CÔNG
ĐỨC PHÁT TÂM
Trong kinh A Hàm có một câu chuyện như vầy: Thời quá khứ, khi
đó có vua Bảo Nhạc dùng Chánh pháp trị dân, thống lãnh cảnh Diêm Phù Đề. Thời
đó có Đức Phật hiệu là Bảo Tạng Như Lai ra đời. Nhà vua có người con gái tên là
Mâu Ni, dung mạo đặc biệt thù thắng. Do đời trước cúng dường chư Phật mà được
như vậy.
Lúc đó Bảo Tạng Như Lai nói
với các đệ tử rằng: “Này các Tỳ kheo! Nên nhớ toạ thiền. Chớ có giải đãi. Cũng
cần tìm phương tiện tu tập kinh giới”. Do đại chúng căn tánh không đồng nên Đức
Bảo Tạng Như lai phương tiện thấp xuống: “Nếu có Tỳ kheo, các căn ám độn, không
thể thực hành thiền pháp thì nên tu ba pháp của bậc thượng nhân. Đó là toạ thiền,
tụng kinh và siêng năng giúp đỡ việc chúng”.
Lúc
đó, trong chúng có một Tỳ kheo tuổi đã lớn, không kham nỗi thiền pháp, bèn nghĩ
như vầy: “Ta nay đã già yếu, không kham nỗi thiền pháp, nay tìm cách làm pháp
siêng năng giúp đỡ vậy”. Nghĩ rồi liền quyết định vào thành, xin dầu thắp đèn về
cúng dường Đức Bảo Tạng Như Lai khiến ánh sáng không dứt.
Công chúa Mâu Ni là người
phát tâm cung cấp đầy đủ các loại dầu đèn mà Trưởng lão cần dùng. Tỳ kheo lớn
tuồi nhận sự cúng dường của công chúa. Mỗi sáng đều đến lấy dầu về cúng dường Đức
Bảo Tạng Như Lai và phát thệ nguyện rằng: “Nguyện đem công đức phước nghiệp này
hồi hướng về đạo Vô thượng chánh chân. Con nay tuổi già, căn tánh lại chậm lụt,
không thể thực hành thiền pháp mà Như Lai đã dạy, thành nguyện đem công đức này
hồi hướng để đời đời sinh ra không đoạ vào đường ác. Tương lai vẫn gặp được Phật
như Đức bảo Tạng hiện nay. Cũng được gặp Thánh chúng như Thánh chúng hiện nay.
Được nghe pháp như nghe pháp hiện nay.
Phật
Bảo Tạng biết được tâm niệm đó, mỉm cười thọ ký cho Trưởng lão: “Qua vô số kiếp
đời vị lai, ông sẽ làm Phật hiệu là Đăng Quang Như Lai”. Trưởng lão nghe xong tâm ý phấn phát, vui mừng
khôn xiết.
Công
chúa Mâu Ni biết được cớ sự, tức tốc đến gặp bảo Tạng Như Lai:
Bạch Đức Thế Tôn! Con là
thí chủ thường cung cấp dầu cho Trưởng lão về cúng dường Ngài. Nay Ngài thọ ký
cho Trưởng lão sao không thọ ký cho con?
Bảo
Tạng Như Lai khen ngợi công đức cúng dường đó, nhưng vẫn không một lời thọ ký
cho Mâu Ni. Mâu ni bèn nói: Nếu Như Lai không thọ ký cho con, con sẽ tự đoạn mạng
sống của mình.
Bảo
Tạng Như Lai nói: Thân nữ, có năm chướng ngại, cầu làm Chuyển luân không được,
cầu làm Đế thích cũng không được, cầu làm Ma vương cũng không được, cầu làm Phật
cũng không được.
Mâu Ni bạch Phật: Vậy con không thể thành
đạo Vô thượng được sao?
Bảo
Tạng Như Lai nói: Vẫn được, Nhưng công chúa nên biết, qua vô số a tăng kỳ kiếp ở
tương lai, có Phật ra đời hiệu là Đăng Quang Như Lai. Phật ấy là thiện tri thức
của con, sẽ thọ ký cho con”.
Mâu Ni chưa thôi thắc mắc: Vì người nhận thanh
tịnh còn thí chủ uế trược chăng?
Bảo
Tạng Như lai nói: Những gì ta nói hôm nay là tâm ý thanh tịnh và phát nguyện vững
chắc. Tâm ý thanh tịnh và phát nguyện vững chắc là hai điều kiện tiên quyết để
được đạo quả Bồ đề Vô thượng.
Mâu
Ni chỉ mới cúng dường Tam bảo, chưa phát thệ nguyện nên Phật không thể thọ
ký. Trưởng lão, đã phát lời thệ nguyện,
hồi hướng mọi công đức cho con đường thành Phật của mình. Lời phát nguyện sẽ
giúp Trưởng lão đạt được tâm thanh tịnh trong tương lai. Đáp ứng đủ hai điều kiện
mà Bảo Tạng Như Lai đã nói, nên Phật thọ ký cho Trưởng lão mà không thọ ký cho
Mâu Ni.
Bài
kinh trên được Phật dạy cho hàng Phật tử tại gia khi thọ Bát quan trai. Thọ Bát quan trai rồi cần phải
hồi hướng công đức đó về Đạo Vô thượng Bồ đề, mới có được Đạo quả vô thượng. Lời
phát nguyện đó như vầy: “Nay con do pháp Bát quan trai này, không rơi vào ba đường
dữ, không rơi vào bát nạn, không ở biên địa, không rơi vào chỗ hung ác, không
theo ác tri thức, thờ phụng cha mẹ, không tu tập tà kiến, sinh vào trung tâm quốc
gia nghe pháp lành này. Phân biệt suy nghĩ thành tựu từng pháp. Đem công đức giữ
gìn trai pháp này nhiếp thủ điều lành cho tất cả chúng sanh. Đem công đức này bố
thí cho người, khiến cho tất cả cùng thành tựu đạo quả vô thượng Bồ đề . Cũng
đem phước báu thệ nguyện này bố thí cho hàng Tam thừa, khiến không thối chuyển
nữa chừng”.
Qua
câu chuyện Phật dạy trên cho chúng ta thấy cái nhân “ cúng dường và phát nguyện”
vẫn có cái quả, với điều kiện là phải có lời phát nguyện.
Vì thế, làm mọi công đức tu tập thì nên hồi hướng và phát nguyện,
gọi là “tự hồi hướng tha”, Hồi hướng cho
mình đạt được đạo quả vô thượng, hay vãng sanh Cực lạc quốc, đồng thời hồi hướng
đến các chúng sanh còn đang đau khổ trầm luân. Nếu tu tập, làm công đức mà
không phát nguyện và hồi hướng không khác gì đỗ nước vào thùng lũng, đỗ bao
nhiêu cũng không còn nước đọng lại trong thùng. Tu tập mà không hồi hướng oan uổng
cho việc tu tập. Cũng thế, làm ra của cải không dùng, cũng không đem chia sẻ
người khác, để trong nhà, trong rương trong tủ, thời gian sẽ hư hao và mất giá
trị. Tu tập hồi hướng cũng như vậy./.
{¯{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét