BA
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐIỀU TRỊ BỆNH TẬT
Theo
kinh Tăng Chi điều trị bệnh tật thành công phải hội đủ ba điều kiện: 1/ Dược liệu 2/Thức ăn 3/Người điều trị, người
chăm sóc. Ba yếu tố này phải phù hợp với bệnh tình, thể trạng, hoàn cảnh cụ thể
của bệnh nhân.
a/ Theo kinh Tăng Chi, người chăm sóc và điều trị bệnh nhân cần hội
đủ năm yếu tố: 1/ Phải có thẩm quyền về dược lý 2/ Có thể chỉ định liệu trình
điều trị phù hợp 3/ Chăm sóc bịnh nhân không vì lợi lộc vật chất, mà với tâm
thương yêu cao cả 4/ Không nhờm gớm các chất thải và phụ phẩm của bệnh nhân 5/
Có năng lực giải trình, thuyết phục, thỉnh thoảng thăm hỏi, động viên khiến cho
bệnh nhân hoan hỷ.
Ba điều kiện để điều trị bệnh cũng như năm tiêu chuẩn của một người
chăm sóc bệnh nhân theo kinh Tăng Chi, có thể tìm thấy trong quy trình điều trị
cũng như tiêu chuẩn lý tưởng của người thầy thuốc ngày nay. Điều đó cho chúng
ta thấy, tính tiên phong của Đức Phật trong lãnh vực y khoa nói chung, và giải
pháp trị bệnh nói riêng Phật giáo đã đi trước ngành y học ngày nay trên 2600
năm về trước.
b/ Hai liệu pháp điều trị thân và tâm.
Cơ
thể con người là sự tổng hợp những yếu tố vật chất và tinh thần, gọi chung là
ngũ uẩn. Khi năm uẩn hoà hợp thì con người khoẻ mạnh, khi năm uẩn bất hoà thì
con người bệnh tật khổ đau. Về vật chất,
thân thể con người gồm 32 thành phần như:Tim, gan, phổi, thận, ruột già, ruột
non, lá lách, mật, xương, thịt, gân, da, máu v.v… Trong mỗi thành phần đó lại
có những yếu tố khác nhau tạo thành. Về phương diện tinh thần, cũng có nhiều yếu
tố tâm lý với cơ cấu vận hành rất phức tạp. Có tất cả 89 tâm vương, 54 Dục giới
tâm, 15 Sắc giới tâm, 12 Vô sắc giới tâm và 8 Siêu thế tâm. Khảo sát sơ bộ cho
thấy để giữ được cho các yếu tố vật chất và tinh thần này phát triển hài hoà,
không xung đột trong một chỉnh thể thống nhất là việc không đơn giản. Vì vậy, Đức
Phật đã nói: “Ai mang tấm thân này, tự cho là không bệnh, dầu chỉ trong giây
lát, thì đó gọi là kẻ ngu”.
Đức Phật cũng không ngoài lệ, Ngài cũng có những chứng bệnh như mọi
con người, thân của Phật cũng cấu thành tứ đại, thế nên thân của Thế Tôn cũng
héo hắt và bất hoà khi gặp phải chướng duyên. Để điều trị cho Ngài, ngự y
Jivaka (Kỳ Bà) đã dùng dược liệu tương ứng với
bệnh trạng, cụ thể khi Đức Thế Tôn bị sình bụng, Ngài muốn uống thuốc xổ,
Ngự y Kỳ Bà đã bào chế loại thuốc xổ tinh tế mà nhờ đó Phật khỏi bệnh. Bệnh mà
chúng Tăng thời Phật còn tại thế thường hay gặp như: Bệnh ở mắt, bệnh nóng đầu,
bệnh gió, bệnh phong, bệnh chân tay bị nứt, bệnh mọn nhọt, bệnh trĩ, bệnh vàng
da v.v.. cũng như các chứng bệnh thời nay. Đặc biệc ngoài việc điều trị bằng dược
liệu với một số bệnh, Đức Phật còn khuyến khích bảo người bổ sung những thực phẩm
đặc thù, thuật ngữ ngày nay gọi là nhóm thực phẩm chức năng. Mahavagga ghi:
“Này các Tỳ kheo, ta đây đã khởi ý điều này: “Năm loại thực phẩm
này như bơ lỏng, bơ đặc, dầu ăn, mật
ong, đường mía, là các loại dược phẩm tuy đã được quy định và dược phẩm và dùng
theo mục đích của thức ăn cho cơ thể, nhưng không được xem là loại thức ăn
thông thường, có lẽ ta nên cho phép các Tỳ kheo được thọ lãnh năm loại dược phẩm
này đúng thời và thọ dụng đúng thời”.
Như
vậy, với những căn bệnh liên quan đến yếu tố vật chất, Đức Phật cho phép sử dụng
những dược liệu tương ứng để điều trị. Với những bệnh tật liên quan đến yếu tố
tinh thần, Ngài đã chỉ định phương cách điều trị tâm lý.
Thứ hai, liệu pháp tâm lý.
Liệu
pháp tâm lý thường được sử dụng song song với liệu pháp dược liệu. Kinh điển
ghi nhận rằng, trong khi thăm hỏi các Tỳ kheo bệnh tật, Đức Phật cũng như chúng
Tăng thường thuyết pháp an ủi với những nội dung như : An trú chánh niệm, thực
hành Tứ niệm xứ, không chấp thủ, hành trì thất giác chi…
Liệu pháp tâm lý có mục đích làm cho thân thể tuy có đau đớn,
nhưng tâm bệnh nhân không bị khổ não dày vò. Trong kinh Tương Ưng, Đức Phật đưa
ra hình ảnh người lâm bệnh về thân giống
như bị bắn bởi một mũi tên. Một khi thân đau khổ, sẽ kéo theo tâm đau khổ, trạng
huống ấy giống như bị bắn bởi mũi tên thứ hai. Theo Đức Phật các phương cách trị
liệu về tâm có chức năng ngăn ngừa bệnh trúng phải mũi tên thứ hai.
Liệu pháp này đã được Đức Phật giảng dạy cho cư sĩ Nakulapita:
“Thân của gia chủ, này gia chủ, là bịnh hoạn, ốm đau, bị nhiễm ô che đậy. Ai
mang cái thân này, này gia chủ, lại tự cho là không bệnh, dầu chỉ trong một
giây phút, người ấy phải là người ngu! Do vậy, này gia chủ, gia chủ cần phải học
tập như sau: “Dầu cho thân tôi có bịnh, tâm sẽ không bịnh”. Như vậy, này gia chủ,
gia chủ cần phải học tập”.
Một khi thân bệnh, nhưng để tâm không bị khổ não dày vò, thì có
nhiều liệu pháp để thực hiện, và một trong số chúng, chính là an trú vào Tứ niệm
xứ. Đây cũng là câu trả lời của Tôn giả Anuruddha dành cho số đông các vị Tỳ
kheo: Thưa chư hiền, do tôi an trú với tâm khéo an trú trên bốn niệm xứ, nên
các khổ thọ về thân khởi lên không ảnh hưởng đến tâm.
Tương tự kinh Tăng chi, khi tôn giả Girimananda bị bệnh, Đức Phật
dạy quán 10 tưởng sau, thì bệnh sẽ thuyên giảm. Mười tưởng đó là: Tưởng vô thường,
tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng nguy hại, tưởng đoạn tận, tưởng từ bỏ, tưởng
đoạn diệt, tưởng nhàm chán đối với tất cả thế giới, tưởng vô thường trong tất cả
hành, tưởng niệm hơi thở vô hơi thở ra.
Như vậy, bên cạnh những phương cách điều trị bằng thức ăn, dược liệu
thì người bệnh cũng cần được chăm sóc về phương diện tinh thần. Những pháp an ủi
như quán thập tưởng, quán sổ tức, hành pháp thất giác chi …là những liệu pháp
điều trị về phương diện tinh thần.
Đã là chúng sanh thì không một ai tránh khỏi bệnh tật, hoặc về
thân, ở thời điểm này hay thời điểm khác. Giáo pháp của Đức Phật như những
phương thang có công năng chữa lành bệnh tật chúng sanh. Thân thể là biểu hiện
sinh động của nghiệp, bị chi phối bởi nghiệp. Mà nghiệp là hành động có sự tham
gia của tâm. Việc tu tập là nhằm chuyển hoá tâm, sẽ tạo nên sự thay đổi về nghiệp.
Nghiệp thay đổi thì bệnh sẽ chuyển biến. Chỉ xét riêng với phần trạch pháp giác
chi, nghĩa cụ thể là có một liệu pháp điều trị đúng, có một lối sống lành mạnh,
dinh dưỡng phù hợp….là đã có thể đem đến sự an lạc cho thân và tâm.
Đã từ lâu, khi muốn cầu an cho một người lâm bệnh, thì một số truyền
thống Phật giáo đã tổ chức trì tụng ba bài kinh thất giác chi trong kinh Tương
ưng. Tụng kinh đúng thời điểm là một điều tốt, vì tự thân giáo pháp có vị ngon
ngọt như kinh Mật hoàn, nếu biết cách thọ
dụng. Tuy nhiên, sẽ tốt hơn nếu như pháp do Phật giảng dạy được hành trì.
Theo Đức Phật, pháp của Ngài dạy là để hành trì. Trong năm hạng Tỳ
kheo được mô tả trong kinh Tăng chi, Đức Phật đề cao vị Tỳ kheo biết sống theo
pháp. Theo kinh, Ở đây, nầy Tỳ kheo, Tỳ kheo học thuộc lòng pháp, tức là khế
kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng, Không hỏi tự nói, Như thị thuyết, Bổn
sanh, Vị tằng hữu pháp, Tri giải hay Phương quảng. Vị ấy không dùng trọng cả
ngày để học thuộc lòng pháp, không phế bỏ sống độc cư an tịnh, nổ lực chuyên
chú vào nội tâm an chỉ. Này Tỳ kheo, như vậy Tỳ kheo sống theo pháp”.
Trong kinh Pháp cú, sự hành trì giáo pháp được Đức Phật nhấn mạnh:
Nếu người nói nhiều kinh/ Không hành trì, phóng dật/ Như kẻ chăn
bò người/ Không phần Sa môn hạnh.
Dầu ít nói kinh điển/ Nhưng hành pháp, tuỳ pháp/ Từ bỏ tham, sân,
si/ Tỉnh giác, tâm giải thoát/ Không chấp thủ hai đời/ Dự phần Sa môn hạnh.
Từ ý kinh Tăng chi và kinh Pháp cú nêu trên, đã dẫn đến hệ luận,
muốn chữa lạnh bệnh tật, thì phải hành trì chứ không phải để trì tụng thất giác
chi.
Trong lúc chư tăng bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, Đức Phật các
Thánh đệ tử khi thăm hỏi thường sử dụng những pháp mang tính chất quyết định,
có khả năng chuyển hoá tức thời như: Tam pháp ấn, không chấp thủ, thực hành tứ
niệm xứ, quán thập tưởng, mà ở đây là thất giác chi.
Trong bối cảnh này có thể thấy, thất giác chi không chỉ dành riêng
cho việc bảo hộ, cầu an mà là một pháp trợ duyên khi lâm chung. Nói cách khác,
thất giác chi là pháp trợ duyên mang tính chất trợ tử hơn là cầu an.
Phần kết: Căn cứ vào kinh
điển và luật tạng cho ta thấy, tuỳ theo bệnh tình của từng đối tượng, mà sử dụng
liệu pháp điều trị tương ứng. Ba yêu cầu cơ bản của việc điều trị bệnh trong
kinh Tăng chi mà Đức Phật đã khuyến tấn như, đúng thuốc, đúng thầy và dinh dưỡng hợp lý là những
nguyên tắc chữa bệnh vượt thời gian. Trong y phương, không có một phương thang
để điều trị chung cho các loại bệnh. Khi lâm chung, có chấp không chữa trị, chỉ
lo tụng thất giác chi đôi khi bệnh không lành mà còn dẫn đến hệ luỵ, tai ương.
Ở
đây, việc chấp thủ lời dạy của Đức Phật và cứng nhắc trong khi vận dụng, không
những gây khổ đau cho bản thân, mà còn vô tình xuyên tạc Thánh giáo./.
{¯{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét