẽ không để mất, kẻ nghèo gặp được châu báu sẽ
bảo tồn quý trọng nó, thì người hảo tâm tu học cũng vậy. Khi đã biết giới luật
là phương pháp cao quý để ta nương theo, thì chắc chắn ta sẽ đem hết thành tâm
thiện chí cầu lãnh thọ bảo trì cho bằng được. Huống chi đã làm con người, không
ai không mang trong mình bao nhiêu tật xấu, bao nhiêu phiền não tội lỗi. Nhưng
phiền não tội lỗi ấy, nếu không nhờ những pháp môn, những giới luật ngăn ngừa
thì chắc chắn đời đời chúng ta vẫn là những con người quê hèn nghèo khó, không
bao giờ bước lên được con đường giải thoát giác ngộ. Nên yếu điểm đầu tiên của
Phật chế giới luật là muốn cho ta gạt bỏ những tục tánh quê hèn, tạo đức tốt,
lập chí nguyện lớn lao. Ở đời những vị quân tử, thánh nhân hằng mong mỏi lập ba
điều bất hủ: “ lập công, lập đức, lập ngôn”. Vậy thì người xuất gia chúng ta
chắc chắn cũng muốn lập những công đức sự nghiệp lớn lao mà không giữ giới
luật, cứ bê tha theo tục tình, thả lỏng thân khẩu ý theo thói thấp hèn, thì
biết đến bao giờ chúng ta mới có thể lập được chí nghiệp, bao giờ mới xả bỏ
được những tục tình quê kịch, mà chính nó bấy lâu nay nhận chìm chúng ta trong
thói đời? Cho nên một người đã có thành tâm thiện chí muốn làm đệ tử của đức
Phật thì trước hết phải giữ giới để ngăn ngừa tội lỗi, xả bỏ tục tình, để trở
thành một người toàn thiện. Khi cá nhân đã trở nên toàn thiện, toàn mỹ, mới có
thể đặt lên đó những hạnh nghiệp giải thoát, cầu đạo Bồ đề, cứu độ chúng sanh.
Yếu
điểm thứ hai, là đệ tử của Phật khi còn tại thế, sống trong một đoàn thể không
phải một người, hai người mà đã có đến trên 1250 người tuỳ tùng xuất gia. Với
một số đông đệ tử như thế, nếu không có giới luật thì biết căn cứ vào đâu để
hoà hợp với nhau,tương ưng với nhau và tu học với nhau? Mỗi người khi ấy sẽ
hành động mỗi cách, ngôn ngữ mỗi cách, thì làm sao tạo được một giáo đoàn gương
mẩu để truyền bá giáo pháp, để tiến tu đạo nghiệp? Nếu chúng tăng không có một
kỷ luật giới pháp để mỗi người răn dè tuân giữ, thì chúng tăng sẽ trở thành một
chúng tăng ô hợp. Khi đã là chúng tăng ô hợp, thì cá nhân đã không được tu học,
mà đoàn thể ấy cũng không ích lợi gì? Huống chi một đoàn thể cầu giải thoát mà
lại có thể ô hợp được chăng? Chắc chắn là không?
Vì
vậy 12 năm sau khi thành đạo, với một số đồ chúng xuất gia và tại gia đã đông,
đức Phật đã tuỳ căn cơ chúng sanh mà lần lượt chế ra những giới luật. Sau khi
Phật nhập Niết Bàn, những giới luật ấy đã được tôn giả Ưu Ba ly kết tập
thành,Ngũ giới, Bát Quan Trai giới, Thập thiện giới, Sa di giới, Sa Di Ni giới,
Tỳ kheo giới, Tỳ kheo Ni giới, Bồ Tát Giới. Những giới luật đó đã trải qua thời
gian đến nay vẫn còn tồn tại, chúng ta có thể nghe thấy một phần nào những gì
Phật đã dạy lúc sinh thời. Những giới luật đó, hàng tại gia cũng như xuất gia,
ai tuân giữ được thì đều xứng đáng là con Phật. Sự thành tâm thiện chí của đệ
tử Phật đối với giáo pháp của Ngài chính là sự cúng dường cao quý nhất, bởi vì
khi một người xuất gia có tác phong tề chỉnh gương mẩu thì có thể thay thế Phật
ở cõi Ta bà. Giữa thời mạt pháp, giáo pháp của Phật nhờ đó mà tồn tại mãi. Giới
luật tạo cho con người trở thành đức hạnh giải thoát gương mẩu. Chính thời đức
Phật khi còn là thái tử cũng nhờ hình bóng một vị sa môn có oai nghi tề chỉnh
giải thoát đã đánh thức Ngài cảm kích sự xuất gia của Ngài. Vậy thì ngày nay,
nếu một vị xuất gia hoặc tại gia, có oai nghi tề chỉnh biểu hiện sự giải thoát
ly trần, chắc chắn sẽ gây được nhiều ấn tượng giải thoát trong lòng nhiều
người. Do đó, đức Phật đã nhiều phen dạy chúng ta phải tôn sùng quý trọng giới
luật, như trong Thiện Kiến Luật, Ngài đã dạy A Nan: có 5 điều làm cho giáo pháp
ta tồn tại lâu bền ấy là: Thứ nhất là hàng đệ tử biết tuân giữ tỳ ni giới luật,
Thứ hai là tịnh tăng thánh chúng, Thứ ba là truyền thọ bất diệt.Thứ tư là hạnh
nghiệp thanh tịnh,Thứ năm là trụ trì vĩnh cửu. Tóm lại nếu có 5 người cho đến
nhiều hơn nữa, mà đều nhất tâm giữ luật, biết sợ phạm giới, sám hối những điều
đã phạm, thì đó là những yếu tố quan trọng khiến phật pháp tồn tại trong thời
gian 5000 năm. Giữ được những yếu tố
ấy một cách viên mãn,tức là bảo vệ phật pháp được vững bền trong thế gian này.
Chúng
ta đã thọ 5 giới,10 giới, 250 giới tức là chúng ta đã tự khép mình trong giới
luật,vì thế chúng ta được dự trong giòng Phật pháp nối dõi giống thánh, chúng
ta tự giác từ bỏ thói quê hèn, nhận lãnh đức tánh thanh cao, tức là chúng ta từ
bỏ chỗ thấp bước lên bực cao, chối từ dục vọng trói buộc để hướng đến giải
thoát thanh lương. Trên các giới điều tuy chia ra nhiều khoảng. 5 giới, 10
giới, 48 giới, 250 giới, 348 giới, tuy có nhiều nhưng không ngoài bốn tánh giới
“Sát, Đạo, Dâm, Vọng”. Bốn giới ấy là chính yếu, nếu giữ được thì các giới khác
không vi phạm, nếu không giữ được vô số phiền não tội chướng cũng từ đó mà phát
sanh ra. Một người tu gương mẩu là người đầy đủ oai nghi trong các việc “ ăn,
mặc, ở ”. Với tâm thành thiện chí thì ta sẽ giữ được dễ dàng. Một khi ta đã
dõng mãnh phát tâm xả thân cầu giới, như đức Phật của chúng ta đã làm, như các
vị tổ sư đã thực hiện, thì chắc chắn chúng ta sẽ giữ trọn giới pháp của Phật
không lo gì khó khăn. Mà khi đã giữ giới một cách viên mãn thì tất nhiên chúng
ta sẽ trở nên những trưởng tử của Phật, hà đảm Như Lai huệ mạng. Một người
trưởng tử như thế, nhiều người trưởng tử như thế, sẽ khiến
Phật pháp được
lâu bền, báo đáp thâm ân của Phật
một cách viên mãn./.
NGÀY TỰ TỨ
Định nghĩa:
Tiếng Phạn: Pravarana, phiên âm là Bát Hoà La,dịch là Tự Tứ,thỉnh hay tuỳ ý.
Nghĩa là cầu người khác chỉ những lỗi lầm cho mình trên ba phương diện thấy,
nghe, nghi. Nếu tự mình thấy lỗi sẽ thành tâm sám hối để được thanh tịnh. Mục
đích của Tự Tứ giống như thuyết giới, là biểu hiện sự thanh tịnh và hoà hợp của
tăng già. Thế nên có thể nói Tự Tứ là một hình thức thuyết giới không đọc giới
bổn.
Túc số tăng: Thuyết
giới tối thiểu phải là 4 thầy Tỳ kheo, nhưng Tự Tứ thì túc số tăng tối thiểu
phải từ 5 thầy Tỳ kheo trở lên. Nếu trú xứ chỉ có 4 thầy Tỳ kheo hoặc chỉ có 3
vị 2 vị thì phải đọc đối thú Tự Tứ. Còn chỉ có một vị thì cho phép tâm niệm Tự
Tứ.
Trong
khi Tự Tứ,thầy Tỳ kheo nào có duyên sự vì Tam Bảo thì được phép gởi dục, nói
như thế này: “gởi dục và tự tứ”. Còn thuyết giới thì nói: “ gởi dục và thanh
tịnh”. Như vậy Tự Tứ và thuyết giới khác nhau về gởi dục.
Khi
chúng tăng an cư ba tháng xong, lo việc Tự Tứ. Những Tỳ kheo hậu an cư cũng
được Tự Tứ chung với Tỳ kheo tiền an cư (nhưng phải ở lại đủ 90 ngày mới được
ra khỏi đại giới).
Bên
Ni chúng,trước ngày Tự Tứ phải cử người đến Đại tăng cầu xin ba việc: thấy,
nghe, nghi. Đây là một trong tám pháp cung kính của Tỳ kheo Ni phải gìn giữ.
Yết Ma Tự Tứ:
Yết Ma Tự Tứ tổng quát gồm hai thể thức chủ yếu:
-
Bạch nhị, sai người nhận Tự Tứ.
-
Đơn bạch, chánh thức Tự Tứ.
Căn cứ trong các bộ Quảng luật, vị thầy được
sai làm người nhận Tự Tứ phải có 5 đức: 1 – Không ái nhiễm. 2- Không hờn ghét.
3- Không sợ sệt. 4-Không ngu đần. 5- Người tự tứ rồi hay chưa đều biết.
Thời
gian Tự Tứ có 4 trường hợp:
1- Định kỳ tự tứ .
2 – Tăng ích tự tứ.
3- Giảm nhật tự tứ .
4- Tăng thượng tự tứ.
Định
kỳ tự tứ (Chánh kỳ tự tứ) là an cư đủ 90
ngày, làm lễ tự tứ.
Tăng
ích tự tứ ; Chúng tăng trong ba tháng tu học có tiến bộ lợi ích của trong việc
dụng công nên tiếp tục ở thêm một tháng nữa rồi mới làm lễ tự tứ.
-
Giảm nhật tự tứ và tăng thượng tự tứ:
Trong chúng sắp đến ngày tự tứ, bất ngờ có sự tranh chấp hay nghe tin những Tỳ
kheo khách sắp đến có thể gây ra bất hoà,vị thiền chủ có thể tuyên bố tự tứ
trước một ngày đã định hay triển hạn đến một kỳ hay hai kỳ Bố tát. Triển hạn
tối đa là một tháng mà tăng vẫn chưa hoà hợp hay Tỳ kheo khách vẫn chưa đi phải
cưõng bức các Tỳ kheo hiếu sự ấy hoà hợp tự tứ. Nếu cưỡng bức không được, các
Tỳ kheo thanh tịnh phải ra ngoài cương giới kết tiểu giới tự tứ.
Trong
đạo Phật, ngày tự tứ có thể nói là “ngày Tết” của chư Tăng.
Mùa
an cư mỗi năm bắt đầu từ ngày 16 tháng 4 âm lịch đến 15 tháng 7 là mãn hạ đủ 90
ngày đó là thời gian tiền an cư. Còn hậu an cư từ 17 tháng 4 đến 16 tháng 5. Dù
tiền hay hậu cũng phải giải hạ vào ngày 15 tháng 7.
Theo
Nam truyền, kết hạ ngày 16 tháng 6 và giải hạ vào 16 tháng 9 âm lịch.
Tiền
an cư gọi là “ Tiền tam ngoạt hạ an cư,” hạ an cư gọi là “ hậu tam ngoạt hạ an
cư ”. Tất cả chư tăng các nơi đều tụ hội về một trú xứ thuận tiện để kiết hạ an
cư. Chỗ tăng chúng an cư gọi là trường hạ.
Sau
3 tháng tinh tấn tu hành, Giới Định Huệ, thúc liễm thân tâm, trau giồi đức
hạnh, đến ngày 15 tháng 7 gọi là ngày mãn hạ, chư tăng đều được tăng thêm một
tuổi đạo gọi là tuổi hạ “ Hạ lạp ”.
Vì
muốn công đức viên mãn nơi giới thể
thanh tịnh bằng cách rửa sạch hành vi lầm lỗi, tư tưởng xấu xa, chư tăng cùng
nhau Tự Tứ.
Tự
tứ có ý nghĩa cầu thỉnh người khác chỉ cho mình những cái lỗi lầm mà người khác
có thể thấy, nghe, hoặc nghi mà chính bản thân mình không thấy,để biết mà
sửa.Âm tiếng Phạn là Bát Lặc Ba Noa (Pravarana) xưa dịch là Tự tứ, gần đây dịch
là Tuỳ ý. Nghĩa là tự hiến mình để tuỳ ý người khác phê bình kiểm thảo, chỉ ra những
chỗ sai lầm của mình, không chút ngần ngại.
Nói
một cách phổ thông như ngày nay gọi là kiểm thảo. Tinh thần tự tứ này có thể áp
dụng cho mỗi đoàn thể, mỗi người có thể tuỳ ý kiểm thảo với nhau trong mọi việc
sai lầm về lời nói, ý nghĩ và hành động. Nhờ vậy phương pháp tu hành tự tứ có
thể hoán cải được những con người hung ác, xấu xa trở thành hiền lương tốt đẹp,
phàm mê trở thành thánh trí. Mỗi người ai ai cũng thực hiện tinh thần tự tứ này
có thể làm cho cả thế giới hoà bình an lạc, nếu tất cả mọi người đều biết áp
dụng phương pháp này vào đời sống của mình.
Riêng
về hàng xuất gia, nghi lễ đặc biệt long trọng hơn. Chư Ni cũng như chư Tăng,
sáng ngày 15 tháng 7 nhóm họp xong, trước tiên cử một vị đại đức ra để nhận tự
tứ (tự tứ nhơn ). Vị nầy không luận già hay trẻ,lạp cao hay lạp thấp, chỉ cần
đủ 5 đức:
1-
Không có tâm thiên vị
2-
Không có lòng giận ghét
3-Không
sợ người thù oán
4-Có
trí tuệ sáng suốt
5-Biết
người tự tứ rồi hay chưa.
Sau
khi lễ Phật xong, toàn thể đại chúng tề tựu trước chánh điện, đại chúng từng
người lần lượt đến đối diện với vị tự tứ nhơn bạch ba lần rằng: “Đại đức nhất
tâm niệm, kim nhật chúng tăng tự tứ,ngã Tỳ kheo... diệc tự tứ, nhược hữu kiến,
văn, nghi tội, nguyện Đại đức ai mẫn cố ngứ ngã, ngã nhược kiến tội đương như pháp sám hối ”. (xin
Đại đức từ bi thương xót, ngày nay chúng tăng tự tứ,tôi Tỳ kheo...cũng tự tứ,
đối với trong ba điều thấy, nghe, nghi tôi có tội, mong Đại đức chỉ giáo cho,
nếu tôi xét có tội, xin thành tâm y pháp sám hối). Khi xét không thấy lỗi gì,
thì vị nhận tự tứ đáp lại “ tốt lắm ”. Người bạch thưa A Di Đà Phật xin vâng.
Không
chút rụt rè, hoặc che dấu tội lỗi, trái lại rất vui mừng nhận lấy lỗi lầm trước
sự chỉ bảo của đại đức tăng, đó là tinh thần và ý nghĩa lễ tự tứ. Ta thử xét,
đây là một phương pháp sám tội rất cao, một tư cách cao cả của người sống đúng
với chánh pháp.
Bởi
vậy,những gương mẫu trong sáng đó là những mô phạm cao quý cho nhơn thiên, có
được như thế ánh đạo vàng được buông toả muôn phương phá tan nghiệp vô minh đen
tối của chúng sanh, vơi cạn nổi khổ đau của muôn loài,thế giới hoà bình, nhơn dân an lạc, âm dương lưỡng giới đồng
triêm công đức, đâu không phải nhờ công đức hoá độ của chư tăng biết sứ mạng
của mình.
Nhưng
nhiệm vụ của Tăng sĩ là thay Phật tuyên dương, truyền bá chánh pháp,cứu độ quần
sanh. Nhiệm vụ ấy, thường được xây dựng trong những mùa an cư và viên thành ở
những ngày tự tứ.
Bởi
thế, trong ngày tự tứ, chư Phật lấy làm vui lòng vì thấy các hàng đệ tử của
mình đã tiến thêm một bước dài trên con đường giải thoát giác ngộ và đạo vàng
sẽ bất diệt,chúng sanh sẽ an vui. Ngày ấy, không những chư Phật vui mừng mà
tăng già cư sĩ các giới thảy đều chan chứa một niềm hoan lạc.
Từ
địa vị một phàm tăng tiến lên thành vị sơ quả, nhị quả cho đến tứ quả v.v...
phần nhiều đều được thành tựu từ khoảng đầu hạ cho đến ngày tự tứ.
Kinh
Lăng Nghiêm là một pháp bảo quý nhất trên đời, chỉ rõ nguồn chơn bến giác và
đường lối tu hành để đến quả vị Phật Đà,cũng phát nguyên từ ngày tự tứ.
Đức
Mục Kiền Liên vang danh hiếu tử, nhờ công đức lực của chư Tăng trong mùa hạ
nhân ngày tự tứ mà muôn vạn khổ đau của mẹ ngài nơi đường ác thú được thoát
khỏi cũng bắt nguồn từ ngày tự tứ. Vì thế ngày tự tứ cũng là ngày “xá tội cong
nhân ” còn gọi là “cứu đảo huyền ” (cứu
cái khổ treo ngược ).
Trong
ngày tự tứ, các hàng thiện nam tín nữ rất thoả nguyện trong việc cầu nguyện báo
hiếu cho ông bà cha mẹ đã quá vãng, cũng như trên việc gieo trồng cội phước,và
cũng là phương pháp gián tiếp truyền bá và duy trì chánh pháp bằng cách ủng hộ
cúng dường đại đức tăng trọn vẹn một mùa kiết hạ an cư.
Như
thế, chúng ta thấy rõ ngày tự tứ là một ngày rất quan trọng và đầy ý nghĩa
trong lịch sử Phật giáo. Nó đem lại vô cùng lợi ích cho thánh phàm u hiển,tất
cả những đặc điểm tiến hoá, giải thoát thanh tịnh trên tinh thần sống chung hoà
hiệp, cùng phương tiện báo hiếu, gương mẩu độ sinh của phật tử đều được nâng
cao ở ngày ấy./.
KHÁI NIỆM VỀ YẾT MA
Mọi sinh hoạt của tổ chức trong cộng
đồng xã hội đều hoạt động theo nguyên tắc có tính cách nội quy của tổ chức
mình. Nếu nội quy càng phù hợp với nguyện vọng của thành viên và phù hợp với
thực tế cuộc sống, thì bộ máy càng được ổn định điều hòa và do đó cộng đồng
càng có cơ hội phát triển. Trong cộng đồng tăng lữ đạo Phật, những quy định ấy
được gọi là Tăng già yết ma.
I. Yết ma là gì?
Yết ma là phiên âm từ Kamar hoặc Kamma.
Hán dịch là tác pháp biện sự và được giải thích là “ Vạn pháp do tư thành biện
cố”. Đây là nói theo nghĩa chức năng của yết ma. Về mặt ngữ nghĩa Kamar có
nghĩa là hành động hay hành vi mà Hán dịch là Nghiệp. Nhưng thông thường nghiệp
để chỉ cho những hành vi thuộc cá nhân.
Để phân biệt với hành vi cá nhân hành vi tập thể của tăng được các luật sư giữ
nguyên gốc từ phạm âm Kamar, để chỉ và được phiên âm là Kiết ma hay Yết ma. Yết
ma nói đầy đủ là Tăng Già Yết Ma.
Nghiệp có ba cơ sở phát xuất: Thân,
khẩu, ý. Theo nội dung thì Tăng già yết ma thuộc về khẩu nghiệp là chủ yếu vì
nó được thành tựu thông qua thống nhất với đa số tuyệt đối của tăng ( không có
ý kiến phản đối ).
Ý chí, động cơ tạo nghiệp, nếu ở cá nhân
thì chỉ giới hạn ở trạng thái do dự hay cương quyết, nhưng ở tập thể thì vấn đề
thống nhất trong tinh thần hòa hợp tuyệt đối phải được đặt lên hàng đầu. Tập
thể là tập hợp gồm nhiều phần tử cá thể, mỗi cá thể là một phần tử trong tập
thể. Nếu một cá thể nào đó có thái độ do dự không biết thì tính chính thể của
tập thể đã có dấu hiệu rạn nứt. Một khi chính thể bị rạn nứt thì sẽ không hoàn
thành được việc gì đáng kể mà còn có thể có nguy cơ bị giải thể, cho nên yêu
cầu căn bản của việc tác pháp yết ma thành tựu là sự hòa hợp và thanh tịnh của
tăng.
II. Các giai đoạn tiến hành các pháp yết ma:
Yết ma là nghiệp nên từ khi bắt đầu tác
pháp cho đến khi kết thúc cũng phải trải qua ba giai đoạn của nghiệp, đó là gia
hành của nghiệp, căn bản của nghiệp và hậu khởi của nghiệp mà trong yết ma thì
ta gọi đó là gia hành của yết ma, căn bản của yết ma, hậu khởi của yết ma. Ba
giai đoạn tiến hành của yết ma đều lấy ngữ nghiệp làm chính vì bản chất của yết
ma là ngữ nghiệp tập thể (cọng ngữ nghiệp ) nên bắt buộc khi làm yết ma phải
nói theo văn cú quy định đã được mẫu hóa, để cho các thành viên cùng tác pháp
dù là khách tăng mới đến cũng có thể thông hiểu dễ dàng chứ không phải tùy tiện
muốn nói thế nào cũng được.
Gia hành của yết ma: Đây là giai đoạn mà
thuật ngữ luật tạng gọi là “ Tác tiền phương tiện” giai đoạn này có mục đích
xác định các yếu tố hòa hợp, thanh tịnh như pháp của tăng. Tất cả các pháp yết
ma đều có giai đoạn tác tiền phương tiện như nhau. Sau khi chư tăng đã văn tập
vào giới trường ổn định, vị trí, vị Tỳ kheo được tăng sai làm yết ma hỏi và một
Tỳ kheo khác thường là vị tri sự hoặc Duy na đại diện cho tăng lần lượt trả lời
theo thứ tự các cặp vấn đáp sau đây: ( Ví dụ )
ò Vấn đáp: 1. Tăng
đã họp chưa? Tăng đã họp
ò Vấn đáp: 2 . Hòa hợp không? Hòa hợp.
ò Vấn đáp: 3 . Người chưa thọ giới cụ túc đã ra chưa?
Đã ra. ( Trong đây không có người chưa thọ giới cụ túc )
ò Vấn đáp: 4. Các
Tỳ kheo không đến có thuyết dục và thanh tịnh không? Không ( Có đáp có và thuyết dục )
ò Vấn đáp: 5 . Có ai sai Tỳ kheo ny đến thỉnh giáo giới không? Không ( Có đáp có và tác pháp thỉnh giáo
thọ sư )
ò Vấn đáp: 6. Tăng nay hòa hợp để làm
gì?
(
Nói tăng sự yết ma )
Trong 6 vấn đề trên, các vấn đáp 1, 2, 3 và 6 bắt buộc lúc nào tác pháp
cũng phải có, còn vấn đáp 4 thì ở một số pháp yết ma như kiết giới không có, vì
ở trường hợp này luật không có phép gởi dục, vấn đáp 5 chỉ áp dụng trong các
yết ma thuyết giới, tự tứ, vì theo luật Phật chế Tỳ kheo ny mỗi nửa tháng đến
ngày thuyết giới hoặc ngày tự tứ phải đến đại tăng cầu giáo thọ sư. Như vậy ở các
yết ma khác không có yết ma này.
Vấn đáp 1: có mục đích xác định sự tập hợp của tăng là như pháp đó là túc
số tăng. Mỗi pháp yết ma đều có quy định một túc số tăng nhất định đó là tăng
4, 5, 10 người và tăng 20 người.
Vấn đáp 2: xác nhận sự hòa hợp của tăng là một trong những yếu tố cần
thiết để yết ma thành tựu.
Vấn đáp 3: có mục đích kiểm tra tư cách thành viên của tăng, chỉ có Tỳ
kheo mới là thành viên và mới được tham dự vào các tăng sự.
Vấn đáp 4: một lần nữa xác nhận lại sự hòa hợp của tăng trong một trú xứ
vì có trường hợp Tỳ kheo có duyên sự đặc biệt được vắng mặt tại giới trường
nhưng phải gởi dục. Nếu có Tỳ kheo nào trong trú xứ không vào giới trường mà
cũng không gởi dục là dấu hiệu bất hòa của tăng, yết ma không thành.
Vấn đáp 5: được thực hiện khi có mối quan hệ với các trú xứ Ni tăng theo
luật định khi thuyết giới, tự tứ.
Vấn đáp 6: Xác định lý do tập hợp tăng để tác pháp xem như là lời tuyên bố
lý do hoặc mục đích của yết ma. Được thực hiện ngay sau khi tác tiền phương
tiện đây là giai đoạn chính thức của yết ma. Các tăng sự được giải quyết như
thế nào đều tùy thuộc vào giai đoạn này, tùy theo mức độ quan trọng của vấn đề
cần giải quyết mà yết ma có chia ra đơn bạch, bạch nhị, bạch tứ. Vị Tỳ kheo yết
ma phải am hiểu và thực hiện cho đúng, văn bạch tác pháp của các loại yết ma
trên đã được mẫu hóa trong các tác phẩm nói về yết ma.
Hậu khởi của yết ma: Sau khi căn bản của yết ma thành tựu, nghị quyết của
tăng từ đó về sau được thực hiện với sự nhất nhất chấp hành của các Tỳ kheo
trong trú xứ thì tác dụng của yết ma mới có hiệu lực. Như yết ma kiết giới, sau
khi căn bản yết ma được thực hiện, tất cả Tăng không ai được bước ra ngoài
đường ranh của đại giới, nếu có duyên sự cần ra ngoài thì phải xin phép và cho
đến khi nào chưa tác pháp giải đại giới thì các Tỳ kheo vẫn còn phải chấp hành.
Tóm lại một phép yết ma thành tựu như pháp khi nào cả ba giai đoạn đều
được tiến hành như pháp.
III. Đối tượng của yết ma:
Là những điều kiện để phán định tính cách như pháp của yết ma, thuật ngữ
luật tạng gọi là y xứ của yết ma và chia làm ba loại: Nhân, pháp, sự.
- Nhân: Tức cá nhân được đưa ra để làm đối tượng tác pháp. Trong một số
pháp yết ma đối tượng cá nhân bắt buộc phải có mặt trong khi tác pháp, như yết
ma truyền giới cụ túc, yết ma sai tự tứ nhơn, yết ma sai giáo thọ ni, cũng có
trường hợp một số pháp yết ma đối tượng cá nhân không được có mặt như yết ma
học gia, yết ma phú bát. Đối tượng của yết ma cần phải được kiểm tra tư cách
trước, yết ma chỉ có hiệu lực khi đối tượng về nhân đã được kiểm tra như pháp.
- Pháp: Là bỉnh pháp, là nguyên tắc thực hiện yết ma. Như trước khi tác
pháp phải kiết giới trường, tác tiền phương tiện áp dụng từng loại yết ma đơn
bạch, nhị bạch, tứ bạch, chúng pháp hay đối thủ... Bản thể thanh tịnh hòa hợp,
túc số tăng tất cả đều phải được kiểm tra như pháp.
- Sự: Là những sự vật cụ thể có liên quan đến yết ma được thực hiện. Như yết ma kiết đại giới thì
phải xác định đường ranh trong và đường ranh ngoài của đại giới, yết ma phân
vật thì phải đem vật ấy của ai, có thuộc về tăng không, nếu là của tăng thì của
thường trụ tăng hay chiêu đề tăng, của một bộ đại tăng hay hai bộ đại tăng.
Đối tượng y xứ của yết ma cũng là điều
kiện tác thành yết ma. Khi có điều kiện nào đó, không hội đủ phẩm chất thì y xứ
của yết ma bị khuyết và do đó yết ma không thành, cho nên không được coi nhẹ y
xứ của yết ma trong khi tiến hành tác pháp.
IV. Phân loại yết ma:
- Phân loại theo cách tác pháp yết ma có
ba loại:
a. Đơn bạch: Chỉ một lần tác bạch nếu
tăng đồng ý là yết ma thành tựu. Tổng cộng có 44 pháp đơn bạch.
b. Bạch nhị: Tổng cộng có 78 pháp được
áp dụng cho những tăng sự có tầm quan trọng hơn nên sau khi tác bạch cần hỏi
lại một lần nữa để đảm bảo tính thống nhất của tăng.
c. Bạch tứ: Tổng cộng 39 pháp, áp dụng
cho các hàng tăng sự rất quan trọng, nên phải một lần tác bạch 3 lần hỏi lại để
xác nhận tính thống nhất cao và tuyệt đối của tăng. Con số 166 pháp có 3 loại
là của yết ma Chỉ Nam.
Giới yếu, giới sút kém
Như có người trong tâm cứ muốn hoàn tục,
không có tâm ưa thích, ở chổ Sa Môn nữa, cho rằng đời sống Sa Môn là khổ, hổ
thẹn chán ghét, than thân trách phận, rằng tu quá khó, phạm hạnh khó giữ, chỗ
vắng khó ở, một mình khó trụ, ăn ở cực khổ vv... Nhớ nhà, anh em, chị em, muốn học cái nghề tinh xảo và buôn bán, họ
hàng, bà con của tôi trông mong tôi thừa kế v.v...
Sống
ở trong Tăng mà tâm không vui vẻ, tỳ kheo nói những lời hối tiếc như thế đó là
trường hợp học xứ bị yếu kém.
Thọ
giới thì khó, mà xả giới thì dễ, khi thọ giới thì cần phải có tam sư thất chứng
(3 HT, 7 vị tôn chứng). Vì sao lúc xả giới chỉ cần một người xả.Vì
mong cầu pháp tiến lên thì cần phải có nhiều điều kiện, tốn nhiều công
sức.
Còn
xả giới thì giống như từ trên cao rơi xuống, cho nên không cần phải nhiều điều
kiện, tốn nhiều công sức.
Lại nữa thọ giới như được vật báu, còn xả
giới giống như mất vật báu. Muốn được vật báu cần phải có nhiều điều kiện, còn
khi mất vật báu thì chỉ cần bị trộm cướp, nước trôi, lửa cháy, trong chốc lát,
xả giới cũng như vậy.
Ngũ Phần khảo
Phàm
người tu hành ai ai cũng bị ngũ phần khảo này. Kẻ thượng căn đại trí thì lướt
qua khỏi còn kẻ nào thiểu căn độn trí ắt là rơi rớt trở lại.
Vậy
người tu hành cần phải thẩm xét về điều này.Tu mà nghiệp không khảo đảo là quả
đạo còn rất xa, còn tu mà nghiệp lực dồn dập khảo đảo là đạo quả rất gần. Nên trong
kinh có nói:
Vô ma khảo đảo bất
thành Phật đạo
Thập ma thập nạn
thành tiên tử
Bất ma bất nạn bất
thành nhân.
Nghĩa là không ma khảo đảo chẳng thành
Phật đạo.Mười ma khảo đảo mười nghiệp dập dồn mà có chí lướt qua cho được thì
tiên tử mới thành. Bằng chẳng ma khảo đảo, chẳng tai nạn chi thì cũng chẳng trở
nên người minh đức.
Ta nên biết rằng, các bậc Phật Tiên,
hiền thánh Minh triết từ thưở xưa đều có sự thử thách và khảo đảo trải qua. Các
Ngài đạo quả càng cao bao nhiêu là sự khảo đảo càng nhiều bấy nhiêu. Khi khảo
đảo hết rồi thì bọn chúng ma quân mới hàng đầu quy phục. Trong kinh có có nói:
“ Đạo cao nhất xích, ma cao nhất trượng
Đạt quả đầu thượng, ma nhượng đầu sư”
Nghĩa
là: Đạo cao một thước, ma cao một trượng. Đạo cao hơn một trượng nữa, Ma chướng
quy hàng.(chừng
ấy, chúng ma mới
quy đầu kính phục đạo làm thầy).
Tóm
lược đại cương ngũ phần khảo:
1/
Minh Khảo 2/ Am
khảo 3/ Trừng khảo 4/Thuận khảo
5/ Nghịch khảo.
1/
Minh Khảo: Nghĩa là khảo đảo
bằng cách sáng suốt minh bạch trước mắt mà mình không hay biết, lại lầm cho
mình là phước trọng đức lớn, tài hay, cao thượng hơn người, vì vậy mà dễ bề té
ngã rơi rớt trở lại.
Ví như người tán thán ca tụng khen
ngợi những việc làm của mình, điều này cũng ngụ ý thúc giục đưa mình vào hố sâu
của tật đố, cống cao, ngã mạn, ỷ lại mình hay … hoặc đưa đến cho mình danh cao
lộc cả, lợi nhiều, sắc xinh đủ thứ,muốn gì được nấy làm cho mình sanh tâm ái
nhiễm mà không hay biết, lại cho việc làm của mình là phải đúng. Ấy gọi là minh
khảo vậy.
2/
Ám Khảo: nghĩa là sự khảo đạo bằng cách này rất kín đáo tinh vi
khó nhận biết được, làm cho mình lu mờ tâm trí, nhận giả làm chân. Nó ám thị
mình bằng một cách khéo léo để phủ qua các điều chính đáng, chôn mất tánh linh
chẳng còn tự chủ, xu hướng mê tín, dị đoan, ỷ lại thần quyền, ấy cũng gọi là
màn lưới của vô minh hay mây bất giác che mờ tâm trí, khuất mất huệ tâm, nhầm
đường lạc lối nghiệp tội càng sanh gây nhiều quả báo. Đó gọi là ám khảo.
3/
Trừng khổ:Nghĩa là sự khảo
đảo nầy bằng hình thức cường quyền áp bức, thế lực lấn tranh,
hình phạt, khảo tra, vu khống,
cáo oan, hiếp đáp bắt buộc phải chịu dưới một định luật nào đó, bằng không thì bị
tù tội, phạt vạ, giết hại v.v... Ấy gọi là trừng khảo.
4/
Thuận khảo: Khảo cách nầy khó
ai tìm hiểu được ( phần nhiều các bậc chân tu rơi rớt là bởi vì thuận khảo này).
Bởi
nó khảo đảo cách này còn khéo léo hơn trước nữa. Mỗi mỗi đều thuận hợp theo ý
muốn của ta, nên nó dễ bề kéo lôi quyến
rũ hơn cách nào hết. Bởi chữ “thuận” là xuôi thuận, êm thuận, hòa thuận, thuận
hợp, thuận chiều v.v...Cái gì cũng êm xuôi, hòa thuận, hợp chiều theo ý muốn.
Muốn chi có nấy hoặc muốn có một đến 3, 4, 5…ấy là chuyện ngăn đạo ( người tu
hành rất sợ khảo nầy) Ví như người tu giải thoát chân không nhẹ nhàng khoan
thái tự tại thông dong. Bấy giờ thuận khảo đưa đến, người niệm tưởng muốn có
cây viết tốt, đôi giày xinh, đồng hồ đẹp, liền có người đem tới viết tốt, đôi
giày xinh, đồng hồ thật quý đến dâng cho. Kế nữa người niệm tưởng muốn có máy
ảnh,ti vi, Radio, điện thoại, lần lần muốn có xe cộ, tàu bè, nhà cao cửa rộng v.v...
Mỗi mỗi tưởng ước điều chi, đều được như ý. Người tu thấp bị khảo theo thấp, tu
cao bị khảo theo cao. Đó phải chăng thuận theo ý mình muốn dễ để bề lôi cuốn
đưa mình xa lần cửa đạo, khi đến chỗ
buộc ràng sanh tâm ái nhiễm, thì nó hất hũi làm ngã té. Ấy gọi là thuận khảo.
5/
Nghịch khảo: là sự khảo đảo
bằng cách này hay cách khác, trái ngược theo ý định của mình. Ví như việc làm
như vậy là được việc làm như thế là không nhưng hoàn cảnh bắt buộc phải làm...
Chổ tu được mà tu không an, chổ ở được mà ở không tiện. Như ăn chay người ta
cảng không cho, đi chùa người ta bảo mê tín, tu hiền người ta bảo tiêu cực, yếm
thế chán đời, người ta quyết định không chịu, mình trì giới người ta tìm cách
phá hoại, mình nhẫn nhục người ta tìm cách khinh chê v.v…
Tóm
lại bao nhiêu chuyên trái tai, gai mắt nghịch ý, phiền lòng mà nó cứ dồn dập
cho mình, làm cho mình quá đau khổ bỏ tu sa ngã...Ấy gọi là nghịch khảo.
Vậy
năm phần khảo trên đây, chỉ nói đại cương, nếu giải rộng ra sẽ còn nhiều phương
pháp khác. Nhưng ngoài sự khảo đảo để quyến rũ, kéo lôi bằng nhiều hình thức cách này cách khác chung quy
là làm cho con người đi sai đường lạc lối, lầm nẻo vậy tà, quên mất chân tâm,
xa rời bản tánh mà phải chịu sanh tử luân hồi khổ đau.
Nay
ta muốn thoát sanh liễu tử, dứt khổ não luân hồi thì cần phải thực hành theo
pháp môn Giới, Định, Huệ xem đó như một đường lối căn bản cho bước đường tu
tiến và giải thoát của mình.
Sống
cũng là chuẩn bị cho cái chết, mà chết cũng tức chuẩn bị cho cái sống.
Đạo Phật dạy chúng ta sống trong khi sống mà
cũng dạy người ta sống sau khi chết.
Đạo Phật dạy chúng ta tất cả những gì chúng ta
có ở kiếp người hiện tại là do chúng ta tạo được ở trong những kiếp quá khứ. Và
những gì chúng ta sẽ có ở trong tương lai thì cũng chính do chúng ta tu tạo
trong kiếp này.
Giá trị của một cuộc sống một kiếp người là
đặt ở trên căn bản suy nghĩ và hành động của chúng ta.
Cuộc sống đã trải qua mỗi người có một kinh
nghiệm riêng, cái gì đáng quý ở trong cuộc
sống chúng ta, những gì đã thất
bại trong cuộc sống, cho chúng ta một kinh nghiệm.
Phần đông chúng ta đều muốn có một cuộc sống
an lạc, và muốn có một cái chết an ổn, nhưng một điều hiển nhiên nữa là ta
không thể hy vọng chết một cách thanh bình, nếu
đời sống của ta đầy những bạo hành...hoặc nếu tâm ta thường dao động vì
những cảm xúc mạnh như giận dữ, ái luyến, lo âu hay sợ hải.
Bởi thế, nếu ta muốn chết tốt, ta phải học
cách sống tốt. Nếu ta mong có được một cái chết an lành, thì ta phải đào luyện
sự bình an trong tâm ta và trong lối sống của ta.
Ngoài sự chuẩn bị cái chết của riêng ta, một
việc khác không kém phần quan trọng là giúp cho người khác có một cái chết tốt
đẹp.
Khi mới sanh ra đời, chúng ta đều là những hài
nhi yếu đuối, nếu không có sự săn sóc tử tế mà chúng ta đã nhận được, thì chúng
ta sẽ không sống còn. Sắp chết cũng thế, không thể tự túc được, nên ta phải
giúp họ thoát khỏi những bất tiện và lo âu và cố hết sức để giúp họ có một cái
chết thanh thản.
Điều quan trọng nhất là tránh làm những điều
gì khiến cho tâm người sắp chết thêm rối loạn. Mục đích trước nhất của chúng ta
giúp người sắp chết là làm cho họ được thỏa mái, có nhiều cách làm việc này.Với
người đã quen tu tập, nếu khi họ sắp chết mà ta nhắc nhở chuyện tu hành, tinh
thần họ có thể thêm phấn chấn. Một lời trấn an đầy từ ái của ta có thể gợi cho
người sắp chết một thái độ bình an thỏa
mái. Sau khi chết họ thác sinh nơi tịnh xứ.
A DI ĐÀ PHẬT
Trả lờiXóa