Thứ Hai, 20 tháng 8, 2018

KHÁI QUÁT OAI NGHI VÀ GIỚI LUẬT



MỤC LỤC

PHẦN I. OAI NGHI

LỜI  TÂM  SỰ

    Hạ năm 2003. P.L:  2547  Tại Tổ Đình chùa Tịnh độ Tam kỳ Q-Nam, năm nay như mọi năm, chúng giao cho nhiệm vụ dạy các điệu. Vì Tăng sai nên không thể từ chối. Tùng  Hạ chỉ có 6 điệu, nhìn chung tâm lý các điệu vừa yếu lại vừa nhác học, nên không có một sự gợi ý nào để dạy, do đó trải qua nửa tháng đầu không dạy. Với sự ham chơi và oai nghi của quý chú phần đông không chững chạc, làm cho quý vị bổn sư lo ngại. Do đó lần họp chúng này, Ban lãnh chúng đưa ra quyết định phải dạy. Với lý do trên, Ban lãnh chúng, đề ra ý kiến dạy về oai nghi mà nhắm vào sự thực dụng làm chính, và kết hợp cả Sa Di và điệu dạy chung cho tiện.(6 điệu và 6 Sa Di )
     Với điều kiện và tình hình như thế, không thể thối lui, nhưng dạy với đề tài “Oai nghi thực dụng ”, nhìn chung rất khó dạy, vì trình độ văn hoá, trình độ Hán văn quý chú không đồng, vả lại,  24 oai nghi trong luật tiểu, phần đông quý chú đã học trên trường lớp rồi, bây giờ học trở lại, quý chú mang tâm trạng “nghe nhiều thì chán, ngồi lâu mỏi mệt ”, nên học không vô. Hơn nữa 24 oai nghi đã được Ngài Châu Hoằng soạn ra cách đây cả ngàn năm, mà lại từ bên Tàu nên có những điều thích hợp, lại có những điều không thích hợp cho thời đại và phong tục tập quán. Đây cũng là một trở ngại cho việc dạy và học. Căn cứ hai chữ  “ thực dụng ”, tôi bèn suy nghĩ, nhìn chung thực tế tình hình sinh hoạt của Tăng Ni sinh hiện nay, cùng xu hướng xã hội. Do đó tôi tham khảo một số bài giảng của các vị giáo thọ thành phố Hồ Chí Minh cùng với ý trong kinh luật, kết hợp với tình hình hiện tại, soạn ra những bài nói về ý nghĩa và tầm quan trọng của oai nghi, giới luật và thứ đến là ý nghĩa việc xuất gia, mục đích xuất gia, bổn phận người xuất gia. Tôi nghĩ rằng làm một việc gì mà không rõ mục đích và ý nghĩa thì khó mà làm đúng.Ví dụ như đi đường mà quên địa chỉ thì khó mà tới nhà. Cho nên tôi hy vọng những bài được soạn ra đây sẽ trợ duyên cho quí vị đi tu học không đủ duyên gặp thầy hay bạn tốt, không gặp lớp học, nó sẽ bổ túc được một phần nào. Những bài này chúng tôi tham khảo các sách báo trải qua nhiều năm tháng, ghi lại để dành nay có dịp giao lại quý chú cái hoài vọng của mình trong lúc đọc sách xem kinh, để chúng ta cùng tu cùng học, cùng dẫn đến cùng một mục đích mà Phật và Tổ đã dạy, chư tôn đức tiền bối đã hướng dẫn, những lời những ý trong bài đều là của các vị giáo thọ từ thuở phật học (1930) ra đời đến nay chứ không phải tôi tự nói ra, mà quí chú nhìn về con người, mà đánh giá văn tự ngôn ngữ và không có chút lòng tin trong sự thực hành tu học thì bị thiệt  thòi trong nếp sống tu học của mình.
Tôi không phải là chuyên nghiệp và cũng không phải là hạng tài tử văn hay chữ giỏi nên không tránh sự sai sót mong rằng: “được chim quên ná, được cá quên nơm” hy vọng quý chú cũng như có ai nhìn qua mà hoan hỷ cho những chỗ thiếu sót, chưa thấy được.
Hạ 2003  -  Giảng viên trường hạ
Đại Đức Thích Thiện Phương

Ý NGHĨA VIỆC HÀNH TRÌ OAI NGHI

         Oai Nghi: Oai là có cái Uy đáng sợ. Nghi là có cái Nghi đáng kính. Khi một hành giả huân tu ba nghiệp, bên trong tích chứa đức, tạo ra cho mình một nội lực. Do sự gìn giữ ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh mà có một phong cách đáng kính đáng Sợ. Phong cách đó trong đạo Phật từ chuyên môn luật học gọi là Oai Nghi. Hành giả khi đã có phong cách rồi tức đã tạo cho chính mình một đời sống an lạc nơi nội tâm và cũng tạo chung quanh mọi người niềm an vui.Từ nguồn năng lượng an lạc nầy khiến mọi người khi nhìn thấy, họ dễ cảm dễ mến, lúc đó hành giả không nói hoặc không cần phải nói nhiều mà người ta vẫn tin cậy. Đây là loại thân giáo nó được nuôi dưỡng từ ý giáo mà hiển lộ ra qua sự giữ giới thanh tịnh.
 Ngày xưa, trên từ đức Phật dưới đến các vị thánh tăng cho đến ngày nay. Oai Nghi đóng tầm quan trọng trên bước đường hoằng pháp độ sanh. Có rất nhiều ông vua bà chúa, kẻ đạo tặc khi đã nhìn qua phong cách sinh hoạt của Phật và tăng đoàn đã khiến cho họ phải kính phục quy y. Không những vua quan mà mọi tầng lớp nhân dân cũng thế. Oai nghi nầy không những khuất phục được mọi người mà nó còn cảm hoá được những loài cầm thú. Câu chuyện gần thời đại chúng ta là ngài Hoà Thượng Hư Vân,  người Trung Quốc sống 120 tuổi (1840 -1959) (trước HT Hư Vân có Ngài Hám Sơn 1546-1666). Chính bản thân Ngài phát tâm xuất gia cũng do sự cảm kích từ hình ảnh hai vị sư đến nhà mẹ ngài hoá duyên. Qua phong cách đi, đứng, ngồi, nói, ăn trong dịp tiếp xúc này đã gây trong lòng Ngài một ấn tượng đẹp về nếp sống tu học, và lớn lên Ngài đi xuất gia tu học đắc đạo trở thành vị cao tăng của nước Trung Quốc. Cũng chính hình ảnh Ngài mà cả mấy triệu người Trung Quốc và các nước lân cận đã cảm mến đạo Phật phát tâm quy y tu học, ngay đến các loài hạ đẳng như bò, ngỗng, gà, rồng, quỷ thần cũng được Ngài hoá độ quy y. Điều này cho chúng ta thấy rằng Oai Nghi đóng một tầm quan trọng trong đời sống tu học của một hành giả.
Oai nghi nói cho đủ gồm có 8 vạn 4 ngàn oai nghi tế hạnh, còn 24 oai nghi trong quyển luật tiểu là những điều tiêu biểu để chúng ta dễ thấy dễ nghe thực tập trong đời sống tu học hằng ngày.
Hai mươi bốn Oai nghi nói lên nếp sống sinh hoạt đời sống tu học của một người tu trong tập thể (tăng đoàn) cũng như cá nhân (sống độc lập). Những oai nghi nầy nó phản ảnh được nếp sống  nội tâm tu học của một người tu, và là những phương thức thực tập đem lại chánh niệm. 24 Oai nghi giúp cho hành giả tu học ngăn ngừa các lỗi, bảo vệ được giới đức, dẫn người tu học đi vào khuôn phép và thực hành chánh niệm thực tiễn trong đời sống hằng ngày, và nuôi lớn Định Huệ. Uy nghi là oai đức và nghi tắc biểu lộ cái nét đẹp của nếp sống phạm hạnh tâm linh của người xuất gia. Giúp người tu học đi vào con đường chánh đạo, khiến cho hành trình tu học của hành giả được an lạc vững chãi, đưa Sa Di tiếp nhận giới lớn (Tỳ kheo) và làm nền móng cho giới Bồ Tát.
Những Oai nghi không phải là những yếu tố hạn chế và bó buộc đời sống mà trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân,tạo nên sự hoà hợp và an lạc trong đoàn thể cùng tu cùng học. Đồng thời nuôi dưỡng tâm Bồ đề mỗi ngày và sẽ không phụ chí hướng xuất gia của mình.
Trong Phật học, ba môn Giới, Định, Tuệ là con đường duy nhất đưa hành giả đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ lanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ. Ba môn học liên kết với nhau, nhờ vậy mới đủ sức trừ diệt tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời giác ngộ. Nhưng giới học, định học, huệ học mênh mông, nếu không gia công siêng năng học hỏi, không nắm được cương yếu thì khó bề hiểu biết chu đáo đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín, không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy con đường giải thoát bị bế tắc. Như người học hoài mà không hiểu, tu hoài mà không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
 Giới  chia làm hai thứ giới: Tánh giới và già giới, hay tánh tội và già tội. Tánh giới thuộc về giới trọng, già giới thuộc về phần giới khinh, tức các oai nghi.
Thế nào gọi tánh tội? Là cái mà căn bản tính nó là tội, thì dầu có tu hay không tu,  người xuất gia hay tại gia, người người đều cho là tội, cho nên gọi là tánh tội. Ví như các tội: giết người, cướp của, tà hạnh, nói dối, bất cứ nơi đâu, xứ nào thời nào hể vi phạm là bị xã hội lên án và mọi người kết tội. Tuy nhiên người tu khác với người đời là khi đã phát nguyện trước Phật xin giữ giới đó nếu vi phạm thì có tội phạm giới, còn đối với người không phát nguyện thì gọi là phạm tội chứ không phạm giới, chỉ phạm luật pháp của thế gian mà thôi.
     Già tội có hai ý nghĩa: a/ Ngăn ngừa sự vi phạm giới trọng.  b/ Ngăn ngừa sự cơ hiềm của thế sự. Thế nào là ngăn là ngăn ngừa sự phạm giới trọng, ví như, uống rượu không phải phạm tánh tội, hoặc đánh cờ, đánh bạc. Song khi uống rượu vào làm mất hết tâm trí, kích thích phạm các trọng tội, như dẫn đến việc ăn trộm, nói dối, giết người, cướp của. Vậy ngăn sự uống rượu là cách ngăn sự phạm trọng tội. Thế nào là ngăn ngừa sự cơ hiềm? Ví như người tu đi ra đường ở trần không áo, nón v.v...chắc bị thế gian chê cười. Cho nên đã là người tu thì phải ăn mặc nghiêm chỉnh, đi đứng ngay thẳng, nói năng chững chạc, dịu dàng để ngăn ngừa sự cơ hiềm của thế gian.
  Trong truyền thống Phật giáo Việt Nam, người mới xuất gia được cho học và thực tập ngay giới luật và oai nghi của Sa di.
Giới luật và oai nghi được in chung trong một tập thường được gọi là luật tiểu, để phân biệt với luật giải, một tác phẩm chú giải tinh tường về những điều vắn tắt trong luật tiểu.
Luật tiểu gồm cố ba phần; phần một là Tỳ Ny Nhật Dụng Thiết Yếu do thiền sư Độc Thể biên tập. Phần hai là Sa di Luật Nghi Yếu lược do thiền sư Châu Hoằng biên soạn và phần thứ ba Quy Sơn Đại Viên thiền sư Cảnh Sách của thiền sư Quy Sơn.
Sa di Luật Nghi Yếu lược gồm có hai phần. Một phần nói về 10 giới Sa di và một phần nói về oai nghi của Sa di.
 Giới luật và oai nghi có liên hệ mật thiết với nhau, tuy phân biệt ra giới luật và uy nghi nhưng xét cho kĩ thì giới nào cũng là uy nghi và uy nghi nào cũng là giới. Xét chung cả mười giới đều là uy nghi. Ta có thể nói uy nghi cũng là giới nhưng thuộc về giới nhẹ, phạm giới nặng là mất hết tư cách của người Sa di. Còn phạm giới nhẹ thì có thể sám hối được.
 Uy nghi là uy đức và nghi tắc biểu lộ cái đẹp nếp sống tâm linh của người xuất gia. Uy nghi được phối hợp hành trì trong tư thế bốn động tác: đi, đứng, nằm, ngồi của một hành giả trong ba nghiệp  thân, khẩu, ý. Uy nghi của Sa di được trích ra từ các giới kinh, giới bổn và các bộ luật có từ thời Phật tại thế.
Tuy những uy nghi được rút ra từ thời xưa do Ngài Châu Hoằng biên soạn chưa đủ phản ánh hết nếp sống của xã hội thời nay và những nhu cầu thực tập của các Sa di thời đại mới. Ví dụ như thời xưa, chưa có xe hơi, máy bay, tàu thủy, vi tính, điện thoại, cà phê, thuốc lá, bia, giữ tiền bạc, internet v.v... vì thế một số uy nghi ngày xưa chỉ lấy làm tiêu biểu. Với một số nhu cầu phát sinh trong đời sống sinh hoạt thời đại mới mỗi một người tu cần tự xét và chế tác cho mình một số uy nghi trong việc sử dụng những phương tiện hằng ngày, làm sao chuyển tải được ý đạo đi vào cuộc sống tu học mà không phương hại đến đạo hạnh của mình và không phát sanh sự cơ hiềm dị nghị của người đời.
Hành trì uy nghi không những nhắm tới sự ngăn ngừa sự phạm giới và cơ hiềm của thế sự mà còn đưa hành giả vào khuôn phép, giúp cống hiến cho hành giả những phương pháp thực tập chánh niệm thực tiễn, dẫn đến nuôi lớn định tuệ mỗi ngày.
Để thực tập những uy nghi này, các vị Sa di phải thực sự có chánh niệm, nếu không thì đó có thể là những hình tướng giả trang. Giới luật uy nghi là thuyền bè đưa người qua bể khổ, là thầy giỏi chửa trị bệnh nan y. Bởi năm phần công đức lấy giới làm đầu, Vô thượng Bồ đề lấy giới làm gốc. Nếu ai bỏ qua giới luật, uy nghi mà cầu thánh đạo Bồ đề, thì ví như không có cánh mà lại muốn bay cao, không có thuyền mà mong vượt biển, người làm như thế ấy làm sao được ư?
 Thánh giáo truyền vào Đông độ đã trãi qua hơn 2000 năm, con người hoàn cảnh luôn đổi thay, giáo pháp theo thời gian cũng sai lệch, cho dù từ miệng Phật nói ra và thánh nhơn ghi lại, nhưng không có minh sư chỉ dạy thì ai chịu phụng hành? Ngài Châu Hoằng cũng vì thương xót kẻ hậu học thời mạt pháp mà biên soạn ra các giới luật uy nghi để thúc liễm tâm tư của người học Phật, mong sao cho lợi ích trong việc hành trì để mặt trời Phật pháp không bị che khuất bởi bóng tối vô minh.
Đối với thời mạt pháp, lòng người phần nhiều biếng nhác trễ lười, đọc nhiều nghe nhiều sinh tâm chán nản, vì thế các vị luật sự xưa rút ra những tinh ba của giới luật và tóm tắc rút gọn để người đọc người học dễ nằm lòng.
Uy nghi là gì? là có cái oai khá sợ, có cái nghi đáng kính. Thế nào có cái oai đáng sợ? Bởi vì gĩữ gìn tịnh giới, hạnh tốt đầy đủ, rõ ràng tăng tướng, cái đức oai nghiêm nên khiến khá sợ. Thế nào có nghi đáng kính? là đi, đứng đúng phép, vòi vọi dễ xem, hình ngay bóng thẳng, khiến người khá kính, như thế mới thật là đạo phẩm kẻ xuất gia, vị sư phạm cõi trời cõi người vậy. Cho nên có câu:
   “ Tịnh hạnh thành, nhờ đạo nghi
      Trong sạch tròn, nhờ giới phẩm ”.
Oai nghi là vẻ đẹp biểu hiện ra trong những tư thế động tác, ngôn từ và cách tiếp xử của hành giả trong đời sống hằng ngày. Sống trong chánh niệm, từ từ ta có thêm chất liệu của sự vững chắc thảnh thơi và an lạc. Uy nghi là dấu hiệu của sự có mặt của những chất liệu ấy, có những chất liệu này, uy nghi mới thực sự là uy nghi, nếu không thì đó chỉ là những ngụy trang mà ta gọi là giả trang thiền tướng.
 Theo 24 thiên uy nghi của Ngài Châu Hoằng biên soạn ra của thời xưa chưa đủ đối với thời đại mới, do đó Thiến Sư Nhất Hạnh Làng Mai dựa thưa đó mà chế tác thêm các oai nghi cho phù họp với thời đại hiện tại, gồm có 39 chương uy nghi, các Sa di nên cần học hỏi và thực tập để tịnh hóa thân tâm, dẫn đến con đường giác ngộ giải thoát. Sau đây chúng tôi thấy 39 uy nghi của Tăng thân Làng Mai phù hợp với cuộc sống sinh hoạt tăng thân chúng ta trong việc tu học và hành trì, cho nên dẫn trích ra để làm tài liệu hướng dẫn và học tập cho chúng Sa di trong mùa an cư Phật lịch 2552, năm 2008. tại đạo tràng an cư chùa Đạo Nguyên.
{  {   {
 Trước đã sơ lược  một số ý nghĩa trong việc hành trì uy nghi của Sa di, thứ đến ôn lại ý nghĩa của Sa di:
 Sa di nam tiếng Phạn là Sramanera và Sa di nữ là Sramanerika, gọi tắc là Sa di và Sa di ny. Tàu dịch là “Tức từ”, nghĩa là dứt ác làm lành, là dứt cái nhiễm ô ở đời mà phát lòng thành cứu giúp chúng sanh vậy. Còn có nghĩa là “Cần sách” là siêng năng trong ba nghiệp thân khẩu ý tu hành thanh tịnh, còn có nghĩa là “cầu tịch”. Tức là thực hiện con đường tự lợi, lợi tha, dứt ác làm lành hướng đến quả vị Niết bàn.
Đức Như Lai thương xót lập ra 10 điều giới luật, khiến các chúng sanh dứt các tội ác của thân, khẩu, ý mà chứng đặng đạo quả Niết bàn tịch tịnh. Song ác tuy dứt hết nhưng không tâm từ mẫn và không thực hành pháp lục độ, cứu giúp bốn loài bèn đọa vào chấp không của tiểu quả Thanh văn tiểu thừa chưa được gọi là thiện. Huống nữa đặng thành ngôi chánh giác, chứng quả Bồ đề.  Thế nên Phật dạy: “Tuy dứt hết cái ác, nhưng phải làm các việc từ thiện, để giúp ích chúng sanh, thì mới tròn đủ muôn hạnh và mau chứng quả Bồ đề, chẳng sa mắc nơi hóa thành.
Sa di mới đầu xuất gia vâng giữ 10 giới, cố gắng siêng tu dứt trừ tâm phiền não, cầu chứng quả Niết bàn vậy.
Sa di vâng giữ 10 giới và các uy nghi, tức nguyện chấm dứt nếp sống hệ lụy và khổ đau ở thế gian, phát tâm thương yêu mọi loài, bằng trái tim của một vị Bồ tát, không vướng mắc không phân biệt. Hạnh Sa di là hạnh chuyên cần, luôn luôn tỉnh thức, luôn mong đạt đến quả vị Niết bàn, chấm dứt mọi vọng tưởng, phiền não và khổ đau.
Bản chất của đời sống Sa di là sự thực tập 10 giới và các uy nghi. 10 giới và các uy nghi là những biểu hiện cụ thể của sự thực tập chánh niệm, bởi vì chánh niệm là bản chất của tất cả giới và các uy nghi. Vì vậy, giới và uy nghi cũng là chánh niệm. Nhờ có giới mà ta có Định và Tuệ. Nhờ sự thực tập giới, định, tuệ đưa ta vào con đường thánh đạo, giúp ta thực hiện được an lạc, vững chãi và thảnh thơi. Đồng thời 10 giới và các uy nghi giúp ta đi tới tiếp cận giới Tỳ kheo và Bồ Tát.
Giới luật và uy nghi không phải là những yếu tố ràng buộc, câu thúc hay hạn chế và bó buộc.  Trái lại, đó là những phương tiện bảo vệ ta và tạo nên sự  hòa hợp và an lạc cho đoàn thể tu học của mình. Tiếp nhận Phật giới là sự thực tập nghệ thuật sống đời đạo đức thanh cao. Giới luật và uy nghi là những điều khoản bảo hộ cho đời sống đạo đức được tốt. Giới là những hạnh nguyện và những đức tính có thể giúp ta thăng tiến trong cõi tâm linh. Giới là vòng đai bảo hộ sự bình an cho hành giả thực tập và hành trì.  Không quan niệm giới là những điều cấm kỵ, nếu quan niệm như thế thì sự ức chế tâm lý được diễn ra trong tâm thức, rằng mình sẽ bị điều này, bị khống chế bởi điều kia, tạo sự căng thẳng trong tâm thức gắng liền với sự sợ hải lo âu, không được làm, ta bị bắt buộc tạo nên sự đè nén và sự chịu đựng ức chế trong tâm thức.
Nên nhìn giới luật và uy nghi như là một sự bảo hộ, là vòng đai an ninh, và nghĩ rằng giới là một kho tàng đạo đức, là sự bảo hộ cho mình, thì sự thực tập nó trở thành một sự tình nguyện, do đó tâm lý ức chế không có diễn ra, cho nên ta dễ đạt sự vững chãi và an lạc.
Phật dạy người xuất gia trong 5 năm đầu của đời sống xuất gia, đều phải chú tâm đặc biệt tới sự học hỏi và hành trì giới luật và các uy nghi. Năm năm ấy là nền tảng cho sự thành công của cả đời sống một người xuất gia. Thực tập 10 giới và các uy nghi người xuất gia sẽ nuôi dưỡng tâm Bồ đề hằng ngày và không bao giờ phụ chí hướng xuất gia của mình.
(Ngài Châu Hoằng chùa Vân Thê (1535- 1615) cách nay hơn 400 năm, trên các lãnh vực kinh tế văn hóa khoa học luôn thay đổi, do đó sự thực tập thời xưa và nay cũng có sự thay đổi để phù hợp./.








TRỞ  LẠI  VỚI  CHÍNH  MÌNH

Chúng ta sanh ra được làm người, sáu căn đầy đủ quả là một phúc duyên rất lớn, chúng ta lại gặp Phật pháp được thọ trì tịnh giới, sống nếp sống viễn ly sanh tử, thật sự không có thứ hạnh phúc nào ở trên thế gian mà có thể so sánh. Hạnh phúc nầy có được nơi chư huynh đệ nuôi dưỡng ngay từ buổi đầu xuất gia học đạo. Chí lớn muốn mau thành tựu giải thoát đã ấp ủ trong lòng, nên những tình thương, những danh lợi của thế gian ta đã để ra ngoài tai không màn đến. Hạnh phúc này lớn dần theo ngày tháng siêng năng tu tập, nó là Bồ đề tâm, là thứ năng lượng vững chãi để ngăn chận những trở lực của ngoại duyên và tháo gỡ những khổ đau khúc mắc của nội tại. Nếu một lý do nào đó khiến hành giả phải bận bịu, để hạt giống Bồ đề tâm khô héo, có nghĩa là hành giả sống không có an lạc hạnh phúc trong cửa thiền, nên dù có đi lại, đứng ngồi, tiếp xúc, niệm Phật tụng kinh, nhưng thật sự hành giả cảm thấy trống vắng với tâm trạng tư cách của một người thua cuộc.
Vì thế hành giả muốn định đi ra khỏi con đường sanh tử khổ đau, thì phải trang bị cho mình một thứ vũ khí cần thiết để đương đầu với chiến trận phiền não của chúng ma. Vũ khí ấy là Tâm Bồ đề, là năng lượng được nuôi dưỡng từ đời sống tu tập trong môi trường tốt của tăng thân, dưới sự nâng đỡ, yêu thương và che chở của tăng thân, hành giả sẽ tự do lớn mạnh và xây dựng cho mình một pháp thân huệ mạng. Có những hành giả không thấy được điều lợi ích nầy, rồi tách rời tăng thân, sống một mình hoặc ở chung với nhà thế tục, hoặc tranh nhau học lấy cho được những bằng cấp ngoại điển, hoặc cố gắng vào học những trường Phật học, nhồi nhét cho mình càng nhiều kiến thức càng tốt. Nhưng những bằng cấp hay kiến thức ấy dường như không có ảnh hưởng gì đến việc giải quyết khổ đau sanh tử, không giải quyết được những xung đột thắc mắc trong tâm tư hằng ngày của hành giả.
Ngày xưa thiền sư Hương Nghiêm là bậc thông minh xuất chúng, học một biết mười, học mười biết trăm, nhưng với một câu hỏi dường như quá dễ của tổ Qui Sơn: “Trước khi cha mẹ sanh ra, Ta là ai?”. Câu hỏi bất ngờ làm Ngài ngẩn ngơ không biết trả lời như thế nào, khiến cho Ngài phải điên đầu, dùng hết tri kiến đã hấp thụ xưa nay của thầy của bạn của sách vở cũng không thể nào giải nổi. Ngài buồn quá đem hết sách vở kinh điển đốt sạch và tự than rằng: “Bánh vẽ không thể no lòng người đang đói”. Và Ngài quyết định làm một vị tăng quê hèn, bắt đầu thực nghiệm lại những gì từ lâu Ngài lầm tưởng cho là hoa trái. Các huynh đệ của Ngài cũng thế, không có thời gian, không có cơ hội để áp dụng những gì mình đã học vào thực tế. Không tiêu hoá được những đống kiến thức cồng kềnh thành chất bổ dưỡng nuôi sống cơ thể. Như vậy cơ thể sẽ bị suy nhược, bị héo mòn, các huynh đệ vẫn không có gì thay đổi trong khoá trình lột xác từ một kẻ phàm tục trở thành người xuất gia. Từ một chú Sa Di trở thành một vị Tỳ kheo mô phạm cho muôn loài. Các huynh đệ của Ngài vẫn ham thích ăn ngon, mặc đẹp, chỗ ở tiện nghi, ưa chuộng những lời lẽ dịu ngọt, vẫn sẵn sàng bộc phát sân hận trước những gì mình không vừa ý. Vẫn tiếp tay mở cửa cho danh lợi,tình cảm tự do đi vào... vẫn y nguyên như người phàm tục chỉ khác nhau chiếc áo và cái đầu.
Khi đã lầm đường lạc bước vào dòng thanh sắc rồi, chúng ta đã tự cô phụ lại với ý nguyện xuất trần của mình lúc nào không hay không biết, mà không đủ năng lực để quay đầu trở lại. Và tổ Quy Sơn đã từng nhắc: “tiền lộ mang mang,vị tri hà vãng?”. Vâng, nếu như chúng ta có một con đường đi và quyết tâm đi trên con đường ấy, thì chúng ta thực sự đã có hạnh phúc. Nhưng ngược lại, nếu chúng ta thấy xa xa chỉ là khói sương mờ mịt, con đường phía trước mênh mang bơ vơ không biết rẽ lối nào, thì quả là một sự mất mát lỗ lã và đau khổ to lớn nhất trong đời ta. Và rồi chúng ta bỏ áo tu hoàn tục, bản thân chúng ta sẽ đau khổ vì chí nguyện không thành,cha mẹ anh em bà con chúng ta sẽ đau khổ vì ước vọng dỡ dang. Thầy tổ tăng thân chúng ta sẽ đau khổ vì đã để chúng ta đi vào con đường sanh tử đầy khổ đau. Cho nên chúng ta phải cố gắng nuôi nấng nguồn năng lực hảo tâm ban đầu, phải tư duy phản tỉnh thường xuyên, phải dành nhiều thời gian để sống với chính mình và tinh thần nhập thất tránh duyên là phương pháp hữu hiệu nhất của bao đời chư tổ, chư tiền bối đã thực hiện. Cho nên ngoài thời gian nghiên cứu giáo lý,chúng ta phải cố gắng tập nếp sống “độc xử nhàn cư ”, phải biết trâu của mình vốn thích rong chơi, ăn lúa xanh uống nước mát, nên phải canh chừng nó từng giờ từng phút, không để lơi lỏng. Nếu nó ương ngạnh quá phải nhốt vào trong chuồng lần lần trâu sẽ quên đi bầu trời xanh ngát, tự hối lỗi, dần dần thuần thục. Khi đã đạt đến chỗ thuần thục rồi, hành giả nằm trên ngũ dục mà không thèm thuồng, thì lúc đó buông tay vào cuộc đời uế trược để tuỳ duyên hoá độ chúng sanh. Hành giả phải biết và hiểu rõ chính mình, phải biết mình đang bị chứng bệnh nào và tìm phương thuốc nào thích hợp để trị liệu, phải tránh xa những điều kiện và môi trường làm cho con bệnh tái phát. Như người nghiện rượu, không bao giờ đi qua quán rượu, người nghiện thuốc phiện không bao giờ ngồi gần người hút thuốc phiện. Đó là biện pháp tốt nhất cho hành giả đi trên con đường giải thoát.
Dục lạc của thế gian và đặc biệt là ái dục luôn luôn mời gọi, cám dỗ lứa tuổi thanh xuân, những chàng trai cô gái có ý niệm từ chối nó. Nó là thứ lửa dữ sẵn sàng thiêu rụi giới thân huệ mạng của người tu. Thân phận người tu, giống như gánh cỏ khô sẽ khó giữ khi gần lửa, biện pháp càng xa càng tốt.
Năng lực bảo vệ tâm Bồ đề được lớn mạnh là hàng rào tịnh giới. Cho nên sau khi hành giả đã nhận lãnh giới pháp rồi, phải hết sức giữ gìn cẩn thận. Nếu không đủ khả năng giữ giới, hành giả sẽ mất hết công đức thiện căn,bản thể thanh tịnh bị thương tổn, và như thế ta đã nợ cơm áo của đàn na thí chủ. Và chúng ta không đem lại an lạc giải thoát cho họ mà còn thêm lo buồn. Không làm lợi cho Phật pháp lại làm tổn thương Phật pháp. Cha mẹ anh em bà con cũng không vui mà cũng chẳng nhờ cậy được gì. Từ đó chúng ta bị lui sụt, nếu may mắn kiếp sau làm được kiếp người, cũng chỉ làm con người nô lệ để đền trả nợ cũ mà thôi.
Tịnh giới bảo tồn tâm Bồ đề được tăng trưởng, nhưng mỗi người ai ai cũng đã có nghiệp chướng sâu dày luôn luôn làm trở ngại trên bước đường tiến tu của hành giả. Vì vậy hành giả phải chuyên cần lạy sám hối, tụng kinh, niệm Phật, công phu làm những việc phước thiện, nguyện nhờ năng lực gia trì của mười phương chư Phật, cùng với năng lực thiết tha quy mạng của chính mình,thì nghiệp từ kiếp trước dần dần tiêu hoá, khi ấy đối diện với những hoàn cảnh éo le bức xúc xảy ra, hành giả có đủ năng lực điều phục, vững chãi không lo ngại.
Mỗi hành giả tịnh tu tinh tấn là rường cột chống đỡ ngôi nhà Phật pháp, là kẻ giữ gia tài của Như Lai. Gia tài Như Lai để lại đã từng bị những người con không hiếu thảo phá sản gần như khánh kiệt. Người có tâm suy nghĩ, biết lo cho mình, biết thương Phật pháp đang đi vào thời kỳ đen tối. Hãy cố gắng duy trì và phát huy giới luật. Đức Phật đã phó chúc lại cho đệ tử khi Ngài sắp nhập diệt như một lời cảnh cáo nghiêm khắc. Đức Phật dạy rằng: “Nầy các thầy Tỳ kheo! Sau khi ta diệt độ,c ác ngươi hãy tôn trọng trân kỉnh Ba La Đề Mộc Xoa, như người đi trong đêm tối mà gặp được đèn sáng, như người nghèo đói mà gặp được châu báu. Giới luật chính là đức thầy cao cả của các ngươi, dù ta có ở đời cũng không khác gì mấy ”.
Tinh thần học luật và trì luật của nước nhà chúng ta hiện nay đang trên đà xuống dốc trầm trọng. Phần lớn tăng ni ưa chuộng nếp sống tân tiến, tự do phóng túng, không còn tha thiết ghép mình vào khuôn khổ giới luật. Nhưng cũng hy vọng rằng có những vị còn tha thiết với Phật pháp, quyết không theo những vết cũ sai lầm, các vị ấy sẽ làm sống lại hình bóng giải thoát và tinh thần hoà hợp của tăng già. Nếu mỗi hành giả có một tinh thần, một nghị lực, một lối sống đúng pháp thì dầu kiếp này chưa liễu ngộ được chơn tánh, nhưng hành giả không bị đoạ lạc trong sanh tử,k iếp sau chắc chắn sẽ được dự vào dòng thánh.

TRUY  CẦU  KHÔNG  THÔI

Suốt ngày bận rộn cũng chỉ vì
Lo ăn lo mặc chuyện áo y
Ăn mặc đủ rồi,lại suy nghĩ,
Phòng trung còn thiếu vợ đương thì
#
Vợ đẹp,hầu non đều đã đủ
Ra vào xe ngựa lấy đâu đi?
Ngựa đã thành bầy,xe đã sẳn
Lại lo ruộng ít,khó thu chi.
#
Mua được ruộng vườn trăm vạn mẩu
Sợ không quan chức bị người khi
Tam phẩm,tứ phẩm còn chê nhỏ
Ngũ phẩm,thất phẩm có ra gì
#
Nhất phẩm vừa lên quan tể tướng
Lại muốn làm vua chắc có khi?
Thoả lòng lên được ngôi thiên tử
Mơ ước thành tiên sống trường kỳ.
#
Tham vọng leo thang không dừng nghĩ
Vô thường chợt đến,ôm hận đi.

Một mai vô thường đến
Mới hay mộng huyển thân
Muôn việc đem chẳng được
Chỉ nghiệp theo thức thần.

THANH TỊNH VÀ HOÀ HỢP LÀ SỨC SỐNG CỦA TĂNG GIÀ

Sau khi Phật thành đạo,chuyển pháp luân nói Tứ Thánh Đế để độ cho năm anh em ông Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển. Từ đó giáo hội tăng được thành lập. Tăng già là từ không phải dành riêng cho tu sĩ Phật giáo hàng đệ tử xuất gia của Phật,mà là từ đã có sẵn trong ngôn ngữ đương thời của xứ Ấn độ thời ấy.
Đệ tử xuất gia của Phật được gọi là Tăng già, là một cộng đồng tăng lữ, một cộng đồng có đời sống khác với đời sống tăng lữ giáo phái khác đương thời hồi đó. Là một đời sống viển ly dục lạc thế gian,sinh hoạt trong cùng một mục đích, một lý tưởng và một quy chế nhất định, thì đều được gọi là Tăng già. Trong chúng hội đệ tử Phật chỉ có Tỳ kheo và Tỳ kheo ni mới có đầy đủ tư cách để thành một tăng già thanh tịnh và hoà hợp. Chính tư cách nầy là biểu hiện nếp sống cao đẹp trong sinh hoạt thực tiễn của một tăng già riêng biệt với những tăng già khác.
Giáo hội Tăng già thời đức Phật còn tại thế là một giáo đoàn gương mẩu được người thế tục hết lòng kính tin và ái mộ. Dù với số lượng tăng chúng mỗi ngày một đông dần, đời sống sinh hoạt rất nhiều phiền toái, do một số người xuất gia vì cơm áo ít nhiều xen tạp vào tăng đoàn, nhưng giáo đoàn vẫn giữ được một màu thanh tịnh và hoà hợp như nước với sữa. Vì đức Phật đã kịp thời ban hành những quy chế thích hợp để ngăn chận sự manh động của ba nghiệp,giúp cho những hành vi hữu lậu mau chóng gội rửa để thành tựu quả vị giải thoát.
Từ khi Phật thành đạo, trong khoảng 12 năm đầu, phần đông tăng chúng xuất gia là những vị có căn tánh sâu dày, cộng với hảo tâm xuất gia, cùng với sự nổ lực công phu tu tập vững vàng. Các vị ấy không bị nhiễm ô trần tục. Chỉ đơn giản hành trì giới luật trên tinh thần của một bài kệ Phật nói ra:
“ Chư ác mạc tác  -  Chúng thiện phụng hành,
  Tự tịnh kỳ ý      -  Thị chư Phật pháp”.
 Ý nghĩa giới luật được gôm trọn trong bài kệ bốn câu, mà chư tỳ kheo của 12 năm đầu đều tu chứng A La Hán. Chỉ cần vài lời khuyên đơn giản như vậy: “Thận trọng lời nói - Thân không làm ác - Giữ cho ý thanh tịnh” là lập tức quý vị ấy ra khỏi trần lao phiền não, dự vào dòng thánh thì đức Phật không cần phải ban hành những quy chế khắt khe để làm gì? Song đến năm thứ 13, sự thanh tịnh trong giáo đoàn không còn giữ vững, bởi tăng đoàn càng lúc càng đông lớn mạnh. Sự ngưỡng mộ tín tâm của quần chúng đặc biệt ưu ái đối với đệ tử Phật. Đời sống tu sĩ được ưu đãi trên tinh thần lẫn vật chất, khiến cho những người không phải hảo tâm xuất gia ham thích sự nhàn hạ, vì thế người đời lẫn ngoại đạo lần bắt đầu gia nhập trà trộn vào tăng đoàn. Theo thông lệ cái gì lên cao rồi có lúc phải xuống thấp, giáo đoàn đệ tử Phật không ra ngoài thông lệ ấy. Do những phần tử bất hảo ấy gia nhập tăng đoàn với mục đích lợi dưỡng hơn là con đường tiến đến mục tiêu giải thoát. Số tỳ kheo giả dạng,mượn đạo tạo đời ấy từ từ sống xa rời hạnh thanh tịnh giải thoát, gây xáo trộn tăng đoàn. Từ đó người thế tục không còn kính nể nữa,bắt đầu lại cơ hiềm, uy tín tăng đoàn ngày một giảm. Với tình trạng như vậy đức Phật bắt đầu chế ra giới luật để thống nhiếp tăng chúng, giúp cho từng cá nhân một,tự phản tỉnh gạn lọc sự nhiễm ô và làm thanh tịnh trong tâm mình và định mức tiến hoá trên con đường thánh thiện.
Giới luật bắt đầu ban hành, theo từng sự việc vi phạm xảy ra sai lệch trong đời sống sinh hoạt của tăng đoàn. Cứ mỗi hành vi sai quấy là một điều giới luật được đặt ra, như vậy có rất nhiều hành vi sai quấy suốt thời gian 49 năm đức Phật thuyết pháp giáo hoá, mà giới điềuTỳ kheo lên đến 250 và Tỳ kheo ni 348 giới. Mỗi học giới đều mang tính cách giải thoát riêng biệt,nhưng không ngoài hai đặc tính cơ bản là thanh tịnh và hoà hợp. Thanh tịnh và hoà hợp là hai điều kiện chính yếu, để hình thành một giáo hội tăng già lớn mạnh đặc trưng cho tinh thần giải thoát.
Nếu Tỳ kheo luôn sống trong tinh thần đoàn kết và hoà hợp như nước với sữa, mà không phản ảnh sinh động được những giáo lý cơ bản của đức Phật, nghĩa là không giải thoát được cho ba nghiệp ra khỏi trần lao phiền não, không tạo được nền tảng vững chắc cho các pháp vô lậu giải thoát phát sanh,thì coi như ý nghĩa tăng già không thành,không thể tiến hành bất kỳ một pháp sự nào.
Trong Tăng Chi III ghi lời Phật dạy, thẩm định về người không giữ giới như sau: “ Này các Tỳ kheo, như tử thi bị ném vào biển, nhưng biển không dung chứa tử thi. Nó sẽ đẩy tử thi vào bờ. Cũng vậy, nếu Tỳ kheo nào không giữ được hạnh thanh tịnh, thì tăng già sẽ không sống chung với kẻ ấy. Dù kẻ ấy có sống chung giữa chúng tăng,kẻ ấy cũng xa rời tăng chúng và chúng tăng cũng xa rời kẻ ấy ”.
Ngược lại, nếu tăng đoàn đều thanh tịnh, không cấu nhiễm, nhưng không có một quy ước chung, một giới luật để hành trì, thì mỗi người sẽ nói năng hành động theo mỗi kiểu, không ai nâng đỡ ai, không ai sống vì ai, tự thanh tịnh tự giải thoát, thì tăng đoàn sớm muộn gì cũng tan rã, không còn chỗ đứng. Điển hình khi Phật còn tại thế, các giáo sĩ Bà La Môn cũng có uy tín và chỗ đứng cao trong lòng người thế tục,vì họ cũng có đời sống phạm hạnh. Song đem so sánh với giáo đoàn xuất gia của đệ tử Phật thì người đời không kính phục và đánh giá thấp. Vì tổ chức của họ không có hệ thống,nói năng hành động của họ kẻ trên người dưới đều tuỳ tiện, hội hộp giải tán đều trong niệm bất hoà xung đột, tranh cãi lẫn nhau, không có tôn ty trật tự. Cho nên thanh tịnh và hoà hợp là hai điều kiện hết sức quan trọng và tương quan mật thiết với nhau. Nếu thiếu một trong hai điều kiện này thì bản thể tăng già nhất định không thành tựu.
Chánh sự hoà hợp và thanh tịnh này của chư đệ tử Phật mà vua Ba Tư Nặc nhiều lần chứng kiến lối sanh hoạt của tăng đoàn, mà phải thốt lên lời kính phục: “Bạch đức Thế Tôn, con thường thấy vua chúa tranh chấp với vua chúa, Sát Đế Lợi thường tranh chấp với Sát Đế Lợi, bạn bè thường hơn thua với bạn bè, anh em hơn thua với anh em,vợ chồng xích mích với vợ chồng ...con thấy các thầy tỳ kheo sống với nhau rất thuận hoà và thân hữu không tranh cãi nhau, hoà hợp với nhau như nước với sữa, nhìn nhau bằng con mắt ái kính. Bạch đức Thế Tôn, ngoài ra con không thấy một đoàn thể phạm hạnh nào khác viên mãn hoà hợp thanh tịnh như thế.”
Vì thế, giáo pháp của đức Phật đòi hỏi phải có sự nỗ lực cá nhân, chứ không phải kinh nghiệm của tập thể. Sự toàn diện đạo đức của mỗi cá nhân là nét đẹp trang nghiêm cho đoàn thể. Mỗi một tỳ kheo hay tỳ kheo ni sống đúng như pháp như luật là nguồn năng lực vô biên cho sự lớn mạnh của tăng già.
Từ khi đức Thế Tôn nhập Niết bàn cho đến ngày nay đã trải qua bao nhiêu đợt xuân thu mà giáo hội tăng già Phật giáo vẫn bền vững tồn tại, giữa muôn nghìn sóng gió thăng trầm biến đổi của thời gian không gian. Chính là nhờ có giới luật làm cương lĩnh thống nhiếp mà giá trị thanh tịnh hoà hợp luôn luôn thành tựu. Song nếu sự thanh tịnh hoà họp phải được nâng cấp đúng giá trị của nó, nghĩa là giới luật được giáo hội tôn trọng lên vị trí hàng đầu, như nhịp tim cùng hơi thở thì có thể khẳng định rằng, không có một pháp sự nào là không thành công, một trở lực nào, hay một giáo phái nào có thể lấn áp được.
Chúng ta không thể phủ nhận những giai đoạn Phật pháp của thế giới nói chung nước nhà nói riêng đã có nhiều lần rơi vào thời kỳ đen tối. Nguyên nhân có thể do hoàn cảnh xã hội bên ngoài, nhưng chính yếu là do sự suy thoái lỏng lẻo thiếu thanh tịnh và hoà hợp bên trong nội bộ của tăng đoàn làm chủ yếu. Bởi vì chỉ có trùng trên mình con sư tử mới có thể ăn thịt của con sư tử. Điều đó nói lên rằng, sức mạnh của giáo hội tăng già như chúa tể của rừng xanh, đầy đủ năng lực sang bằng mọi trở ngại, nếu như từng tế bào một trong cơ thể sư tử luôn luôn lớn mạnh không bệnh hoạn, hư nát. Cho nên mỗi thành viên chúng ta hãy nhìn xa ba cõi, sáu đường chúng sanh đang chịu đoạ đày đau khổ, nhìn tiền đồ Phật pháp dần lu mờ về tương lai, mà từ bỏ những ham muốn tầm thường ích kỷ riêng tư, những phân biệt kỳ thị, những cái ta nhỏ bé mà cùng hoà đồng, cùng nắm tay nhau trong nguồn sinh lực thanh tịnh hoà hợp, để trang điểm lại gương mặt Phật pháp cho mỗi ngày nét giải thoát uy nghiêm thêm lên, rạng rỡ lại như thuở ngày xưa./.



 XUẤT GIA VÀ MỤC ĐÍCH CỦA XUẤT GIA

Xuất gia là gì?

Giới xuất gia chân chính là mở đầu từ Sa di Thập giới, Sa di không thọ Thập giới, không được kể là người xuất gia hợp cách. Vì thế Sa Di Thập giới là cơ sở của xuất gia. Mục đích của giới xuất gia là cầu đắc đạo Niết Bàn giải thoát sanh tử. Ba đời chư Phật ở hiện tại nhân gian thành Phật đều là hiện tướng xuất gia, không có đức Phật nào không xuất gia mà thành Phật, vì thế Sa Di giới lại là cơ sở của đạo giải thoát. Xuất gia chẳng phải là điều Phật giáo phát minh trước nhất, cũng chẳng phải chỉ Phật giáo mới có. Mà ở Ấn Độ, trước khi đức Thích Tôn giáng thế cũng đã có nhiều thứ ngoại đạo. Sa Môn có nghĩa là dứt tâm, hoặc tịnh chí, là tên gọi chung của Ấn Độ đối với các hạng người xuất gia. Sau khi Phật giáo sáng lập để phân biệt với Sa Môn ngoại đạo ( như Sa Môn Bà La Môn ) cho nên gọi người xuất gia của Phật giáo là Sa Môn Thích tử, nghĩa là đệ tử xuất gia của Phật thích Ca.
Quan niệm về hình thái tu hành gần như là hiện tượng chung của các tôn giáo cao cấp trên thế giới. Mục đích tối cao của tôn giáo đều là tìm cầu sự giải thoát ra khỏi nhục dục và sự tự tại của tâm linh. Vì thế, một tôn giáo được gọi là tôn giáo, bất luận thủ đoạn và phương pháp như thế nào? Sự tìm cầu của nó tất nhiên cũng là xuất thế.
Chính vì sự yêu cầu xuất thế, nên sinh hoạt xuất gia trên tinh thần cấm dục vẫn là trình tự tất nhiên của sự tu hành.
Do đó, trừ Hồi giáo ra, các tôn giáo cao cấp Đông phương, Tây phương đều có bao hàm ít nhiều sắc thái xuất thế hoặc tư tưởng cấm dục.
Hình thái xuất gia, tuy các tôn giáo đều có, song xuất gia mà được thật sự đạt đến cảnh giới giải thoát sanh tử thì chỉ có Phật giáo. Do vì hình thái xuất gia tuy gần giống nhau, nhưng nội dung xuất gia hoàn toàn bất đồng. Xuất gia theo các tôn giáo khác dù có lý do và phương pháp tu trì của họ, song đó là điều dường như đúng mà sai, vì tu luyện mù quán, tự tìm khổ cực, không có căn cứ, cho đến xuất phát từ sự chấp trước cuồng nhiệt và sự mê tín vô lý. Còn sanh hoạt tôn giáo của Phật giáo là đặt nền móng trên nhân tính từng cấp thăng hoa, là xuất phát từ lý trí phán đoán quyết trạch, là từ trong cảnh giới đích thân chứng ngộ của Phật lần lược lưu xuất,chứ không phải là cấm dục cực đoan, mà là căn cứ vào suối nguồn của lý tánh thuận với sự đề cao nhân tánh mà tiếp thông thấu suốt với sinh hoạt xuất gia. Vì thế  sinh hoạt xuất gia của Phật giáo là đặt nền tảng quan hệ của nhân luân để làm thăng hoa từng bậc, từ sinh hoạt tại gia ngũ giới, bát giới, đến sinh hoạt xuất gia của Sa di thập giới và tỳ kheo giới. Ngũ giới đặt nền móng từ quan niệm luân lý của xã hội loài người. Do đây, Phật giáo dù mong muốn mọi người đều tin Phật, học Phật, nhưng tuyệt nhiên không ép buộc mọi người đều phải xuất gia. Muốn biết người nào đã có thích nghi với sự xuất gia ở trong Phật giáo hay không, chỉ cần xem người đó có tiếp thọ được tinh thần của giới luật hay không (do quan niệm luân lý thăng hoa mà thành). Giới luật xuất gia do quan niệm luân lý thăng hoa mà làm thành, đó là đạo Niết Bàn giải thoát sanh tử. Đây chẳng phải là sự siêu xuất sanh tử một cách đột nhiên, mà là do nhân tánh của luân lý nhân gian hoặc sự thăng hoa từng cấp của lý tánh hoàn thành. Vì thế, đây chẳng phải là vô căn cứ, mà là đặt trên nền móng thăng hoa sinh hoạt tại gia của cái nhân sanh tử, cuối cùng, do sự thoát xác để đạt đến cảnh giới Niết Bàn siêu thoát sanh tử. Điều này hoàn toàn bất đồng với hình thức và quan niệm của thần giáo dựa vào lực lượng của Thượng đế cứu chuộc. Thượng đế cứu thế của ngoại đạo là tố cáo sự mê tín thần bí, cho đến tương tự như ma thuật hoặc ma tuý của tính chất thôi miên, có thể chân chính  đạt mục  đích  giải thoát sanh tử được ư?    

 I-  Định nghĩa

Theo Pali: nghĩa là khước từ những điều mơ ước thế gian, để chọn lấy đời sống tu sĩ, và còn có nghĩa là tạm thời vượt ra khỏi các pháp che lấp Niết Bàn bằng cách thực hiện con đường tu tập giới, định, tuệ.
Trong kinh Nikaya của Thượng toạ bộ định nghĩa: Xuất gia nghĩa là cạo bỏ râu tóc, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, mặc áo hoại sắc, sống trong pháp Phật. Và còn một nghĩa rộng lớn hơn thì xuất gia gồm có ba nghĩa:
a- Xuất thế tục gia    b- Xuất phiền não gia  c- Xuất tam giới gia.
a- Xuất thế tục gia: Theo đơn thuần trên văn tự là “ra khỏi nhà thế tục”. Thế tục ở đây là chỉ cho gia đình, cha mẹ, vợ con, anh em, thân bằng quyến thuộc. Danh vị lợi dưỡng của thế tục. Đây cũng là một sợi dây “tình ái, và ái luyến ” mà mọi người trong thế gian khó có thể vượt qua. Nói rộng ra hơn: Nhà thế tục còn bao gồm cả xã hội, đến tất cả con người cùng sống trên thế gian nầy, đầy dẫy những tranh đua, danh lợi, tham đắm trong ngũ dục. Với lòng tham đắm vô tận,chẳng biết đến bao giờ mới được vừa lòng thoả ý, để rồi phải chuốc lấy với bao nổi khổ vào thân. Trong kinh Pháp Hoa phẩm Ví dụ gọi thế gian này chẳng khác nào ngôi nhà lửa. Do vậy người có chí hướng ra khỏi nhà thế tục tức phải có một tâm hồn hướng thượng, chuẩn bị sẵn cho mình đầy đủ nội lực, tư tưởng để làm cuộc cách mạng nội tâm, một tinh thần quyết chí dũng mãnh mới mong thoát ra khỏi ngôi nhà tình ái thế gian nầy, để hướng tới một chân trời cao rộng.
b- Xuất phiền não gia: Những sự tác động bên ngoài thế gian biết bao phiền toái, nhưng đó cũng chỉ mới là phần ngoại cảnh. Phiền não ở đây là chỉ cho phần nội tâm của mỗi người chúng ta. Trong kinh Pháp cú, có nói rằng “Tâm là chủ, Tâm dẫn đầu các pháp, Tâm tạo tác, nói hay làm với tâm ô nhiễm thì sự khổ sẽ kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo”. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Nhất thiết duy tâm tạo ”.
Qua những lời dạy trên chúng ta thử nhìn lại trong tâm chúng ta có bao nhiêu điều phiền não.Chỉ có một tác động nhỏ cũng làm cho tâm ta ô nhiễm rồi nếu đó là bất thiện. Do vậy, dù ngoại cảnh hay nội tâm, khi tâm ta tác động đến điều bất thiện thì biết bao nhiêu phiền não dấy lên. Theo Duy thức học, thì phiền não có nhiều thứ, nói lược gồm có 6 thứ căn bản (tham, sân, si, mạn, nghi và ác kiến). Riêng ác kiến lại có 4 (Biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ). Cho nên việc ra khỏi nhà phiền não không phải đơn thuần một ngày hai ngày mà cần trải qua quá trình tu tập trong sự cần mẩn và thanh tịnh. Cho đến giai đoạn thấy được chân tướng của phiền não mới mong đoạn trừ.
c- Xuất tam giới gia: Có nghĩa là ra khỏi ngôi nhà ba cõi. Nhìn chung trong ba cõi này vẫn không ngoài sự tham đắm về ái và dục. Tham đắm ở đây không ngoại trừ điều thiện. Như trong kinh đức Phật cũng đã dạy cho hàng Phật tử về phương pháp tu thập thiện sẽ được sanh thiên. Nhưng cõi trời đó vẫn còn lẫn quẩn trong ba cõi. Cho nên việc tu tập để vượt ra ngoài phạm vi tam giới, không phải ở đâu xa vời, mà chính ngay trong cõi mà ta đang sống. Miễn rằng tâm ta đừng để dính mắc, chấp trước.

II - Tính chất và tác dụng của sự xuất gia

Trong Phật giáo, người xuất gia phân làm 5 hạng là Sa Di, Sa Di Ni, Thức Xoa Ma Na, Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni. Năm hạng này là năm đẳng cấp.hoặc năm loại. Người nam thọ thập giới gọi là Sa Di. Người nữ thọ thập giới gọi là Sa Di Ni. Người nam thọ toàn bộ giới của xuất gia gọi là Tỳ kheo. Người nữ thọ toàn bộ giới của giới xuất gia gọi là Tỳ kheo Ni. Thức Xoa Ma Na là một quá trình của giai đoạn giữa từ Sa Di ni đến Tỳ kheo ni.
Về tính chất xuất gia, Phật giáo phân làm ba loại:
1- Thân xuất gia, tâm xuất gia: Đây là chỉ cho những người xuất gia có chí hướng thượng, mặt dù thân thể ở tòng lâm, tự viện hay núi rừng, nhưng tâm họ không còn nghĩ tưởng đến những khoái lạc ngũ dục thế gian, sống một đời thiểu dục tri túc, luôn luôn nghiên cứu tư duy, sống trong giáo pháp Như Lai. Tự tại an lạc, giải thoát, làm lợi cho mình, lợi người. Đây là phép tắc xuất gia chân chính, là bổn phận chính yếu của người xuất gia trong đạo phật.
2-Thân xuất gia, tâm không xuất gia: Có người tuy cạo tóc mặc tăng phục, trụ tự viện, không cưới vợ, không lấy chồng hoặc cũng giữ được thân thanh khiết, song nội tâm của họ lại khao khát tưởng nhớ đến ngũ dục. Họ vì sanh hoạt cho đến vì danh vọng và địa vị xã hội mà xuất gia. Đối với phương thức sanh hoạt của xuất gia tuy họ không cảm thấy hứng thú, nhưng vì vấn đề sanh hoạt và sự bó buộc của quan hệ xã hội nên miễn cưỡng xuất gia. Những hạng người này thật đáng thương xót, họ không được cái thú vị của sanh hoạt hiện thực, cũng không được sự lợi ích của Phật pháp, họ lại sẽ bị quả báo đời vị lai rất đáng sợ, do vì họ đối với tín ngưỡng Phật giáo có vấn đề, nên sinh hoạt xuất gia của họ cũng không thể hoàn chỉnh và có lỗi lầm. Vì thế đây là một loại người xuất gia bị Phật quở trách, rất thường thấy ở đời mạt pháp.
3- Tâm xuất gia, thân chẳng xuất gia: Đây là Bồ Tát đã chứng Thánh vị, các ngài không tham luyến cái vui ngũ dục, vì hoá độ chúng sanh nên thường hoá hiện thân phận người tại gia có vợ sanh con, như các ngài Duy Ma, Hiền Hộ...Các Ngài tuy ở tại gia có vợ con, nhưng tâm các Ngài không nhiễm, không đắm, không tham, không dục, thanh tịnh sáng suốt. Nhưng đây không phải là phép tắc thông thường của xuất gia, nên chẳng thể thành phương thức của sinh hoạt xuất gia.

Tác dụng của xuất gia

Phương thức sanh hoạt xuất gia của Phật giáo cũng có tác dụng nhiều tầng:
1- Vì lý do liễu sanh thoát tử mà có: Đây là đặt nặng sự hướng về tinh thần xuất thế mà có yêu cầu của sinh hoạt xuất gia.
2- Vì lý do cảnh tỉnh và dẫn dắt thế tục mà có: Đây là vì đối trị những người mê luyến trong trận đồ thanh sắc, chìm đắm say sưa trong biển ngũ dục, mà mở ra pháp môn thức tỉnh và giải độc.
3- Vì lý do Phật pháp trụ ở thế gian mà có: Đây là để ý vào sự kiến lập tăng đoàn mong có quy luật để vĩnh cữu triển khai và nối tiếp nhiệm vụ hoằng dương Phật pháp.
Nhưng đã xuất gia trong Phật pháp, tuyệt đại đa số phải có toàn bộ tác dụng ba thứ: Đối với chính mình là cầu giải thoát sanh tử. Đối với người khác là vì cảnh tỉnh dẫn dắt thế tục. Đối với Phật pháp là vì trụ trì hoằng dương.
Ba điều nầy thiếu một thì không hoàn mỹ, xuất gia mà không tự cầu thoát ly sanh tử thì chẳng cần xuất gia. Xuất gia mà không cảnh tỉnh dẫn dắt thế tục, ấy là trái với tinh thần Phật pháp giáo hoá thế gian. Xuất gia mà chẳng trụ trì Phật pháp, ấy là cô phụ cái ân lớn lao của Phật.

III. Mục đích của xuất gia

Trong Quy Sơn Cảnh Sách, Tổ Quy Sơn dạy rằng: “Phù xuất gia giả,phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, thượng báo tứ ân, bạt tế tam hữu”. Nghĩa là, người xuất gia là khi cất bước, thì tâm hồn muốn vượt đến một chân trời cao rộng. Tâm tánh và hình dung khác người thế tục, tiếp nối dòng giống của Phật một cách rạng rỡ. Làm cho ma quân phải khiếp sợ, khuất phục. Với mục đích trên nhằm báo đáp bốn ân, dưới cứu giúp ba cõi.
Với định nghĩa trên, thì điều chính yếu của người xuất gia là hướng đến chân trời cao rộng, sống trong giáo pháp Như Lai, luôn luôn tư duy tu tập không ngừng nghĩ, hầu mong đạt được sự an lạc giải thoát đích thực ngay trong đời nầy và nhiều kiếp về sau, nhằm đem lại sự an lạc đó dẫn dắt chúng sanh.
Để đạt mục đích tối thượng, Hành giả phải lấy phương pháp tu trì tam vô lậu học làm cơ sở nền tảng. Nhờ trì giới và tu định mà phát sanh trí tuệ và công dụng của trí tuệ là chỉ đạo, tự mình tu giới và định. Từ đó mới có khả năng tự giác giác tha, tự lợi lợi tha.
Có người quan niệm ý nghĩa của xuất gia gần như đồng với sự tự sát. ở trên sự nghiệp, tình ái, tiền bạc, danh vọng địa vị bị thất bại, bị đả kích quá nặng, gặp sự thất bại khó thể vãn hồi, vì thế tâm ý trở nên khô khan lạnh lẽo, không còn có chút dũng khí đối diện với hiện thực. Lúc không còn muốn phấn đấu nữa, thì con đường thứ nhất rất giản đơn là dùng phương pháp tự sát để kết thúc cái sinh mạng không biết phải làm sao. Con đường thứ hai tuy không đơn giản nhưng cũng rất dễ là lánh vào cửa Phật, cạo tóc xuất gia làm bạn với mõ chuông cho qua kiếp sống tàn. Quan niệm này tuyệt đối không phải bản lai diện mục của xuất gia Phật giáo, nhưng cũng không thể phủ nhận thật có những nhân vật như thế đi vào cửa Phật xuất gia.
Những nhân vật này đi vào cửa Phật không có sự kiến lập lớn lao và cũng không đến nổi có sự phá hoại lớn lao, nhưng trên xã hội, sự kỳ thị đối với tăng lữ của nhà Phật là do những người này mà ra. Thật ra, đệ tử xuất gia thời Phật còn tại thế đa số là tỳ kheo ở nhân gian, chỉ một thiểu số ở núi rừng là Tỳ kheo A lan nhã chuyên trì giới và tu thiền.
Tỳ kheo ở nhân gian là người xuất gia lấy sự hành hoá nhân gian làm chủ yếu. Người xuất gia vốn giải thoát sanh tử cố nhiên phải tu thiền, tu thiền cố nhiên là liễu sanh thoát tử, song nếu tham đắm cái vui thiền định thế gian thì trái lại, nhân vì tu tập thiền định mà làm chướng ngại pháp môn giải thoát sanh tử.
Vì thế người xuất gia Phật giáo, lấy sự cầu trí tuệ làm mục đích, thứ nhất đem trí tuệ giáo hoá nhân gian làm nhiệm vụ chủ yếu bậc nhất. Đến như trì giới làm một phương pháp đoạn tuyệt cái nhân sanh tử, song trì giới mà chẳng nhàm lìa sanh tử thì công đức trì giới chỉ có thể được quả báo nhân thiên, chớ chẳng thể liễu sanh thoát tử. Như chỉ cầu tự mình giải thoát mà không trợ giúp cho người khác giải thoát, tối đa thành  A La Hán chứ không thể thành Phật. Trong phương pháp tu trì của Phật giáo, ba môn học giới, định, tuệ đều coi trọng. Mục đích của trì giới và tu định là để sanh huệ, công dụng của huệ là chỉ đạo tự mình tu giới, định và độ người khác giải thoát, vì thế trong ba môn không thể thiếu một môn và lấy huệ làm trung tâm.
Người xuất gia buông bỏ tất cả, thấy suốt tất cả, không tranh thị phi, không phân biệt nhân ngã, trường đoản, vì thế rất khó được. Nhưng cũng vì thế mà bị một số người hiểu lầm cho rằng đây là biểu hiện của tư tưởng tiêu cực. Kỳ thật người xuất gia của Phật giáo chính mình buông bỏ, thấy suốt và dạy người khác buông bỏ, thấy suốt, ấy là tích cực. Tội ác và hoạ hoạn của nhân gian đâu chẳng phải hoàn toàn là do người  không buông xuống, thấy không suốt mà  tạo ra ư? Người xuất gia chúng ta một bên dạy chính mình và một bên dạy người khác buông bỏ, thấy suốt, đồng thời cũng dạy chính mình và người khác lập tức đảm đương. Danh lợi tư dục, cần phải buông bỏ, thấy suốt, cứu người giúp người cần phải lập tức đảm đương. Đây có thể kể là tiêu cực được ư?
Vì thế mục đích xuất gia của Phật giáo: Một là tự mình cầu giải thoát, hai là trợ giúp người khác giải thoát, và lấy việc tự cứu mình cứu người đồng được giải thoát làm mục đích.
Phật giáo có một câu cổ huấn: “Xuất gia là việc của bậc đại trượng phu, chẳng phải việc quan tướng có thể làm được”. Quan tướng là điển hình của hào kiệt, đại trượng phu là điển hình của thánh hiền. Hào kiệt dựa vào khí thế mà thành. Thánh hiền bám vào khí chất mà thành. Khí chất của thánh hiền có thể hàm dung khí thế của hào kiệt, trong khi khí thế của hào kiệt chưa chắc có khí chất của thánh hiền. Người xuất gia của Phật giáo lấy Phật làm điển hình để noi theo. Phật vì giải thoát cái khổ sanh tử của chúng sanh và giải đáp câu đố sanh tử cho chúng sanh mà xuất gia tu chứng. Mục đích của người xuất gia trong Phật giáo, trên nguyên tắc là giống như Phật. Ra khỏi nhà thế tục, lìa bỏ vợ con, là đi ra khỏi cái nhà khổ hải của cái khổ sanh tử và cũng là vì trợ giúp người khác cho đến tất cả chúng sanh cũng ra khỏi được cái nhà khổ hải của cái khổ sanh tử. Vì thế trong Phật giáo tốt nhất là nên xuất gia vào lúc tuổi trẻ, sức lực còn cường tráng. Nếu vì thất bại trên đường tình ái và sự nghiệp mà xuất gia, phật giáo tuy không cự tuyệt song cũng không cổ động và không thể nào nhiệt liệt hoan nghênh những kẻ ấy./.
Phụ trương
Tu Hành: Tu nghĩa là tu Tâm dưỡng Tánh. Hành nghĩa là hành vi đàng hoàng, đoan chánh.
Trọng điểm của tu hành là tu ở trong tâm, biểu hiện đức độ ra bên ngoài, chẳng ai thấy cho thấu chuyện bên trong tâm bạn. Duy chỉ có sự biểu hiện ra bên ngoài, đàng hoàng đạo đức, mới hiển thị được sự thanh tịnh ở bên trong. Tu hành là do nơi mình, dựa vào sự tinh tấn của chính mình để khai mở giác tánh sáng suốt, chớ nên hy vọng rằng không tu mà đắc quả. Tu hành nào phải đàm luận triết lý cao siêu, nói những quan niệm sâu sắc trừu tượng. Tu hành là sự hiểu biết rất gần gũi, rất bình thường về tánh bản nhiên của lòng người.
                                   #
Xuất gia là chuyện chung thân, cũng giống như chuyện con gái đi lấy chồng vậy. Cần phải vô cùng thận trọng. Lấy chồng không nên kích động đường đột quyết định. Xuất gia cũng cần chọn lựa chắc chắn với lòng thanh tịnh sáng suốt. Lấy chồng là bước vào một gia đình khác. Xuất gia là bước vào nhà Như Lai. Nó cần bạn gánh vác gia nghiệp của Như Lai, tức là gánh vác toàn thể chúng sanh vậy. Nó khác hẳn với người tại gia. Sự gánh vác này không những vừa nặng mà vừa lâu, vạn nhất nếu gánh không nổi thì phải làm sao? Bạn phải suy nghỉ cho kỷ càng, không nên trong lúc cảm tình nông nổi, phiền não xao động rồi lập quyết định.  Xuất gia thì thật đáng lo cho số phận của mình và đạo pháp./.
Trong tất cả pháp môn đều có một chỗ chung đồng không thể phủ nhận. Đó là sức tỉnh giác. Biết rõ vọng tưởng, không bị đồng hoá với vọng tưởng, không trôi theo vọng tưởng và có thể hoá giải vọng tưởng.
                 PHÁP NIỆM PHẬT:
CÓ TIẾN MÀ KHÔNG THỐI. CÓ LỢI MÀ KHÔNG TỔN.
Ít nói một câu chuyện
Nhiều niệm một câu Phật
Đánh chết được vọng niệm
Pháp thân người hiển lộ
#      #
HỌC TẬP VÀ BẢO VỆ CHÁNH PHÁP LÀ NHIỆM VỤ CHÍNH YẾU CỦA  NGƯỜI PHẬT TỬ.
**         **         **
Tam bất hủ: Ba điều không mục nát, không mai một, được lưu truyền mãi mãi, làm lợi ích cho nhiều người,nhiều thế hệ con người. Đó là:
1- Lập đức: Làm nên việc đức như cứu vớt chúng sanh, giúp ích xã hội.
Như đức Phật nói ra giáo pháp dạy chúng sanh tu hành ra khỏi khổ...các bác sĩ, kỷ sư nghiên cứu ra các phương pháp trị bệnh cứu chữa con người bớt bệnh hoạn, chế ra máy móc giúp cho con người đỡ sức lao động v.v...
2- Lập công: Làm nên công nghiệp, sự nghiệp, như có công dựng nước, có công giữ nước, ví như các vị tướng có công đánh đuổi giặc ngoại xâm, dành độc lập tự do chủ quyền cho đất nước, khiến dân chúng an cư lạc nghiệp, không khổ về giặc giả, đói nghèo v.v...
3- Lập ngôn: Thuyết giảng, dạy dỗ, hay trước tác, dịch thuật các tác phẩm có giá trị giáo hoá con người cho đời này và nhiều đời sau,lưu truyền làm lợi ích...
**         **           **
Thiếu văn hoá, người ta giống như kẻ sống nơi sa mạc lửa nóng, có học thức, có văn hoá, mới có sự tươi mát của đồng xanh, cây cỏ.
                                  #           #     

BỔN   PHẬN  NGƯỜI   XUẤT     GIA

            LTS:  Tuy dấu ngựa xuất gia của đức Phật đã khuất xa và xa lắm rồi. Nhưng mỗi năm đến ngày 8-2 kỷ niệm ngày xuất gia của Ngài vẫn còn rạo rực trong tâm người con Phật. Vì một lần xuất gia của Ngài đã đem lại ánh sáng giác ngộ cho muôn loài, và làm gương mẫu xuất gia cho ức triệu người trong trăm ngàn thế hệ.
           Hôm nay nhằm ngày kỷ niệm xuất gia của Ngài. Toà soạn đăng bài “ Bổn phận xuất gia ” mong giúp vài ý kiến cho những vị sơ cơ đang theo gót xuất gia trên con đường học đạo. Thiết tưởng đó cũng là một trong những việc làm trong ngày kỷ niệm xuất gia.
           * Lời nói đầu:  Khế kinh dạy: Người xuất gia là trưởng tử của đức Như lai, phước điền của chúng sanh, bậc Trung tôn trong đại chúng. Địa vị và danh nghĩa như thế, nên người xuất gia phải nhận rõ bổn phận mình. Trước hết đối với  “ tự thân ” rồi đến “ Tam Bảo ” thứ lại đến với  “ Mọi người ”. Chỉ có hoàn thành bổn phận ấy mới khỏi phụ chí xuất gia của mình và xứng đáng danh nghĩa địa vị:  “Chúng trung tôn”.
     1. Đối với tự thân:   Người xuất gia phải tập tánh kiềm chế tự thân khắc khổ với ý muốn, không từ nan  những việc làm hữu ích, và không rụt rè chừa bỏ những cử chỉ có phòng hại đến bổn phận xuất gia của mình.
     * a - Đời sống thanh đạm: Đã từ bỏ gia đình ly khai danh lợi, xuất gia học đạo, chính là tượng trưng cho tinh thần ly dục. Nên người xuất gia đối với sự ăn mặc, ở hết sức thô sơ đạm bạc. Rau dưa, tương muối qua ngày. Vài chiếc áo vải che thân. Ngôi chùa đơn giản chống đỡ nắng mưa, nếu không phải những chốn Tòng Lâm, tu viện hay những ngôi chùa hoằng pháp. Chỉ có đời sống thô sơ ấy mới bớt được sự tham cầu, tăng cường trí huệ và tăng giá trị thanh cao cho người xuất gia. Vì thế, nên đức Thế Tôn khuyên dạy: “Tấn đạo nghiêm thân, tam thường bất túc”  là vậy.
    * b - Không khu biệt vào một gia đình: Gia đình riêng biệt, là xiềng xích ràng buộc chí tiến thủ, lợi sanh, giây dưa tham ái, đưa người vào vòng luân hồi sanh tử. Nên người xuất gia không vợ con, không riêng biệt, chan hoà đời mình vào trong gia đình đại chúng, phục vụ nhân loại, chúng sanh.
    * c - Luôn luôn nghiên cứu Phật pháp:  Phật pháp là ngọn đuốc phá tan màn ngu si hắc ám cho chúng sanh, là kho tàng trân bảo vô tận của người Phật tử. Vì vậy người xuất gia nên luôn luôn nghiên cứu học hỏi Phật pháp, lấy sự nghiên cứu Tam tạng giáo điển là một việc làm căn bản, không câu nệ thời gian hoàn cảnh, địa vị tuổi tác...
          Với ngoại điển người xuất gia có thể tham cứu học hỏi để giúp thêm phương tiện truyền bá chánh pháp. Nhưng không nên lãng quên Phật pháp là căn bản giác ngộ của mình và người.
    * d - Triệt để hành trì giới luật: Người xuất gia nhờ Giới luật mà được vô lượng công đức pháp tài, và trở thành Tăng bảo nên trong kinh dạy: “Giới luật là mạng mạch của Tăng già”. Vi phạm giới luật tức là tự tiêu diệt đời xuất gia của mình, mất sạch các thiện công đức, ngược dòng giải thoát. Do đó mà người xuất gia phải triệt để thi hành giới luật của mình đã lãnh thọ.
    * đ - Chọn một phương pháp làm chỗ lập địa tu hành: Trên đường tu tập của người xuất gia phải đủ ba phần là Giới, Định và Huệ. Nên ngoài sự nghiên cứu tam tạng giáo điển và tinh trì giới luật. Người xuất gia còn phải chọn một trong những pháp môn của Phật dạy để làm chổ lập địa, hằng ngày tu tập, điêu luyện tâm tánh. Nếu không để tâm chọn lấy một pháp môn, hay chàn ràng với tất cả pháp môn, thì đời mình sẽ lâm vào cảnh hoang mang, không khéo chí xuất gia sẽ bị lung lạc theo thời thế và hoàn cảnh.
        Trong thời mạc pháp nầy, chỉ có pháp môn trì danh niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ, rất dung thông và giản tiện. Chúng ta hãy nên nương theo pháp môn ấy làm chỗ lập địa cho đời xuất gia tu tập của mình.
   * e - Lấy câu: “ Như cứu đầu nhiên ” làm châm ngôn tu tập hằng ngày. Thân mạng vô thường, mai còn chiều mất. Bởi vậy trên đường tu tập, người xuất gia phải nên lấy câu “ như cứu đầu nhiên ” làm châm ngôn, không chần chờ năm tháng, hứa hẹn ngày giờ đánh tan ma lười biếng, bài trừ giặc vẩn vơ, bắt chước gương người xưa: xem tấc bóng như tấc vàng, một ngày không làm một ngày không ăn.          
    2.  Đối với Tam Bảo: Tam Bảo là nơi quy hướng duy nhất của người Phật tử, sanh trưởng pháp thân huệ mạng cho người xuất gia. Vì thế người xuất gia có bổn phận đối với Tam Bảo cũng như con hiếu đối với cha mẹ.
     a - Hướng ý niệm và hành động mình theo đức Phật: Đệ nhất ân nhân của người xuất gia là đức Phật. Đời Ngài tượng trưng cho vô lượng phước đức, trí tuệ, bình đẳng, vị tha. Nhân danh là Trưởng tử, người xuất gia không gì hơn, hướng tất cả ý niệm và hành động theo Ngài.
     b - Hộ trì chánh pháp, tồn vong vì chánh pháp: Chánh pháp đối với người xuất gia, cũng như không khí với vạn vật, có không khí vạn vật mới sống còn, thiếu không khí tất nhiên vạn vật phải khô rụi. Vì vậy, người xuất gia trong tất cả thời, tìm mọi phương tiện để duy trì chánh pháp, khuếch trương chánh pháp, sự vui mừng của người xuất gia, chỉ khi nào chánh pháp được thường trú, lan rộng và đau buồn khi chánh pháp bị xuyên tạc, suy vong.
     c - Áp dụng đúng phương pháp lục hoà trong đoàn thể tăng già: Tăng bảo là đoàn thể tu học chánh pháp thay Phật truyền bá chánh pháp, lợi lạc hữu tình. Người xuất gia được mệnh danh Tăng Bảo là vì tại chỗ ấy. Cho nên tự mình phải nhận lấy trách nhiệm duy trì và nâng cao giá trị Tăng bảo, bằng cách sống đúng pháp lục hoà, và gây tinh thần lục hoà trong đoàn thể, trong các tòng lâm tu viện. Chỉ có áp dụng đúng tinh thần lục hoà, mới thành tựu và tồn tại được đoàn thể Tăng Bảo.
     d -  Kính nhường bậc trên dắt dìu kẻ dưới: Tuy  đồng trong một đoàn thể nhưng có những bậc Thượng đức cao niên, có kẻ sơ cơ nhập đạo. Đối với bậc Thượng đức cao niên, người xuất gia phải thành tâm cung kỉnh, để trang nghiêm Tăng đức, điều hoà Tăng thứ. Với bậc sơ cơ nhập đạo, phải thương yêu giúp đỡ, tận tâm dắt dìu trên đường tu học, để họ được hoàn thành chí nguyện và đoàn thể được nhiều người tài đức.
     đ - Thi hành đúng quy ước Giáo hội Tăng già và góp sức chỉnh đốn nội bộ:  Đã xuất gia là phải vào trong đoàn thể Giáo Hội, triệt để tuân hành quy ước của Giáo Hội, vi phạm quy ước Giáo Hội, tức là tự tách mình ra ngoài đoàn thể Tăng già, khinh thường quy ước, tức là trực tiếp phá hoại đoàn thể, là tội nhân của Đạo pháp.
     Ngoài ra, người xuất gia hiện tại, còn có bổn phận góp phần tu chỉnh nội bộ Tăng già...Tìm phương tiện bổ khuyết cho những Tăng già thiếu học, thiếu tu.Và thanh trừng những phần tử ương ngạnh, ngoan cố, khinh thường đạo pháp, xem rẽ đoàn thể, lợi dụng danh nghĩa Tăng già, để lừa gạt tín đồ.
      Độc trùng đã lẫn lộn nhiều trong thân sư tử, thời gian không cho phép thờ ơ. Mỗi người xuất gia chúng ta, phải nhận rõ sự tương quan mật thiết giữa mình và đoàn thể, thắt chặt cùng nhau trên đường tu học.Thầy trò cúp núp, lơ lững qua ngày, không liên lạc gì với kẻ khác, không quan tâm đến sự tồn vong của đoàn thể. Tinh thần tiêu cực ấy, cử chỉ lạc hậu ấy, nó không còn đứng vững nữa, sẽ mai một theo thời gian vậy.
   3. Đối với mọi người:  Ngoài bổn phận  đối với tự thân  và Tam Bảo, người xuất gia còn có bổn phận đối với mọi người. Nếu thiếu bổn phận ấy, người xuất gia trở nên tiêu cực, trái với tinh thần cứu thế của đạo Phật, không viên mãn được quả vị Bồ đề, nhơn thiên sư phạm.
      Có chỗ nói: “ Người xuất gia vì mang ơn cơm áo.. của đàn việt mà phải hoạt động Phật sự. Thật ra đó là một lý do phụ mà thôi. Dĩ nhiên người xuất gia, không thể quên ơn đàn việt, nhưng trách nhiệm lợi sanh của người xuất gia có đâu chỉ hạn cuộc vào việc báo ơn cơm áo. Nếu vậy ngoài những người đàn việt trực tiếp cúng dường, người xuất gia không có trách nhiệm với kẻ khác hay sao? Vì thế đối với tất cả mọi người, người xuất gia có bổn phận rất quan hệ mật thiết vậy.
     a - Giáo hoá mọi người tu học Phật pháp:  Giáo hoá mọi người tu học Phật pháp là việc của người xuất gia. Mọi người được giác ngộ và giải thoát hoàn toàn nhờ chánh pháp. Nên người xuất gia trong tất cả thời phải dùng tất cả thiện xảo phương tiện gây cho mọi người đều có tinh thần tu học Phật pháp. Phần thưởng cao quý nhất của người xuất gia là: Mọi người thấm nhuần chánh pháp trong ý niệm và hành động.
    b - Bình đẳng và hỷ xả với tất cả mọi người:  Đạo Phật là một đạo từ bi, bình đẳng. Người xuất gia đối với mọi người nên có thái độ “oán thân bình đẳng” không có quyền phân biệt giàu, nghèo, sang, hèn, bà con hay xa lạ. Mặc dầu đối với kẻ khác màu da chủng tộc, nếu họ có thiện chí học đạo, người xuất gia phải tận tâm hướng dẫn.
         Đời hành đạo của người xuất gia còn phải sẵn sàng đức tánh ôn hoà hỷ xả, xem thường sự khen chê dạn dày với mọi hoàn cảnh thị phi trái ngược.
    c -  Sáng suốt và duy nhất với tôn chỉ hoằng pháp:  Vấn đề hoằng pháp là một vấn đề trọng đại, người xuất gia khi nhận lãnh trách nhiệm ấy, phải sáng suốt tiếp nhận căn cơ, và hoàn cảnh. Không khéo “ đề hồ biến thành độc dược,vàng ngọc trở nên sỏi đá ”.
      Hơn nữa, trong khi hoằng pháp, phải có sự quy định duy nhất của đoàn thể, hay sự đồng ý của những bậc Tăng già hữu trách. Hầu tránh nạn:“ bảy phái năm phe,hai thừa lộn xộn ” gây hoang mang cho quần chúng.
       d - Vãn hồi chánh tín trong nhân gian: Hiện tại hình thức và tư tưởng mê tín đang lan tràn trong dân chúng, đây là điểm rất tai hại cho đạo pháp cũng như cho mọi người. Bổn phận người xuất gia, phải dẹp trừ những thành tích mê tín ấy đi, vãn hồi chánh tín cho quần chúng. Nhưng phải khéo léo và ôn hoà.
  đ - Gương mẫu bình tỉnh trong mọi biến thiên của thời đại: Vì cảm nhận được ít nhiều cuộc đời là vô thường biến dịch, nên từ bỏ thế sự, xuất gia học đạo. Danh lợi đối với người xuất gia là chướng duyên của giải thoát, sống chết đối với người xuất gia là một chấm nhỏ của đoạn đời vô tận. Thì thời đại biến thiên, thay chầu đổi chợ, còn có nghĩa gì với người xuất gia? Thế nên người xuất gia phải là gương mẫu bình tỉnh, là bàn tay thoa dịu vết thương kinh khủng cho mọi người, trong khi đang quằn quại khổ sở trước mọi thời cuộc biến thiên.
     4.  Kết luận: Người xuất gia là mạch sống của Đạo pháp, giây liên lạc mật thiết giữa Tam Bảo và mọi người, nếu không tròn bổn phận, không những đời người xuất gia sẽ mất hết công đức pháp lạc, mà còn thương tổn đến giá trị Tam Bảo,và gây ảnh hưởng xấu cho mọi người vậy.                      (Thích Đức Tâm)

NGƯỜI NHẬP ĐẠO PHẢI BIẾT VÀ THỰC HÀNH 10 ĐIỀU SAU:

 1- Phải dùng trì trai giữ giới làm nền tảng đến bậc Phật quả:  Vì quả vị Phật là chỗ thanh tịnh vô vi, nên người nào mang nặng trược khí, không làm sao đến được.Trì trai giữ giới là để tránh nghiệp ác, cho thân khẩu ý nghiệp được thanh tịnh, thanh lọc cơ thể, bỏ trược khí là bỏ chủng tử chúng sanh, tiếp thanh khí là là để vun bồi chủng tử Phật tánh. Đó là điều căn bản để đến quả vị phật.
     2-  Tìm minh sư chỉ dạy công phu:  Chúng sanh đã mê mờ nhiều kiếp, nên trôi lăn trong sanh tử luân hồi, nếu không nhờ minh sư chỉ dạy, ắt phải lầm đường lạc lối không thoát ra được.
     3-  Phải biết tâm tánh tỏ rõ rốt ráo: Học đạo mà không biết tự tâm, không rõ tự tánh, thì chẳng khác nào như người mù đi đêm, không đến chỗ rốt ráo được.
          “Bất thức Bổn Tâm học Đạo vô ích.
Bất minh Tự Tánh vấn  Thiền vô ích”.
Tánh là Bản Thể bao trùm khắp pháp giới. Khi Thể đó ở trong thân thì gọi là Tâm, Tâm mê là Vọng, Tâm giác là Chơn. Khi mê sanh tướng, khi giác về với Tánh. Hiểu rõ  Bản Tánh để đạt chỗ nhân địa thì đường tu mới vững vàng được.
4-  Phải làm các phước lành cho gốc Đạo được sung túc:
Chúng sanh mê mờ nhiều kiếp, tạo nhiều nghiệp ác,nay được duyên lành biết giác ngộ, nếu không biết tu tạo phước lành, không giải nghiệp, không chuyển nghiệp được, thì nghiệp lực sẽ lôi kéo làm chướng ngại đường tu. Tạo phước có nhiều cách như: Cúng dường, bố thí, phóng sanh, làm lành. Phước càng tăng thì nghiệp càng nhẹ, gốc Đạo thêm lớn.
5-  Phải kết duyên lành cho gốc lành mỗi ngày thêm lớn:
    Bạn lành kết giao để học hỏi, trau giồi đức hạnh. Kinh Pháp Cú có nói:
Gặp người trí thật tình chỉ lỗi
Nên kết thân học hỏi trau giồi
Xem như kho báu trên đời
Gần người Trí đức lành vời, dữ xa
     Nhờ bạn lành mà vun bồi được cội lành ngày càng thêm tăng trưởng. Lại có câu: “ Thân phụ thiện giả, như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận ” Nghĩa là Gần gũi người lành như đi trong sương móc, tuy không ước áo mà luôn luôn được êm ả mát mẻ.
     6 -  Rõ nhân quả, việc làm đừng có vọng động: Nhân quả là luật khẳng định không sai, phải hiểu rõ như thế để tránh gieo nhân ác. Giữ thân khẩu ý không cho vọng động theo 10 điều ác.
     7-  Trừ phá tà ma, xa lìa ngoại đạo: Trừ phá tà ma để giữ gìn Chánh định, xa lìa ngoại đạo để được chánh kiến. Vì ngoại đạo có thể làm chướng duyên lành, có khi làm ta lầm đường lạc bước mất chánh tư duy.
      8-  Phải thông chân lý,chớ chấp hữu vi: Chơn lý là Chơn thật, hữu vi là hữu hình. Mà đã là hữu hình là có hoại diệt, phải thông chổ chơn thật để không trụ chấp vào chổ sanh diệt.
9-   Phải tinh tấn tu tập theo đức hạnh Phật: Muốn làm Phật thì phải học Hạnh Phật. Tu tập Hạnh Phật siêng năng tinh tấn chớ để bỏ lỡ luống qua.

    10-    Mỗi pháp phải thông suốt rõ rệt:Thông suốt các pháp để khỏi lạc vào tà kiến. Lại có người khư khư chấp lấy, nhận giả làm chơn. Hoặc chấp vào văn tự, hoặc chấp vào trì tụng cho đủ số, hoặc nghi một vài câu nói gì của Phật rồi cho là mình chứng, mình ngộ. Như vậy chính mình nằm trong vô minh mà không biết. Hột giống không chắc,khó kết trái bồ đề. Một khi mất thân người muôn kiếp khó tìm lại.

 




PHẦN II. GIỚI LUẬT

Lời nói đầu

Trong đạo Phật có ba thành phần học Phật là: 1- Học gỉả, 2-Hành giả  3- Vừa là học giả vừa là hành giả. Khi muốn đạt được chân lý mỹ mãn. Làm người Phật tử chân chính, chúng ta phải là con người có tư cách vừa là học giả vừa là hành giả, cái học sẽ bổ túc cho cái hành, cái học sẽ làm cho cái hành được sáng tỏ, cái học và cái hành sẽ bổ túc cho nhau đưa chúng ta trực nhận được lý tánh nhiệm mầu.
          Môn luật là một môn quan trọng hàng đầu của ba môn nên kinh nói: “ nhơn giới sanh định, nhơn định phát huệ”. Thật vậy, Thiền mà không giới thì dễ dẫn đến tà thiền. Định mà không giới dễ đưa đến tà định. Mục tiêu của người tu Phật là đạt cho được chánh định, mới không bị lạc lối.
          Mùa an cư năm nay 2009 tại chùa Đạo Nguyên được chúng giao hướng dẫn 12 chú Sa di về môn luật. Luật là môn khó dạy cho nên sự học đầu voi đuôi chuột có bữa học 3 vị cho nên quý chú không ghi được bài. Muốn cho quý chú có bài đầy đủ. Chú Sa Di Quảng Ba phát tâm ghi đầy đủ và vi tính để cho quý chú có bài đầy đủ. Chúng tôi mong rằng quý chú hãy siêng lên để khỏi phụ chúng an cư đã tin tưởng nơi quý chú dành thời gian ưu tiên cho quý chú học, đạo hữu luôn luôn ủng hộ tứ sự cúng dường trong ba tháng không thiếu.
          Vừa là bài giảng, bài học nên không tránh khỏi sự sơ sót việc ghi chép mong rằng quý chú thông cảm.
                                       Giáo thọ phụ trách
                                  TT Thích Thiện  Phương

Ý nghĩa an cư kiết hạ

          Sau khi Đức Phật thành đạo và bắt đầu thành lập Tăng đoàn ở Lộc Uyển, Ngài chưa đặt vấn đề cấm túc an cư. Sau đó Tăng đoàn phát triển và đi truyền giáo từ xứ này sang xứ khác  theo chủ trương tỳ kheo không được nghĩ dưới gốc cây 2 đêm không ăn cơm mt nhà 2 lần. Tuy nhiên, đến mùa mưa năm thứ 9 kể từ khi Phật lập Tăng đoàn, bị thiên tai lũ lụt, khiến cho các tỳ kheo trên đường truyền giáo bị mất hết y bát, hoặc bị bệnh tật, các vị phải hy sinh tính mạng.
          Đối trước vấn đề này, Đức Phật mới  đề ra pháp an cư trong mùa mưa. Nói một cách khác,  Đức Phật tùy theo yêu cầu trong vấn đề tu hành mà đặt ra cách bảo quản Tăng đoàn và sức khỏe của đại chúng. Thật vậy đi truyền đạo mà gặp phải hoàn cảnh bất lợi như vậy, nên đức Phật phải khai phương tiện “Cấm túc an cư” để giải quyết tốt nhất đời sống tu hành biến những điều bất lợi thành tiện lợi cho sinh hoạt Tăng chúng quy tụ lại một trú xứ có nhiều thuận lợi về 2 mặt thể chất và tinh thần qua mấy điểm như sau:
1-    Được gần gũi Phật nghe pháp.
2-    Các tỳ kheo có cơ hội gặp nhau trao đổi kinh nghiệm tu học.
3-    Phật tử có cơ hội cúng dường gieo trồng phước điền nơi Tam Bảo.
4-    Nhờ tập trung tại một chổ mới thực hiện đực tinh thần thiểu dục tri túc.
5-    Có đủ điều kiện thúc liễm thân tâm trau dồi giới đức, siêng tu tam vô lậu học.
6-    Nhờ có thúc liễm thân tâm, siêng tu mà đời sống đạo hạnh được thăng hoa.
Thúc liễm thân tâm, chính yếu là thúc liễm thân tứ đại và vọng tâm. Nhờ thúc liễm thân tâm mà giữ  gìn được giới  và hoàn thiện các oai nghi, tế hạnh. Lần lần từ giới này chuyển thành đức và dùng đức hạnh ấy để cảm hóa người. Người tu mà không có đức hạnh thì không phải chân chính đệ tử của Phật. Nhờ kết hợp thân tâm và trau dồi giới đức, nên tâm được an tịnh, tức tập trung tư tưởng và từ đó trí huệ được phát sinh.
Nhờ có pháp an cư chúng ta mới cắt được các duyên vụ để tập trung quán sát lại thân và hoàn cảnh mình sống, tạo được mt cuộc sống có ý nghĩa. Kế đến là biết đặt mình vào hoàn cảnh, thấy rõ vị trí, việc làm của mình không để phiền não dẫn dắt và nô lệ cho vọng tâm.
Tóm lại trong mùa an cư ba tháng về mặt tu thân khắc phục được thời tiết chi phối của thiên nhiên. Về tâm lý khắc phục được vọng tâm, phát huy tâm thức dến tầm cao mới, không bị các phiền não sai sử, được thể nhập vào dòng thánh đồng thời là chỗ nương tựa và phát tâm gieo duyên vào ruộng phước phật tử tại gia. Người tu hành hoàn thành được hai lĩnh vực tâm lý vật lý đúng theo tinh thần tam vô lậu học thì báo đáp tứ ân không cô phụ công ơn thầy tổ, không phụ lòng tin của đàn na tín chủ phát tâm cúng dường tứ sự  để cho chúng ta yên tâm tu học.

Ý nghĩa của giới

Giới có nghĩa là luật,điều phục, diệt, hệt giải thoát
Giới có 4 tên gọi bằng tiếng Phạn
1/ Tỳ Ni còn gọi Tỳ nại da. Hán dịch là luật:  diệt, điều phục, thiện trị v.v...Luật nghĩa là pháp ràng buộc bằng phép tắc gọi là luật. Diệt là diệt nghiệp quấy, diệt phiền não. Điều phục là điều phục 3 nghiệp, ngừa quấy ngăn lỗi –Thiện trị là có công năng chữa trị bệnh nặng 3 độc.
2/ Ba la đề Mộc xoa: Hoặc gọi tắc là mộc xoa.
Hán dịch là giải thoát, biệt giải thoát, lại có nghĩa tri túc, có nghĩa tịnh mạng, thành tựu oai nghi, hoặc có nghĩa là đọa.
Thành tựu oai nghi, không thọ nhận chứa để vật gì, cũng có nghĩa là Tịnh mạng. Đọa chỉ cho 4 đường ác. Đọa là nơi vào địa ngục –cho đến địa ngục A Tỳ. Đọa là nuôi lớn địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ ; vì các nghĩa này nên gọi là đọa.
  Ba la đề mộc xoa là dứt bỏ nghiệp tà vạy, không tốt của thân, miệng, ý. Luật là thực hành oai nghi của giới, hiểu sâu nghĩa mầu của kinh, ngăn ngừa những vật bất tịnh và nhân duyên bất tịnh, cũng ngăn ngừa không phạm 4 giới trọng và các học giới khác v.v...
  Giới có nghĩa là giải thoát, là tối thắng vì thực hành giới thì sẽ được giải thoát.Vì sao gọi là tối thắng? vì là cội gốc của các điều lành chính là giới, từ giới này phát sanh ra các điều lành cho nên gọi là thắng nghĩa. Lại có 2 thứ giới, là giới thế gian và giới xuất thế gian. Giới thế gian có công năng làm nhân cho giới xuất thế gian nên gọi là tối thắng.
3/ Thi la: Hán dịch là giới, là pháp cấm ngăn, tức là luật. Thi la còn có nghĩa là Thanh Lương, nghĩa là mát mẻ, vì điều ác làm cho thân tâm nóng bức, khổ não. Còn giới thì làm cho an vui, dứt hết khổ não nên gọi là mát mẻ. Điều ác có công năng chiêu cảm lấy sự nóng bức, khổ não trong đường ác, còn  giới có công năng chiêu cảm đường lành nên gọi là mát mẻ.
Thi la còn có nghĩa là ngủ yên, người giữ giới ngủ yên ổn, thường gặp mộng lành, nên gọi là Thi La. Thi la lại có nghĩa là thường huân tập pháp lành nên gọi là Thi La.Thi La cũng có nghĩa là được tịnh, vì giữ giới tâm dễ được tịnh gọi là Thi la.  Thi La lại có nghĩa là bực thềm, như bài kệ nói:
            Ao Phật mát mẻ
            Thi La là bực thềm
            Bậc thánh tắm không ướt
            Công đức đến bờ kia.
Thi La lại có nghĩa là vật làm đẹp, có vật làm đẹp với trẻ con mà không hợp với người lớn và người già, có vật làm đẹp với người lớn nhưng không hợp với trẻ con và người già, có vật làm đẹp với người già nhưng không hợp với trẻ con và người lớn. Chỉ có vật làm đẹp Thi La là hợp với cả 3 thế hệ như bài kệ nói:
  “ Thi la vật làm đẹp – Hợp cả trẻ lớn già
  Được tín huệ là quý – phước không ai trộm được.”
Thi La lại có nghĩa là chiếc gương sáng, như chiếc gương sáng sạch bụi thì hình bóng mọi vật đều hiện ra trong đó, sống với Thi La thanh tịnh thì hình bóng vô ngã hiện ra. Thi la lại có nghĩa là thềm thang như tôn giả Vô Diệt nói: “Ta bước trên thềm Thi la, để lên điện vô thượng huệ”. Thi La lại có nghĩa là tăng thượng. Đức Phật có oai thế trong tam thiên đại thiên thế giới đều nhờ năng lực của Thi La. Thưở xưa nước Ca Thấp Di La có một con rồng dữ bản tánh hung ác thường hay phá hại. Cách chổ rồng ở không xa  có một ngôi chùa, chùa này thường bị rồng quấy nhiễu. Trong chùa có 500 vị A la Hán, các vị này bàn với nhau phải nhập định để đuổi con rồng ấy đi, nhưng các Ngài dùng hết thần lực của mình mà không dời nó đi được. Bấy giờ có một Vị A la hán từ nơi khác đến, các vị tăng ở lâu trong chùa mới kể lại việc rồng quấy nhiễu cho vị tăng ấy nghe, vị ấy liền đến chổ rồng ở, búng ngón tay và bảo rằng: “ Rồng ơi ! hãy đi cho thật xa”. Rồng nghe vị A La hán ấy liền bỏ đi thật xa. Các vị A la hán thấy vậy lấy làm lạ hỏi rằng: Ngài đuổi con rồng ấy bằng định lực gì vậy? Vị A la hán này đáp: “Tôi không nhập định, cũng không vận dụng thần thông, chỉ giữ gìn Thi La cho nên có năng lực ấy. Tôi giữ giới khinh, như giới trọng, cho nên khiến rồng dữ sợ hãi mà bỏ đi” do đó mà Thi la có nghĩa là tối thượng.
Thi la còn có nghĩa là cái đầu, nếu có đầu thì thấy được hình sắc, nghe được âm thanh, ngửi được mùi hương, nếm được các vị, cảm giác được xúc chạm và biết được các pháp. Người giữ gìn Thi La thì sẽ thấy được sắc của 4 Thánh Đế, nghe được những âm thanh chưa từng nghe như danh thân v.v..ngưởi được mùi hoa của 37 phẩm phần giác, nếm được chất vị vắng lặng của trí tuệ giác ngộ của người xuất gia lìa 5 dục, cảm giác được sự xúc chạm với tỉnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí và biết được pháp tự tướng, cộng tướng của uẩn, xứ,  giới. Cho nên Thi la  có nghĩa là cái đầu.

Giới Thể

   Giới Thể là khả năng “ Phòng phi chỉ ác” phát sanh tiềm tàng trong bản thân giới tử khi lãnh thọ giới pháp, xưa gọi là giới thể vô tác nay gọi giới thể vô biểu. Từ giới thể vô biểu, khả năng phòng phi chỉ ác của thân nghiệp và khẩu nghiệp được biểu hiện thành giới hạnh.
  Biểu là phơi bày ra, làm cho thấy được. Như tâm sân khi chưa biểu hiện thì nó tìm ẩn trong tâm dưới dạng chủng tử, nhưng đến khi hội đủ nhân duyên (gặp cảnh nghịch ) thì nó phát sanh làm cho người ta đỏ mặt, tía tai, trợn hai con mắt, hoa tay múa chân. Khi thọ giới, giới tử quỳ trước giới sư, thân tâm cung kính, nói lời phát nguyện,  thì ngay lúc ấy một nguồn năng lượng phát sanh và vận chuyển trong tâm làm cho giới tử bắt đầu trở thành một con người khác, không phải khác hẳn, nhưng nó đã làm thay đổi quan điểm, thái độ cuộc sống của giới tử. Nguồn năng lượng ấy là giới thể. Khi giới thể thành tựu, tự nhiên các oai nghi hành, trụ, tọa, ngoạ đều phù hợp với luật nghi,  nên giới thể vô biểu còn được gọi là luật nghi vô biểu.
  Theo Hữu bộ, giới thể vô biểu là một loại vô biểu thiện sắc pháp. Lấy sắc làm giới thể, vì Hữu bộ cho rằng các nguồn năng lượng giới thể vô biểu được sanh ra trong khi thọ giới ấy là do giới tử có những hành vi biểu hiện rõ ràng nơi thân nghiệp và khẩu nghiệp, như thân cung kính quỳ lạy, miệng trả lời các câu hỏi của giới sư và nói lời phát nguyện thọ trì giới pháp.  Mà thân và khẩu là sắc pháp nên giới thể sanh ra từ sắc pháp ấy cũng là sắc pháp, chỉ có điều là sắc pháp ở đây không phải là biểu sắc mà là vô biểu sắc.
Theo phái Đại thừa Duy thức, thì giới thể lại là tâm pháp, các nhà Duy thức học cho rằng khi thọ giới, do tư tâm sở phát động tạo ra hạt giống thọ giới và trì giới trong tàng thức. Hạt giống này sau khi huân sanh (khi tâm tư sở phát động) lại lần lượt huân trưởng. Qua tác động của việc trì giới làm phát sanh hiện hạnh có công năng phòng phi chỉ ác. Các nhà Duy thức chia sự hoạt động của tư tâm sở ra làm ba giai đoạn. Thẩm tư lự là giai đoạn suy nghĩ tính toán. Quyết định tư là giai đoạn quyết định vấn đề có nên thực hiện hay không. Và phát động tư là giai đoạn thực hiện vấn đề sau khi quyết định.
Khi hành vi lãnh thọ giới pháp được phát động trước tam sư thất chứng, tư dĩ nghiệp có nghĩa là đã thành giới thể. Tư dĩ nghiệp này có nguồn gốc là tư nghiệp tức là thẩm lự tư và quyết định tư. Nói tóm lại hành vi lãnh thọ giới pháp làm phát sanh nguồn năng lượng giới thể trong giới tử được bắt nguồn từ tư tâm sở, nên phái đại thừa Duy thức chủ trương giới thể là Tâm pháp.
Theo Thành Thật luận thì giới thể là pháp phi sắc phi tâm, vì giới thể không có hình chất, không trông thấy được nên là phi sắc, nhưng nó cũng không có khả năng duyên lự nên gọi là phi sắc phi tâm, nó chỉ là nguồn năng lượng tiềm tại ngấm ngầm bên trong có tác dụng giúp hành giả luôn luôn sống trong trong tư thế phòng phi chỉ ác. Dù được nhìn dưới quan điểm của bộ phái nào thì giới thể cũng là một  nguồn năng lượng tiềm tàng bên trong hành giả được thành tựu ngay sau khi thành tâm lãnh thọ giới pháp và sau đó nó trở thành công năng giúp hành giả luôn luôn sống đúng giới luật.
          Tuy các học phái có những quan điểm khác nhau về bản chất của giới thể vô biểu nhưng đều đồng nhất với nhau về khả năng phòng phi chỉ ác của nó, cho nên trong việc truyền giới thọ giới tất cả các học phái đều coi trọng. Nếu nghi thức truyền thọ không đủ sức mạnh phát sanh giới thể vô biểu, thì không những lời truyền thọ của giới sư không có hiệu lực hướng dẫn người thọ giới chấp hành nghiêm túc giới điều đã thọ. Giới thể do đó được coi là bản chất tồn tại của giới, có người sau khi đã thọ giới rủi gặp phải nhân duyên phương tiện gần như phá giới mà vẫn có thể tự đấu tranh để bảo vệ được sự thanh tịnh thì đó là nhờ công năng phòng hộ của giới thể. Giới thể như vậy là căn bản quyết định của sự thọ giới và trì giới.

DANH CHỦNG CỦA GIỚI

Để nắm vững cương yếu của giới luật, các luật sư xưa thường khảo sát ý nghĩa của giới luật ở nhiều phương tiện khác nhau nên có những tên gọi và chủng loại khác nhau.

I/ Phân biệt giới và luật

Hai từ “Giới” và “Luật” thường đi chung với nhau làm thành một từ tố “Giới Luật” khiến mgười ta thường đồng nhất hóa nghĩa của hai từ này, cho rằng giới là luật và luật là giới. Thực chất hai từ này có nghĩa khác nhau. Nguyên trong gốc tiếng Phạn chúng ta đã có ngữ âm, ngữ hình, ngữ nghĩa khác nhau xa. Giới: Paratimaka. Luật: Vinaya, có giới chưa hẳn đã có luật, nhưng hễ có luật thì đã có giới vì luật bao gồm giới, cho nên trong tam tạng kinh điển chỉ có luật tạng mà không có giới tạng.
Có thể xem giới như tướng vị thuốc còn luật là một phương thang, thường dùng để chữa căn bệnh phiền não trầm kha. Có nhiều phương thang dùng để chữa từng loại căn bệnh khác nhau, phương thang ngũ vị dùng để hạn chế tâm tham đắm ngũ dục của người Phật tử tại gia. Phương thang bát vị là loại thuốc bổ dùng cho người cư sĩ học hạnh xuất gia. Phương thang 10 vị dùng để chữa bệnh giải đãi phóng dật làm cho lớn thêm đức tinh tấn vắng lặng và từ bi của các vị sa di. Phương thang 250 vị dùng đối trị phiền não kiết sử hòan thành tư cách đời sống phạm hạnh của  một Tỳ kheo.
Tóm lại, giới là các điều răn cấm, luật là các nguyên tắc áp dụng thi hành các điều răn cấm ấy, đồng thời cũng để điều chỉnh sửa sai khi các điều răn cấm bị áp dụng lệch lạc. Trong đó luật thì không biết cách giữ giới và nếu có vi phạm thì không biết cách sám hối. Như vậy giới là chỉ trì, còn luật là tác trì. Giới luật tuy nhiều nhưng khi áp dụng thc hành thì không ngoài hai phương tiện chỉ trì và tác trì.

II/ Bốn khoa của giới

Giới được chi làm bốn khoa: Giới pháp, giới thể, giới hạnh và giới tưởng.
1. Giới pháp: Giới cũng là pháp được Đức Phật nói ra nên được gọi là giới pháp. Giới pháp còn chỉ cho các loại giới: Giới Tỳ kheo, giới Tỳ kheo ny, giới Sa di, Sa di ny... như thế giới pháp cũng có nghĩa là giới phẩm.
2. Giới thể: Khi lãnh thọ giới pháp, giới tử đối trước giới sư thân tâm cung kính phát nguyện thọ trì mà trong thâm tâm phát sinh tư  niệm về việc giữ giới. Tư niệm ấy là giới thể. Thọ giới là thọ nhận cái thể của giới do sự phát tâm sinh ra, và nếu được như vậy gọi là giới thể thành tựu.
3. Giới hạnh: Đã có giới thể các hành vi của thân và miệng sẽ điều chỉnh theo đúng giới luật . Nói cách khác mọi lời nói, mọi việc làm đều đúng theo giới luật là giới hạnh.
4. Giới tưởng: Tưởng trạng khác biệt của giới. Đây là các điều răn cấm trong từng loại giới phẩm. Thuật ngữ của luật tạng gọi giới tưởng là học xứ.

III/ Thông giới biệt giới

1. Biệt giới: Là giới thanh văn, tức là giới xuất gia hàng tại gia không được thọ, lại nữa trong giới xuất gia thì có giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ny, Sa di, Sa di ny riêng biệt. Sa di không thể cùng chung với Tỳ kheo, đó là biệt giới.
2. Thông giới: Là giới Bồ tát, ai cũng thọ được không phân biệt tại gia hay xuất gia, không phân biệt giai cấp, tình phái, chủng tộc, nghề nghiệp, tình trạng sức khỏe... thậm chí các loài quỷ thần, phi nhân, súc sanh cũng được thọ giới với một điều kiện duy nhất và rộng rãi đó là giới tử phải hiểu được điều nói của giới sư khi thọ giới. Nên gọi là thông giới. Đặc điểm của thông giới là khi đã lãnh thọ thì đến tận vị lai tế cũng không mất, khác với biệt giới chỉ thọ trong một đời gọi là tận hình thọ, thậm chí có loại giới chỉ thọ trong một ngày một đêm như giới bát quan trai.

IV/ Bốn cú nghĩa của thừa giới

Thừa là học tập pháp, giới là thọ trì giới. Tùy thuộc vào quan điểm lập trường trong khi hành trì tu tập pháp và luật của hành giả mà thừa giới được chia thành bốn cú nghĩa: Giới cấp thừa hoãn, thừa cấp giới hoãn, thừa giới cao cấp và thừa giới câu hoãn.
1. Giới cấp thừa hoãn: Đây là chủ trương của những người lấy việc nghiêm trì giới luật làm đầu, còn việc thâm nhập kinh tạng để phát sanh trí tuệ đi sau gọi là giới cấp thừa hoãn, như ngài Ưu Ba Ly.
2. Thừa cấp giới hoãn: Đây là chủ trương của những người lấy việc học tập kinh điển để mau minh tâm kiến tánh làm đầu mà không đặt nặng sự hành trì giới luật, như ngài Duy Ma Mật.
3. Thừa giới cao cấp: Đây là chủ trương cùng tu tập song hành cả pháp và luật để cho hương giới định huệ đồng thời tỏa ngát mười phương, như các vị Bồ Tát.
4. Thừa giới câu hoãn: Đây là một lối sống giải đãi, phóng dật lần lựa qua ngày, hạng người này không có gì đáng nói.

V/ Giới tánh giới giá

1. Tánh giới: là những giới được áp dụng để ngăn ngừa tánh tội. Tánh tội là những hành vi mà tự bản thân nó là tội lỗi như: giết người, cướp của, tà dâm, nói dối. Không có luật pháp nào cho phép người ta được nói dối, giết người cướp của, dâm dật vì những hành vi ấy là tội ác, ở đâu, nơi đâu, thời nào bốn việc trên xã hội nào cũng lên án kết tội.
2. Giá giới: Là những giới có tác dụng  ngăn ngừa hành vi giá tội. Giá tội là những hành vi mà tự bản thân nó chưa hẳn là tội lỗi cần phải được ngăn ngừa, vì nó có thể là nguyên nhân gây ra tội lỗi. Như uống rượu say, không phân biệt được phải trái, thường hành động theo bản năng độc ác của mình, có thể gây ra tội giết người, nói dối, dâm dật... Mặt khác, giá giới cũng nhằm ngăn chặn sự cơ hiềm (chê cười) của dư luận xã hội như các giới cấm không cho tham dự vào các trò chơi thế sự như cờ bạc, cá độ, đi đêm để tránh sự chê bai đàm tiếu.

KHÁI LƯỢC VỀ GIỚI

I. Định nghĩa

 Chữ giới: Pali gọi là Si la phiên âm Thi La, dịch nghĩa là giới, là những điều răn cấm do đức Phật chế định cho hàng đệ tử xuất gia và tại gia, dùng để ngăn ngừa tội lỗi của ba nghiệp, do thế giới được định nghĩa là:
- Phòng phi chỉ ác: Ngăn ngừa điều sai trái, chặn đứng việc xấu ác.
- Biệt biệt giải thoát: Giữ được giới nào giải thoát được giới đó.
- Xứ xứ giải thoát: Nơi nào giới luật được tuân thủ, thì nơi ấy cuộc sống được thanh thoát.
- Tùy thuận giải thoát: Hướng về con đường giải thoát.
- Thanh lương: Làm cho cuộc sống mát mẻ thỏa mái.
- Chế ngự: Có năng lực kiềm chế những việc xấu.
Đó là định nghĩa tổng quát về giới. Còn luật chữ Phạn gọi là Vinaya, phiên âm là Tỳ Nại Gia, nói gọn là Tỳ Ny, dịch nghĩa là điều phục, chế ngự, nhiếp phục, diệt trừ điều ác......Như vậy, luật là những nguyên tắc do Phật quy định, cho Tỳ kheo, Tỳ kheo ny áp dụng trong cuộc sống tập thể Tăng đoàn. Nó có công dụng như những hướng dẫn cần thiết để nghiên trì giới cấm, đồng thời là những phương thức xử lý hữu hiệu các sự vi phạm giới pháp. Nếu nói một cách tách bạch thì luật bao gồm cả giới, còn giới chỉ là một bộ phận của luật. Nhưng nói một cách khái quát thì Giới luật tuy gọi khác nhau mà cùng chung một tính chất, vì thế có tên ghép là Giới luật.

II. Phân loại giới luật:

Nếu đứng trên lập trường phóng khoáng, nhìn nhận quá trình phát triển của Phật giáo từ khởi thủy đến hiện tại, thì ta có thể phân chia giới luật ra làm hai loại: Giới Thanh văn và Giới Bồ Tát.
1. Giới thanh văn: Loại này có cách phân chia theo công dụng tính chất và phương diện.
ò Về công dụng: Giới được chia thành hai loại là: Chỉ trì và Tác trì.
a/ Chỉ trì: Không làm việc bất thiện chính là chỉ trì. Đây chỉ cho các loại giới bổn Tỳ kheo, Tỳ kheo ny.
b/ Tác trì: Thực hiện các điều Phật quy định tức là hành trì. Đây chỉ cho các kiền độ, các pháp yết ma.
ò Về tính chất: Giới được chia thành hai loại: Tánh giới và Giá giới.
a/ Tánh giới: Tính chất của việc đó là giới, nghĩa là việc đó nếu vi phạm thì có tội (dù Phật có chế định hay không chế định ) Ví dụ như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối thì chuốc lấy quả báo xấu. Bốn giới căn bản của Phật giáo là Sát sanh, Trộm cắp, Tà dâm, Nói dối. Bốn giới này gọi là tánh giới.
b/ Giá giới: Những điều ngăn cấm để khỏi dẫn đến phạm các trọng tội. Ví dụ như Uống rượu, Tích trữ vàng bạc v.v...Những việc này bản thân nó không có tội, nhưng chúng là những nguyên nhân làm lũng đoạn tinh thần, rồi dẫn đến vi phạm các tội ác khác. Loại giới này gọi là thế gian cơ hiềm giới.
ò Về phương diện: (hay khoa) Giới được chi thành bốn loại: Giới pháp, Giới thể, Giới hạnh và Giới tướng.
a/ Giới pháp: Những điều do Phật chế định.
b/ Giới thể: Bản thể của giới. Giới thể này phát sanh khi thọ giới cụ túc và chi phối giới tử suốt đời. Loại này thành tựu nhờ ba nhân tố: Giới tử chí thành, giới sư thanh tịnh, giới đàn trang nghiêm.
c/ Giới hạnh: Các hành vi của ba nghiệp hoạt hiện ra ngoài phù hợp với giới pháp.
d/ Giới tướng: Các tướng trạng của giới.
Các luật sư chia giới bổn Tỳ kheo, Tỳ kheo ny thành 5 thiên và 7 tụ:
            Năm thiên:
1. Thiên Ba La Di: Các tội nghiêm trọng.
2. Thiên Tăng Già Bà Thi Sa: Các tội tương đối nghiêm trọng.
3. Thiên Ba Dật Đề: Các tội nhẹ hơn hai khoản trên.
4. Thiên Đề Xá Ni: Các tội thuộc về ăn uống.
5. Thiên Đột Kiết La: Các tội thuộc về oai nghi.
            Bảy tụ:
1. Tụ Ba La Di
2. Tụ Tăng Già Bà Thi Sa.
3. Tụ Thâu Lan Giá: Các tội liên quan đến hai khoản trên mà nhẹ hơn.
4. Tụ Ba Dật Đề.
5. Tụ Đề Xá Ni.
6. Tụ ác tác: Những ác hạnh thuộc về thân.
7. Tụ ác thuyết: Những ác hạnh thuộc về miệng.
Ngoài ra còn có lối phân chia qua các tên gọi như:
- Khai: Mở ra, nghĩa là thầy Tỳ kheo không được uống rượu, nhưng nếu có bệnh, thầy thuốc bảo phải uống thuốc hòa với rượu mới chữa khỏi, thì được phép uống rượu để chữa bịnh.
- Giá: Ngăn lại, nghĩa là thầy Tỳ kheo sau khi khỏi bịnh thì ngăn cấm không cho dùng rượu thuốc nữa.
- Trì: Là tuân thủ nghiêm ngặt.
- Phạm: Là vi phạm.
- Danh: Tên gọi của giới.
- Chủng: Là chủng loại của giới.
- Tánh: Tánh chất của giới.
- Tướng: Tướng trạng của giới.
2. Bồ Tát Giới: Về Bồ Tát giới đại khái có các cách chia sau đây: chia theo tính chất, khinh trọng và ứng dụng.
ò Về tính chất: Được chia thành ba loại gọi là Tam tụ tịnh giới, đó là:
a/ Nhiếp luật nghi giới: Bao gồm các giới bản. Đây thuộc về “ Chư ác mại tác “ (không làm các việc ác)
b/ Nhiếp thiện pháp giới: Bao gồm các việc thiện. Đây thuộc về “ Chúng thiện phụng hành “ (siêng làm các việc thiện).
c/ Nhiếp chúng sanh giới: (Nhiêu ích hữu tình giới) Làm các việc lợi ích cho chúng sanh.
ò Về khinh trọng: Được chia thành hai loại:
- Mười giới trọng: Mười giới nặng.
- Bốn mươi tám giới khinh: Bốn mươi tám giới nhẹ.
ò  Về ứng dụng: Chia thành hai loại:
a/ Định cọng giới: Do tu tập thiền định, tự nhiên thân tâm thanh tịnh, giới hạnh đầy đủ, nghĩa là người tu thiền định khi phát sanh hiệu quả, không cần thọ giới mà vẫn sống phù hợp với giới pháp.
b/ Đạo cọng giới: (vô lậu giới) Do tu vô lợi nghiệp, phát sanh trí tuệ, không cần thọ giới mà đời sống vẫn phù hợp với giới pháp.

III. Vị trí của giới luật:

Toàn bộ giao pháp của Phật được chia thành ba tạng, gọi là ba Tạng thánh giáo, thì giới luật chiếm một tạng, gọi là Luật Tạng. Trong ba vô lậu học, ba trọng tâm đưa đến giải thoát, thì giới chiếm vị trí hàng đầu.
Giới luật chính là thọ mạng của Phật pháp (Tỳ ny tạng thị Phật pháp chi thọ mạng) như các quyển giới bổn thường nói đến. Hoặc nói: “Tạng luật còn thì Phật pháp tồn tại, tạng luật mất thì Phật pháp tiêu vong “ (Tỳ ny tạng trụ, Phật pháp diệt trụ, Tỳ ny tạng diệt, Phật pháp diệc diệt) Giới luật cũng là người đại diện cho Phật, như đức Phật đã dạy trong kinh Di Giáo: “ Nhữ đẳng Tỳ kheo, ư nhã diệt hậu, đương tôn kính, trân trọng Ba La Đề Mộc Xoa, như ám ngộ minh, bần nhân đắc bảo, đương tri thử tắc thị nhữ đẳng đại sư. Nhược ngã trụ thế, vô dị thử dã” (Này các Tỳ kheo, sau khi ta nhập diệt, các thầy phải tôn kính, trân trọng giới luật, như người mù mà được mắt sáng, người nghèo mà được châu báu, phải biết rằng giới luật là vị đại sư cao cả của các thầy. Nếu ta còn sống ở đời thì chẳng khác nào giới luật này).
Ngoài ra, trong quyển Trùng Trị Tỳ Ni Sự Nghĩa Tập Yếu, Ngài Trí Húc cũng minh định rằng: “ Năm phần pháp thân đều y cứ vào giới, ba môn vô lậu học, lấy giới làm đầu. Không một đức Phật nào không đủ giới thể, không một vị Bồ Tát nào không tu giới Ba La Mật, không một kinh điển nào không đề cao giới pháp, không một bậc thánh hiền nào không giữ giới hạnh trang nghiêm. Giống như đất, tất cả thiện pháp đều từ đó mà sinh trưởng. Giới luật như thành quách, hành giả dựa vào đó mà xa lìa được ma chướng”.

IV. Những lợi ích của giới luật:

Ở phần dẫn nhập của các bộ Quảng luật thường đề cập đến 10 lợi ích của giới như sau:
1. Để  nhiếp phục tăng chúng.
2. Để  tăng chúng được hoan hỷ.
3. Để tăng chúng được sống an lạc.
4. Để chiết phục những người không biết hổ thẹn.
5. Để những người biết hổ thẹn được sống yên ổn.
6. Để những người chưa tin phát sanh lòng tin.
7. Để những người đã tin càng thêm tin tưởng.
8. Để diệt trừ các lậu hoặc (ô nhiễm) trong hiện tại.
9. Để ngăn ngừa các lậu hoặc trong tương lai.
10. Để cho chánh pháp được tồn tại lâu dài.
Đồng thời kinh Trường bộ cũng nêu ra năm lợi ích của giới:
1. Người có giới đức sẽ hưởng được gia tài pháp bảo, nhờ tinh tấn.
2. Người có giới đức được tiếng đồn xa.
3. Người có giới đức không sợ hãi rụt rè khi đến các hội chúng đông đúc.
4. Người có giới đức sau khi mệnh chung được sanh thiện thú thiên giới.

V. Những ví dụ về giới luật:

Để nói về tính chất ưu việt của giới pháp, các bản nghi thức truyền giới thường nêu những ví dụ “ Giới như đám đất tốt, muôn hạt giống lành từ đất mà sanh ra, giới như thuyền bè đưa người qua bể khổ, như chuỗi ngọc châu anh lạc trang nghiêm pháp thân “ Hoặc nói: “ Độ khổ hải chi châu hàng, di sinh nhai chi thê đăng “ (Giới như thuyền bè đưa người qua bể khổ, là thênh thang bắt qua bờ sanh tử ). Nhưng câu phổ biến nhất là: “Giới như bộ áo giáp kiên cố để bảo vệ sự tấn công của lục trần”. Ngoài ra nếu một người  phạm giới do lợi dưỡng, tiếng khen, hay bị dục vọng sai khiến, thì gọi là giới bị rách nát, như tấm vải bị cắt bỏ ở ngoài biên. Nhưng nếu vị ấy phạm giới trong lúc đang tu học tiến bộ, thì gọi là giới bị lủng, như tấm vải bị cắt ở giữa. Khi người phạm giới liên tục 2, 3 lần thì gọi là giới bị hoen ố, như một con bò đen bỗng có một mảng lông khác màu trên mình. Khi vị ấy phạm giới thường xuyên thì gọi là giới bị lốm đốm, như một con bò màu vàng lại có nhiều đốm trắng khắp mình. Người xuất gia thọ dụng bốn vật cúng dường liên quan đến việc trì giới có các ví dụ: Dùng như kẻ trộm, dùng như kẻ mắc nợ, dùng như  kẻ hưởng gia tài tổ tiên, dùng như người chủ. Một người không có giới đức sử dụng bốn vật cúng dường, được gọi là dùng như kẻ trộm. Một người có giới mà không chân chánh cảnh giác trong khi dùng bốn vật cúng dường thì gọi là dùng như kẻ mắc nợ. Trái lại sử dụng bốn vật cúng dường để đạt được 7 bậc hữu học ( 4 đạo, 3 quả) thì gọi là dùng như hưởng gia tài tổ tiên, vì họ là những người con của Như Lai, họ dùng những vật dụng như thừa hưởng gia tài của cha mẹ để lại. Thế nhưng, một vị đã đoạn trừ hết phiền não, không còn bị các dục vọng sai khiến thì dùng các vật cúng dường như người chủ.

VI. Sự Uyển Chuyển Của Giới Luật:

Trong lần kết tập pháp tạng lần thứ nhất, sau khi Tôn giả Ưu Ba Ly tụng lại các giới, các vị trưởng lão phân vân về tính thiết thực của một số giới điều nhỏ nhặt.
Bây giờ Tôn giả A Nan liền thưa với đại hội: “ Ngã thân tùng Phật văn, ức trì Phật ngữ, tự kim dĩ khứ, vị chư tỳ kheo, xả tạp toái giới “ ( Bản thân tôi từng nghe và nhớ rõ những lời Phật đã dạy: Từ nay trở đi, Ta vì các Tỳ kheo, bỏ bớt những giới nhỏ nhặt ). Thế rồi Tôn giả Ca Diếp hỏi A Nan, Phật có xác định những giới nào là nhỏ nhặt có thể bỏ được hay không, thì Tôn giả A Nan bảo là Phật không cho biết. Do đo, Ca Diếp lý luận rằng: “ Nếu giờ đây chúng ta tùy tiện bỏ bớt những giới điều do Phật chế thì ngoại đạo sẽ chê bai “. Pháp của Sa môn Thích tử giống như mây khói, khi thầy còn sống thì những pháp do thầy chế định, các đệ tử tuân thủ một cách nghiêm túc, nhưng sau khi thầy nhập Niết bàn, họ không chịu thực hành nữa. Vì thế, để tránh sự đàm tiếu của người ngoài trong hiện tại cũng như trong tương lai, Ca Diếp quyết định: “Tự kim dĩ khứ, ưng cọng lập chế, Nhược Phật tiên sở bất chế, kim bất ưng chế, Phật tiên sơ chế, kim bất ưng khước. Ưng tùy Phật sở chế nhi hành” ( Từ nay trở đi, chúng ta cùng nhau lập ra quy ước, nếu những gì trước đây Phật không chế định, thì nay không nên đặt ra. Những gì trước đây Phật đã chế định thì nay không nên loại bỏ, mà tùy nghi tuân thủ những gì do Phật đã chế ). Và ý kiến này đã được đại hội nhất trí tán thành. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn thấy đây chỉ là giải pháp dung hòa, có tính chất uyển chuyển, chứ không mang tính chất bắt buộc. Vì thật ra, vấn đề này ở một chỗ khác đức Phật cũng đã giải thích khá rõ: “ Tuy thị ngã sở chế nhi ư dư phương bất dĩ vi thanh tịnh giả, giai bất ưng hành. Tuy phi ngã sở chế nhi ư dư phương tất ưng hành giả, giai bất đắc bất hành “ (Tuy là những điều do ta chế định, nhưng đối với những nơi khác không cho là hợp lý, thì những điều đó không nên làm. Tuy là những điều không do ta chế định, nhưng đối với những nơi khác bắt buộc phải làm, thì không thể không làm ).
Ngoài ra, trong lần kiết tập pháp tạng lần thứ hai có một số vấn đề giới luật gây ra tranh luận, thì Tôn giả Ly Bà Đa - một trong những vị chủ trì cuộc kiết tập - cũng đã đưa ra một giải pháp chiết trung: “ Nhược quan Tu Đa La, Tỳ Ni, kiểm hiệu pháp luật, dữ Tu Đa La tương ưng, dữ pháp luật tương ưng, bất vi bản pháp, nhược dĩ tác, nhược vi tác, ứng tác “ ( Nếu xem xét và đối chiếu với kinh, với luật mà phù hợp với kinh, với luật, không trái với những nguyên tắc căn bản, thì những gì đã làm ta cứ tiếp tục, những gì chưa làm ta cứ làm ).
Như vậy, giới luật hiển nhiên không phải là những giáo điều khô cứng, bất di bất dịch, mà là những nguyên tắc hướng dẫn cuộc sống trở nên tốt đẹp, nó vừa có tính khế lý mà cũng khế cơ và đồng thời luôn uyển chuyển và sinh động. Đây là những di huấn của đức Phật và của các vị trưởng lão tiền bối như chúng ta đã thấy.
Tóm lại, qua những trình bày trên, chúng ta đã hiểu về ý nghĩa sự phân loại, vị trí, lợi ích, các ví dụ và sự uyển chuyển của giới luật một cách tổng quát. Theo tinh thần chân chính của giới luật thò đó là những nguyên tắc chỉ đạo tối ưu để giúp hành giả, sống một cuộc đời thánh thiện phù hợp với chân lý, đạt đến an vui, giải thoát. Thế nhưng, hiện nay chúng ta đang tuân thủ một loại giới luật do đức Phật - người Ấn Độ - chế định cách đây 25 thế kỷ, mà không gian, thời gian khác nhau, trình độ hoàn cảnh bất đồng, phong tục tập quán mỗi nơi mỗi khác. Do vậy, chắc chắn có một số giới điều không còn phù hợp với hiện tại và không thể phát huy hết hiệu quả của chúng một cách tích cực. Nhưng may thay, chính đức Phật và các vị trưởng lão tiền bối đã thấy trước được vấn đề và đã dự liệu những giải pháp uyển chuyển tương đối khả thi. Do đó, thiển nghĩ, chúng ta không nên câu nệ một cách cứng nhắc vào các hình thức giới luật, mà cần phải linh động, vận dụng tinh thần của giới luật, miễn sao đạt được kết quả thiết thực, đưa chúng ta đến mục tiêu giải thoát, giác ngộ, thì sẽ không cô phụ tâm nguyện đại bi của đức Phật và không trái với bản hoài của các bậc trưởng lão tiền bối, không ngừng quan tâm đến sứ mệnh tiếp dẫn hậu lai.

Lợi ích Của Giới

Kinh Trường bộ I nói có 5 lợi ích của giới như sau: Người có giới đức sẽ hưởng được gia tài pháp bảo nhí tinh cần, được tiếng tốt đồn xa, không sợ hãi rụt rè khi đến trước các hội chúng đông đảo. Khi chết tâm không rối loạn, sau khi mạng chung được sanh vào thiện thú, cõi trời.
Luật Tạng kể có 10 lợi ích như sau: 1/ Vì để thu nhiếp chúng tăng. 2/Vì muốn cho chúng tăng hoan hỷ. 3/ Vì muốn cho chúng tăng sống an lạc. 4/ Vì để hàng phục những kẻ phá giới. 5/ Vì để cho những người có tàm quý được an ổn. 6/ Vì để cho những người không tin phải tin tưởng. 7/ Vì để cho những người đã tin càng thêm tin. 8/Vì muốn đoạn trừ các pháp hữu lậu trong hiện tại. 9/ Vì muốn đoạn trừ các pháp hữu lậu trong tương lai. 10/ Vì muốn cho nếp sống phạm hạnh được tồn tại lâu dài.

IV. Phân Loại Về Giới:

1/Giới thuộc một loại: Giới mang đặc tính kết hợp.
2/Giới thuộc hai loại: Chỉ trì và Tác trì. Không làm những gì do Phật cấm chỉ là chỉ trì, phải làm những gì do Phật chế định là tác trì. Giới tạm thời và giới trọn đời. Giới tạm thời là được thọ với thời gian hạn định, giới giữ trọn đời là thọ đến khi mạng chung. Giới thế gian và giới xuất thế gian: Giới thế gian là thuộc phạm vi hữu lậu, giới xuất thế gian là giới thuộc lãnh vực vô lậu.
3/ Giới thuộc ba loại: Giới bậc hạ, bậc trung và bậc thượng. Giới thọ trì vì mưu cầu danh lợi là giới bậc hạ, vì ham quả báo công đức là giới bậc trung, vì tôn trọng giới pháp là giới bậc thượng. Hoặc giới có động lực tham ái, còn tái sinh là giới bậc hạ. Giới thực hành vì mục đích giải thoát riêng mình là giới bậc trung, thực hành giới Ba La Mật vì mục đích giải thoát cho chúng sanh là giới bậc thượng.
Giới vị kỷ, vị tha là vị pháp. Giới thực hành vì bản thân là giới vị kỷ, giới thực hành vì quan tâm đến thế gian là giới vị tha, giới thực hành vì tôn trọng pháp và luật là vị pháp. Giới thanh tịnh, bất tịnh là khả nghi.
 Giới được tuân thủ trọn vẹn, hoặc vi phạm đã sám hối gọi là giới thanh tịnh. Một người đang nghi ngờ không biết mình có phạm giới hay không phạm, gọi là giới khả nghi.
4/ Giới thuộc bốn loại: 
Giới của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, giới của người chưa thọ cụ túc và giới của người tại gia.(250 giới TK, 348 giớiTKN, 10 giới SD và SDN, 5 giới tại gia, 8 giới BQT, 58 giới BT).
Giới tự nhiên: Người không cần gắng giữ giới mà không hề phạm giới, gọi là tự nhiên giới.
Giới theo cổ truyền: Mỗi bộ lạc, địa phương có luật lệ riêng, gọi là giới theo phong tục.
Giới tất yếu: Giới của mẹ Bồ Tát khi Bồ Tát nhập thai “Không có tư tưởng dục nhiễm, gọi là giới tát yếu”.
Giới do nhân đời trước: Giới của người sanh ra đã thanh tịnh như trường hợp  tôn giả Ca Diếp, gọi là giới do nhân sinh đời trước.
5/ Giới thuộc năm loại:
- Giới thanh tịnh hữu hạn: Giới của người chưa nhập Tăng chúng.
- Giới thanh tịnh vô hạn: Giới của những người đã nhập Tăng chúng, đã thọ cụ túc.
- Giới thanh tịnh đã viên mãn: Giới của phàm phu có đức hạnh, chuyên hành thiện đang viên mãn bực hữu học.
- Giới không dính mắc: Giới của bậc hữu học không dính mắc tà kiến.
- Giới đã tịnh chỉ: Giới của bậc A La Hán gọi là giới tịnh chỉ, vì không còn cấu uế.
Nếu người giữ giới không thanh tịnh, phạm giới thì có các trường hợp xảy ra: giới bị rách, giới bị lủng, giới bị hoen ố, giới bị lốm đốm. Khi một người phạm giới do vì lợi dưỡng, vì tiếng khen, hay bị dục vọng sai khiến thì gọi là giới bị rách nát như tấm vải bị cắt ở ngoài biên. Nhưng nếu vị ấy phạm giới trong lúc đang tu học tiến bộ, thì gọi là giới bị lũng. Như tấm vải bị cắt ở giữa. Khi một người phạm giới liên tiếp hai, ba lần thì gọi là giới bị hoen ố. Như một con bò đen, bỗng có một mảng lông khác màu ở trên mình, khi vị ấy phạm giới thường xuyên thì gọi là giới bị lốm đốm, như một con bò màu vàng, lại có nhiều đốm trắng khắp mình.
Một người thiếu giới hạnh thì không thể làm cho chư thiên hoan hỷ, mà còn trở thành kẻ ngoan cố đối với các bạn đồng phạm hạnh. Vị ấy đau khổ khi phạm giới vì bị chỉ trích và hối hận khi thấy những người giữ giới được tán dương. Người ấy vô giá trị, vì không đem lại quả báo tốt đẹp cho các thí chủ. Người ấy khó làm cho sạch, như thùng phân dơ lâu năm, như một khúc gỗ mục trên giàn hỏa, vì không phải là người xuất gia cũng phải người cư sĩ. Mặc dầu tự xưng là Tỳ kheo mà không phải là Tỳ kheo, nên giống như con lừa đi theo bầy bò.Vị ấy nóng nảy như kẻ thù của mọi người. Sống chung với vị ấy khó khăn, như sống chung với một xác chết. Mặc dầu người ấy có thể là một người đa văn, nhưng vị ấy không đáng được các bậc đồng phạm hạnh cung kính. Vị ấy không đạt được các quả thù thắng, như người mù không thấy sắc. Vị ấy bất cẩn đối với diệu pháp, như kẻ nghèo sống trong một đất nước phú cường, mặc dầu vị ấy tưởng mình hạnh phúc, nhưng kì thực có đau khổ, vì phải gặt hái những ác quả do phạm giới đem lại.
Trái lại người giữ giới trọn vẹn là: Không vi phạm các học sứ sám hối những giới đã phạm, không có các sự trói buộc của dục vọng, không khởi những ác pháp, như phẫn nộ, hận thù, độc đoán, khinh thường, đố kị, bủn xỉn, lừa dối, gian lận, cứng đầu, kiêu căng, ngã mạn, cao ngạo, khoe khoang, lơ đểnh, mà thường khởi những đức tính ít muốn đủ viễn ly. (Trung Bộ kinh-7 và 24)
Cách sử dụng bốn sự cúng dường liên quan đến giới hạnh, dùng như kẻ mắc nợ, dùng như hưởng gia tài của tổ tiên, dùng như người chủ. Một người không giới đức sử dụng bốn vật dụng được cúng dường, ngay cả sự có mặt trong Tăng chúng, gọi là dùng như kẻ trộm. Một người có giới mà không chân chính giác sát, trong khi dùng bốn vật cúng dường thì gọi là dùng như kẻ mắc nợ. Trái lại sử dụng vật cúng dường để đạt được bảy bực hữu học (4 đạo 3 quả) thì gọi là dùng như hưởng gia tài của tổ tiên, vì họ là những người con của Như Lai, họ dùng những vật như thừa hưởng gia tài của để cha để lại. Một vị đã đoạn trừ hết phiền não, không còn bị các dục sai sử là dùng các vật cúng dường như người chủ.
Nếu giới pháp là người xuất gia hay tại gia đã lãnh thọ không bị phá hủy ở chặng đầu hay ở chặng cuối, như miếng vải bị xé rách ở hai đầu thì giới ấy gọi là giới không bị rách. Nếu giới không bị phá hủy ở chặng giữa thì gọi là giới không bị lủng, như miếng vải bị đâm thủng ở giữa. Nếu học giới không bị vi phạm hai, ba lần liên tiếp, gọi là giới không bị vá. Nếu giới không bị cùng khắp, cách nhau từng thời khoảng thì gọi là giới không bị lốm đốm. Như con bò có những đốm trên lưng.
Chính những giới ấy là nền tảng đưa đến giải thoát, vì chúng giải tỏa khỏi sự nô lệ cho dục ái. Chúng được người trí tán thán, chúng không liên hệ đến tham dục và tà kiến. Chúng có khả năng đưa đến thiền định.
Khi chuyên tâm về việc niệm giới, hành giả có sự tôn trọng đối với học pháp. Vị này sống hòa hợp với những bạn đồng phạm hạnh, không sợ bị lương tâm cắn rứt, vị này thấy sự sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, đạt đến lòng tin viên mãn. Vị này sẽ sống an lạc, dù không đạt được đạo quả gì cao hơn thì cũng đang trên đường tiến đến những thiện thú tươi đẹp. Thế nên: “Người thật sự có trí, Sẽ thường xuyên niệm giới”.
Không giữ giới thanh tịnh sẽ bị quả báo xấu xa trong hiện tại như là:
1-    Không được tiếng tăm.
2-    Tâm phiền não loan động
3-    Tinh thần hoan mang, không an định.
4-    Đánh mất lợi dưỡng.
5-    Mọi người không cung kính.
6-    Nhập chúng thì tâm hổ thẹn.
7-    Thiện thần không che chở.
8-    Bạn lành lánh xa.
9-    Làm bạn với kẻ ác.
10-Bị người hiểu biết quở trách.
11-Thường chảy nước dơ
12-Sắc mặt tối tăm, lộ ra dáng vẻ của người phạm giới
13-Hai mắt đục ngầu.
14-Trí tuệ giảm mất.
15-Năng lực ghi nhớ bị yếu kém.
16-Hiện đời không đắc đạo.
17-Khi chết bị đọa vào trong địa ngục.
=======================

TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIỚI

Chúng ta đã từng quỳ trước Tam Bảo phát nguyện thọ trì Tam quy, Ngũ giới, Thập thiện giới v.v... là ta đã trở thành người Phật tử chính thức, trở thành những mầm non của đạo pháp, những hạt giống Bồ đề, hạt nhân của giải thoát là dự vào trong dòng thánh. Vì biết rằng, chính giới pháp mới là pháp môn viên mãn nhất để giải thoát chúng ta ra khỏi phiền trược, khỏi kiếp luân hồi vô minh. Vì nghỉ đến sự cao quý như thế,nên đã có những giờ phút chúng ta đem hết thành tâm thiện chí để lãnh thọ. Chính những giới pháp đó đức Phật đã thành tựu viên mãn,và sau bao nhiêu công phu tu hành, đạt chánh quả. Ngài đem giới pháp đó dạy lại cho chúng ta, coi như là pháp thân huệ mạng của chính Ngài. Bởi thế, sau khi Ngài viên tịch, giới pháp ấy vẫn tồn tại, để dắt dẫn những kẻ hảo tâm xuất gia, và trước khi sắp nhập Niết Bàn, đức Phật đã đinh ninh dạy bảo: “Này các Tỳ kheo, sau khi ta diệt độ, các ngươi hãy tôn trọng trân quý Ba La Đề Mộc Xoa, như người đi trong đêm tối được gặp đèn sáng, như người nghèo khó gặp được châu báu.Giới luật chính là đức thầy cao cả của các ngươi,dù ta có ở đời cũng không khác gì”.
Giả sử chúng ta được duyên may mắn, sinh vào thời đức Phật thì chắc chúng ta được nghe những lời dạy ấy, tuân giữ giới luật của Ngài và tôn Ngài làm đấng Đạo Sư. Nhưng vì bạc phước vô duyên, chúng ta phải sanh vào thời mạt pháp. Mặc dù không gặp Phật, ta vẫn còn được phước duyên có những giờ phút được nghe giáo pháp của Ngài đã dạy, biết những giới Ngài đã truyền, để ta tôn thờ giới pháp làm đấng Đạo sư như Phật ở đời không khác. Một người đi trong đêm tối muốn khỏi sa hầm sụp hố, cần được ánh đèn bao nhiêu, thì khi gặp được ánh đèn, họ sẽ quý báu bấy nhiêu. Như kẻ nghèo khổ đói rách, cần tiền của bao nhiêu, thì khi gặp tiền bạc sẽ giữ gìn cẩn thận bấy nhiêu. Chúng ta, những người tối tăm vô minh đói khổ vì thiếu thốn sự giác ngộ, sự giải thoát cho nên chúng ta cũng sẽ quý giáo pháp của Phật không khác gì những người đi trong đêm tối đó. Người đi trong đêm tối gặp được ánh sáng, chắc chắn họ sẽ không để mất, kẻ nghèo gặp được châu báu sẽ bảo tồn quý trọng nó, thì người hảo tâm tu học cũng vậy. Khi đã biết giới luật là phương pháp cao quý để ta nương theo, thì chắc chắn ta sẽ đem hết thành tâm thiện chí cầu lãnh thọ bảo trì cho bằng được. Huống chi đã làm con người, không ai không mang trong mình bao nhiêu tật xấu, bao nhiêu phiền não tội lỗi. Nhưng phiền não tội lỗi ấy, nếu không nhờ những pháp môn, những giới luật ngăn ngừa thì chắc chắn đời đời chúng ta vẫn là những con người quê hèn nghèo khó, không bao giờ bước lên được con đường giải thoát giác ngộ. Nên yếu điểm đầu tiên của Phật chế giới luật là muốn cho ta gạt bỏ những tục tánh quê hèn, tạo đức tốt, lập chí nguyện lớn lao. Ở đời những vị quân tử, thánh nhân hằng mong mỏi lập ba điều bất hủ: “ lập công, lập đức, lập ngôn”. Vậy thì người xuất gia chúng ta chắc chắn cũng muốn lập những công đức sự nghiệp lớn lao mà không giữ giới luật, cứ bê tha theo tục tình, thả lỏng thân khẩu ý theo thói thấp hèn, thì biết đến bao giờ chúng ta mới có thể lập được chí nghiệp, bao giờ mới xả bỏ được những tục tình quê kịch, mà chính nó bấy lâu nay nhận chìm chúng ta trong thói đời? Cho nên một người đã có thành tâm thiện chí muốn làm đệ tử của đức Phật thì trước hết phải giữ giới để ngăn ngừa tội lỗi, xả bỏ tục tình, để trở thành một người toàn thiện. Khi cá nhân đã trở nên toàn thiện, toàn mỹ, mới có thể đặt lên đó những hạnh nghiệp giải thoát, cầu đạo Bồ đề, cứu độ chúng sanh.
Yếu điểm thứ hai, là đệ tử của Phật khi còn tại thế, sống trong một đoàn thể không phải một người, hai người mà đã có đến trên 1250 người tuỳ tùng xuất gia. Với một số đông đệ tử như thế, nếu không có giới luật thì biết căn cứ vào đâu để hoà hợp với nhau,tương ưng với nhau và tu học với nhau? Mỗi người khi ấy sẽ hành động mỗi cách, ngôn ngữ mỗi cách, thì làm sao tạo được một giáo đoàn gương mẩu để truyền bá giáo pháp, để tiến tu đạo nghiệp? Nếu chúng tăng không có một kỷ luật giới pháp để mỗi người răn dè tuân giữ, thì chúng tăng sẽ trở thành một chúng tăng ô hợp. Khi đã là chúng tăng ô hợp, thì cá nhân đã không được tu học, mà đoàn thể ấy cũng không ích lợi gì? Huống chi một đoàn thể cầu giải thoát mà lại có thể ô hợp được chăng? Chắc chắn là không?
Vì vậy 12 năm sau khi thành đạo, với một số đồ chúng xuất gia và tại gia đã đông, đức Phật đã tuỳ căn cơ chúng sanh mà lần lượt chế ra những giới luật. Sau khi Phật nhập Niết Bàn, những giới luật ấy đã được tôn giả Ưu Ba ly kết tập thành,Ngũ giới, Bát Quan Trai giới, Thập thiện giới, Sa di giới, Sa Di Ni giới, Tỳ kheo giới, Tỳ kheo Ni giới, Bồ Tát Giới. Những giới luật đó đã trải qua thời gian đến nay vẫn còn tồn tại, chúng ta có thể nghe thấy một phần nào những gì Phật đã dạy lúc sinh thời. Những giới luật đó, hàng tại gia cũng như xuất gia, ai tuân giữ được thì đều xứng đáng là con Phật. Sự thành tâm thiện chí của đệ tử Phật đối với giáo pháp của Ngài chính là sự cúng dường cao quý nhất, bởi vì khi một người xuất gia có tác phong tề chỉnh gương mẩu thì có thể thay thế Phật ở cõi Ta bà. Giữa thời mạt pháp, giáo pháp của Phật nhờ đó mà tồn tại mãi. Giới luật tạo cho con người trở thành đức hạnh giải thoát gương mẩu. Chính thời đức Phật khi còn là thái tử cũng nhờ hình bóng một vị sa môn có oai nghi tề chỉnh giải thoát đã đánh thức Ngài cảm kích sự xuất gia của Ngài. Vậy thì ngày nay, nếu một vị xuất gia hoặc tại gia, có oai nghi tề chỉnh biểu hiện sự giải thoát ly trần, chắc chắn sẽ gây được nhiều ấn tượng giải thoát trong lòng nhiều người. Do đó, đức Phật đã nhiều phen dạy chúng ta phải tôn sùng quý trọng giới luật, như trong Thiện Kiến Luật, Ngài đã dạy A Nan: có 5 điều làm cho giáo pháp ta tồn tại lâu bền ấy là: Thứ nhất là hàng đệ tử biết tuân giữ tỳ ni giới luật, Thứ hai là tịnh tăng thánh chúng, Thứ ba là truyền thọ bất diệt.Thứ tư là hạnh nghiệp thanh tịnh,Thứ năm là trụ trì vĩnh cửu. Tóm lại nếu có 5 người cho đến nhiều hơn nữa, mà đều nhất tâm giữ luật, biết sợ phạm giới, sám hối những điều đã phạm, thì đó là những yếu tố quan trọng khiến phật pháp tồn tại trong thời gian 5000 năm. Giữ được những yếu tố ấy một cách viên mãn,tức là bảo vệ phật pháp được vững bền trong thế gian này.
Chúng ta đã thọ 5 giới,10 giới, 250 giới tức là chúng ta đã tự khép mình trong giới luật,vì thế chúng ta được dự trong giòng Phật pháp nối dõi giống thánh, chúng ta tự giác từ bỏ thói quê hèn, nhận lãnh đức tánh thanh cao, tức là chúng ta từ bỏ chỗ thấp bước lên bực cao, chối từ dục vọng trói buộc để hướng đến giải thoát thanh lương. Trên các giới điều tuy chia ra nhiều khoảng. 5 giới, 10 giới, 48 giới, 250 giới, 348 giới, tuy có nhiều nhưng không ngoài bốn tánh giới “Sát, Đạo, Dâm, Vọng”. Bốn giới ấy là chính yếu, nếu giữ được thì các giới khác không vi phạm, nếu không giữ được vô số phiền não tội chướng cũng từ đó mà phát sanh ra. Một người tu gương mẩu là người đầy đủ oai nghi trong các việc “ ăn, mặc, ở ”. Với tâm thành thiện chí thì ta sẽ giữ được dễ dàng. Một khi ta đã dõng mãnh phát tâm xả thân cầu giới, như đức Phật của chúng ta đã làm, như các vị tổ sư đã thực hiện, thì chắc chắn chúng ta sẽ giữ trọn giới pháp của Phật không lo gì khó khăn. Mà khi đã giữ giới một cách viên mãn thì tất nhiên chúng ta sẽ trở nên những trưởng tử của Phật, hà đảm Như Lai huệ mạng. Một người trưởng tử như thế, nhiều người trưởng tử như thế, sẽ  khiến  Phật  pháp  được  lâu  bền, báo đáp thâm ân của  Phật  một cách  viên mãn./.

NGÀY   TỰ   TỨ

Định nghĩa: Tiếng Phạn: Pravarana, phiên âm là Bát Hoà La,dịch là Tự Tứ,thỉnh hay tuỳ ý. Nghĩa là cầu người khác chỉ những lỗi lầm cho mình trên ba phương diện thấy, nghe, nghi. Nếu tự mình thấy lỗi sẽ thành tâm sám hối để được thanh tịnh. Mục đích của Tự Tứ giống như thuyết giới, là biểu hiện sự thanh tịnh và hoà hợp của tăng già. Thế nên có thể nói Tự Tứ là một hình thức thuyết giới không đọc giới bổn.
Túc số tăng: Thuyết giới tối thiểu phải là 4 thầy Tỳ kheo, nhưng Tự Tứ thì túc số tăng tối thiểu phải từ 5 thầy Tỳ kheo trở lên. Nếu trú xứ chỉ có 4 thầy Tỳ kheo hoặc chỉ có 3 vị 2 vị thì phải đọc đối thú Tự Tứ. Còn chỉ có một vị thì cho phép tâm niệm Tự Tứ.
Trong khi Tự Tứ,thầy Tỳ kheo nào có duyên sự vì Tam Bảo thì được phép gởi dục, nói như thế này: “gởi dục và tự tứ”. Còn thuyết giới thì nói: “ gởi dục và thanh tịnh”. Như vậy Tự Tứ và thuyết giới khác nhau về gởi dục.
Khi chúng tăng an cư ba tháng xong, lo việc Tự Tứ. Những Tỳ kheo hậu an cư cũng được Tự Tứ chung với Tỳ kheo tiền an cư (nhưng phải ở lại đủ 90 ngày mới được ra khỏi đại giới).
Bên Ni chúng,trước ngày Tự Tứ phải cử người đến Đại tăng cầu xin ba việc: thấy, nghe, nghi. Đây là một trong tám pháp cung kính của Tỳ kheo Ni phải gìn giữ.
Yết Ma Tự Tứ: Yết Ma Tự Tứ tổng quát gồm hai thể thức chủ yếu:
- Bạch nhị, sai người nhận Tự Tứ.
- Đơn bạch, chánh thức Tự Tứ.
 Căn cứ trong các bộ Quảng luật, vị thầy được sai làm người nhận Tự Tứ phải có 5 đức: 1 – Không ái nhiễm. 2- Không hờn ghét. 3- Không sợ sệt. 4-Không ngu đần. 5- Người tự tứ rồi hay chưa đều biết.
Thời gian Tự Tứ có 4 trường hợp:
  1- Định kỳ tự tứ      .     2 – Tăng ích tự tứ.
  3- Giảm nhật tự tứ   .     4-  Tăng thượng tự tứ.
Định kỳ tự tứ (Chánh kỳ tự tứ)  là an cư đủ 90 ngày, làm lễ tự tứ.
Tăng ích tự tứ ; Chúng tăng trong ba tháng tu học có tiến bộ lợi ích của trong việc dụng công nên tiếp tục ở thêm một tháng nữa rồi mới làm lễ tự tứ.
- Giảm nhật tự tứ  và tăng thượng tự tứ: Trong chúng sắp đến ngày tự tứ, bất ngờ có sự tranh chấp hay nghe tin những Tỳ kheo khách sắp đến có thể gây ra bất hoà,vị thiền chủ có thể tuyên bố tự tứ trước một ngày đã định hay triển hạn đến một kỳ hay hai kỳ Bố tát. Triển hạn tối đa là một tháng mà tăng vẫn chưa hoà hợp hay Tỳ kheo khách vẫn chưa đi phải cưõng bức các Tỳ kheo hiếu sự ấy hoà hợp tự tứ. Nếu cưỡng bức không được, các Tỳ kheo thanh tịnh phải ra ngoài cương giới kết tiểu giới tự tứ.
Trong đạo Phật, ngày tự tứ có thể nói là “ngày Tết” của chư Tăng.
Mùa an cư mỗi năm bắt đầu từ ngày 16 tháng 4 âm lịch đến 15 tháng 7 là mãn hạ đủ 90 ngày đó là thời gian tiền an cư. Còn hậu an cư từ 17 tháng 4 đến 16 tháng 5. Dù tiền hay hậu cũng phải giải hạ vào ngày 15 tháng 7.
Theo Nam truyền, kết hạ ngày 16 tháng 6 và giải hạ vào 16 tháng 9 âm lịch.
Tiền an cư gọi là “ Tiền tam ngoạt hạ an cư,” hạ an cư gọi là “ hậu tam ngoạt hạ an cư ”. Tất cả chư tăng các nơi đều tụ hội về một trú xứ thuận tiện để kiết hạ an cư. Chỗ tăng chúng an cư gọi là trường hạ.
Sau 3 tháng tinh tấn tu hành, Giới Định Huệ, thúc liễm thân tâm, trau giồi đức hạnh, đến ngày 15 tháng 7 gọi là ngày mãn hạ, chư tăng đều được tăng thêm một tuổi đạo gọi là tuổi hạ “ Hạ lạp ”.
Vì muốn công đức viên mãn nơi giới  thể thanh tịnh bằng cách rửa sạch hành vi lầm lỗi, tư tưởng xấu xa, chư tăng cùng nhau Tự Tứ.
Tự tứ có ý nghĩa cầu thỉnh người khác chỉ cho mình những cái lỗi lầm mà người khác có thể thấy, nghe, hoặc nghi mà chính bản thân mình không thấy,để biết mà sửa.Âm tiếng Phạn là Bát Lặc Ba Noa (Pravarana) xưa dịch là Tự tứ, gần đây dịch là Tuỳ ý. Nghĩa là tự hiến mình để tuỳ ý người khác phê bình kiểm thảo, chỉ ra những chỗ sai lầm của mình, không chút ngần ngại.
Nói một cách phổ thông như ngày nay gọi là kiểm thảo. Tinh thần tự tứ này có thể áp dụng cho mỗi đoàn thể, mỗi người có thể tuỳ ý kiểm thảo với nhau trong mọi việc sai lầm về lời nói, ý nghĩ và hành động. Nhờ vậy phương pháp tu hành tự tứ có thể hoán cải được những con người hung ác, xấu xa trở thành hiền lương tốt đẹp, phàm mê trở thành thánh trí. Mỗi người ai ai cũng thực hiện tinh thần tự tứ này có thể làm cho cả thế giới hoà bình an lạc, nếu tất cả mọi người đều biết áp dụng phương pháp này vào đời sống của mình.
Riêng về hàng xuất gia, nghi lễ đặc biệt long trọng hơn. Chư Ni cũng như chư Tăng, sáng ngày 15 tháng 7 nhóm họp xong, trước tiên cử một vị đại đức ra để nhận tự tứ (tự tứ nhơn ). Vị nầy không luận già hay trẻ,lạp cao hay lạp thấp, chỉ cần đủ 5 đức:
1- Không có tâm thiên vị
2- Không có lòng giận ghét
3-Không sợ người thù oán
4-Có trí tuệ sáng suốt
5-Biết người tự tứ rồi hay chưa.
Sau khi lễ Phật xong, toàn thể đại chúng tề tựu trước chánh điện, đại chúng từng người lần lượt đến đối diện với vị tự tứ nhơn bạch ba lần rằng: “Đại đức nhất tâm niệm, kim nhật chúng tăng tự tứ,ngã Tỳ kheo... diệc tự tứ, nhược hữu kiến, văn, nghi tội, nguyện Đại đức ai mẫn cố ngứ ngã, ngã  nhược kiến tội đương như pháp sám hối ”. (xin Đại đức từ bi thương xót, ngày nay chúng tăng tự tứ,tôi Tỳ kheo...cũng tự tứ, đối với trong ba điều thấy, nghe, nghi tôi có tội, mong Đại đức chỉ giáo cho, nếu tôi xét có tội, xin thành tâm y pháp sám hối). Khi xét không thấy lỗi gì, thì vị nhận tự tứ đáp lại “ tốt lắm ”. Người bạch thưa A Di Đà Phật xin vâng.
Không chút rụt rè, hoặc che dấu tội lỗi, trái lại rất vui mừng nhận lấy lỗi lầm trước sự chỉ bảo của đại đức tăng, đó là tinh thần và ý nghĩa lễ tự tứ. Ta thử xét, đây là một phương pháp sám tội rất cao, một tư cách cao cả của người sống đúng với chánh pháp.
Bởi vậy,những gương mẫu trong sáng đó là những mô phạm cao quý cho nhơn thiên, có được như thế ánh đạo vàng được buông toả muôn phương phá tan nghiệp vô minh đen tối của chúng sanh, vơi cạn nổi khổ đau của muôn loài,thế giới hoà bình,  nhơn dân an lạc, âm dương lưỡng giới đồng triêm công đức, đâu không phải nhờ công đức hoá độ của chư tăng biết sứ mạng của mình.
Nhưng nhiệm vụ của Tăng sĩ là thay Phật tuyên dương, truyền bá chánh pháp,cứu độ quần sanh. Nhiệm vụ ấy, thường được xây dựng trong những mùa an cư và viên thành ở những ngày tự tứ.
Bởi thế, trong ngày tự tứ, chư Phật lấy làm vui lòng vì thấy các hàng đệ tử của mình đã tiến thêm một bước dài trên con đường giải thoát giác ngộ và đạo vàng sẽ bất diệt,chúng sanh sẽ an vui. Ngày ấy, không những chư Phật vui mừng mà tăng già cư sĩ các giới thảy đều chan chứa một niềm hoan lạc.
Từ địa vị một phàm tăng tiến lên thành vị sơ quả, nhị quả cho đến tứ quả v.v... phần nhiều đều được thành tựu từ khoảng đầu hạ cho đến ngày tự tứ.
Kinh Lăng Nghiêm là một pháp bảo quý nhất trên đời, chỉ rõ nguồn chơn bến giác và đường lối tu hành để đến quả vị Phật Đà,cũng phát nguyên từ ngày tự tứ.
Đức Mục Kiền Liên vang danh hiếu tử, nhờ công đức lực của chư Tăng trong mùa hạ nhân ngày tự tứ mà muôn vạn khổ đau của mẹ ngài nơi đường ác thú được thoát khỏi cũng bắt nguồn từ ngày tự tứ. Vì thế ngày tự tứ cũng là ngày “xá tội cong nhân ”  còn gọi là “cứu đảo huyền ” (cứu cái khổ treo ngược ).
Trong ngày tự tứ, các hàng thiện nam tín nữ rất thoả nguyện trong việc cầu nguyện báo hiếu cho ông bà cha mẹ đã quá vãng, cũng như trên việc gieo trồng cội phước,và cũng là phương pháp gián tiếp truyền bá và duy trì chánh pháp bằng cách ủng hộ cúng dường đại đức tăng trọn vẹn một mùa kiết hạ an cư.
Như thế, chúng ta thấy rõ ngày tự tứ là một ngày rất quan trọng và đầy ý nghĩa trong lịch sử Phật giáo. Nó đem lại vô cùng lợi ích cho thánh phàm u hiển,tất cả những đặc điểm tiến hoá, giải thoát thanh tịnh trên tinh thần sống chung hoà hiệp, cùng phương tiện báo hiếu, gương mẩu độ sinh của phật tử đều được nâng cao ở ngày ấy./.

KHÁI NIỆM VỀ YẾT MA

Mọi sinh hoạt của tổ chức trong cộng đồng xã hội đều hoạt động theo nguyên tắc có tính cách nội quy của tổ chức mình. Nếu nội quy càng phù hợp với nguyện vọng của thành viên và phù hợp với thực tế cuộc sống, thì bộ máy càng được ổn định điều hòa và do đó cộng đồng càng có cơ hội phát triển. Trong cộng đồng tăng lữ đạo Phật, những quy định ấy được gọi là Tăng già yết ma.

I. Yết ma là gì?

Yết ma là phiên âm từ Kamar hoặc Kamma. Hán dịch là tác pháp biện sự và được giải thích là “ Vạn pháp do tư thành biện cố”. Đây là nói theo nghĩa chức năng của yết ma. Về mặt ngữ nghĩa Kamar có nghĩa là hành động hay hành vi mà Hán dịch là Nghiệp. Nhưng thông thường nghiệp để  chỉ cho những hành vi thuộc cá nhân. Để phân biệt với hành vi cá nhân hành vi tập thể của tăng được các luật sư giữ nguyên gốc từ phạm âm Kamar, để chỉ và được phiên âm là Kiết ma hay Yết ma. Yết ma nói đầy đủ là Tăng Già Yết Ma.
Nghiệp có ba cơ sở phát xuất: Thân, khẩu, ý. Theo nội dung thì Tăng già yết ma thuộc về khẩu nghiệp là chủ yếu vì nó được thành tựu thông qua thống nhất với đa số tuyệt đối của tăng ( không có ý kiến phản đối ).
Ý chí, động cơ tạo nghiệp, nếu ở cá nhân thì chỉ giới hạn ở trạng thái do dự hay cương quyết, nhưng ở tập thể thì vấn đề thống nhất trong tinh thần hòa hợp tuyệt đối phải được đặt lên hàng đầu. Tập thể là tập hợp gồm nhiều phần tử cá thể, mỗi cá thể là một phần tử trong tập thể. Nếu một cá thể nào đó có thái độ do dự không biết thì tính chính thể của tập thể đã có dấu hiệu rạn nứt. Một khi chính thể bị rạn nứt thì sẽ không hoàn thành được việc gì đáng kể mà còn có thể có nguy cơ bị giải thể, cho nên yêu cầu căn bản của việc tác pháp yết ma thành tựu là sự hòa hợp và thanh tịnh của tăng.

II. Các giai đoạn tiến hành các pháp yết ma:

Yết ma là nghiệp nên từ khi bắt đầu tác pháp cho đến khi kết thúc cũng phải trải qua ba giai đoạn của nghiệp, đó là gia hành của nghiệp, căn bản của nghiệp và hậu khởi của nghiệp mà trong yết ma thì ta gọi đó là gia hành của yết ma, căn bản của yết ma, hậu khởi của yết ma. Ba giai đoạn tiến hành của yết ma đều lấy ngữ nghiệp làm chính vì bản chất của yết ma là ngữ nghiệp tập thể (cọng ngữ nghiệp ) nên bắt buộc khi làm yết ma phải nói theo văn cú quy định đã được mẫu hóa, để cho các thành viên cùng tác pháp dù là khách tăng mới đến cũng có thể thông hiểu dễ dàng chứ không phải tùy tiện muốn nói thế nào cũng được.
Gia hành của yết ma: Đây là giai đoạn mà thuật ngữ luật tạng gọi là “ Tác tiền phương tiện” giai đoạn này có mục đích xác định các yếu tố hòa hợp, thanh tịnh như pháp của tăng. Tất cả các pháp yết ma đều có giai đoạn tác tiền phương tiện như nhau. Sau khi chư tăng đã văn tập vào giới trường ổn định, vị trí, vị Tỳ kheo được tăng sai làm yết ma hỏi và một Tỳ kheo khác thường là vị tri sự hoặc Duy na đại diện cho tăng lần lượt trả lời theo thứ tự các cặp vấn đáp sau đây: ( Ví dụ )
ò Vấn đáp: 1. Tăng đã họp chưa?  Tăng đã họp
ò Vấn đáp: 2         . Hòa hợp không?   Hòa hợp.
ò Vấn đáp: 3         . Người chưa thọ giới cụ túc đã ra chưa? Đã ra. ( Trong đây không có người chưa thọ giới cụ túc )
ò Vấn đáp: 4. Các Tỳ kheo không đến có thuyết dục và thanh tịnh không? Không ( Có đáp có và thuyết dục )
ò Vấn đáp: 5         . Có ai sai Tỳ kheo ny đến thỉnh giáo giới không?         Không ( Có đáp có và tác pháp thỉnh giáo thọ sư )
ò Vấn đáp: 6. Tăng nay hòa hợp để làm gì?
                     ( Nói tăng sự yết ma )
Trong 6 vấn đề trên, các vấn đáp 1, 2, 3 và 6 bắt buộc lúc nào tác pháp cũng phải có, còn vấn đáp 4 thì ở một số pháp yết ma như kiết giới không có, vì ở trường hợp này luật không có phép gởi dục, vấn đáp 5 chỉ áp dụng trong các yết ma thuyết giới, tự tứ, vì theo luật Phật chế Tỳ kheo ny mỗi nửa tháng đến ngày thuyết giới hoặc ngày tự tứ phải đến đại tăng cầu giáo thọ sư. Như vậy ở các yết ma khác không có yết ma này.
Vấn đáp 1: có mục đích xác định sự tập hợp của tăng là như pháp đó là túc số tăng. Mỗi pháp yết ma đều có quy định một túc số tăng nhất định đó là tăng 4, 5, 10 người và tăng 20 người.
Vấn đáp 2: xác nhận sự hòa hợp của tăng là một trong những yếu tố cần thiết để yết ma thành tựu.
Vấn đáp 3: có mục đích kiểm tra tư cách thành viên của tăng, chỉ có Tỳ kheo mới là thành viên và mới được tham dự vào các tăng sự.
Vấn đáp 4: một lần nữa xác nhận lại sự hòa hợp của tăng trong một trú xứ vì có trường hợp Tỳ kheo có duyên sự đặc biệt được vắng mặt tại giới trường nhưng phải gởi dục. Nếu có Tỳ kheo nào trong trú xứ không vào giới trường mà cũng không gởi dục là dấu hiệu bất hòa của tăng, yết ma không thành.
Vấn đáp 5: được thực hiện khi có mối quan hệ với các trú xứ Ni tăng theo luật định khi thuyết giới, tự tứ.
Vấn đáp 6: Xác định lý do tập hợp tăng để tác pháp xem như là lời tuyên bố lý do hoặc mục đích của yết ma. Được thực hiện ngay sau khi tác tiền phương tiện đây là giai đoạn chính thức của yết ma. Các tăng sự được giải quyết như thế nào đều tùy thuộc vào giai đoạn này, tùy theo mức độ quan trọng của vấn đề cần giải quyết mà yết ma có chia ra đơn bạch, bạch nhị, bạch tứ. Vị Tỳ kheo yết ma phải am hiểu và thực hiện cho đúng, văn bạch tác pháp của các loại yết ma trên đã được mẫu hóa trong các tác phẩm nói về yết ma.
Hậu khởi của yết ma: Sau khi căn bản của yết ma thành tựu, nghị quyết của tăng từ đó về sau được thực hiện với sự nhất nhất chấp hành của các Tỳ kheo trong trú xứ thì tác dụng của yết ma mới có hiệu lực. Như yết ma kiết giới, sau khi căn bản yết ma được thực hiện, tất cả Tăng không ai được bước ra ngoài đường ranh của đại giới, nếu có duyên sự cần ra ngoài thì phải xin phép và cho đến khi nào chưa tác pháp giải đại giới thì các Tỳ kheo vẫn còn phải chấp hành.
Tóm lại một phép yết ma thành tựu như pháp khi nào cả ba giai đoạn đều được tiến hành như pháp.

III. Đối tượng của yết ma:

Là những điều kiện để phán định tính cách như pháp của yết ma, thuật ngữ luật tạng gọi là y xứ của yết ma và chia làm ba loại: Nhân, pháp, sự.
- Nhân: Tức cá nhân được đưa ra để làm đối tượng tác pháp. Trong một số pháp yết ma đối tượng cá nhân bắt buộc phải có mặt trong khi tác pháp, như yết ma truyền giới cụ túc, yết ma sai tự tứ nhơn, yết ma sai giáo thọ ni, cũng có trường hợp một số pháp yết ma đối tượng cá nhân không được có mặt như yết ma học gia, yết ma phú bát. Đối tượng của yết ma cần phải được kiểm tra tư cách trước, yết ma chỉ có hiệu lực khi đối tượng về nhân đã được kiểm tra như pháp.
- Pháp: Là bỉnh pháp, là nguyên tắc thực hiện yết ma. Như trước khi tác pháp phải kiết giới trường, tác tiền phương tiện áp dụng từng loại yết ma đơn bạch, nhị bạch, tứ bạch, chúng pháp hay đối thủ... Bản thể thanh tịnh hòa hợp, túc số tăng tất cả đều phải được kiểm tra như pháp.
- Sự: Là những sự vật cụ thể có liên quan đến yết ma được       thực hiện. Như yết ma kiết đại giới thì phải xác định đường ranh trong và đường ranh ngoài của đại giới, yết ma phân vật thì phải đem vật ấy của ai, có thuộc về tăng không, nếu là của tăng thì của thường trụ tăng hay chiêu đề tăng, của một bộ đại tăng hay hai bộ đại tăng.
Đối tượng y xứ của yết ma cũng là điều kiện tác thành yết ma. Khi có điều kiện nào đó, không hội đủ phẩm chất thì y xứ của yết ma bị khuyết và do đó yết ma không thành, cho nên không được coi nhẹ y xứ của yết ma trong khi tiến hành tác pháp.

IV. Phân loại yết ma:

- Phân loại theo cách tác pháp yết ma có ba loại:
a. Đơn bạch: Chỉ một lần tác bạch nếu tăng đồng ý là yết ma thành tựu. Tổng cộng có 44 pháp đơn bạch.
b. Bạch nhị: Tổng cộng có 78 pháp được áp dụng cho những tăng sự có tầm quan trọng hơn nên sau khi tác bạch cần hỏi lại một lần nữa để đảm bảo tính thống nhất của tăng.
c. Bạch tứ: Tổng cộng 39 pháp, áp dụng cho các hàng tăng sự rất quan trọng, nên phải một lần tác bạch 3 lần hỏi lại để xác nhận tính thống nhất cao và tuyệt đối của tăng. Con số 166 pháp có 3 loại là của yết ma Chỉ Nam.

Giới yếu,  giới  sút kém

                     Như có người trong tâm cứ muốn hoàn tục, không có tâm ưa thích, ở chổ Sa Môn nữa, cho rằng đời sống Sa Môn là khổ, hổ thẹn chán ghét, than thân trách phận, rằng tu quá khó, phạm hạnh khó giữ, chỗ vắng khó ở, một mình khó trụ, ăn ở cực khổ vv... Nhớ  nhà, anh em, chị em,  muốn học cái nghề tinh xảo và buôn bán, họ hàng, bà con của tôi trông mong tôi thừa kế v.v...
                      Sống ở trong Tăng mà tâm không vui vẻ, tỳ kheo nói những lời hối tiếc như thế đó là trường hợp học xứ bị yếu kém.
                      Thọ giới thì khó, mà xả giới thì dễ, khi thọ giới thì cần phải có tam sư thất chứng (3 HT, 7 vị tôn chứng). Vì sao lúc xả giới chỉ cần một người  xả.Vì  mong cầu pháp tiến lên thì cần phải có nhiều điều kiện, tốn nhiều công sức.
                      Còn xả giới thì giống như từ trên cao rơi xuống, cho nên không cần phải nhiều điều kiện, tốn nhiều công sức.
                     Lại nữa thọ giới như được vật báu, còn xả giới giống như mất vật báu. Muốn được vật báu cần phải có nhiều điều kiện, còn khi mất vật báu thì chỉ cần bị trộm cướp, nước trôi, lửa cháy, trong chốc lát, xả giới cũng như vậy.

Ngũ Phần khảo

    Phàm người tu hành ai ai cũng bị ngũ phần khảo này. Kẻ thượng căn đại trí thì lướt qua khỏi còn kẻ nào thiểu căn độn trí ắt là rơi rớt trở lại.
    Vậy người tu hành cần phải thẩm xét về điều này.Tu mà nghiệp không khảo đảo là quả đạo còn rất xa, còn tu mà nghiệp lực dồn dập khảo đảo là đạo quả rất gần. Nên trong kinh có nói:
                             Vô ma khảo đảo bất thành Phật đạo
                             Thập ma thập nạn thành tiên tử
                             Bất ma bất nạn bất thành nhân.
Nghĩa là không ma khảo đảo chẳng thành Phật đạo.Mười ma khảo đảo mười nghiệp dập dồn mà có chí lướt qua cho được thì tiên tử mới thành. Bằng chẳng ma khảo đảo, chẳng tai nạn chi thì cũng chẳng trở nên người minh đức.
Ta nên biết rằng, các bậc Phật Tiên, hiền thánh Minh triết từ thưở xưa đều có sự thử thách và khảo đảo trải qua. Các Ngài đạo quả càng cao bao nhiêu là sự khảo đảo càng nhiều bấy nhiêu. Khi khảo đảo hết rồi thì bọn chúng ma quân mới hàng đầu quy phục. Trong kinh có có nói:
“ Đạo cao nhất xích, ma cao nhất trượng
          Đạt quả đầu thượng, ma nhượng đầu sư”
Nghĩa là: Đạo cao một thước, ma cao một trượng. Đạo cao hơn một trượng nữa, Ma chướng quy hàng.(chng ấy, chúng ma mi quy đầu kính phục đạo làm thầy).
                      Tóm lược đại cương ngũ phần khảo:
                      1/ Minh Khảo  2/   Am khảo    3/ Trng khảo  4/Thuận khảo  5/ Nghịch khảo.
1/ Minh Khảo: Nghĩa là khảo đảo bằng cách sáng suốt minh bạch trước mắt mà mình không hay biết, lại lầm cho mình là phước trọng đức lớn, tài hay, cao thượng hơn người, vì vậy mà dễ bề té ngã rơi rớt trở lại.
          Ví như người tán thán ca tụng khen ngợi những việc làm của mình, điều này cũng ngụ ý thúc giục đưa mình vào hố sâu của tật đố, cống cao, ngã mạn, ỷ lại mình hay … hoặc đưa đến cho mình danh cao lộc cả, lợi nhiều, sắc xinh đủ thứ,muốn gì được nấy làm cho mình sanh tâm ái nhiễm mà không hay biết, lại cho việc làm của mình là phải đúng. Ấy gọi là minh khảo vậy.
2/ Ám Khảo: nghĩa là sự  khảo đạo bằng cách này rất kín đáo tinh vi khó nhận biết được, làm cho mình lu mờ tâm trí, nhận giả làm chân. Nó ám thị mình bằng một cách khéo léo để phủ qua các điều chính đáng, chôn mất tánh linh chẳng còn tự chủ, xu hướng mê tín, dị đoan, ỷ lại thần quyền, ấy cũng gọi là màn lưới của vô minh hay mây bất giác che mờ tâm trí, khuất mất huệ tâm, nhầm đường lạc lối nghiệp tội càng sanh gây nhiều quả báo. Đó gọi là ám khảo.
3/ Trừng khổ:Nghĩa là sự khảo đảo nầy bằng hình thức cường quyền áp bức, thế lực lấn  tranh,  hình phạt, khảo tra,  vu khống, cáo oan, hiếp đáp bắt buộc phải chịu dưới một định luật nào đó, bằng không thì bị tù tội, phạt vạ, giết hại v.v... Ấy gọi là trừng khảo.
4/ Thuận khảo: Khảo cách nầy khó ai tìm hiểu được ( phần nhiều các bậc chân tu rơi rớt là bởi vì thuận khảo này).
Bởi nó khảo đảo cách này còn khéo léo hơn trước nữa. Mỗi mỗi đều thuận hợp theo ý muốn của ta,  nên nó dễ bề kéo lôi quyến rũ hơn cách nào hết. Bởi chữ “thuận” là xuôi thuận, êm thuận, hòa thuận, thuận hợp, thuận chiều v.v...Cái gì cũng êm xuôi, hòa thuận, hợp chiều theo ý muốn. Muốn chi có nấy hoặc muốn có một đến 3, 4, 5…ấy là chuyện ngăn đạo ( người tu hành rất sợ khảo nầy) Ví như người tu giải thoát chân không nhẹ nhàng khoan thái tự tại thông dong. Bấy giờ thuận khảo đưa đến, người niệm tưởng muốn có cây viết tốt, đôi giày xinh, đồng hồ đẹp, liền có người đem tới viết tốt, đôi giày xinh, đồng hồ thật quý đến dâng cho. Kế nữa người niệm tưởng muốn có máy ảnh,ti vi, Radio, điện thoại, lần lần muốn có xe cộ, tàu bè, nhà cao cửa rộng v.v... Mỗi mỗi tưởng ước điều chi, đều được như ý. Người tu thấp bị khảo theo thấp, tu cao bị khảo theo cao. Đó phải chăng thuận theo ý mình muốn dễ để bề lôi cuốn đưa mình xa lần cửa đạo,  khi đến chỗ buộc ràng sanh tâm ái nhiễm, thì nó hất hũi làm ngã té. Ấy gọi là thuận khảo.
5/ Nghịch khảo: là sự khảo đảo bằng cách này hay cách khác, trái ngược theo ý định của mình. Ví như việc làm như vậy là được việc làm như thế là không nhưng hoàn cảnh bắt buộc phải làm... Chổ tu được mà tu không an, chổ ở được mà ở không tiện. Như ăn chay người ta cảng không cho, đi chùa người ta bảo mê tín, tu hiền người ta bảo tiêu cực, yếm thế chán đời, người ta quyết định không chịu, mình trì giới người ta tìm cách phá hoại, mình nhẫn nhục người ta tìm cách khinh chê  v.v…
Tóm lại bao nhiêu chuyên trái tai, gai mắt nghịch ý, phiền lòng mà nó cứ dồn dập cho mình, làm cho mình quá đau khổ bỏ tu sa ngã...Ấy gọi là nghịch khảo.
Vậy năm phần khảo trên đây, chỉ nói đại cương, nếu giải rộng ra sẽ còn nhiều phương pháp khác. Nhưng ngoài sự khảo đảo để quyến rũ, kéo lôi bằng  nhiều hình thức cách này cách khác chung quy là làm cho con người đi sai đường lạc lối, lầm nẻo vậy tà, quên mất chân tâm, xa rời bản tánh mà phải chịu sanh tử luân hồi khổ đau.
Nay ta muốn thoát sanh liễu tử, dứt khổ não luân hồi thì cần phải thực hành theo pháp môn Giới, Định, Huệ xem đó như một đường lối căn bản cho bước đường tu tiến và giải thoát của mình.
  Sống cũng là chuẩn bị cho cái chết, mà chết cũng tức chuẩn bị cho cái sống.
  Đạo Phật dạy chúng ta sống trong khi sống mà cũng dạy người ta sống sau khi chết.
  Đạo Phật dạy chúng ta tất cả những gì chúng ta có ở kiếp người hiện tại là do chúng ta tạo được ở trong những kiếp quá khứ. Và những gì chúng ta sẽ có ở trong tương lai thì cũng chính do chúng ta tu tạo trong kiếp này.
  Giá trị của một cuộc sống một kiếp người là đặt ở trên căn bản suy nghĩ và hành động của chúng ta.
  Cuộc sống đã trải qua mỗi người có một kinh nghiệm riêng, cái gì đáng quý ở trong cuộc  sống chúng ta,  những gì đã thất bại trong cuộc sống,  cho chúng ta  một kinh nghiệm.
  Phần đông chúng ta đều muốn có một cuộc sống an lạc, và muốn có một cái chết an ổn, nhưng một điều hiển nhiên nữa là ta không thể hy vọng chết một cách thanh bình, nếu  đời sống của ta đầy những bạo hành...hoặc nếu tâm ta thường dao động vì những cảm xúc mạnh như giận dữ, ái luyến, lo âu hay sợ hải.
  Bởi thế, nếu ta muốn chết tốt, ta phải học cách sống tốt. Nếu ta mong có được một cái chết an lành, thì ta phải đào luyện sự bình an trong tâm ta và trong lối sống của ta.
  Ngoài sự chuẩn bị cái chết của riêng ta, một việc khác không kém phần quan trọng là giúp cho người khác có một cái chết tốt đẹp.
  Khi mới sanh ra đời, chúng ta đều là những hài nhi yếu đuối, nếu không có sự săn sóc tử tế mà chúng ta đã nhận được, thì chúng ta sẽ không sống còn. Sắp chết cũng thế, không thể tự túc được, nên ta phải giúp họ thoát khỏi những bất tiện và lo âu và cố hết sức để giúp họ có một cái chết thanh thản.
  Điều quan trọng nhất là tránh làm những điều gì khiến cho tâm người sắp chết thêm rối loạn. Mục đích trước nhất của chúng ta giúp người sắp chết là làm cho họ được thỏa mái, có nhiều cách làm việc này.Với người đã quen tu tập, nếu khi họ sắp chết mà ta nhắc nhở chuyện tu hành, tinh thần họ có thể thêm phấn chấn. Một lời trấn an đầy từ ái của ta có thể gợi cho người sắp chết một  thái độ bình an thỏa mái. Sau khi chết họ thác sinh nơi tịnh xứ.





KHÁI QUÁT OAI NGHI VÀ GIỚI LUẬT Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

1 nhận xét: