4. ĐẠI LỄ MÔNG SƠN
CỨU ĐỘ VONG LINH
Trước đây, ở Vancouver
người tin Phật không nhiều, nên số lượng đến nghe Phật pháp có thể đếm trên đầu
ngón tay. Nhưng bây giờ đã tiến triển khả quan.
Năm nay, lần đầu tiên
trong lễ khánh đản Bồ tát Quan Âm ở Vancouver đã có hơn 1.800 người đến nghe
kinh lễ Phật, vốn là điều chưa từng có! Tất nhiên là người Hoa chiếm đa số
nhưng người Tây phương tham dự cũng không ít!
Mấy ngày trước, lần đầu
tiên Giáo Hội Phật Giáo tổ chức đại lễ “Mông sơn thí thực” suốt ba ngày, do lão
pháp sư Trúc Ma chủ trì, có các cư sĩ giàu đạo tâm liên tục hộ pháp, cùng góp
công sức, phụ siêu độ chư cô hồn dã quỷ bơ vơ khốn khổ lang thang ở khắp mọi
miền Canada. Đây là một việc làm có công đức rất lớn! Vì những chúng cô hồn
lang thang vất vưởng không nơi nương tựa này sống rất khổ đau, đói lạnh, đáng
thương!
Sư Trúc Ma chủ trì đại lễ
cầu siêu này đã làm chấn động toàn Vancouver, rất nhiều người tò mò hiếu kỳ đến
xem, cũng sinh lòng kính ngưỡng, sự kiện này đã được đăng trên báo, dù tờ báo
Anh đăng tin ngắn gọn, nhưng ít nhất cũng khiến độc giả Tây phương bắt đầu hiểu
được là Phật pháp có thể siêu độ vong linh, Phật giáo có thể làm đại lễ cứu bạt
lớn lao, đối với cộng đồng xã hội Canada đã có ý nghĩa giáo dục rất lớn trong
tương lai.
Khi đại lễ Mông Sơn tiến
hành ngày đầu tiên, hằng đêm có hơn hàng chục ngàn cô hồn dã quỷ tìm đến nhận
thọ, bao gồm các vong linh tổ tiên thuộc thổ dân da đỏ trước đây, các vong linh
người da trắng và các vong linh người Hoa cùng những vong linh mới mất gần đây.
Những vong linh này đều tụ hội đông đảo xung quanh đại điện đón nhận sự hướng
dẫn cứu rỗi của Phật giáo và hoan hỉ rời đi. Tôi ở tại nhà nhìn xa xa cũng có
thể thấy được tình huống phồn thịnh đông đúc của buổi lễ.
Mà nói ra cũng lạ, kể từ
lần đầu tiên, sau khi tổ chức đại lễ Mông Sơn, thì ở Vancouver các trường hợp
tai nạn giao thông và số người chết đột nhiên giảm hẳn! Mấy tháng nay rất ít
xảy ra hiện tượng người bị chết vì tai nạn xe cộ.
Trước đây, thông thường
vào mùa hè, người dân thường lái xe đi chơi. Tai nạn xe theo đó cũng phát sinh
rất nhiều. Nhưng mùa hè năm nay, tai nạn xảy ra rất ít, nếu nói là nhờ đại lễ
Mông Sơn cũng được, hay muốn đổ cho sự trùng hợp ngẫu nhiên cũng tùy, nhưng tai
nạn giao thông giảm là có thật. Ngay viên quan địa phương sau khi kiểm tra tình
hình và tra xét dữ liệu hồ sơ tai nạn xong đã phải công bố: Tai nạn giao thông
có giảm hơn mùa hè năm ngoái đến năm mươi hai phần trăm!
Trước lễ Vu Lan, Phật
giáo cũng tổ chức lễ Mông Sơn thí thực thêm lần nữa, kéo dài ba ngày, đề siêu
độ cứu rỗi vong linh.
Lần này, người dân Canada
bất kể là có đạo hay không, có theo Phật hay không, dù là người hoa hay người
Tây phương, đều tranh nhau tới tham dự lễ, nhiệt tình thiết lập bài vị đề cầu
cho vong linh tổ tiên thân nhân quá cố được siêu thăng, đông tới mức không còn
chỗ để đặt bài vị. Thậm chí những người vì quá yêu thú cưng của mình cũng xin
lập bài vị cầu siêu cho chúng như: Mèo Mi Mi, chó Bốp Bi v.v…
Lễ Mông Sơn lần hai này
do sư Trúc Ma đã quay trở về chùa mình bên Mã Lai, nên đại lễ ở Vancouver được
một cao tăng khác đảm nhiệm thay, cùng với sự hộ pháp nhiệt tình của chư cư sĩ.
Vong quỷ đến thọ pháp vẫn rất đông, tôi thấy có nhiều vong ở rất xa cũng tìm
đến.
Hội Phật giáo lúc này
cũng đang xây lại ngôi Đại Hùng Bảo Điện mới, dự án từng bị chậm do ảnh hưởng
cuộc đình công của đám thợ xây địa phương. Nhưng sau đại lễ, chẳng máy chốc
ngôi chánh điện nguy nga đã được xây thành, tượng Phật cực lớn cũng được cung
thỉnh từ Đài Loan đem qua, tương lai sau này ngôi chùa có thể chứa hàng ngàn
người đến dự lễ, không còn phải đứng chen chúc đông nghịt ngoài sân như trước
đây nữa.
Nói về cô hồn dã quỷ thì
không thể không đề cập đến vài tình hình có thực: Trước cổng vào Đại học
British Columbia là một đại lộ dài, âm u, rợp bóng cây. Khách bộ hành ít, nhưng
xe chạy qua lại rất nhiều. Thường thường vào ban đêm tại đây hay có một cô gái
Tây phương đứng bên vệ đường, đưa tay ngoắc người lái xe yêu cầu cho đi nhờ,
nhưng khi cô lên xe rồi, thì trong nháy mắt tài xế không thấy cô đâu nữa. Đây
là “Ma nữ đại học” nổi tiếng nhất mà báo chí Vancouver thường nhắc đến, vì tên
cô cũng có trong danh sách người mất thuộc hồ sơ của trường, có nhiều bài báo
viết về cô. Nhưng lần này rất ít nghe báo chí nhắc đến nữa, có thể là cô đã
được đại lễ Mông Sơn siêu độ.
Khu vực thành phố
Vancouver vào thời trước năm 1980 địa thế rất nhỏ hẹp, chung quanh chỉ rộng vài
cây số vuông, sau đó khu đô thị này không ngừng tăng trưởng nên đến nay có hai
ba nghĩa trang vị trí thuộc vùng ngoại ô, giờ đã nằm gọn trong đô thị này.
Hồi đó “Nghĩa trang cảnh
núi”, tọa lạc ở phía nam vùng ngoại ô, đến nay chung quanh đã được bao bọc bởi
các cửa hàng, nhà cao tầng và khu cao ốc của dân cư. Còn “Nghĩa trang cảnh
biển”, thì trụ tại một góc đông nam của núi tương đối vẫn còn hoang vu hẻo
lánh, nhưng bên ngoài tường, đã có các đường giao thông trọng yếu, nhộn nhịp,
xa mã rộn ràng.
“Nghĩa trang cảnh núi” là
khu nghĩa trang cũ xưa, xây theo lối cổ, các ngôi mộ nằm chen chúc, mộ bia bằng
đá có khắc cây thánh giá và hình thiên thần, vườn hoa… có nhiều mộ còn xây mái
che ở trên theo kiểu Hy Lạp. Mộ người Hoa cung nằm một góc trong đây, bia mộ
dựng san sát, khắc chữ Anh lẫn Hoa. Hình dáng cũ kỹ, rêu phong của các ngôi mộ
này khiến người nhìn vào (dù là ban ngày) vẫn có cảm giác rờn rợn vì quỷ khí
phủ dày đặc, đừng nói chi là ban đêm, càng đáng sợ nhiều hơn.
Khu “Nghĩa trang cảnh
biển” được xây theo phong cách hiện đại, không cho dựng bia mộ, nên bảng bia
chỉ là một mặt phẳng bằng đồng dơn giản nằm phía trên, vì vậy nơi này nhìn từ
xa thấy không giống nghĩa trang, mà giống một khu hoa viên. Trông rất sáng sủa,
tươi thoáng, nên không mang nét đáng sợ, ở đấy còn có thể nhìn ngắm cảnh biển
xa xa…
Hàng ngàn mộ bia người
Hoa nằm tại “Nghĩa trang cảnh núi”, vào mấy thập kỷ đầu do chịu ảnh hưởng phong
trào bài Hoa của Canada, nên đa số mộ họ bị người da trắng ác ý ra tay phá hủy,
vì vậy đến nay vẫn diện mạo vẫn hoàn không, tiêu ma. Một số ngôi mộ thậm chí
còn bị người da trắng đào lên, ném thây cốt ra đất, mặc cho chó hoang gặm
nhắm..
Sau đó, vong nào có con
cháu, thì được xây dựng, phục hồi lại. Những vong không có thân nhân hay con
cháu, thì để mặc cho người và vật bài tiết phóng uế lên.
Đáng thương nhất là các
cô hồn không con cháu thân nhân, họ vẫn quyến luyến ở bên mộ mình, khóc than,
bi ai, âm thanh thảm não này người đi đường còn nghe thấy.
Những cô hồn dã quỷ bơ vơ
này, nguyên là mấy thập kỷ trước họ từng vượt biển đến đây để kiếm sống. Lúc đó
người Hoa chưa được nhập quốc tịch, nên không được phép đón quyến thuộc sang
Canada. Những lao công này, lại không thể kết hôn, họ gian khổ kiếm được mấy
đồng bằng mồ hôi nước mắt, thì nhìn nhút gởi về cố hương cho cha mẹ vợ con, còn
bản thân họ thì ở Canada làm trâu làm ngựa, sống kiếp lệ đổ máu tuôn, sầu não
đến cuối đời, nên ôm mối hận khó tiêu. Do vậy mà mấy mươi năm nay họ thường ở
bên mộ khóc than. Những hồn quỷ lang thang kia, lần này đã có một số đến thọ
lãnh sự siêu độ của pháp hội Mông Sơn. Tuy nhiên, theo những gì tôi nhìn thấy,
thì vẫn còn rất nhiều người không chịu đến dự lễ cầu siêu, do họ quá yêu luyến
thi thể của mình nên chẳng chịu rời đi và tiếp tục cuộc sống thống khổ khóc
lóc.
Khu vực nghĩa trang này
hay có người lái xe đi ngang qua vào đêm khuya, họ thường thấy cỏ người từ
trong mộ đi ra và băng qua đường, do vậy mà tài xế phải vội vã đạp thắng để
tránh tông vào khách, nhưng sau khi phanh khẩn cấp rồi, lại thấy trên đường
không có ai!
Chuyện bóng ma ở “Nghĩa
trang cảnh núi” thường xuyên hiện ra ngáng đường là tin nóng nổi tiếng ở vùng
này, nhưng khoảng hai ba tháng nay, kể từ sau khi thiết lễ Mông Sơn thí thực
rồi, thì tình trạng này rất ít xuất hiện.
Đi qua khu vực ven quốc
lộ 41 (đối diện với cảnh núi) chính là “Nghĩa trang quân đội”, là mộ phần của
những quân nhân bị chết trong thời kỳ đại chiến, chung quanh giờ đã có những
dãy nhà mọc lên san sát như rừng. Vào nửa đêm mùa đông, lúc mưa thê gió thảm,
thỉnh thoảng các hộ dân quanh đây bỗng nghe tiếng nói, còn nhìn thấy cảnh binh
sĩ xếp hàng tập trận trong “Nghĩa trang quân đội”, những người lính này không
đầu hoặc không có tay chân hay toàn thân bê bết máu, có lúc còn nghe âm thanh
hỏa pháo bắn ầm ầm, đạn kêu veo véo. Thế nhưng năm nay không còn nghe thấy
những cảnh như vậy nữa.
Tôi thường khuyên bè bạn
không nên không lái xe qua “Nghĩa trang cảnh núi” vào ban đêm, để tránh vương
phải âm khí.
Nơi “Nghĩa trang cảnh
biển” có chôn hai người bạn thân của tôi: Một là bác sĩ Nguyên, hơn mười năm
trước anh lái xe về trong đêm thì bị một thanh niên trẻ chạy xe tông chết. Bác
sĩ Nguyên chỉ mới ba mươi mốt tuổi, là một thanh niên trẻ có tiền đồ rạng rỡ
mang đầy hứa hẹn ở tương lai. Anh là một cô nhi. Trong thời chiến tranh Trung
Quốc đại lục, sau khi cha mẹ anh bị nạn chết đi thì anh lưu lạc đến Đài Loan,
vừa đi làm vừa đi học và tốt nghiệp trường Y với thành tích ưu và được xuất
ngoại du học. Tại Vancouver anh vừa hoàn tất học nghiệp xong, anh mới thuê một
tòa nhà làm văn phòng. Đêm đó là Giáng sinh, anh được bạn bè mời đến dự lễ hội
khiêu vũ, ngay trong đêm anh trở về thì gặp nạn.
Trước đêm anh chết, anh
kể cho tôi nghe tối qua khi anh thực tập tại Bệnh viện st. Paulo, do bài vở
gấp, nên buổi tối còn ở lại một mình trong phòng giải phẩu thây. Vào khoảng ba
giờ khuya, anh đột nhiên nhìn thấy trong phòng các thi thể đang nằm, bỗng xúm
ngồi dậy hết, làm anh hoảng kinh phải xô cửa mà chạy ra ngoài!
Anh hỏi tôi việc này có
điềm gì không? Khi đó tôi vẫn chưa khôi phục khả năng thiên nhãn tiền kiếp (như
thuở ấu thời), nên chưa nhìn ra nhân quả, mà anh thì theo đạo Ki Tô. Tôi làm
sao có thể khuyên anh đây? Tôi đành nói: “Đó không phải là điềm lành, nhưng tôi
nghĩ lễ hội khiêu vũ đêm mai tốt nhất anh đừng đi!”.
Sau đó, anh hỏi tôi: Một
người sau khi chết rồi, có lỉnh hồn không?”
Tôi đáp: Có!
Anh ngồi trên ghế, trầm
ngâm một lúc rất lâu không nói năng gì, tôi vẫn còn nhớ dáng vẻ này, đêm đó tôi
khuyên anh nên chuyển sang tin Phật pháp, anh phát biểu anh cảm thấy Phật giáo
quá mê tín và cho rằng chỉ có tin Chúa Jesus mới được vĩnh sinh, sống đời đời!
Tôi thấy không tiện nói gì nên chẳng bản luận với anh nữa.
Sau khi chết, anh được
chôn cất trong “Nghĩa trang cảnh biển”, hoàn toàn không có ai đến thăm. Chỉ có
tôi hằng năm mang hoa đến viếng anh, rất nhiều năm. Sau đó thì tôi không đến
nữa.
Nhớ lại mỗi khi tôi đặt
bó hoa trên bia mộ bằng đồng của anh, thì luôn cảm thấy từ bia đồng tỏa ra một
lực rất mạnh hút tay tôi, kéo tay tôi để lên mộ bia (giống như có người dùng
lực kéo tôi vậy), khi bị anh kéo như thế, nước mắt tôi rơi dài, tôi khóc và
bảo: Bác sĩ Nguyên, Nguyên đại ca ơi, anh thật là khổ đó!
Vào thời điểm đó khả năng
thiên nhãn của tôi vẫn chưa hồi phục nên chưa thể nhìn thông suốt hết, tôi chỉ
cỏ thể cảm nhận hình bóng và sức mạnh của anh thôi.
Thực ra anh và tôi quen
nhau chỉ mới vài tháng, do anh đọc sách của tôi sinh cảm phục, xúc động, nên tự
nguyện làm bạn hữu lẫn anh trai. Phần tôi thân lưu lạc tại ngoại quốc, cũng cô
khổ, nhìn quanh chẳng có ai thân, có được bạn tốt như anh, chưa kịp vui, đã
phải ngậm ngùi chào vĩnh biệt.
Sau này có một năm tôi bị
bệnh, phải nhập viện. Đang nằm thì nửa đêm bỗng nhìn thấy anh lên lầu đến thăm
tôi, ân cần chào hỏi và an ủi tôi: – Em sẽ nhanh chóng khỏe lại, đừng có buồn!
Tôi tỉnh dậy, dòm quanh
thấy tất cả mọi người trong phòng bệnh đều đang ngủ say, dưới ánh đèn nào có
thấy bóng của ai? Khi tôi lành bệnh xuất viện, tôi mang hoa đến mộ anh, khóc
một trận, bia mộ đồng của anh lại hút chặt tay tôi, lâu thật lâu vẫn chưa chịu
buông ra.
Lần thiết đại lễ Mông Sơn
kỳ hai này, tôi ngóng vọng mong anh đến lãnh thọ, nhưng không hề thấy anh đến,
vì anh quá đam luyến xương cốt của mình, không chịu rời đi. Tôi đành hi vọng
trong tương lai, sẽ có một ngày anh giác ngộ hết quyến luyến thây và chịu đi
đầu thai.
Tại “Nghĩa trang cảnh
biển” tôi còn một bạn thân nữa, là người Tây phương. Em là con trai cưng của
một bác sĩ mà tôi quen biết. Gia đình em theo đạo Ki Tô, tên em là Stephen.
Mới đầu khi tôi đến
Canada, từng được gia đình em mời đến nhà họ ở vài tháng, huynh đệ của em đông,
chỉ có em và tôi là rất hợp tính nhau, chúng tôi cùng đi hái trái cây và chơi
đùa, cha mẹ em nói rằng họ xem tôi như con của họ.
Nhưng tôi không muốn làm
phiền họ nhiều, vì vậy tôi ra ngoài thuê phòng để sống chung với mẹ tôi. Sau
này do tôi ít tới nên Stephen thường đến thăm tôi. Chúng tôi giao lưu vui vẻ.
khi đó em đã vào đại học, là ngành Địa lý, năm thứ tư. Một ngày nọ khi đến nhà
tôi ăn trưa, em kể mình muốn đi lên miền Bắc để kiếm việc làm vào mùa hè. Vì em
muốn tự lo tự túc, không lấy tiền của cha chu cấp nữa. Tôi khuyên em đừng đi,
hãy an tâm học cho thành tài, thì tương lai mới có thể tự lập, nhưng em không
chịu nghe lời tôi khuyên.
Em cứ đi lên miền Bắc,
làm công tác đo đạc đường lộ. Lúc hoàng hôn, xe lu chạy đến, không thấy em, nên
xe đã cán nhẹp em dưới trọng tải nặng mấy tấn, chưa đầy mấy phút em đã chết,
đáng thương hơn là toàn thân đều bị nghiền nát!
Stephen lúc này mới hai
mươi hai tuổi! Dung nhan em vốn rất thanh tú, anh tuấn, em to cao và đẹp trai,
nhưng cái chết đã biến thi thể em thành một đống thịt nát!
Khi quan tài em chuyển về
Vancouver, ba mẹ, huynh đệ em từ Hoa Kỳ đến để dự tang lễ. Theo phong tục của
người Tây phương, họ thường nhờ bạn thân khiêng quan tài, em có năm huynh đệ,
mà di quan cần sáu người, còn thiếu một người nữa, nên mẹ em đã mời tôi lấy
thân phận nghĩa huynh tham gia khiêng quan tài, xét theo tình và lý, tôi đều
phải làm, tôi nên làm! Bởi vì tôi rất quý mến em, trừ bác sĩ Nguyên ra, thì em
là bạn thân nhất của tôi.
Tôi cùng năm huynh đệ
kia, họ đều là hạng hùng tráng cỏ sức khỏe, cùng hợp lực khiêng linh cữu em đến
trước cổng giáo đường, bất ngờ nó trở nên quá nặng, nhưng chúng tôi vẫn dốc sức
khiêng đặt lên xe tang. Sau khi chạy đến “Nghĩa trang cảnh biển”, thì sáu chúng
tôi cùng khiêng linh cữu em ra khỏi xe để hạ huyệt. Dè đâu ngay lúc này, cả sáu
người hè nhau khiêng, mà quan tài không động đậy. Quan tài bấy giờ cực kỳ nặng,
tôi có cảm giác nặng tương đương hàng chục tấn, làm thế nào cũng khiêng không
lên được. Thực ra, ngoài người anh cả rất yêu Stephen, thì bốn người kia do
không hợp tính với em, nên lúc này họ chẳng hề buồn khóc chi. Tôi là người
nhiều tình cảm nên lúc này lệ rơi đầy mặt, còn mẹ anh thì khỏi nói, bà khóc đến
ngã quỵ trên đất.
Tôi cảm giác là Stephen
không muốn rời xa mẫu thân, tôi liền nói:
– Thưa bác, Stephen đang
rất bịn rịn không muốn lìa xa mẹ, bác hãy đến khuyên cậu ấy đi, như vậy mới hạ
huyệt được.
Mẹ của anh nghẹn ngào
nói: – Cậu hãy thay tôi khuyên dùm, tôi… tôi… và bà khóc nấc lên.
Thế là tôi vỗ nhẹ tay vào
quan tài nói:
– Stephen, tất cả chúng
tôi đều không muốn rời em, nhưng cuối cùng em phải hạ huyệt mới ổn, đừng khiến
mẫu thân em quá thương tâm! Stephen, chúng tôi yêu em, hãy làm một đứa con
ngoan nhé. Tôi sẽ tụng kinh Phật cho em.
Sau đó, tôi nghe thấy một
tiếng thở dài nức nở trong quan tài, năm huynh đệ kia cũng đều nghe thấy! Bốn
người anh không hợp kia đều sợ hãi bỏ chạy, còn anh cả thì khóc ngất. Tôi trở
thành người duy nhất điều khiển, tôi ra lệnh cho bốn anh kia quay lại và cha em
cũng ủng hộ tôi. Sau đó sáu người cùng nhau nâng quan tài. Lần này, quan tài di
chuyển nhẹ nhàng, chúng tôi khiêng đi hạ huyệt.
Sau đó, mỗi năm một mình
tôi mang hoa đến, toàn gia em đều đã chuyển đến Hoa Kỳ sống, vì vậy mà chỉ có
tôi hằng năm đi thăm em. Chỗ em nằm gần kề bác sĩ Nguyên, nên mỗi lần đến là
tôi thăm mộ cả hai. Mộ của Stephen cũng toát ra lực thu hút giữ lấy tôi giống
anh Nguyên vậy, không chịu buông cho tôi rời đi. Lần thiết lễ Mông Sơn này, tôi
đã nhìn thấy Stephen đến lắng nghe, nhưng em không chịu tiếp nhận sự siêu độ.
Quý vị cho là tôi điên ư?
Cho là tôi biên xằng viết bậy? Bạn không tin là người chết rồi vẫn có biết ư?
Họ vẫn biết sau khi chết!
California có hai nhà
khoa học bề thế, một nhà Vật lý học và một nhà Tâm lý học, cả hai đều mang theo
máy ghi âm đến nghĩa trang để thu.
Họ đặt máy ghi âm vào
nghĩa trang ngay ban ngày và bấm phím thu. Lúc này đài truyền hình cũng phái
một đại đội nhân viên nhiếp ảnh đến để quay hiện cảnh và cho chiếu trực tiếp.
Sau mười lăm phút ghi âm, kết quả như sau: Từ máy ghi âm đã thu được những âm
thanh xào xạc, có giọng nói yếu ớt cùa người nam than rằng: Nơi này rất buồn!
Đây là một đoạn thực
nghiệm thu âm ghi hình gần đây nhất của hai công ty truyền hình Hoa Kỳ và
Canada nổi tiếng. Họ tuyên bố bản ghi âm này là đúng thực không hề ngụy tạo. Hàng
triệu khán giả người Hoa Kỳ và Canada khi xem video trực tiếp này đều kinh
ngạc, tin tức này từng làm chấn động một thời.
Hai nhà khoa học kia, mới
đầu tuyên bố rằng họ hoàn toàn không tin là có linh hồn tồn tại, vì vậy họ mới
đến nghĩa trang để nghiên cứu xác nhận xem có linh hồn hay không. Sau ghi máy
thu âm đặc biệt ghi lại rất nhiều lời thoại ma, nào là thở dài, khóc rên… có đủ
loại âm thanh ma quỷ, thì các nhà khoa học đã nói: Quả thật vô phương giải
thích tình huống bất thường này.
Đoạn phim khó tin này
cũng được chiếu nhiều nước trên thế được đông đảo khán giả xem, không phải tôi
bịa đặt!
Theo tôi, việc thổ táng
không hay bằng hỏa táng, vì khiến linh hồn dễ biến thành “quỷ luyến thây”, cứ
đeo bám quanh mộ không chịu đầu thai.
Bất luận ở phương diện
nào, nếu nhìn và so sánh thì thổ táng không tốt bằng cách thức hỏa táng của
Phật giáo, rất sạch sẽ và thích hợp, bởi sau khi hỏa thiêu rồi, linh hồn không
thể quyến thây nên dễ giải thoát nhờ vào pháp Phật hỗ trợ vãng sinh.
Hiện nay, chư tăng các
chùa khắp nơi đều có tổ chức đại lễ Mông Sơn siêu độ vong quỷ. Việc này tạo
công đức vô lượng. Từ những sự thật đã kể trên, có thể thấy Phật giáo siêu độ
vong quỷ rất hữu hiệu, việc này rất cần thiết, thực tế và càng không thể cho là
mê tín!
Phùng Phùng -1983
0 nhận xét:
Đăng nhận xét